Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Page 1 of 1 • Share
Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Cải cách ruộng đất ------> nhân văn giai phẩm & di cư của hơn triệu người miền Bắc vào Nam.
Vụ án này rất nổi tiếng, có thể được coi là Thiên An Môn Việt Nam khi xưa vì khởi động và được thể hiện do thành phần trí thức, giới nhà văn, nhà thơ miền Bắc VN. Tôi muốn biết, đọc lâu rồi, nay đưa vào đây chia sẻ.
Vụ án Nhân văn Giai phẩm:
Thụy An, một số phận bi thảm
Thái Kế Toại - 1 Tháng Chín, 2020 - TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ
Nhà văn, nhà báo Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến (1916-1989), sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở làng Hòa Xá, quận Vân Đình, tỉnh Hà Đông, là con ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn. Đây là người phụ nữ duy nhất bị kết án tù do bị tố cáo là gián điệp, phản động trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm.
Chồng Lưu Thị Yến là nhà văn, nhà giáo Bùi Nhung bút hiệu là Băng Dương, em ruột học giả Bùi Kỷ. Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội từ 1948-49, và 1951-52, rồi giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954 (trong thời gian 180 ngày trước khi vỹ tuyến 17 đóng lại). Ông bà sinh bảy con, một người mất sớm, còn lại là: An Dương (1934), Thụy Băng (1937), Thư Linh (1938), Dương Chi (1939), Ngọc Trinh (1943) và Châu Công (1945). Nhưng sau bà ly thân với chồng từ 1949. Không ly dị vì cả hai đều theo đạo công giáo. Bùi Nhung liên hệ tình cảm với bà Lưu Thị Trạch, tên thường gọi là Việt. Bà Trạch là em ruột của bà Thụy An, nên Thụy An im lặng rút lui, nhường chồng cho em.
Vào năm 1951, Thụy An đưa bốn trong sáu người con, vào sinh sống ở Sài Gòn. Đó là An Dương, Thu Linh, Ngọc Trinh và Châu Công. Hai người còn lại là Thụy Băng và Dương Chi sống với ông Bùi Nhung và bà vợ sau của ông Nhung.
Người tình của Lưu Thị Yến là ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau ông Đỗ Đình Đạo chết vì một nguyên do còn nhiều nghi vấn ngay tại nhà của bà trong lúc bà đi vắng. Cũng do cái chết của Đỗ Đình Đạo trong buổi giao thời đầu năm 1954, Thụy An bị chính quyền Pháp nghi vấn và không còn đường trở về Sài Gòn. Bà ở lại Hà Nội.
Thuở nhỏ, theo Hồi ký của Bùi Thụy Băng con trai Thụy An, bà được gia đình thuê thầy gia sư là ông Võ Nguyên Giáp. Trong bài tiểu sử Thụy An, Trinh Tiên viết: “Hè năm 1932, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm. Thầy giáo là một hàn sĩ người Quảng Bình, dáng dấp mảnh khảnh đầy vẻ cương nghị.(…) Ông thầy giáo trẻ ấy đã bị trò Yến cùng các bạn trêu chọc gọi là “Anh đồ Nghệ”. Hơn thế, Yến còn làm thơ nhạo báng dí dỏm:
Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ
Hơn mình mấy tí tuổi đầu?” (trích bài “Sao lại mùa thu” của Thụy An)
(…). Nhưng chàng trai xứ Quảng này không chỉ là một hàn sĩ hay một nhà mô phạm đơn thuần, mà còn là một người yêu nước thiết tha, một nhà cách mạng chân chính. Cho nên trong những bài giảng đã gieo ảnh hưởng không ít đến lớp học trò(…) Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hãy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy An về người anh hùng đó:
Hung hãn vọng vào tiếng bể
Hờn căm rít ngọn gió Lào
Anh mang trùng dương giận dữ
Anh mang hoang dại khô khan.
Và như :
Mắt anh hừng trí bốn phương
Tay run nắm hồn dân tộc
Tóc xòa vương hận núi sông
Môi bậm tai nghe rên xiết
Áo cơm dọa dưới cùm gông!
Thật sự, Thụy An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ:
… Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh… (Trích: Sao lại mùa thu, một bài thơ của bà).
Năm 1934, 18 tuổi, Thụy An bắt đầu nghề báo, cùng chồng lập tuần báo Đàn Bà Mới ở Sài Gòn. Ông Bùi Nhung làm giám đốc chính trị, còn Thụy An làm giám đốc kiêm chủ bút. Tại Sài Gòn bà còn tham gia báo Phụ Nữ Tân Văn. Năm 1938, bà ra Hà Nội chủ trương tờ Đàn Bà.
Trong lĩnh vực báo chí Thụy An cũng nổi bật với cương lĩnh về nhân quyền, phấn đấu cho quyền sống, quyền tự do của người phụ nữ.
Năm 1954 bà giữ chức quyền giám đốc Việt Tấn Xã và trong chiến tranh Việt – Pháp, Thụy An là phóng viên tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí.
Văn nghiệp bà Thụy An gồm cả thơ, truyện ngắn và tiểu thuyết.
Bà đã có thơ đăng trên Tạp chí Nam Phong năm 13 tuổi (1929). Bà làm nhiều thơ nhưng không in thành tập. Về tiểu thuyết, ngoài truyện dài Một linh hồn, bà xuất bản hai tập truyện ngắn là Vợ chồng (25 câu chuyện về hạnh phúc gia đình) và Bốn mớ tóc.
Thụy An là tiểu thuyết gia phụ nữ duy nhất được Vũ Ngọc Phan lựa chọn trong bộ Nhà văn hiện đại, với tác phẩm “Một linh hồn” (xuất bản 1943). Trong bài phê bình dài dành cho tác phẩm “Một linh hồn”, Vũ Ngọc Phan nhận định: “Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn” và ông kết luận “Tuy vậy Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”.
Truyện ngắn của Thụy An in rải rác trên các báo tại Hà Nội. Phần lớn, chưa tìm lại được như: “Chiếc cầu chân chó”, “Les vingt cinq meilleures histoires du monde” bằng tiếng Pháp, do Hội Văn Bút Quốc tế xuất bản năm 1954 hoặc 1955. Một cuốn sách bà viết về gia đình, gửi một tờ báo ở San José in năm 1985. Tác phẩm “Vợ chồng” và một vài truyện được ghi lại như “Giết chó” (in lại trên Khởi Hành, Hoa Kỳ, số 77, tháng 3/2003; in lần đầu trên Tạp chí Phổ thông của hội cựu sinh viên trường Luật Hà Nội, số 19-20 tháng 6-7/1953). Tác phẩm viết về hiện tượng cách mạng ra lệnh cho dân chúng đồng loạt giết hết chó để có thể đột nhập vào làng ban đêm mà không bị tiếng chó sủa phát giác.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm được một số tác phẩm của Thụy An trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đã công bố trên Talawas, gồm những bài: “Nhân xem phim “Anh gắng nuôi con, đặt lại vấn đề Tân hiện thực” (tiểu luận phê bình điện ảnh, đăng báo Văn Nghệ, số 142, 11/10/1956), “Chuyện bố, mẹ, bé và con búp bê” (truyện ngắn, đăng “Trăm Hoa”, 25/11/56), “Chiếc lược” (thơ, đăng “Trăm Hoa”, 2/12/56). Trong thời kỳ Nhân Văn, theo bài buộc tội của Vũ Đức Phúc, bà có in những truyện như: “Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm”, “Bích-xu-ra”… trên báo Văn của Hội Nhà văn Việt Nam.
Qua những sáng tác của Thụy An thời kỳ này thấy rằng bà vẫn giữ được bút lực mạnh mẽ và thái độ cương trực. Thơ Thụy An nói lên chí khí của bà, nói lên sự quyết liệt khi cần phải quyết liệt, nói lên cái hận mất nước, sự không chịu bó tay của người phụ nữ. Sáng tác của bà từ truyện cổ tích đến truyện ngắn, tiểu luận, và nhất là thơ, đã quét sạch những dòng xuyên tạc viết về bà, giải thích tại sao Thụy An không chịu lùi bước trước cuộc đấu tranh cho tự do sáng tạo và nền dân chủ nhân dân.
Qua chuyện bài thơ “Chiếc lược” của Thuỵ An và bài thơ khiếu nại lên Hồ Chủ tịch, Thụy An cũng tuyên chiến với căn bệnh cửa quyền của báo chí, văn nghệ Hà Nội lúc đó.
Đầu năm 1956, Hội Văn nghệ có tổ chức một lớp học chính trị ngắn hạn cho một số anh chị em văn nghệ sĩ, tại số 1 đường Bà Triệu. Có một đồng chí cán bộ của Ủy ban C.C.R.D Trung ương tới nói chuyện về cải cách ruộng đất, có kể một câu chuyện “Một chị bần cố nông đến lúc chia quả thực, chỉ ước ao có một cái lược chải đầu, vì từ bé đến giờ chưa có một cái lược…” Câu chuyện nghe rất cảm động và quả là một đề tài văn học sống động. Đồng chí ấy có nói thêm rằng: “Hồ Chủ tịch có nghe biết câu chuyện này và có lời nhắn các cô chú văn nghệ sĩ nên khai thác đề tài ấy.”
Trong số học viên của lớp học, có Thuỵ An. Sau khi nghe câu chuyện về cái lược, nhất là được nghe lời nhắn nhủ của Bác, bà hăm hở sáng tác và đã hoàn thành bài thơ “Chiếc lược”. Báo Trăm Hoa số 3 có đăng trọn bài thơ ấy! Và phần Lời Tòa soạn có nói bài thơ này có “chuyển sang Vụ Văn hoá đề nghị in vào loại phổ thông. Nhưng Vụ Văn hoá đại chúng lại cho là bài thơ không hay…” “Mới đây Trăm Hoa có nhận được thư của ông Đào Duy Kỳ, Giám đốc Vụ Văn hoá đại chúng, cho biết là Vụ Văn hoá đại chúng chưa hề nhận được bài thơ “Chiếc lược”. Chúng tôi xem lại tài liệu thì rõ đó là “Phòng Văn nghệ Quần chúng thuộc Vụ Nghệ thuật” chứ không phải Vụ Văn hoá đại chúng. Vậy nay xin đính chính lại cho đúng. Chúng tôi chắc rằng nếu bài thơ “Chiếc lược” này mà chị Thuỵ An gửi cho Vụ Văn hoá đại chúng thì đã không bị trả lại với những câu phê “Bài thơ loại này chúng tôi có nhiều rồi”, mà chắc rằng sẽ được đề cao, cho in rất nhiều như quyển Tình Bắc Nam của ông Đào Duy Kỳ vậy.”
“Lúc ấy, bài thơ “Chiếc lược” không được phổ biến, Thuỵ An lấy điều làm ức lắm. Bà có làm ngay một bài thơ khiếu nại gửi lên Hồ Chủ tịch, vì lẽ cái đề tài này, Hồ Chủ tịch có nhắn nhủ anh chị em văn nghệ nên sáng tác. Vậy mà sáng tác rồi lại không được dùng. Bà liền viết bài thơ bài thơ khiếu nại lên Hồ Chủ tịch. Nhưng Thuỵ An vì biết Bác hiện còn phải bận nhiều công việc to lớn quan trọng hơn, gửi lên chỉ làm phiền Bác nên đã không gửi.”
Hai truyện ngắn của bà trên báo Văn của Hội Nhà văn rất độc đáo, chỉ ở người có vốn sống như bà mới viết được. Đó là những mặt hiện thực từ phía bên kia của cuộc chiến tranh Việt Pháp.
“Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm” lên án thói hãnh tiến mù quáng của một viên chức cao cấp người Việt muốn làm vừa lòng cấp trên đẩy con trai vào quân đội quốc gia thân Pháp và làm cho đứa con chết trận thảm khốc.
Truyện “Bichxura” kể chuyện một người đàn bà da đen trong bệnh viện ở Hà Nội thời tạm chiếm được người tình là lính da đen tặng một bộ xà-tích bạc, lồng quả đào, lồng mấy chiếc khóa đồng cướp được trong trận càn nhưng không cứu được chị thoát khỏi thần chết.
“Chị ném bộ xà tích xuống đất. Đã bao nhiêu người đàn ông đồng chủng của chị đêm nay còn gợi tình quê hương trong cánh tay chị, nhưng đêm mai và mãi mãi không bao giờ nữa còn trở lại bên gối chị… Họ chết giữa một trận đánh nhau thuê trên một đất nước có lẽ họ cũng không biết đến cả tên gọi. Thịt xương họ vùi dưới đất lạ và cũng vùi theo với họ, dưới đất lạ, từng mảnh hy vọng của chị… Bich-xu-ra… Tên chị là giếng nước sa mạc, là hột cát sa mạc, Bich-xu-ra phải về với sa mạc. Những người đàn ông kia, người nào cũng hứa với chị như thế, rằng họ sẽ đem chị về sa mạc. Chị hy vọng vào họ lắm, vì họ cũng nhớ thương sa mạc như chị. “Anh ôi! Nếu anh còn đi đánh nhau cho chúng nó anh sẽ lại chết như những người kia. Anh cũng biết chứ, tha hương đất lạ, chết mất của nhau một người đồng chủng, đồng hương, đau đớn xót xa tới độ nào. Huống nữa anh lại là người tôi yêu… Không, không, anh đừng đánh nhau nữa. Tôi không muốn đến lượt anh lại chết. Anh chết, ai đưa tôi về sa mạc?”
Bich-xu-ra đã nói như thế…, đã khẩn cầu người yêu như thế… Từng lời như giọt nước thấm tí tách trong lòng anh, tụ dần thành dòng nước mắt chảy chan hòa trên đôi má đen cháy… Chiếc giày đinh nhè nhẹ dẫm lên bộ xà tích… Mặt trời như một bọng máu đỏ lơ lửng sắp đổ tóc xuống đầu ai… Cặp nhân tình ôm nhau khóc… Tay Bich-xu-ra dằng, bứt bộ quần áo nhà binh của tình nhân. Những tiếng nức nở của chị, tôi nghe thành điệp khúc láy đi láy lại: “Đừng đánh nhau cho chúng nó nữa! Đưa tôi về sa mạc! Đưa tôi về sa mạc!”
Khi người tình chết, người lính da đen phát điên, chân chà nát bộ xà tích.
Thụy An còn nhiều tác phẩm viết sau năm 1954 ở Bắc Việt Nam và cả trong thời gian ở tù vì vụ Nhân văn Giai phẩm, chưa được ấn hành.
Bà là Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.
Thụy An còn tham gia nhóm Sáng Tạo, câu lạc bộ của các nghệ sĩ sân khấu, điện ảnh Hà Nội. Bằng khả năng và mối quen biết với Paris bà có những bộ phim mới nhất để chiếu ở Hà Nội như Hăm lét, Kẻ cắp xe đạp, Rạp Thiên đường, Anh gắng nuôi con…
Với bài tiểu luận phê bình phim Anh gắng nuôi con của Nhật Bản, chứng tỏ không những Thụy An thông thạo tình hình điện ảnh thế giới sau đại chiến, đặc biệt hai nền điện ảnh Tân hiện thực của Ý và Nhật Bản, mà còn có những phân tích sắc bén, sâu xa về sự phục vụ của điện ảnh trong đời sống con người.
Cùng với Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn Việt Nam.
Trong đấu tố bà bị gọi là Con mụ phù thủy xảo quyệt. “Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân”. Sau khi báo Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, bà bị bắt năm 1958 và trong phiên tòa ngày 21 tháng 1 năm 1960 xét xử bà tại Hà Nội, nhiều nhân chứng đều cho rằng bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào này. Bà bị kết án cũng như Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù, 5 năm quản thúc sau khi ra tù.
Năm 1973, Thụy An cùng với Nguyễn Hữu Đang được thả trong diện “Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris”. Bà trở về quê Hòa Xá sinh sống. Sau con bà xin cho bà vào thành phố Hồ Chí Minh sống với mẹ già. Bà quy y ở Chùa Quảng Hương Già Lam năm 1987, Pháp danh: Nguyên Quy.
Các con bà đã nhiều lần xin cho bà xuất cảnh sống cùng ở Canada nhưng không được giải quyết. Bà mất năm 1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ thọ 73 tuổi.
Tuy đã nổi tiếng về về việc hoạt động gián điệp trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm nhưng Thụy An vẫn còn để lại nhiều tranh cãi, hồ nghi về việc làm của bà.
Một vài người trong cuộc phát biểu với bà Thụy Khuê một nhà nghiên cứu ở hải ngoại như sau:
Ông Nguyễn Hữu Đang :
“Bà Thụy An không tham gia gì vào nhóm Nhân văn Giai phẩm cả. Bà ấy không viết một bài, một câu, một chữ nào cho Nhân Văn cả. Bà ấy cũng không hề mách nước, bàn bạc gì với người khác hay với tôi bao giờ cả. Không, không hề có, tuy rằng có quan hệ, thỉnh thoảng có gặp nhau, cũng nói chuyện.”
Nhà thơ Lê Đạt :
“Tôi nhắc lại một lần nữa là chị Thụy An chưa bao giờ ở trong nhóm Nhân văn Giai phẩm cả. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em trong Nhân văn Giai phẩm và đặc biệt là thân với tôi. Người ta buộc tội chị Thụy An, người ta cứ buộc tội mập mờ thế thôi, nhưng tội chính của chị Thụy An là thế này: Là gián điệp cài lại để lũng đoạn nhóm Nhân văn Giai phẩm. Nhưng cho đến khi tôi biết thì tôi cũng chẳng thấy chị ấy viết bài nào cho Nhân văn Giai phẩm cả. Thế mà chị ấy đối với tôi thì lại rất quý, chị ấy luôn luôn mua đồ đạc cho tôi, cho vợ con tôi, và tôi cũng chẳng thấy chị ấy bàn với tôi về việc viết một bài nào cho Nhân văn Giai phẩm cả. Thế cho nên việc ấy tôi cho cũng là một cái oan rất lớn.
Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không phải là gián điệp. Tại vì thế này: Nếu là gián điệp thì phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của ai? Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là một câu hỏi mà nhà nước chưa trả lời tôi được.
Chưa có chứng cớ thì làm sao có thể kết luận người ta là gián điệp được. Thì cứ cho tôi là người mù mờ đi, tôi bị chị mua chuộc đi. Tôi nhớ lại tất cả cuộc đời của tôi, thì chị ấy chưa mua chuộc tôi lần nào cả. Và chị ấy chỉ giúp đỡ tôi rất nhiều. Cho nên đến bây giờ tôi thấy là: Riêng về trường hợp chị Thụy An, tôi vẫn rất ân hận. Tại vì chúng tôi đã được phục hồi nhưng chị Thụy An chưa được phục hồi gì cả. Mà một trong những tội lớn nhất của chị ấy là mua chuộc tôi. Thì như các bạn đã biết, tôi chưa từng cảm thấy bị mua chuộc mà chắc cũng chưa ai mua chuộc được tôi. Cho nên tôi thấy riêng tôi bây giờ nói những dòng này, tôi vẫn khao khát và thiết tha có một dịp nào đó, người ta phục hồi chị Thụy An một cách chính thức. Không có thì riêng tôi, tôi đối với chị Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ. Còn về chị Thụy An, tôi phải nói thế này: Chị Thụy An là một người rất giỏi. Chị ấy là một trong những cây bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Mà theo tôi, chị Thụy An nói kín hở cho tôi biết, thì chị ấy đã từng tham gia kháng chiến! Việc liên lạc với kháng chiến trong thời ấy thì mình mất mối là chuyện bình thường, mà mất mối thì mình không thể chứng minh được. Bây giờ cũng đã lâu rồi, đã gần 50 năm rồi. Tôi thấy chúng ta có thể mở những kho tài liệu ra để buộc tội hoặc minh oan cho một người cho rõ ràng và khi mình đặt rõ ràng về phận vị rồi thì mình phải trả lại danh dự cho người ta. Và lúc đó chúng ta hãy bàn đến vấn đề chị Thụy An đóng góp gì trong cái phong trào thời ấy. Lúc đó chúng ta có đủ bình tĩnh hơn để bàn về vấn đề này. Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi cả.”
Vai trò của bà đối với Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, tôi đã trình bày ở phần trên mọi người đã thấy. Không thể nói Thụy An đứng ngoài Nhân Văn Giai Phẩm. Nhiều người đã thừa nhận bà có ảnh hưởng lớn đến họ. Còn động cơ tư tưởng của bà là muốn tham gia xây dựng nền văn nghệ dân chủ, hiện đại hay hoạt động vì mục đích xây dựng lực lượng lật đổ chính quyền nhân dân?
Gần đây có người còn viết:
“Thụy Khuê cũng khẳng định: “…Khi ra Bắc, Thụy An đã có chủ đích chính trị: đặt bản doanh chống chính quyền cộng sản ở Hòa Xá, quê hương bà, nơi có những người tin cẩn nhất. Hòa Xá cũng là một trong những làng có truyền thống chống cộng. Và để đánh lạc hướng, bà nhận cả công tác do thám Pháp cho chính quyền cộng sản. Với hành động này, Thụy An trở thành nhà văn đầu tiên tổ chức chống chính quyền cộng sản, trong lòng chế độ” [Thụy Khuê, sđd, tr.178].
Thực ra, Thụy An đã cùng con cái vào Nam từ 1952, nhưng vẫn thường xuyên trở ra Hà Nội để tổ chức cơ sở chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên tháng 3 năm 1957 bà bị bắt trên đường lẩn trốn từ Hòa Xá, Hà Đông đến Phủ Lý (quê chồng). Và hành động đó của bà đã được chính con trai bà thừa nhận. Trả lời câu hỏi “Thụy An thường xuyên ra Hà Nội với mục đích gì?”, Bùi Thụy Băng, con trai thứ của Thụy An, nói: “Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích: – Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hòa Xá – chúng tôi nhấn mạnh” [Bùi Thụy Băng, điện đàm ngày 16-12-2004 – Thụy Khuê, sđd, tr.179].”
(Về vụ án Nguyễn Hữu Đang Thụy An (Đôi lời trao đổi với bà Thụy Khuê ), Nguyễn Xuân Đức, PGS-TS ngành Văn học Dân gian, nguyên Phó hiệu trưởng ĐH Sư phạm Vinh, đăng trên Tạp chí điện tử Hồn Việt, 24-9-2013.)
Với những tài liệu nghiệp vụ mà tôi đã đọc, tôi có thể khẳng định rằng con cháu Thụy An khuếch trương lên thôi. Một người như Thụy An không thể ảo tưởng và ấu trĩ như thế, nhất là bà chẳng theo một đảng phái nào, một đường lối chính trị nào. Nội dung các tác phẩm văn học của bà đã nói lên điều đó.
Người ta cũng hay hỏi rằng bà đã tự chọc mù mắt để trả thù chế độ. Có nhiều người đã kể với những cách khác nhau. Lúc thì ở ngay tại Hỏa Lò, lúc thì ở trại giam Hà Giang. Ngay Nguyễn Hữu Đang là người có dịp ngồi cùng xe với bà khi lên trại giam cũng không khẳng định điều đó. Tôi cũng không biết cụ thể sự việc này.
Cho tới nay, bản chất vụ án vẫn chưa được kết luận lại, nhưng hầu hết các nhân vật chủ chốt đã được phục hồi danh dự, hội tịch, được xuất bản trở lại kể cả các tác phẩm đã sáng tác trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, nhiều người được Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh và một số chế độ chính sách khác. Tuy vậy riêng đối với Thụy An, bà hoàn toàn chưa được giải tỏa một chút nào.
Như vậy bà là một trong những số phận bi thảm nhất của phong trào Nhân Văn Giai phẩm.
Vụ án này rất nổi tiếng, có thể được coi là Thiên An Môn Việt Nam khi xưa vì khởi động và được thể hiện do thành phần trí thức, giới nhà văn, nhà thơ miền Bắc VN. Tôi muốn biết, đọc lâu rồi, nay đưa vào đây chia sẻ.
Vụ án Nhân văn Giai phẩm:
Thụy An, một số phận bi thảm
Thái Kế Toại - 1 Tháng Chín, 2020 - TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ
Nhà văn, nhà báo Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến (1916-1989), sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở làng Hòa Xá, quận Vân Đình, tỉnh Hà Đông, là con ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn. Đây là người phụ nữ duy nhất bị kết án tù do bị tố cáo là gián điệp, phản động trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm.
Chồng Lưu Thị Yến là nhà văn, nhà giáo Bùi Nhung bút hiệu là Băng Dương, em ruột học giả Bùi Kỷ. Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội từ 1948-49, và 1951-52, rồi giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954 (trong thời gian 180 ngày trước khi vỹ tuyến 17 đóng lại). Ông bà sinh bảy con, một người mất sớm, còn lại là: An Dương (1934), Thụy Băng (1937), Thư Linh (1938), Dương Chi (1939), Ngọc Trinh (1943) và Châu Công (1945). Nhưng sau bà ly thân với chồng từ 1949. Không ly dị vì cả hai đều theo đạo công giáo. Bùi Nhung liên hệ tình cảm với bà Lưu Thị Trạch, tên thường gọi là Việt. Bà Trạch là em ruột của bà Thụy An, nên Thụy An im lặng rút lui, nhường chồng cho em.
Vào năm 1951, Thụy An đưa bốn trong sáu người con, vào sinh sống ở Sài Gòn. Đó là An Dương, Thu Linh, Ngọc Trinh và Châu Công. Hai người còn lại là Thụy Băng và Dương Chi sống với ông Bùi Nhung và bà vợ sau của ông Nhung.
Người tình của Lưu Thị Yến là ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau ông Đỗ Đình Đạo chết vì một nguyên do còn nhiều nghi vấn ngay tại nhà của bà trong lúc bà đi vắng. Cũng do cái chết của Đỗ Đình Đạo trong buổi giao thời đầu năm 1954, Thụy An bị chính quyền Pháp nghi vấn và không còn đường trở về Sài Gòn. Bà ở lại Hà Nội.
Thuở nhỏ, theo Hồi ký của Bùi Thụy Băng con trai Thụy An, bà được gia đình thuê thầy gia sư là ông Võ Nguyên Giáp. Trong bài tiểu sử Thụy An, Trinh Tiên viết: “Hè năm 1932, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm. Thầy giáo là một hàn sĩ người Quảng Bình, dáng dấp mảnh khảnh đầy vẻ cương nghị.(…) Ông thầy giáo trẻ ấy đã bị trò Yến cùng các bạn trêu chọc gọi là “Anh đồ Nghệ”. Hơn thế, Yến còn làm thơ nhạo báng dí dỏm:
Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ
Hơn mình mấy tí tuổi đầu?” (trích bài “Sao lại mùa thu” của Thụy An)
(…). Nhưng chàng trai xứ Quảng này không chỉ là một hàn sĩ hay một nhà mô phạm đơn thuần, mà còn là một người yêu nước thiết tha, một nhà cách mạng chân chính. Cho nên trong những bài giảng đã gieo ảnh hưởng không ít đến lớp học trò(…) Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hãy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy An về người anh hùng đó:
Hung hãn vọng vào tiếng bể
Hờn căm rít ngọn gió Lào
Anh mang trùng dương giận dữ
Anh mang hoang dại khô khan.
Và như :
Mắt anh hừng trí bốn phương
Tay run nắm hồn dân tộc
Tóc xòa vương hận núi sông
Môi bậm tai nghe rên xiết
Áo cơm dọa dưới cùm gông!
Thật sự, Thụy An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ:
… Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh… (Trích: Sao lại mùa thu, một bài thơ của bà).
Năm 1934, 18 tuổi, Thụy An bắt đầu nghề báo, cùng chồng lập tuần báo Đàn Bà Mới ở Sài Gòn. Ông Bùi Nhung làm giám đốc chính trị, còn Thụy An làm giám đốc kiêm chủ bút. Tại Sài Gòn bà còn tham gia báo Phụ Nữ Tân Văn. Năm 1938, bà ra Hà Nội chủ trương tờ Đàn Bà.
Trong lĩnh vực báo chí Thụy An cũng nổi bật với cương lĩnh về nhân quyền, phấn đấu cho quyền sống, quyền tự do của người phụ nữ.
Năm 1954 bà giữ chức quyền giám đốc Việt Tấn Xã và trong chiến tranh Việt – Pháp, Thụy An là phóng viên tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí.
Văn nghiệp bà Thụy An gồm cả thơ, truyện ngắn và tiểu thuyết.
Bà đã có thơ đăng trên Tạp chí Nam Phong năm 13 tuổi (1929). Bà làm nhiều thơ nhưng không in thành tập. Về tiểu thuyết, ngoài truyện dài Một linh hồn, bà xuất bản hai tập truyện ngắn là Vợ chồng (25 câu chuyện về hạnh phúc gia đình) và Bốn mớ tóc.
Thụy An là tiểu thuyết gia phụ nữ duy nhất được Vũ Ngọc Phan lựa chọn trong bộ Nhà văn hiện đại, với tác phẩm “Một linh hồn” (xuất bản 1943). Trong bài phê bình dài dành cho tác phẩm “Một linh hồn”, Vũ Ngọc Phan nhận định: “Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn” và ông kết luận “Tuy vậy Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”.
Truyện ngắn của Thụy An in rải rác trên các báo tại Hà Nội. Phần lớn, chưa tìm lại được như: “Chiếc cầu chân chó”, “Les vingt cinq meilleures histoires du monde” bằng tiếng Pháp, do Hội Văn Bút Quốc tế xuất bản năm 1954 hoặc 1955. Một cuốn sách bà viết về gia đình, gửi một tờ báo ở San José in năm 1985. Tác phẩm “Vợ chồng” và một vài truyện được ghi lại như “Giết chó” (in lại trên Khởi Hành, Hoa Kỳ, số 77, tháng 3/2003; in lần đầu trên Tạp chí Phổ thông của hội cựu sinh viên trường Luật Hà Nội, số 19-20 tháng 6-7/1953). Tác phẩm viết về hiện tượng cách mạng ra lệnh cho dân chúng đồng loạt giết hết chó để có thể đột nhập vào làng ban đêm mà không bị tiếng chó sủa phát giác.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm được một số tác phẩm của Thụy An trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đã công bố trên Talawas, gồm những bài: “Nhân xem phim “Anh gắng nuôi con, đặt lại vấn đề Tân hiện thực” (tiểu luận phê bình điện ảnh, đăng báo Văn Nghệ, số 142, 11/10/1956), “Chuyện bố, mẹ, bé và con búp bê” (truyện ngắn, đăng “Trăm Hoa”, 25/11/56), “Chiếc lược” (thơ, đăng “Trăm Hoa”, 2/12/56). Trong thời kỳ Nhân Văn, theo bài buộc tội của Vũ Đức Phúc, bà có in những truyện như: “Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm”, “Bích-xu-ra”… trên báo Văn của Hội Nhà văn Việt Nam.
Qua những sáng tác của Thụy An thời kỳ này thấy rằng bà vẫn giữ được bút lực mạnh mẽ và thái độ cương trực. Thơ Thụy An nói lên chí khí của bà, nói lên sự quyết liệt khi cần phải quyết liệt, nói lên cái hận mất nước, sự không chịu bó tay của người phụ nữ. Sáng tác của bà từ truyện cổ tích đến truyện ngắn, tiểu luận, và nhất là thơ, đã quét sạch những dòng xuyên tạc viết về bà, giải thích tại sao Thụy An không chịu lùi bước trước cuộc đấu tranh cho tự do sáng tạo và nền dân chủ nhân dân.
Qua chuyện bài thơ “Chiếc lược” của Thuỵ An và bài thơ khiếu nại lên Hồ Chủ tịch, Thụy An cũng tuyên chiến với căn bệnh cửa quyền của báo chí, văn nghệ Hà Nội lúc đó.
Đầu năm 1956, Hội Văn nghệ có tổ chức một lớp học chính trị ngắn hạn cho một số anh chị em văn nghệ sĩ, tại số 1 đường Bà Triệu. Có một đồng chí cán bộ của Ủy ban C.C.R.D Trung ương tới nói chuyện về cải cách ruộng đất, có kể một câu chuyện “Một chị bần cố nông đến lúc chia quả thực, chỉ ước ao có một cái lược chải đầu, vì từ bé đến giờ chưa có một cái lược…” Câu chuyện nghe rất cảm động và quả là một đề tài văn học sống động. Đồng chí ấy có nói thêm rằng: “Hồ Chủ tịch có nghe biết câu chuyện này và có lời nhắn các cô chú văn nghệ sĩ nên khai thác đề tài ấy.”
Trong số học viên của lớp học, có Thuỵ An. Sau khi nghe câu chuyện về cái lược, nhất là được nghe lời nhắn nhủ của Bác, bà hăm hở sáng tác và đã hoàn thành bài thơ “Chiếc lược”. Báo Trăm Hoa số 3 có đăng trọn bài thơ ấy! Và phần Lời Tòa soạn có nói bài thơ này có “chuyển sang Vụ Văn hoá đề nghị in vào loại phổ thông. Nhưng Vụ Văn hoá đại chúng lại cho là bài thơ không hay…” “Mới đây Trăm Hoa có nhận được thư của ông Đào Duy Kỳ, Giám đốc Vụ Văn hoá đại chúng, cho biết là Vụ Văn hoá đại chúng chưa hề nhận được bài thơ “Chiếc lược”. Chúng tôi xem lại tài liệu thì rõ đó là “Phòng Văn nghệ Quần chúng thuộc Vụ Nghệ thuật” chứ không phải Vụ Văn hoá đại chúng. Vậy nay xin đính chính lại cho đúng. Chúng tôi chắc rằng nếu bài thơ “Chiếc lược” này mà chị Thuỵ An gửi cho Vụ Văn hoá đại chúng thì đã không bị trả lại với những câu phê “Bài thơ loại này chúng tôi có nhiều rồi”, mà chắc rằng sẽ được đề cao, cho in rất nhiều như quyển Tình Bắc Nam của ông Đào Duy Kỳ vậy.”
“Lúc ấy, bài thơ “Chiếc lược” không được phổ biến, Thuỵ An lấy điều làm ức lắm. Bà có làm ngay một bài thơ khiếu nại gửi lên Hồ Chủ tịch, vì lẽ cái đề tài này, Hồ Chủ tịch có nhắn nhủ anh chị em văn nghệ nên sáng tác. Vậy mà sáng tác rồi lại không được dùng. Bà liền viết bài thơ bài thơ khiếu nại lên Hồ Chủ tịch. Nhưng Thuỵ An vì biết Bác hiện còn phải bận nhiều công việc to lớn quan trọng hơn, gửi lên chỉ làm phiền Bác nên đã không gửi.”
Hai truyện ngắn của bà trên báo Văn của Hội Nhà văn rất độc đáo, chỉ ở người có vốn sống như bà mới viết được. Đó là những mặt hiện thực từ phía bên kia của cuộc chiến tranh Việt Pháp.
“Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm” lên án thói hãnh tiến mù quáng của một viên chức cao cấp người Việt muốn làm vừa lòng cấp trên đẩy con trai vào quân đội quốc gia thân Pháp và làm cho đứa con chết trận thảm khốc.
Truyện “Bichxura” kể chuyện một người đàn bà da đen trong bệnh viện ở Hà Nội thời tạm chiếm được người tình là lính da đen tặng một bộ xà-tích bạc, lồng quả đào, lồng mấy chiếc khóa đồng cướp được trong trận càn nhưng không cứu được chị thoát khỏi thần chết.
“Chị ném bộ xà tích xuống đất. Đã bao nhiêu người đàn ông đồng chủng của chị đêm nay còn gợi tình quê hương trong cánh tay chị, nhưng đêm mai và mãi mãi không bao giờ nữa còn trở lại bên gối chị… Họ chết giữa một trận đánh nhau thuê trên một đất nước có lẽ họ cũng không biết đến cả tên gọi. Thịt xương họ vùi dưới đất lạ và cũng vùi theo với họ, dưới đất lạ, từng mảnh hy vọng của chị… Bich-xu-ra… Tên chị là giếng nước sa mạc, là hột cát sa mạc, Bich-xu-ra phải về với sa mạc. Những người đàn ông kia, người nào cũng hứa với chị như thế, rằng họ sẽ đem chị về sa mạc. Chị hy vọng vào họ lắm, vì họ cũng nhớ thương sa mạc như chị. “Anh ôi! Nếu anh còn đi đánh nhau cho chúng nó anh sẽ lại chết như những người kia. Anh cũng biết chứ, tha hương đất lạ, chết mất của nhau một người đồng chủng, đồng hương, đau đớn xót xa tới độ nào. Huống nữa anh lại là người tôi yêu… Không, không, anh đừng đánh nhau nữa. Tôi không muốn đến lượt anh lại chết. Anh chết, ai đưa tôi về sa mạc?”
Bich-xu-ra đã nói như thế…, đã khẩn cầu người yêu như thế… Từng lời như giọt nước thấm tí tách trong lòng anh, tụ dần thành dòng nước mắt chảy chan hòa trên đôi má đen cháy… Chiếc giày đinh nhè nhẹ dẫm lên bộ xà tích… Mặt trời như một bọng máu đỏ lơ lửng sắp đổ tóc xuống đầu ai… Cặp nhân tình ôm nhau khóc… Tay Bich-xu-ra dằng, bứt bộ quần áo nhà binh của tình nhân. Những tiếng nức nở của chị, tôi nghe thành điệp khúc láy đi láy lại: “Đừng đánh nhau cho chúng nó nữa! Đưa tôi về sa mạc! Đưa tôi về sa mạc!”
Khi người tình chết, người lính da đen phát điên, chân chà nát bộ xà tích.
Thụy An còn nhiều tác phẩm viết sau năm 1954 ở Bắc Việt Nam và cả trong thời gian ở tù vì vụ Nhân văn Giai phẩm, chưa được ấn hành.
Bà là Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.
Thụy An còn tham gia nhóm Sáng Tạo, câu lạc bộ của các nghệ sĩ sân khấu, điện ảnh Hà Nội. Bằng khả năng và mối quen biết với Paris bà có những bộ phim mới nhất để chiếu ở Hà Nội như Hăm lét, Kẻ cắp xe đạp, Rạp Thiên đường, Anh gắng nuôi con…
Với bài tiểu luận phê bình phim Anh gắng nuôi con của Nhật Bản, chứng tỏ không những Thụy An thông thạo tình hình điện ảnh thế giới sau đại chiến, đặc biệt hai nền điện ảnh Tân hiện thực của Ý và Nhật Bản, mà còn có những phân tích sắc bén, sâu xa về sự phục vụ của điện ảnh trong đời sống con người.
Cùng với Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn Việt Nam.
Trong đấu tố bà bị gọi là Con mụ phù thủy xảo quyệt. “Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân”. Sau khi báo Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, bà bị bắt năm 1958 và trong phiên tòa ngày 21 tháng 1 năm 1960 xét xử bà tại Hà Nội, nhiều nhân chứng đều cho rằng bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào này. Bà bị kết án cũng như Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù, 5 năm quản thúc sau khi ra tù.
Năm 1973, Thụy An cùng với Nguyễn Hữu Đang được thả trong diện “Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris”. Bà trở về quê Hòa Xá sinh sống. Sau con bà xin cho bà vào thành phố Hồ Chí Minh sống với mẹ già. Bà quy y ở Chùa Quảng Hương Già Lam năm 1987, Pháp danh: Nguyên Quy.
Các con bà đã nhiều lần xin cho bà xuất cảnh sống cùng ở Canada nhưng không được giải quyết. Bà mất năm 1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ thọ 73 tuổi.
Tuy đã nổi tiếng về về việc hoạt động gián điệp trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm nhưng Thụy An vẫn còn để lại nhiều tranh cãi, hồ nghi về việc làm của bà.
Một vài người trong cuộc phát biểu với bà Thụy Khuê một nhà nghiên cứu ở hải ngoại như sau:
Ông Nguyễn Hữu Đang :
“Bà Thụy An không tham gia gì vào nhóm Nhân văn Giai phẩm cả. Bà ấy không viết một bài, một câu, một chữ nào cho Nhân Văn cả. Bà ấy cũng không hề mách nước, bàn bạc gì với người khác hay với tôi bao giờ cả. Không, không hề có, tuy rằng có quan hệ, thỉnh thoảng có gặp nhau, cũng nói chuyện.”
Nhà thơ Lê Đạt :
“Tôi nhắc lại một lần nữa là chị Thụy An chưa bao giờ ở trong nhóm Nhân văn Giai phẩm cả. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em trong Nhân văn Giai phẩm và đặc biệt là thân với tôi. Người ta buộc tội chị Thụy An, người ta cứ buộc tội mập mờ thế thôi, nhưng tội chính của chị Thụy An là thế này: Là gián điệp cài lại để lũng đoạn nhóm Nhân văn Giai phẩm. Nhưng cho đến khi tôi biết thì tôi cũng chẳng thấy chị ấy viết bài nào cho Nhân văn Giai phẩm cả. Thế mà chị ấy đối với tôi thì lại rất quý, chị ấy luôn luôn mua đồ đạc cho tôi, cho vợ con tôi, và tôi cũng chẳng thấy chị ấy bàn với tôi về việc viết một bài nào cho Nhân văn Giai phẩm cả. Thế cho nên việc ấy tôi cho cũng là một cái oan rất lớn.
Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không phải là gián điệp. Tại vì thế này: Nếu là gián điệp thì phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của ai? Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là một câu hỏi mà nhà nước chưa trả lời tôi được.
Chưa có chứng cớ thì làm sao có thể kết luận người ta là gián điệp được. Thì cứ cho tôi là người mù mờ đi, tôi bị chị mua chuộc đi. Tôi nhớ lại tất cả cuộc đời của tôi, thì chị ấy chưa mua chuộc tôi lần nào cả. Và chị ấy chỉ giúp đỡ tôi rất nhiều. Cho nên đến bây giờ tôi thấy là: Riêng về trường hợp chị Thụy An, tôi vẫn rất ân hận. Tại vì chúng tôi đã được phục hồi nhưng chị Thụy An chưa được phục hồi gì cả. Mà một trong những tội lớn nhất của chị ấy là mua chuộc tôi. Thì như các bạn đã biết, tôi chưa từng cảm thấy bị mua chuộc mà chắc cũng chưa ai mua chuộc được tôi. Cho nên tôi thấy riêng tôi bây giờ nói những dòng này, tôi vẫn khao khát và thiết tha có một dịp nào đó, người ta phục hồi chị Thụy An một cách chính thức. Không có thì riêng tôi, tôi đối với chị Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ. Còn về chị Thụy An, tôi phải nói thế này: Chị Thụy An là một người rất giỏi. Chị ấy là một trong những cây bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Mà theo tôi, chị Thụy An nói kín hở cho tôi biết, thì chị ấy đã từng tham gia kháng chiến! Việc liên lạc với kháng chiến trong thời ấy thì mình mất mối là chuyện bình thường, mà mất mối thì mình không thể chứng minh được. Bây giờ cũng đã lâu rồi, đã gần 50 năm rồi. Tôi thấy chúng ta có thể mở những kho tài liệu ra để buộc tội hoặc minh oan cho một người cho rõ ràng và khi mình đặt rõ ràng về phận vị rồi thì mình phải trả lại danh dự cho người ta. Và lúc đó chúng ta hãy bàn đến vấn đề chị Thụy An đóng góp gì trong cái phong trào thời ấy. Lúc đó chúng ta có đủ bình tĩnh hơn để bàn về vấn đề này. Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi cả.”
Vai trò của bà đối với Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, tôi đã trình bày ở phần trên mọi người đã thấy. Không thể nói Thụy An đứng ngoài Nhân Văn Giai Phẩm. Nhiều người đã thừa nhận bà có ảnh hưởng lớn đến họ. Còn động cơ tư tưởng của bà là muốn tham gia xây dựng nền văn nghệ dân chủ, hiện đại hay hoạt động vì mục đích xây dựng lực lượng lật đổ chính quyền nhân dân?
Gần đây có người còn viết:
“Thụy Khuê cũng khẳng định: “…Khi ra Bắc, Thụy An đã có chủ đích chính trị: đặt bản doanh chống chính quyền cộng sản ở Hòa Xá, quê hương bà, nơi có những người tin cẩn nhất. Hòa Xá cũng là một trong những làng có truyền thống chống cộng. Và để đánh lạc hướng, bà nhận cả công tác do thám Pháp cho chính quyền cộng sản. Với hành động này, Thụy An trở thành nhà văn đầu tiên tổ chức chống chính quyền cộng sản, trong lòng chế độ” [Thụy Khuê, sđd, tr.178].
Thực ra, Thụy An đã cùng con cái vào Nam từ 1952, nhưng vẫn thường xuyên trở ra Hà Nội để tổ chức cơ sở chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên tháng 3 năm 1957 bà bị bắt trên đường lẩn trốn từ Hòa Xá, Hà Đông đến Phủ Lý (quê chồng). Và hành động đó của bà đã được chính con trai bà thừa nhận. Trả lời câu hỏi “Thụy An thường xuyên ra Hà Nội với mục đích gì?”, Bùi Thụy Băng, con trai thứ của Thụy An, nói: “Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích: – Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hòa Xá – chúng tôi nhấn mạnh” [Bùi Thụy Băng, điện đàm ngày 16-12-2004 – Thụy Khuê, sđd, tr.179].”
(Về vụ án Nguyễn Hữu Đang Thụy An (Đôi lời trao đổi với bà Thụy Khuê ), Nguyễn Xuân Đức, PGS-TS ngành Văn học Dân gian, nguyên Phó hiệu trưởng ĐH Sư phạm Vinh, đăng trên Tạp chí điện tử Hồn Việt, 24-9-2013.)
Với những tài liệu nghiệp vụ mà tôi đã đọc, tôi có thể khẳng định rằng con cháu Thụy An khuếch trương lên thôi. Một người như Thụy An không thể ảo tưởng và ấu trĩ như thế, nhất là bà chẳng theo một đảng phái nào, một đường lối chính trị nào. Nội dung các tác phẩm văn học của bà đã nói lên điều đó.
Người ta cũng hay hỏi rằng bà đã tự chọc mù mắt để trả thù chế độ. Có nhiều người đã kể với những cách khác nhau. Lúc thì ở ngay tại Hỏa Lò, lúc thì ở trại giam Hà Giang. Ngay Nguyễn Hữu Đang là người có dịp ngồi cùng xe với bà khi lên trại giam cũng không khẳng định điều đó. Tôi cũng không biết cụ thể sự việc này.
Cho tới nay, bản chất vụ án vẫn chưa được kết luận lại, nhưng hầu hết các nhân vật chủ chốt đã được phục hồi danh dự, hội tịch, được xuất bản trở lại kể cả các tác phẩm đã sáng tác trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, nhiều người được Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh và một số chế độ chính sách khác. Tuy vậy riêng đối với Thụy An, bà hoàn toàn chưa được giải tỏa một chút nào.
Như vậy bà là một trong những số phận bi thảm nhất của phong trào Nhân Văn Giai phẩm.
Last edited by LDN on Mon Feb 07, 2022 8:19 am; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Vài nét về nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm
06/04/2011
Nguyễn Hưng Quốc - voatiengviet
Nhân Văn - Giai Phẩm là một trong những hiện tượng nổi bật nhất trong sinh hoạt văn học và cả sinh hoạt chính trị ở miền Bắc vào nửa sau thập niên 1950.
Gọi là nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm thật ra chỉ là một cách nói cho tiện. Thực chất những người bị liệt vào Nhân Văn - Giai Phẩm đã tham gia tranh đấu chống độc tài không phải chỉ trên tạp chí Nhân Văn hoặc trên Giai Phẩm. Mầm mống của sự phản kháng xuất hiện rất sớm, ngay từ đầu năm 1955 và bài viết của họ được đăng tải trên nhiều cơ quan ngôn luận khác nhau, kể cả trên những tờ báo, những tạp chí nằm trong tay các tổ chức đảng.
Năm 1950, trong một cuộc Hội nghị văn công tổ chức tại Việt Bắc, Hoàng Cầm lúc ấy đang là đoàn trưởng Đoàn văn công quân đội khu Việt Bắc đã ngang nhiên tuyên bố: “Đảng không nên nhúng tay vào chuyên môn của nghệ thuật”. Sau năm 1954, về Hà Nội, Hoàng Cầm được cử làm đoàn trưởng đoàn kịch Tổng cục chính trị trong quân đội miền Bắc, vẫn tiếp tục tranh đấu đòi tự do cho văn nghệ sĩ. Thời gian này, bên cạnh ông xuất hiện một người nữa, cũng tài hoa và cũng quyết liệt như ông: Trần Dần. Cả hai người đều tâm đắc với nhau trong mục tiêu tranh đấu đòi đảng Cộng sản phải “trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một Chi hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên huấn và Tổng cục chính trị. Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật quân đội đối với họ” (1).
Yêu sách trên không được đáp ứng, Hoàng Cầm phản kháng bằng cách làm đơn xin ra khỏi quân đội, lột bỏ tất cả các chức vụ quan trọng và hứa hẹn nhiều vinh quang mà cộng sản dành cho ông.
Những biến động trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới càng làm cho Hoàng Cầm, Trần Dần và bạn bè của ông tin tưởng hơn đối với lý tưởng tranh đấu đầy chính nghĩa của mình. Trong các biến động ấy, đáng kể nhất là: sự kiện ngày 24.2.1956, tại Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrouchtchev đọc một bản báo cáo nẩy lửa vạch trần những tội ác tày trời của Staline, lên án cái bệnh sùng bái cá nhân rất mực nghiêm trọng và phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa; sự kiện ngày 26.5.1956, Lục Đỉnh Nhất, trưởng ban Tuyên huấn Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc đọc báo cáo hô hào phát động chiến dịch “Trăm hoa đua nở” với khẩu hiệu “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”; sự kiện dân chúng nổi dậy chống chính quyền tại Ba Lan và tại Hung Gia Lợi…
Đầu năm 1956, lực lượng chống đối trong giới văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc phát triển mạnh, cực kỳ đông đảo, trong họ có nhiều người là những tài năng lỗi lạc. Về lý luận: Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang… Về thơ: Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Văn Cao… Về văn xuôi: Trần Duy, Thuỵ An, Như Mai, Hoàng Yến, Trần Dần… Về nhạc và hoạ: Nguyễn Văn Tý, Chu Ngọc, Sĩ Ngọc, Đặng Đình Hưng, Văn Cao, Nguyễn Sáng…
Những người trên tập trung trong hai cơ quan ngôn luận chính: một là Giai Phẩm, một loại tập san không định kỳ, hai là Nhân Văn, một tạp chí ra mỗi nửa tháng.
Số Giai phẩm đầu tiên được gọi là Giai phẩm mùa xuân phát hành đúng dịp Tết 1956 thực sự là một tiếng sét nổ trên vòm trời âm u tối sầm của Hà Nội. Hầu hết các bài viết đều tập trung phê phán gay gắt những sự khốn cùng trong xã hội, những hiện tượng mất dân chủ trầm trọng dưới chế độ cộng sản ở miền Bắc. Trong bài Cái chổi quét rác rưởi, Phùng Quán ví xã hội chủ nghĩa giống như một đống rác khổng lồ, và ông, với tư cách là một nhà văn, sẽ nhận trách nhiệm dùng ngòi bút quét sạch hết đi những rác rưởi đó để đem lại sự sạch sẽ, sự trong lành cho mặt đất.
Trong Giai phẩm mùa xuân, bài viết làm cho cộng sản tức tối nhất là bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần. Dài hơn 300 câu, bài thơ vẽ lại khung cảnh miền Bắc bị cộng sản tiếp quản mới có hơn một năm mà đã u uất, tối tăm, cùng quẫn vô hạn. Dân chúng lũ lượt di cư vào Nam. Những người ở lại chịu đựng biết bao đau thương:
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ !
họ vẫn bảo chờ
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót…
Bài thơ cứ lặp đi lặp lại mãi một điệp khúc buồn rầu:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu. Trần Dần bị bắt giam. Phẫn uất, Trần Dần phản kháng một cách tuyệt vọng nhưng vô cùng quyết liệt: cứa cổ tự tử. May, bạn bè ông phát hiện kịp và cứu sống. Sau đó ông xin ra khỏi đảng.
Trong năm tháng cuối năm 1956, Trần Dần và các bạn hữu của ông tái bản Giai phẩm mùa xuân và ra tiếp ba số Giai Phẩm nữa: Giai phẩm mùa xuân tập 1 và 2, Giai phẩm mùa đông, đồng thời xuất bản tạp chí Nhân Văn do Phan Khôi đứng tên làm chủ nhiệm, Trần Duy làm tổng thư ký. Nhân Văn số 1 ra ngày 15.9.1956, đến số 6 ra ngày 30.11.1956 thì bị thu hồi và đóng cửa hẳn.
Như vậy, toàn bộ hoạt động của tạp chí Nhân Văn cũng như các Giai Phẩm chỉ diễn ra trong năm 1956. Trong lịch sử văn học Việt Nam, cho đến nay, chưa bao giờ có một tạp chí hoặc một đặc san nào chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn ngủi mà lại khuấy động được dư luận, có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài như vậy.
Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, những người thuộc nhóm này, được sự đồng tình của Ban chấp hành Hội Nhà văn mới được thành lập đầu năm 1957, tiếp tục đăng bài trên báo Văn do Nguyễn Công Hoan, chủ tịch Hội Nhà văn làm chủ bút.(2)
***
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
06/04/2011
Nguyễn Hưng Quốc - voatiengviet
Nhân Văn - Giai Phẩm là một trong những hiện tượng nổi bật nhất trong sinh hoạt văn học và cả sinh hoạt chính trị ở miền Bắc vào nửa sau thập niên 1950.
Gọi là nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm thật ra chỉ là một cách nói cho tiện. Thực chất những người bị liệt vào Nhân Văn - Giai Phẩm đã tham gia tranh đấu chống độc tài không phải chỉ trên tạp chí Nhân Văn hoặc trên Giai Phẩm. Mầm mống của sự phản kháng xuất hiện rất sớm, ngay từ đầu năm 1955 và bài viết của họ được đăng tải trên nhiều cơ quan ngôn luận khác nhau, kể cả trên những tờ báo, những tạp chí nằm trong tay các tổ chức đảng.
Năm 1950, trong một cuộc Hội nghị văn công tổ chức tại Việt Bắc, Hoàng Cầm lúc ấy đang là đoàn trưởng Đoàn văn công quân đội khu Việt Bắc đã ngang nhiên tuyên bố: “Đảng không nên nhúng tay vào chuyên môn của nghệ thuật”. Sau năm 1954, về Hà Nội, Hoàng Cầm được cử làm đoàn trưởng đoàn kịch Tổng cục chính trị trong quân đội miền Bắc, vẫn tiếp tục tranh đấu đòi tự do cho văn nghệ sĩ. Thời gian này, bên cạnh ông xuất hiện một người nữa, cũng tài hoa và cũng quyết liệt như ông: Trần Dần. Cả hai người đều tâm đắc với nhau trong mục tiêu tranh đấu đòi đảng Cộng sản phải “trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một Chi hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên huấn và Tổng cục chính trị. Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật quân đội đối với họ” (1).
Yêu sách trên không được đáp ứng, Hoàng Cầm phản kháng bằng cách làm đơn xin ra khỏi quân đội, lột bỏ tất cả các chức vụ quan trọng và hứa hẹn nhiều vinh quang mà cộng sản dành cho ông.
Những biến động trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới càng làm cho Hoàng Cầm, Trần Dần và bạn bè của ông tin tưởng hơn đối với lý tưởng tranh đấu đầy chính nghĩa của mình. Trong các biến động ấy, đáng kể nhất là: sự kiện ngày 24.2.1956, tại Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrouchtchev đọc một bản báo cáo nẩy lửa vạch trần những tội ác tày trời của Staline, lên án cái bệnh sùng bái cá nhân rất mực nghiêm trọng và phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa; sự kiện ngày 26.5.1956, Lục Đỉnh Nhất, trưởng ban Tuyên huấn Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc đọc báo cáo hô hào phát động chiến dịch “Trăm hoa đua nở” với khẩu hiệu “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”; sự kiện dân chúng nổi dậy chống chính quyền tại Ba Lan và tại Hung Gia Lợi…
Đầu năm 1956, lực lượng chống đối trong giới văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc phát triển mạnh, cực kỳ đông đảo, trong họ có nhiều người là những tài năng lỗi lạc. Về lý luận: Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang… Về thơ: Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Văn Cao… Về văn xuôi: Trần Duy, Thuỵ An, Như Mai, Hoàng Yến, Trần Dần… Về nhạc và hoạ: Nguyễn Văn Tý, Chu Ngọc, Sĩ Ngọc, Đặng Đình Hưng, Văn Cao, Nguyễn Sáng…
Những người trên tập trung trong hai cơ quan ngôn luận chính: một là Giai Phẩm, một loại tập san không định kỳ, hai là Nhân Văn, một tạp chí ra mỗi nửa tháng.
Số Giai phẩm đầu tiên được gọi là Giai phẩm mùa xuân phát hành đúng dịp Tết 1956 thực sự là một tiếng sét nổ trên vòm trời âm u tối sầm của Hà Nội. Hầu hết các bài viết đều tập trung phê phán gay gắt những sự khốn cùng trong xã hội, những hiện tượng mất dân chủ trầm trọng dưới chế độ cộng sản ở miền Bắc. Trong bài Cái chổi quét rác rưởi, Phùng Quán ví xã hội chủ nghĩa giống như một đống rác khổng lồ, và ông, với tư cách là một nhà văn, sẽ nhận trách nhiệm dùng ngòi bút quét sạch hết đi những rác rưởi đó để đem lại sự sạch sẽ, sự trong lành cho mặt đất.
Trong Giai phẩm mùa xuân, bài viết làm cho cộng sản tức tối nhất là bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần. Dài hơn 300 câu, bài thơ vẽ lại khung cảnh miền Bắc bị cộng sản tiếp quản mới có hơn một năm mà đã u uất, tối tăm, cùng quẫn vô hạn. Dân chúng lũ lượt di cư vào Nam. Những người ở lại chịu đựng biết bao đau thương:
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ !
họ vẫn bảo chờ
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót…
Bài thơ cứ lặp đi lặp lại mãi một điệp khúc buồn rầu:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu. Trần Dần bị bắt giam. Phẫn uất, Trần Dần phản kháng một cách tuyệt vọng nhưng vô cùng quyết liệt: cứa cổ tự tử. May, bạn bè ông phát hiện kịp và cứu sống. Sau đó ông xin ra khỏi đảng.
Trong năm tháng cuối năm 1956, Trần Dần và các bạn hữu của ông tái bản Giai phẩm mùa xuân và ra tiếp ba số Giai Phẩm nữa: Giai phẩm mùa xuân tập 1 và 2, Giai phẩm mùa đông, đồng thời xuất bản tạp chí Nhân Văn do Phan Khôi đứng tên làm chủ nhiệm, Trần Duy làm tổng thư ký. Nhân Văn số 1 ra ngày 15.9.1956, đến số 6 ra ngày 30.11.1956 thì bị thu hồi và đóng cửa hẳn.
Như vậy, toàn bộ hoạt động của tạp chí Nhân Văn cũng như các Giai Phẩm chỉ diễn ra trong năm 1956. Trong lịch sử văn học Việt Nam, cho đến nay, chưa bao giờ có một tạp chí hoặc một đặc san nào chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn ngủi mà lại khuấy động được dư luận, có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài như vậy.
Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, những người thuộc nhóm này, được sự đồng tình của Ban chấp hành Hội Nhà văn mới được thành lập đầu năm 1957, tiếp tục đăng bài trên báo Văn do Nguyễn Công Hoan, chủ tịch Hội Nhà văn làm chủ bút.(2)
***
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Nhất định thắng - Trần Dần
1.
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống Hoà Bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh...
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi đao cùn!
Không đứt được – mà đau!
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc hôm ngày hôm nay rớm máu.
2.
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
- Đứng lại!
- Đi đâu?
- Làm gì?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
- Ở đây
khát gió, thèm mây...
Ô hay!
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?
Sau đám mây kia
là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!
Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ
Tha hồ những tự do tự diếc
Tưởng như ở đấy cứ chìa tay
là có đô-la
Có trâu ruộng, - Có ngày đêm hoan hỷ!
Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
- Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân
Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn...
- Không! Hãy ở lại
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
non bồng Mỹ
triệu lần...
Mảnh đất dễ mà quên?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là:
- thiếu quả tim, bộ óc!
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi
- Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi,
gió cản áo bay về.
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Giăng giối lại: - Mỗi lùm cây – hốc đá
- Mỗi căn vườn – gốc vả - cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy – quên làm sao được?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió giập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc...
Ai dẫn họ đi?
Ai?
Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ -
Khổ nhiều rồi!
Họ xấu số - Chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ
3.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ.
Họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Em ơi!
Em có biết đâu
Ta khổ thế này
Vì sao?
Em biết đâu
Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?
Khổ thân em mưa nắng đi về
lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
4.
Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào Thơ?
Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách – hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này – bạn ấy
Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm
Nó đang mơ: - nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ
- từ cái ăn
cái ngủ
chuyện riêng tư
- từ suy nghĩ
nựng con
và tán vợ
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất
Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
Làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
tôi làm thơ chính trị
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
5.
Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử
À cái tin trên báo - Ừ em ạ
Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê
Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!
Vượt qua đầu chúng nó,
mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?
Ý muốn dân ta
là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xoá nhoà giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó Mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ - nó gầy – lông xấu quá
Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?
Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ.
Em thương nó - Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Mực ơi!
đừng oán chủ, Mực à!
Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm
Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta
Chính chúng cướp cả cơm của khuyển
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa.
trên màu cờ đỏ
6.
Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam
Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm
Hắn sai con em là lũ du côn
Đi ném đá nhà Uỷ ban Quốc tế.
Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký
Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!
Ô hay! Cái lưỡi uốn càn
Cả thế giới vả vào mõm hắn
Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:
- Mặc kệ! Giết ta chết hẳn
thì thôi
Ta chẳng giả miền Nam!
Chứ
giả miền Nam cho nước Việt Nam
Thì ta chết
- thầy ta cũng chết
Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm
Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!
Thịt dân ta từng mảng nát bươm
Nhưng không!
Hôm nay
Cả thành phố Sài Gòn
Đóng cửa!
Không họp chợ!
Không ra đường!
Những mảng thịt
Những đọi máu đào
đang rầm rập kéo nhau
đi ngoài phố
Hôm nay
hàng triệu mối thù sâu
tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng
Vung đao cùn chém phải quãng trời không!
Hắn đi ngủ,
muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường
Hắn ngồi ăn
tiếng khóc nổi trong cơm
Hắn nhắm mắt
tiếng kêu vào giấc ngủ
Hắn rong chơi
tiếng rủa bước theo chân
Hắn hội họp
tiếng kêu ngồi cạnh
giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vạch tên mày!
Tên đứa tay sai!
Chẳng có lâu đâu!
Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù
Óc điên dại
- chân lê vòng xích
Trốn đi đâu?
Đất trời sâu
đương vẩy máu
đuổi theo chân hắn.
Hắn run sợ - Quỳ xin đã muộn!
Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu
Máu vẫn đỏ
trúng đầu trúng mặt
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vang tên mày!
7.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
- Chúng phá hiệp thương
- Liệu có hiệp thương?
- Liệu có tổng hay chẳng tổng?
- Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông!
A tiếng kèn vang
quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến Tranh
Giữ được Hoà Bình
Giặc cũ chết – lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có LÝ? và ai có LỰC?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
Không biết sợ!
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
- Giả miền Nam!
Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi
Dân ta ơi!
Những tiếng ta hô
có sức đâm trời chảy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết...
8.
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê: đâm
Giống viên đạn: xé
Giống bão mưa: gào
Giống tình yêu: thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Sao bỗng đêm nay,
tôi cúi mặt trước đèn?
Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá
chặn đường ta!
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
vẫn có những phút giây ngờ vực
Ai có LÝ? Và ai có LỰC?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
cả nước
cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.
Anh gạch xoá trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
Anh đã nghĩ: không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
mà thống nhất Bắc Nam ư?
Không không!
Đem sức gân ra!
Em ơi em!
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT
9.
Hôm nay
Trời đã thôi mưa
Thôi gió
Nắng lên
đỏ phố
đỏ nhà
đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhé đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng mình
phơi nắng hết.
Em nhìn
cao tít
trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!
Hôm nay em đã có việc làm
Lương ít – Sống còn khó khăn!
Cũng là may...
Chính phủ muôn lo nghìn lắng
Thực có tài đuổi bão xua mưa
Không thì còn khổ
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó!
Tiếng gì ầm phố em à?
A! Những người đi Nam trở ra
Phải rồi! Quên sao đất Bắc!
- Khổ! Trong ấy loạn
Phải đi đồn điền cao su
Chúng tôi bị lừa
Bà con muốn ra không được.
Đồng bào vui muốn khóc
Ô này lạ chưa?
- Mây ngoài này không đen
Mây đen vào trong ấy cả
Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta
lùa mây đuổi gió
Những vết thương kháng chiến đỏ lòm
Đã mím miệng, lên da lên thịt.
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
và nhiều phố khác.
Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
mà lửa xém tim mình
Tim nó bị thui đen một nửa
Từ giạo ấy
mà em chẳng rõ.
- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
đỏ phố
đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.
Em có thấy bay trên trời xanh
Hàng triệu tâm hồn?
Họ đã bỏ miền Nam
ra Bắc!
Chúng đem súng mà ngăn
Đem dây mà trói!
Giữ thân người
không giữ được nhân tâm
Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.
Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi
Đổ lên chúng nó
Mây đen
lửa loạn
bão thù
Ai thắng ai thua?
Ai có LÝ và ai có LỰC?
Em ơi
Hôm nay
trời xanh
xanh đúc
Nắng lên
đỏ phố
đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đã lùi xa
Hoà bình
thêm vững
Anh bước đi
đã thấy phố thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên
trên màu cờ đỏ
Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
đóng cửa
Cả nhà ra phố
mít tinh
Chúng ta đi
nổi bão
biểu tình
Vung cờ đỏ
hát hò
vỡ phổi...
Hỡi những người
thành phố
thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường!
Đi!
hàng đoàn
hàng đoàn
Đòi lấy tương lai:
HOÀ BÌNH
THỐNG NHẤT
ĐỘC LẬP
DÂN CHỦ
Đó là tim
là máu đời mình
Là cơm áo! Là ái tình
Nhất định thắng!
1.
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống Hoà Bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh...
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi đao cùn!
Không đứt được – mà đau!
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc hôm ngày hôm nay rớm máu.
2.
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
- Đứng lại!
- Đi đâu?
- Làm gì?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
- Ở đây
khát gió, thèm mây...
Ô hay!
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?
Sau đám mây kia
là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!
Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ
Tha hồ những tự do tự diếc
Tưởng như ở đấy cứ chìa tay
là có đô-la
Có trâu ruộng, - Có ngày đêm hoan hỷ!
Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
- Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân
Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn...
- Không! Hãy ở lại
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
non bồng Mỹ
triệu lần...
Mảnh đất dễ mà quên?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là:
- thiếu quả tim, bộ óc!
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi
- Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi,
gió cản áo bay về.
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Giăng giối lại: - Mỗi lùm cây – hốc đá
- Mỗi căn vườn – gốc vả - cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy – quên làm sao được?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió giập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc...
Ai dẫn họ đi?
Ai?
Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ -
Khổ nhiều rồi!
Họ xấu số - Chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ
3.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ.
Họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Em ơi!
Em có biết đâu
Ta khổ thế này
Vì sao?
Em biết đâu
Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?
Khổ thân em mưa nắng đi về
lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
4.
Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào Thơ?
Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách – hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này – bạn ấy
Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm
Nó đang mơ: - nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ
- từ cái ăn
cái ngủ
chuyện riêng tư
- từ suy nghĩ
nựng con
và tán vợ
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất
Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
Làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
tôi làm thơ chính trị
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
5.
Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử
À cái tin trên báo - Ừ em ạ
Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê
Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!
Vượt qua đầu chúng nó,
mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?
Ý muốn dân ta
là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xoá nhoà giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó Mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ - nó gầy – lông xấu quá
Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?
Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ.
Em thương nó - Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Mực ơi!
đừng oán chủ, Mực à!
Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm
Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta
Chính chúng cướp cả cơm của khuyển
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa.
trên màu cờ đỏ
6.
Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam
Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm
Hắn sai con em là lũ du côn
Đi ném đá nhà Uỷ ban Quốc tế.
Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký
Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!
Ô hay! Cái lưỡi uốn càn
Cả thế giới vả vào mõm hắn
Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:
- Mặc kệ! Giết ta chết hẳn
thì thôi
Ta chẳng giả miền Nam!
Chứ
giả miền Nam cho nước Việt Nam
Thì ta chết
- thầy ta cũng chết
Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm
Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!
Thịt dân ta từng mảng nát bươm
Nhưng không!
Hôm nay
Cả thành phố Sài Gòn
Đóng cửa!
Không họp chợ!
Không ra đường!
Những mảng thịt
Những đọi máu đào
đang rầm rập kéo nhau
đi ngoài phố
Hôm nay
hàng triệu mối thù sâu
tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng
Vung đao cùn chém phải quãng trời không!
Hắn đi ngủ,
muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường
Hắn ngồi ăn
tiếng khóc nổi trong cơm
Hắn nhắm mắt
tiếng kêu vào giấc ngủ
Hắn rong chơi
tiếng rủa bước theo chân
Hắn hội họp
tiếng kêu ngồi cạnh
giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vạch tên mày!
Tên đứa tay sai!
Chẳng có lâu đâu!
Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù
Óc điên dại
- chân lê vòng xích
Trốn đi đâu?
Đất trời sâu
đương vẩy máu
đuổi theo chân hắn.
Hắn run sợ - Quỳ xin đã muộn!
Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu
Máu vẫn đỏ
trúng đầu trúng mặt
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vang tên mày!
7.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
- Chúng phá hiệp thương
- Liệu có hiệp thương?
- Liệu có tổng hay chẳng tổng?
- Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông!
A tiếng kèn vang
quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến Tranh
Giữ được Hoà Bình
Giặc cũ chết – lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có LÝ? và ai có LỰC?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
Không biết sợ!
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
- Giả miền Nam!
Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi
Dân ta ơi!
Những tiếng ta hô
có sức đâm trời chảy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết...
8.
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê: đâm
Giống viên đạn: xé
Giống bão mưa: gào
Giống tình yêu: thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Sao bỗng đêm nay,
tôi cúi mặt trước đèn?
Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá
chặn đường ta!
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
vẫn có những phút giây ngờ vực
Ai có LÝ? Và ai có LỰC?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
cả nước
cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.
Anh gạch xoá trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
Anh đã nghĩ: không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
mà thống nhất Bắc Nam ư?
Không không!
Đem sức gân ra!
Em ơi em!
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT
9.
Hôm nay
Trời đã thôi mưa
Thôi gió
Nắng lên
đỏ phố
đỏ nhà
đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhé đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng mình
phơi nắng hết.
Em nhìn
cao tít
trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!
Hôm nay em đã có việc làm
Lương ít – Sống còn khó khăn!
Cũng là may...
Chính phủ muôn lo nghìn lắng
Thực có tài đuổi bão xua mưa
Không thì còn khổ
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó!
Tiếng gì ầm phố em à?
A! Những người đi Nam trở ra
Phải rồi! Quên sao đất Bắc!
- Khổ! Trong ấy loạn
Phải đi đồn điền cao su
Chúng tôi bị lừa
Bà con muốn ra không được.
Đồng bào vui muốn khóc
Ô này lạ chưa?
- Mây ngoài này không đen
Mây đen vào trong ấy cả
Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta
lùa mây đuổi gió
Những vết thương kháng chiến đỏ lòm
Đã mím miệng, lên da lên thịt.
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
và nhiều phố khác.
Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
mà lửa xém tim mình
Tim nó bị thui đen một nửa
Từ giạo ấy
mà em chẳng rõ.
- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
đỏ phố
đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.
Em có thấy bay trên trời xanh
Hàng triệu tâm hồn?
Họ đã bỏ miền Nam
ra Bắc!
Chúng đem súng mà ngăn
Đem dây mà trói!
Giữ thân người
không giữ được nhân tâm
Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.
Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi
Đổ lên chúng nó
Mây đen
lửa loạn
bão thù
Ai thắng ai thua?
Ai có LÝ và ai có LỰC?
Em ơi
Hôm nay
trời xanh
xanh đúc
Nắng lên
đỏ phố
đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đã lùi xa
Hoà bình
thêm vững
Anh bước đi
đã thấy phố thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên
trên màu cờ đỏ
Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
đóng cửa
Cả nhà ra phố
mít tinh
Chúng ta đi
nổi bão
biểu tình
Vung cờ đỏ
hát hò
vỡ phổi...
Hỡi những người
thành phố
thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường!
Đi!
hàng đoàn
hàng đoàn
Đòi lấy tương lai:
HOÀ BÌNH
THỐNG NHẤT
ĐỘC LẬP
DÂN CHỦ
Đó là tim
là máu đời mình
Là cơm áo! Là ái tình
Nhất định thắng!
Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Trần Dần, được sáng tác năm 1955, in trong Giai phẩm mùa xuân (1956) nhưng không đầy đủ. Bản đăng đầy đủ ở đây được lấy từ tập Trần Dần - Thơ (NXB Đà Nẵng, 2008
Last edited by LDN on Fri Feb 04, 2022 12:07 pm; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
1. Tìm hiểu phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Thụy Khuê
Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt tháng 6 năm 1958. Hai tư liệu sớm nhất về Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá in ở Sài Gòn năm 1959, và Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do nhà xuất bản Sự Thật1 in ở Hà Nội, cùng năm.
Ngoài hai cuốn sách này còn có những tập tư liệu khác, ra đời hơn 30 năm sau.
Trước hết là cuốn Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam – Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam của Georges Boudarel2. Thời gian ở Việt Nam, Boudarel đã gặp nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có các thành viên NVGP và ông đã mang về Pháp các sách báo xuất bản ở Hà Nội vào thời điểm NVGP. Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh “đổi mới”, Boudarel viết loạt bài Dissidences intellectuelles au Viêt Nam L’affaire Nhan Van Giai Pham – Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm3 sau tập hợp và đào sâu thành cuốn “Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam4”.
Ngoại trừ việc Boudarel đã sai như Hoàng Văn Chí, khi cho rằng NVGP bắt nguồn từ Trăm hoa đua nở bên Trung Quốc5, cuốn sách của ông là tập tư liệu có giá trị, nhờ đó, bi kịch NVGP đến được với người đọc tiếng Pháp.
Từ những năm 90, một loạt tài liệu mới về NVGP xuất hiện rải rác trong và ngoài nước, dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác, của những thành viên đã tham gia phong trào, trong đó có hai tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Mạnh Tường: hồi ký Un Excommunié – Kẻ bị khai trừ6; và tiểu thuyết Une voix dans la nuit – Tiếng vọng trong đêm7.
Sau 9 năm theo kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường từ chiến khu trở về trong số những trí thức được chính quyền ưu đãi. Phong trào NVGP ra đời, ông tham gia và đã chịu sự trừng phạt nặng nề. Nhờ hồi ký Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường, ta có thể hình dung được các giáo sư đại học như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, đã phải trải qua những kỷ luật như thế nào, và hiểu được cuộc sống cách ly, đói khát, luôn luôn bị theo dõi của họ trong hơn ba mươi năm sa mạc.
Cuốn nhật ký Trần Dần ghi8 chép những việc hàng ngày đặc biệt trong thời kỳ: Cải Cách Ruộng Đất và cuộc thanh trừng sau NVGP. Nếu Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường là bản chúc thư9 gửi cho thế hệ mai sau về sự đối đầu của một trí thức trước áp lực cách mạng, thì nhật ký Trần Dần ghi là những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơ đã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ, muốn được trở lại sống bình thường như mọi người, nhưng vô hiệu. Tiểu thuyết Une voix dans la nuit – Tiếng vọng trong đêm mô tả các giai đoạn chính trong thời kỳ xây dựng chế độ toàn trị ở Việt Nam.
Bộ băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ghi âm trong khoảng thời gian 1998-2008, bộc lộ nhiều sự kiện chưa từng thấy ở những tài liệu khác. Hoàng Cầm nói rất dài, rất nhiều chi tiết, ở những thời điểm khác nhau, đôi khi về cùng một sự kiện nhưng có những chi tiết thay đổi; nên chúng tôi không thể trích đoạn, chỉ tóm tắt những ý chính, viết gọn lại, giữ nguyên giọng Hoàng Cầm. Đây là một tư liệu quan trọng về bi kịch NVGP, về những gì xẩy ra trong hậu trường, về sự bắt bớ, giam giữ, tù đầy, tra khảo, hăm dọa, mà Hoàng Cầm đã trải qua năm 1982-1983 vì tập thơ Về Kinh Bắc, về trách nhiệm của giai cấp lãnh đạo dưới thời Hồ Chí Minh và sau Hồ Chí Minh.
Hoàng Văn Chí và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, tác giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, cho biết: “Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ”, “Tôi làm việc một mình”, “Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội”, “Tôi làm việc trong hai năm 56-58”. “Bộ Thông Tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông Tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào”. “Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 Boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay [1986] chưa được thả”. “Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa10“.
Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến NVGP? Ai là những người “ở lại” mà ông đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, chúng ta sẽ thấy câu trả lời:
Sở Cuồng Lê Dư kết hôn với em ruột Phan Khôi, có ba người con gái: cô đầu, Hằng Phương, gả cho nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì, Hằng Huân, là vợ Hoàng Văn Chí và cô út, Hằng Phân là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Nữ sĩ Hằng Phương, sau này viết bài đả kích mạnh mẽ NVGP, rất có thể vì thế, mà bà Hằng Huân đã là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về NVGP.
Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm đầy đủ nhất về phong trào NVGP, nhưng ba người Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt bị loại, có thể ông không tin họ vì Nguyễn Hữu Đang đã từng là người tin cẩn của Hồ Chí Minh, Lê Đạt là bí thư của Trường Chinh và Trương Tửu là nhà phê bình lý luận Mác-Xít. Phần lớn những thành viên khác đều có mặt, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ NVGP, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi và Văn Cao, với các chi tiết hiếm, mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Sau này, ở trong nước không thiếu sách viết về Văn Cao, Phan Khôi, nhưng thường tô hồng, hoặc cắt xén, vo tròn, ít thấy sự thật.
Nhưng tác phẩm của Hoàng Văn Chí cũng có một số nhược điểm:
– Không phải là người trong cuộc, và đã rời miền Bắc từ đầu 1955, cho nên có một số chi tiết ông viết sai.
– Về mặt biên tập, Hoàng Văn Chí, đã cắt hoặc không chọn những bài, những đoạn có những câu chữ quá khích mà các tác giả trong NVGP lên án “tội ác Mỹ Diệm”, hoặc ca tụng Đảng Cộng sản. Đặc biệt bài Nhất định thắng của Trần Dần, ông đã bỏ những câu, những đoạn sắt máu, có tính cách khẩu hiệu, tuyên truyền, khiến cho tác phẩm hay hơn, nhân bản hơn, được độc giả miền Nam chấp nhận, nhưng đã làm lệch ý Trần Dần ở thời điểm ấy. Bản in lại trong Trần Dần thơ11 mới đây, là bản Hoàng Văn Chí.
Ngày nay, chúng ta đã có khoảng cách để phân tích tư tưởng của mỗi thành viên, qua các văn bản gốc mà họ để lại trên báo Nhân Văn, sách Giai Phẩm. Một mặt khác, qua nhân chứng của các thành viên, chúng ta có thể tái tạo lại diễn biến của phong trào: ai làm gì, ai giữ trách nhiệm gì.
Đối chiếu những nhân chứng này với lời buộc tội của những ngòi bút chính thống đánh họ, in trên các báo chính thức trong thời kỳ này, mà Lại Nguyên Ân đã có công sưu tầm, chúng ta có thể nhìn ra nhiều khía cạnh của sự thật hơn.
Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận
Cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, buộc tội NVGP. Phần cuối sách, có một chương nhỏ trích “những lời thú tội” của các thành viên NVGP, còn toàn thể dành cho phía công tố “phát hiện tội“, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP.
Tập tư liệu dày 370 trang này rất hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà Lê Đạt mô tả tường tận trong các bài phỏng vấn trên RFI. Đồng thời, nó cũng gián tiếp trả lời một số lập luận, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc NVGP thành một cuộc “đánh đấm nội bộ“, tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng.
Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ và các đoàn thể, báo chí, nhân dân và các vị cao quyền trong Đảng như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v… phản ảnh rất rõ tư cách của người tố. Có thể nói, qua những “văn bản tố“, các tác giả đã để lại tư cách của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng, nhờ cách sắp xếp thứ tự “những tên đầu sỏ” mà chúng ta biết được thứ tự “tội” nặng, “tội” nhẹ, của mỗi người.
Những buổi phỏng vấn trên RFI
Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đề nghị ghi âm ông, mong ông soi tỏ những chỗ chưa được các tài liệu trước đề cập đến, hoặc viết sai. Buổi nói chuyện – thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử – tuy mang tính cách cá nhân nhưng có hệ thống về NVGP. Chúng tôi đề nghị ông nói thẳng, nói thật hết và cam kết là sẽ chỉ công bố sau khi ông qua đời, bởi ông không định viết hồi ký.
Đầu năm 2004, sau khi thực hiện chương trình phát thanh kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ (1954-2004) với Hữu Mai trên đài RFI, chúng tôi dự định làm thêm một chương trình kỷ niệm 50 năm phong trào NVGP (nếu coi 1954 là thời điểm manh nha) nên đã cố gắng liên lạc với Lê Đạt qua điện thoại Paris – Hà Nội, để làm một cuộc phỏng vấn ngắn gọn có tính cách thời sự, phù hợp với đề tài này, nhưng không thể thực hiện được, vì ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của Lê Đạt, chúng tôi quyết định cho phát trên sóng RFI, toàn bộ buổi nói chuyện với ông đã thu ngày 13/4/1999 tại Paris. Do đó mà tài liệu văn học sử này đã đến với thính giả RFI và độc giả sớm hơn dự tính.
Lần đầu tiên, toàn bộ lời kể của một thành viên cột trụ trong NVGP được công bố.
Bên cạnh Lê Đạt, còn có tiếng nói của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là cuộc phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập, nhân dịp kỷ niệm ngày 2/9/1945. Buổi nói chuyện này thu thanh qua điện thoại nhà Lê Đạt ngày 30/8/1995 và được phát thanh trên đài RFI ngày 10/9/1995. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chúng tôi có thể ghi âm được Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Thính giả nghe các chương trình này, đều nhận thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại Paris – Hà Nội, không đạt mức độ tự do như các cuộc nói chuyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng cả ba chứng nhân, cũng là ba người đầu tiên đã xây dựng nên phong trào NVGP cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật. Có những câu hỏi cùng đặt cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm khác nhau, nhưng sự trả lời gần như tương tự.
Sau cùng là nhân chứng Trần Duy. Hoạ sĩ Trần Duy đã liên lạc với chúng tôi từ nhiều năm qua, ông cho biết đã nghe những chương trình trên đài RFI về phong trào NVGP, có những điều ông muốn nói, nhưng cơ hội chưa thuận tiện. Tháng 6/2008, Trần Duy quyết định lên tiếng. Chúng tôi đã ghi âm ông qua điện thoại Paris – Hà Nội, không bị trở ngại gì. Như thế, chúng ta có thêm nhân chứng của Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn.
Nếu trong những bài viết trên báo hoặc các chương trình phát thanh, từ 1988 đến ngày nay, còn có những thiếu sót, sai lầm, thì, những chứng nhân quan trọng của Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, đã đính chính và bổ sung. Các ông thay mặt những người đã khuất, viết lại lịch sử của phong trào và lần này, không ai có thể ngăn ngừa sự thật.
Tất nhiên, mỗi người có một sự thực của riêng mình, về mỗi dữ kiện, mỗi vấn đề. Thời gian trôi qua, ký ức cũng có đôi chỗ sai biệt, nhưng những sai biệt ấy, nếu có, thường là những chi tiết không mấy quan trọng. Độc giả sẽ rút ra từ những sự thực có thể khác nhau ấy, phần tổng kết riêng của mình, về phong trào NVGP12.
Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt (ghi âm tại Paris ngày 13/4/1999) cho đến nay, vẫn là chứng từ quan trọng nhất và đầy đủ nhất về lịch sử phong trào NVGP.
Lê Đạt mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội.
Những năm gần đây trang điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài chủ biên, đã cho in lại và lưu trữ trên mạng Internet toàn bộ sách báo NVGP. Lại Nguyên Ân sưu tầm những bài viết trên các báo chính thức thập niên 60, liên quan đến phong trào NVGP và đưa dần lên Internet. Những tư liệu này góp phần sáng tỏ thêm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại toàn diện bối cảnh phong trào NVGP.
Từ tháng 4/1988, khi chúng tôi viết những dòng đầu về Nhân Văn Giai Phẩm đến nay đã hơn hai mươi năm. Chuyên luận này tưởng như hoàn tất một chương trình tìm kiếm lâu dài, nhưng thực ra nó lại là khởi điểm cho một cuộc tìm kiếm mới về những gì đã thực sự xẩy ra, trong thời kỳ kháng chiến và hoà bình lập lại ở miền Bắc. Bởi càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ những khoảng trống chưa thể lấp được, về Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Thụy An… và bao nhiêu con người và sự kiện khác nữa, mà chúng tôi không ngờ khi mới bắt tay vào việc.
Những gì chúng ta góp nhặt được về họ, ngoài những văn bản do chính họ đã viết ra, đôi khi lượm lặt được vài ba dòng nhật ký người này, hồi ký người kia, cũng chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại hồi ký, đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu. Cho nên người nghiên cứu phải vô cùng thận trọng khi tìm và lựa thông tin, phân biệt thật giả trong tư liệu. Tìm tư liệu không khó trong thời buổi Internet này, nhưng sử dụng tư liệu để dựng lại sự thật là một việc khác hẳn.
Làm sao biết được hoạt động chính trị của Lê Đạt trước khi gia nhập Việt Minh? Lê Đạt đã ở trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng?
Theo Văn Cao, thì Phạm Duy là người đầu tiên dẫn ông liên lạc với Việt Minh, Phạm Duy cũng là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca, là người “cướp” micro trước cửa Nhà Hát Lớn ngày 17/8/1945 để hát Tiến Quân Ca lần đầu trước công chúng. Nhưng khi viết hoặc in lại hồi ký của Văn Cao về Tiến Quân Ca, người ta đã cắt bỏ tất cả những chi tiết nói về Phạm Duy, có chỗ thay bằng Nguyễn Đình Thi.
Một mặt khác, ngay chính Lê Đạt và Phạm Duy, vì an ninh của bản thân và của gia đình, các ông đã không thể nói tất cả sự thật, càng không thể viết ra trên văn bản.
Chúng ta biết gì về hoạt động của Thụy An? Về “mối tình đầu” của Thụy An với Võ Nguyên Giáp? Về những bí mật giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân Quốc Dân Đảng? Tại sao Thụy An quay trở lại Bắc, trong khi gia đình bà di cư vào Nam? Những bí mật ấy, tuy chỉ là những chi tiết, có vẻ không quan trọng, nhưng ngày nay, những người muốn biết sự thực, phải có quyền được biết.
Nếu biết được những chi tiết ấy, chúng ta sẽ thấy tất cả những hoạt động đảng phái thời kháng chiến chống Pháp không đơn giản bên này yêu nước, bên kia bán nước. Mà bất cứ một cá nhân nào, dù văn nghệ sĩ trí thức hay không, cũng có thể theo hai ba đường chính trị khác nhau, trong hành trình sống của mình. Chỉ khi đảng Cộng sản quyết định độc quyền lãnh đạo, độc tôn xã hội chủ nghiã, các khuynh hướng chính trị khác mới trở thành phản động.
Vấn đề của người nghiên cứu là phải tìm hiểu những đầu mối đan cài vô cùng phức tạp giữa các khuynh hướng chính trị, văn hoá khác nhau, trong mối tương giao không xé ra được.
Những người kháng chiến ngoài Đảng hoặc chống Đảng, bị chế độ kết án chung thân, phải chối bỏ lẫn nhau và phủ nhận toàn bộ hành trình của mình, trên đường tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ.
Bi kịch của họ phản ánh bi kịch chung của dân tộc dưới chế độ cộng sản.
Nay là nxb Chính Trị Quốc Gia.
Georges Boudarel (1926-2003), nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, sang Việt Nam năm 1947 với mục đích tranh đấu chống chính quyền thực dân. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ “cải tạo” tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, vì không còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp.
In trên hai tập san: Sudestasie (số 50 tháng1/1988) và Politique Aujourd’hui en Europe (phụ bản 1/1989).
Do Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris.
Lê Đạt, Hoàng Cầm đã đính chính qua các buổi trả lời phỏng vấn RFI.
Với tiểu tựa: Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel – Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức, Quê Mẹ, Paris, 1992.
Chưa in, với tiểu tựa: Roman sur le Viet Nam 1950-1990 – Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990.
Văn Nghệ, California, 2001.
Viết năm 1991, ở tuổi 82.
Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ.
Nxb Đà Nẵng, 2008.
Những buổi phỏng vấn các thành viên chính của NVGP, phát thanh trên RFI, từ 1995 đến 2008: Nguyễn Hữu Đang (10/9/1995), Hoàng Cầm (21/2/1998 đến 10/1/2004, 4 kỳ), Lê Đạt (từ 24/3/2004 – 5/6/2004, 7 kỳ) và Trần Duy (26/6/2008-26/7/2008, 4 kỳ), đều được lưu trữ trên mạng http://thuykhue.free.fr
Thụy Khuê
Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt tháng 6 năm 1958. Hai tư liệu sớm nhất về Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá in ở Sài Gòn năm 1959, và Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do nhà xuất bản Sự Thật1 in ở Hà Nội, cùng năm.
Ngoài hai cuốn sách này còn có những tập tư liệu khác, ra đời hơn 30 năm sau.
Trước hết là cuốn Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam – Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam của Georges Boudarel2. Thời gian ở Việt Nam, Boudarel đã gặp nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có các thành viên NVGP và ông đã mang về Pháp các sách báo xuất bản ở Hà Nội vào thời điểm NVGP. Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh “đổi mới”, Boudarel viết loạt bài Dissidences intellectuelles au Viêt Nam L’affaire Nhan Van Giai Pham – Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm3 sau tập hợp và đào sâu thành cuốn “Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam4”.
Ngoại trừ việc Boudarel đã sai như Hoàng Văn Chí, khi cho rằng NVGP bắt nguồn từ Trăm hoa đua nở bên Trung Quốc5, cuốn sách của ông là tập tư liệu có giá trị, nhờ đó, bi kịch NVGP đến được với người đọc tiếng Pháp.
Từ những năm 90, một loạt tài liệu mới về NVGP xuất hiện rải rác trong và ngoài nước, dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác, của những thành viên đã tham gia phong trào, trong đó có hai tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Mạnh Tường: hồi ký Un Excommunié – Kẻ bị khai trừ6; và tiểu thuyết Une voix dans la nuit – Tiếng vọng trong đêm7.
Sau 9 năm theo kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường từ chiến khu trở về trong số những trí thức được chính quyền ưu đãi. Phong trào NVGP ra đời, ông tham gia và đã chịu sự trừng phạt nặng nề. Nhờ hồi ký Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường, ta có thể hình dung được các giáo sư đại học như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, đã phải trải qua những kỷ luật như thế nào, và hiểu được cuộc sống cách ly, đói khát, luôn luôn bị theo dõi của họ trong hơn ba mươi năm sa mạc.
Cuốn nhật ký Trần Dần ghi8 chép những việc hàng ngày đặc biệt trong thời kỳ: Cải Cách Ruộng Đất và cuộc thanh trừng sau NVGP. Nếu Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường là bản chúc thư9 gửi cho thế hệ mai sau về sự đối đầu của một trí thức trước áp lực cách mạng, thì nhật ký Trần Dần ghi là những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơ đã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ, muốn được trở lại sống bình thường như mọi người, nhưng vô hiệu. Tiểu thuyết Une voix dans la nuit – Tiếng vọng trong đêm mô tả các giai đoạn chính trong thời kỳ xây dựng chế độ toàn trị ở Việt Nam.
Bộ băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ghi âm trong khoảng thời gian 1998-2008, bộc lộ nhiều sự kiện chưa từng thấy ở những tài liệu khác. Hoàng Cầm nói rất dài, rất nhiều chi tiết, ở những thời điểm khác nhau, đôi khi về cùng một sự kiện nhưng có những chi tiết thay đổi; nên chúng tôi không thể trích đoạn, chỉ tóm tắt những ý chính, viết gọn lại, giữ nguyên giọng Hoàng Cầm. Đây là một tư liệu quan trọng về bi kịch NVGP, về những gì xẩy ra trong hậu trường, về sự bắt bớ, giam giữ, tù đầy, tra khảo, hăm dọa, mà Hoàng Cầm đã trải qua năm 1982-1983 vì tập thơ Về Kinh Bắc, về trách nhiệm của giai cấp lãnh đạo dưới thời Hồ Chí Minh và sau Hồ Chí Minh.
Hoàng Văn Chí và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, tác giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, cho biết: “Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ”, “Tôi làm việc một mình”, “Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội”, “Tôi làm việc trong hai năm 56-58”. “Bộ Thông Tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông Tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào”. “Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 Boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay [1986] chưa được thả”. “Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa10“.
Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến NVGP? Ai là những người “ở lại” mà ông đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, chúng ta sẽ thấy câu trả lời:
Sở Cuồng Lê Dư kết hôn với em ruột Phan Khôi, có ba người con gái: cô đầu, Hằng Phương, gả cho nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì, Hằng Huân, là vợ Hoàng Văn Chí và cô út, Hằng Phân là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Nữ sĩ Hằng Phương, sau này viết bài đả kích mạnh mẽ NVGP, rất có thể vì thế, mà bà Hằng Huân đã là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về NVGP.
Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm đầy đủ nhất về phong trào NVGP, nhưng ba người Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt bị loại, có thể ông không tin họ vì Nguyễn Hữu Đang đã từng là người tin cẩn của Hồ Chí Minh, Lê Đạt là bí thư của Trường Chinh và Trương Tửu là nhà phê bình lý luận Mác-Xít. Phần lớn những thành viên khác đều có mặt, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ NVGP, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi và Văn Cao, với các chi tiết hiếm, mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Sau này, ở trong nước không thiếu sách viết về Văn Cao, Phan Khôi, nhưng thường tô hồng, hoặc cắt xén, vo tròn, ít thấy sự thật.
Nhưng tác phẩm của Hoàng Văn Chí cũng có một số nhược điểm:
– Không phải là người trong cuộc, và đã rời miền Bắc từ đầu 1955, cho nên có một số chi tiết ông viết sai.
– Về mặt biên tập, Hoàng Văn Chí, đã cắt hoặc không chọn những bài, những đoạn có những câu chữ quá khích mà các tác giả trong NVGP lên án “tội ác Mỹ Diệm”, hoặc ca tụng Đảng Cộng sản. Đặc biệt bài Nhất định thắng của Trần Dần, ông đã bỏ những câu, những đoạn sắt máu, có tính cách khẩu hiệu, tuyên truyền, khiến cho tác phẩm hay hơn, nhân bản hơn, được độc giả miền Nam chấp nhận, nhưng đã làm lệch ý Trần Dần ở thời điểm ấy. Bản in lại trong Trần Dần thơ11 mới đây, là bản Hoàng Văn Chí.
Ngày nay, chúng ta đã có khoảng cách để phân tích tư tưởng của mỗi thành viên, qua các văn bản gốc mà họ để lại trên báo Nhân Văn, sách Giai Phẩm. Một mặt khác, qua nhân chứng của các thành viên, chúng ta có thể tái tạo lại diễn biến của phong trào: ai làm gì, ai giữ trách nhiệm gì.
Đối chiếu những nhân chứng này với lời buộc tội của những ngòi bút chính thống đánh họ, in trên các báo chính thức trong thời kỳ này, mà Lại Nguyên Ân đã có công sưu tầm, chúng ta có thể nhìn ra nhiều khía cạnh của sự thật hơn.
Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận
Cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, buộc tội NVGP. Phần cuối sách, có một chương nhỏ trích “những lời thú tội” của các thành viên NVGP, còn toàn thể dành cho phía công tố “phát hiện tội“, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP.
Tập tư liệu dày 370 trang này rất hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà Lê Đạt mô tả tường tận trong các bài phỏng vấn trên RFI. Đồng thời, nó cũng gián tiếp trả lời một số lập luận, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc NVGP thành một cuộc “đánh đấm nội bộ“, tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng.
Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ và các đoàn thể, báo chí, nhân dân và các vị cao quyền trong Đảng như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v… phản ảnh rất rõ tư cách của người tố. Có thể nói, qua những “văn bản tố“, các tác giả đã để lại tư cách của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng, nhờ cách sắp xếp thứ tự “những tên đầu sỏ” mà chúng ta biết được thứ tự “tội” nặng, “tội” nhẹ, của mỗi người.
Những buổi phỏng vấn trên RFI
Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đề nghị ghi âm ông, mong ông soi tỏ những chỗ chưa được các tài liệu trước đề cập đến, hoặc viết sai. Buổi nói chuyện – thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử – tuy mang tính cách cá nhân nhưng có hệ thống về NVGP. Chúng tôi đề nghị ông nói thẳng, nói thật hết và cam kết là sẽ chỉ công bố sau khi ông qua đời, bởi ông không định viết hồi ký.
Đầu năm 2004, sau khi thực hiện chương trình phát thanh kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ (1954-2004) với Hữu Mai trên đài RFI, chúng tôi dự định làm thêm một chương trình kỷ niệm 50 năm phong trào NVGP (nếu coi 1954 là thời điểm manh nha) nên đã cố gắng liên lạc với Lê Đạt qua điện thoại Paris – Hà Nội, để làm một cuộc phỏng vấn ngắn gọn có tính cách thời sự, phù hợp với đề tài này, nhưng không thể thực hiện được, vì ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của Lê Đạt, chúng tôi quyết định cho phát trên sóng RFI, toàn bộ buổi nói chuyện với ông đã thu ngày 13/4/1999 tại Paris. Do đó mà tài liệu văn học sử này đã đến với thính giả RFI và độc giả sớm hơn dự tính.
Lần đầu tiên, toàn bộ lời kể của một thành viên cột trụ trong NVGP được công bố.
Bên cạnh Lê Đạt, còn có tiếng nói của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là cuộc phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập, nhân dịp kỷ niệm ngày 2/9/1945. Buổi nói chuyện này thu thanh qua điện thoại nhà Lê Đạt ngày 30/8/1995 và được phát thanh trên đài RFI ngày 10/9/1995. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chúng tôi có thể ghi âm được Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Thính giả nghe các chương trình này, đều nhận thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại Paris – Hà Nội, không đạt mức độ tự do như các cuộc nói chuyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng cả ba chứng nhân, cũng là ba người đầu tiên đã xây dựng nên phong trào NVGP cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật. Có những câu hỏi cùng đặt cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm khác nhau, nhưng sự trả lời gần như tương tự.
Sau cùng là nhân chứng Trần Duy. Hoạ sĩ Trần Duy đã liên lạc với chúng tôi từ nhiều năm qua, ông cho biết đã nghe những chương trình trên đài RFI về phong trào NVGP, có những điều ông muốn nói, nhưng cơ hội chưa thuận tiện. Tháng 6/2008, Trần Duy quyết định lên tiếng. Chúng tôi đã ghi âm ông qua điện thoại Paris – Hà Nội, không bị trở ngại gì. Như thế, chúng ta có thêm nhân chứng của Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn.
Nếu trong những bài viết trên báo hoặc các chương trình phát thanh, từ 1988 đến ngày nay, còn có những thiếu sót, sai lầm, thì, những chứng nhân quan trọng của Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, đã đính chính và bổ sung. Các ông thay mặt những người đã khuất, viết lại lịch sử của phong trào và lần này, không ai có thể ngăn ngừa sự thật.
Tất nhiên, mỗi người có một sự thực của riêng mình, về mỗi dữ kiện, mỗi vấn đề. Thời gian trôi qua, ký ức cũng có đôi chỗ sai biệt, nhưng những sai biệt ấy, nếu có, thường là những chi tiết không mấy quan trọng. Độc giả sẽ rút ra từ những sự thực có thể khác nhau ấy, phần tổng kết riêng của mình, về phong trào NVGP12.
Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt (ghi âm tại Paris ngày 13/4/1999) cho đến nay, vẫn là chứng từ quan trọng nhất và đầy đủ nhất về lịch sử phong trào NVGP.
Lê Đạt mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội.
Những năm gần đây trang điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài chủ biên, đã cho in lại và lưu trữ trên mạng Internet toàn bộ sách báo NVGP. Lại Nguyên Ân sưu tầm những bài viết trên các báo chính thức thập niên 60, liên quan đến phong trào NVGP và đưa dần lên Internet. Những tư liệu này góp phần sáng tỏ thêm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại toàn diện bối cảnh phong trào NVGP.
Từ tháng 4/1988, khi chúng tôi viết những dòng đầu về Nhân Văn Giai Phẩm đến nay đã hơn hai mươi năm. Chuyên luận này tưởng như hoàn tất một chương trình tìm kiếm lâu dài, nhưng thực ra nó lại là khởi điểm cho một cuộc tìm kiếm mới về những gì đã thực sự xẩy ra, trong thời kỳ kháng chiến và hoà bình lập lại ở miền Bắc. Bởi càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ những khoảng trống chưa thể lấp được, về Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Thụy An… và bao nhiêu con người và sự kiện khác nữa, mà chúng tôi không ngờ khi mới bắt tay vào việc.
Những gì chúng ta góp nhặt được về họ, ngoài những văn bản do chính họ đã viết ra, đôi khi lượm lặt được vài ba dòng nhật ký người này, hồi ký người kia, cũng chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại hồi ký, đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu. Cho nên người nghiên cứu phải vô cùng thận trọng khi tìm và lựa thông tin, phân biệt thật giả trong tư liệu. Tìm tư liệu không khó trong thời buổi Internet này, nhưng sử dụng tư liệu để dựng lại sự thật là một việc khác hẳn.
Làm sao biết được hoạt động chính trị của Lê Đạt trước khi gia nhập Việt Minh? Lê Đạt đã ở trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng?
Theo Văn Cao, thì Phạm Duy là người đầu tiên dẫn ông liên lạc với Việt Minh, Phạm Duy cũng là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca, là người “cướp” micro trước cửa Nhà Hát Lớn ngày 17/8/1945 để hát Tiến Quân Ca lần đầu trước công chúng. Nhưng khi viết hoặc in lại hồi ký của Văn Cao về Tiến Quân Ca, người ta đã cắt bỏ tất cả những chi tiết nói về Phạm Duy, có chỗ thay bằng Nguyễn Đình Thi.
Một mặt khác, ngay chính Lê Đạt và Phạm Duy, vì an ninh của bản thân và của gia đình, các ông đã không thể nói tất cả sự thật, càng không thể viết ra trên văn bản.
Chúng ta biết gì về hoạt động của Thụy An? Về “mối tình đầu” của Thụy An với Võ Nguyên Giáp? Về những bí mật giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân Quốc Dân Đảng? Tại sao Thụy An quay trở lại Bắc, trong khi gia đình bà di cư vào Nam? Những bí mật ấy, tuy chỉ là những chi tiết, có vẻ không quan trọng, nhưng ngày nay, những người muốn biết sự thực, phải có quyền được biết.
Nếu biết được những chi tiết ấy, chúng ta sẽ thấy tất cả những hoạt động đảng phái thời kháng chiến chống Pháp không đơn giản bên này yêu nước, bên kia bán nước. Mà bất cứ một cá nhân nào, dù văn nghệ sĩ trí thức hay không, cũng có thể theo hai ba đường chính trị khác nhau, trong hành trình sống của mình. Chỉ khi đảng Cộng sản quyết định độc quyền lãnh đạo, độc tôn xã hội chủ nghiã, các khuynh hướng chính trị khác mới trở thành phản động.
Vấn đề của người nghiên cứu là phải tìm hiểu những đầu mối đan cài vô cùng phức tạp giữa các khuynh hướng chính trị, văn hoá khác nhau, trong mối tương giao không xé ra được.
Những người kháng chiến ngoài Đảng hoặc chống Đảng, bị chế độ kết án chung thân, phải chối bỏ lẫn nhau và phủ nhận toàn bộ hành trình của mình, trên đường tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ.
Bi kịch của họ phản ánh bi kịch chung của dân tộc dưới chế độ cộng sản.
Nay là nxb Chính Trị Quốc Gia.
Georges Boudarel (1926-2003), nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, sang Việt Nam năm 1947 với mục đích tranh đấu chống chính quyền thực dân. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ “cải tạo” tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, vì không còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp.
In trên hai tập san: Sudestasie (số 50 tháng1/1988) và Politique Aujourd’hui en Europe (phụ bản 1/1989).
Do Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris.
Lê Đạt, Hoàng Cầm đã đính chính qua các buổi trả lời phỏng vấn RFI.
Với tiểu tựa: Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel – Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức, Quê Mẹ, Paris, 1992.
Chưa in, với tiểu tựa: Roman sur le Viet Nam 1950-1990 – Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990.
Văn Nghệ, California, 2001.
Viết năm 1991, ở tuổi 82.
Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ.
Nxb Đà Nẵng, 2008.
Những buổi phỏng vấn các thành viên chính của NVGP, phát thanh trên RFI, từ 1995 đến 2008: Nguyễn Hữu Đang (10/9/1995), Hoàng Cầm (21/2/1998 đến 10/1/2004, 4 kỳ), Lê Đạt (từ 24/3/2004 – 5/6/2004, 7 kỳ) và Trần Duy (26/6/2008-26/7/2008, 4 kỳ), đều được lưu trữ trên mạng http://thuykhue.free.fr
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
VỤ NHÂN VĂN GIAI PHẨM, MỘT TRÀO LƯU DÂN CHỦ, CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG THÀNH (5)
Lê Hoài Nguyên - trieuxuan
Thứ năm Ngày 23/09/2010
Văn Cao gần như không công bố thơ của mình trên báo, chỉ chuyên làm bìa sách và vẽ minh họa cho các báo. Bắt đầu đổi mới, ông công bố bài thơ dài Năm buổi sáng không có trong sự thật trên tạp chí Sông Hương tạo ra sự ngạc nhiên của dư luận. Ông đã mất năm 1995.
Đặng Đình Hưng cũng âm thầm thể nghiệm một thể thơ hiện đại trên chất liệu chính cuộc sống mòn mỏi, tù túng của ông, sau này in thành tập Ô Mai và Bến Lạ.
Tôi lại đi…
Jiữa cái nong hình dáng lưng tôi, một bảng đen trước mặt, một vòng phấn dưới chân, zính zính… những con 8 lộn zọc nhẵn thín nam châm gói trong hatj thóc zống của không biết
… Tôi hề biết/ kể cả quả mít nứt
Tôi đã tìm ở sau cái gương/ cũng không có jì hết
Tôi đã tiếp đau thương những nhỏ nhỏ
thường thường
Đã húp ra đi từng bát những nhạt nhạt
mềm mềm, và rất ngon
Ông mất năm 1990 tại thành phố HCM.
Trần Duy từ bỏ văn chương tuy không phải nghề chính nhưng ông cũng được đánh giá cao với truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp trên Giai phẩm Mùa Thu tập I. Ông chuyên tâm với tranh lụa mà đề tài là các di tích văn hóa lịch sử, các danh thắng và có được một bộ sưu tập có giá trị. Ông được khôi phục Hội viên Hội nghệ sĩ tạo hình năm 1988, mở Triển lãm tranh năm 1991. Gần đây ông lại tái xuất giang hồ với vài truyện ngắn và đoạt ngay giải thưởng truyện hay trong năm của báo Văn Nghệ.
Nguyễn Hữu Đang ra tù từ năm 1973, nhưng bị quản chế kéo dài ở quê ông Vũ Thư Thái Bình. Ông nghiên cứu về triết học Trung Quốc, đặc biệt là Lão Trang, về Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô. Ông có viết, đăng một số bài báo về Hội truyền bá quốc ngữ, về Văn hóa Cứu quốc, về điện ảnh trước 1945 và một vài truyện ngắn. Ông đã mất năm 2007.
Thụy An cũng ra tù từ 1973, an trí tại quê làng Hòa Xá Hà Tây, sau chuyển vào thành phố Hồ chí Minh sống với con cháu. Có nguồn nói rằng trong thời gian ở tù bà có làm được một số bài thơ nhưng chưa thấy công bố. Con trai của bà là Bùi Thụy Băng ở Canada đã công bố cuốn hồi ký về bà. Bà đã mất năm 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh. Nói thêm về Thụy An: Bà đã có mặt trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, xứng đáng với tư cách là một nhà văn nữ viết tiểu thuyết. Bà còn là một nhà báo có năng lực, dũng cảm đấu tranh cho nữ quyền, từng là Chủ nhiệm báo Đàn bà mới, Quyền Tổng Giám đốc Việt tấn xã, là hội viên HNVVN khóa I 1957.
Trần Dần là người tỏ ra bền bỉ và dẻo dai kiên trì với đường lối thơ cách tân siêu thực theo một kế hoạch nghiêm túc. Ông có nhiều tập thơ sau này đã in trong Trần Dần Thơ năm 2008, tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh xuất bản 1994 được Giải thưởng HNVVN năm 1995, tiểu thuyết Những ngã tư, những cột đèn, Một ngày Cẩm Phả… Ông đã mất năm 1997.
Lê Đạt sau thời gian dịch sách và đọc sách phương Tây đã tập trung vào cách tân hình thức thơ mà sau đổi mới ông đã in thành tập Bóng chữ gây nhiều tranh cãi. Đồng thời ông còn sáng tác truyện ngắn phần lớn mượn đề tài lịch sử hoặc phương Tây. Ông đã mất năm 2008.
Các nhà văn, họa sĩ, nghệ sĩ khác bị xử lý nhẹ hơn vẫn tiếp tục sáng tác và công bố tác phẩm như bộ tứ Nguyễn Tư Nghiêm – Dương Bích Liên- Nguyễn Sáng – Bùi Xuân Phái, Nguyễn Bính, Trần Lê Văn, Huy Phương, Thái Vũ (Bùi Quang Đoài), Phan Vũ, Quang Dũng, Hoàng Tố Nguyên, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Hải Bằng, Nguyễn Văn Tý, Phạm Kỳ Nam, Văn Tâm, Hoàng Yến…
Có một số người sau NVGP không hoặc hầu như không sáng tác hoặc không công bố tác phẩm cho đến thời kỳ đổi mới như Nhuyễn Khắc Dực, Chu Ngọc, Sĩ Ngọc, Lê Đại Thanh, Hữu Loan, Thanh Châu, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Hoàng Huế, Thúc Hà, Trương Tửu…
Trong thời gian này có một sự kiện đáng chú ý là ở Hà Nội xuất hiện một nhóm văn nghệ sĩ trẻ lấy tên là nhóm Văn nghệ chân đất với tuyên ngôn nêu gương các đàn anh NVGP, đòi tự do sáng tác và thể nghiệm nghệ thuật. Nhóm này chỉ sinh hoạt bí mật, tùy hứng chưa có tổ chức; nhưng đến năm 1983, một thành viên là Diệu Tô Minh làm việc ở Đài Phát thanh TNVN vượt biên và công bố trước một tòa án nhân quyền ở Paris bản Tuyên ngôn của nhóm Văn Nghệ Chân đất, tài liệu Một nền thơ ly khai chủ nghĩa xã hội ở Hà Nội, trong đó có nhiều người sau này đã trở thành hội viên HNVHN, HNVVN như Lê Huy Quang, Chu Hoạch, Phan Đan, Lương Vĩnh…(29).
2-Thời kỳ 1987 đến nay
Sau khi có Nghị quyêt 05 của Bộ Chính trị ĐCSVN Về đổi mới công tác quản lí văn học nghệ thuật trong tình hình hiện nay vấn đề NVGP đã được đặt ra ở góc độ xem xét phục hồi hội tịch cho số người bị khai trừ có thời hạn nhưng kéo dài vô thời hạn, đồng thời giải quyết chế độ chính sách như cấp nhà, nâng lương cho một số người. Nguyễn Hữu Đang được tự do đi lại, được bố trí chuyển lên Hà Nội, được cấp nhà ở. Tất cả những người tham gia NVGP được công bố tác phẩm nếu như tác phẩm của họ không vi phạm các điều cấm theo quy định. Họ tham gia vào các sinh hoạt văn học nghệ thuật bình thường. Và không thấy trong hoạt động của họ có vấn đề gì phức tạp như thời kỳ NVGP trước đây.
Các ông Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Loan, Lê Đại Thanh, Phùng Cung, Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo Trần Duy… lần lượt cho in tác phẩm taị các nhà xuất bản trong nước. Có quy mô và bề thế là tuyển tập của các ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Trương Tửu, Phan Khôi…
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT đã được trao cho các ông Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Sĩ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Bính, Lộng Chương, Đặng Văn Ngữ…
Giải thưởng Nhà nước về VHNT đã được trao cho các ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Yến Lan, Phạm Kỳ Nam, Nguyễn Thành Long… và nhiều ông khác.
Dư luận đòi hỏi ĐCSVN, Nhà nước không nên mập mờ mà phải bày tỏ công khai việc đánh giá lại vụ NVGP cùng những sai lầm trong xử lý vụ án này.
Việc chiêu tuyết cho các nhân vật còn lại vẫn được tiếp tục như đối với Phan Khôi,Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Hữu Loan, Thụy An, Tử Phác, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại…
3- Nguồn tư liệu và các kết quả nghiên cứu về NVGP
Đã sinh ra một tập quán kỳ lạ trong giới VHNT và Nghiên cứu Khoa học xã hội là người ta né tránh NVGP suốt thời gian dài đến 55 năm. Cho đến nay tôi chưa thấy trong nước có bất cứ bài viết có hệ thống hoặc công trình nghiên cứu nào về NVGP đã được công bố. Vì thế tài liệu về các ấn phẩm NVGP bị rơi rụng gần hết. Tài liệu của các cá nhân NVGP thì đã bị tịch thu hoặc đem giao nộp, các gia đình không dám tàng trữ, chỉ các thư viện quốc gia mới được bảo quản và cũng không phục vụ bạn đọc. Chỉ còn trong hồ sơ công an một số ấn phẩm và một số bản thảo thời kỳ NVGP và sau NVGP. Ví dụ khi tác giả đang phụ trách công tác về chuyên đề NVGP đã trao lại cho ông Lê Đạt bản thảo bài Cửa hàng Lê Đạt, trao lại cho ông Nguyễn Hữu Đang bức ảnh có ông đứng trên lễ đài Độc Lập cùng Hồ Chủ tịch ngày 2- 9- 1945, trao lại cho Trần Dần bản thảo tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh, bản thảo tiểu thuyết Những ngã tư, những cột đèn…
Mới đây ông Lại Nguyên Ân đi tìm dấu vết của tờ Sáng Tạo cũng cho biết rằng tại Thư viện Quốc gia cũng không tìm thấy 2 số báo hiếm hoi này. Mà nội dung của nó hầu như không được đề cập trong các bài nghiên cứu ở nước ngoài.
Vậy có thể một số ấn phẩm NVGP còn nằm rải rác trong một số cá nhân, người chơi sách, bán sách cũ từ thời NVGP.
Tại miền Bắc cuốn Bọn Nhân Văn Giai phẩm trước tòa án dư luận là tài liệu duy nhất tập hợp các bài tổng kết phê phán chính thống về NVGP. Một số người nghiên cứu do không có tư liệu thường dựa viết theo cuốn này khi phải nói về giai đoạn 1954- 1960. Tiếc rằng hầu hết các bài trong tập sách đều viết theo lối tố khổ CCRĐ, rất thiếu tinh thần khách quan khoa học.
Tại miền Nam, công trình sớm nhất về NVGP là cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí, một người cháu rể của Phan Khôi. Cuốn này có một bài tổng quan và tuyển tập các bài văn cơ bản của NVGP nhưng trừ ra 4 người quan trọng là Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Lê Đạt. Bên cạnh cuốn này một vài tuyển thi ca chung có một số bài của các nhà thơ NVGP. Các sách này trước 1975 lưu hành ở miền Nam, còn sau 1975 thì được coi là sách cấm trong cả nước.
Như vậy trong nước chưa có một cơ quan nghiên cứu nào, một nhà nghiên cứu nào thực sự bắt tay nghiên cứu về NVGP. Hầu như toàn bộ các thế hệ sau không biết mặt mũi các ấn phẩm NVGP là thế nào, người ta chỉ lặp lại các luận điệu chính thống mỗi khi nói về nó.
Gần đây ngành Điện ảnh đã biên soạn xong và phát hành cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam tương đối công phu dày hơn 1000 trang, nhưng coi như không có hiện tượng NVGP trong làng điện ảnh thời kỳ 1955- 1958.
Cũng may là trong số các hàng binh châu Âu khi hồi hương có người đã mang được một số ấn phẩm NVGP về Paris. Trong điều kiện đó, ở Đài RFI, BBC, một vài nhà nghiên cứu văn học, sử học đã kết hợp các tài liệu này với các cuộc phỏng vấn bằng điện thoại hoặc trực tiếp tại Paris, mới bắt đầu công bố những phác thảo gương mặt NVGP hoặc đánh giá về giai đoạn này.
Cho đến nay đã có các công trình và các tác phẩm của những người tham gia NVGP xuất bản ở nước ngoài như sau:
- Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) của Georges Boudarel xuất bản năm 1991. Trước đó năm 1987 đầu 1988 ông đã viết bài tựa đề Disidences intellectueles au Vietnam L áfaire Nhân Văn- Giai Phẩm (Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn – Giai Phẩm) in trên hai số tập san ở Paris Sudestasie và Politique Aujourdhui en Europe. Boudarel là hàng binh đã tham gia công tác cho kháng chiến chống Pháp, sau hòa bình ông làm biên dịch buổi phát thanh tiếng Pháp ở Đài Tiếng nói Việt Nam đến năm 1966 thì hồi hương. Ông là bạn của nhiều nhân vật NVGP trong quân đội.
- Thụy Khuê ở Paris cuối năm 2004 có bài Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và công bố loạt bài phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Duy. Từ giữa năm 2009 bà công bố từng phần trên website đài RFI như một công trình nghiên cứu tương đối hoàn chỉnh với tựa đề Tìm hiểu Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Đặc biệt sau phần nghiên cứu chung bà đã dựng lại chân dung tinh thần NVGP từng cá nhân trí thức văn nghệ sỹ tiêu biểu của phong trào.
- Công trình mới nhất xuất bản năm 2009 tại Berlin Funfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954- 1960 (Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954- 1960) của nhà nghiên cứu Heinz Schutte giảng dạy tại Khoa Đông Nam Á Đại học Hamburger. Độc đáo của công trình này là tác giả đã khai thác được hồ sơ của Sứ quán Đông Đức tại Hà Nội phản ánh sự kiện NVGP, đồng thời tác giả đã vào Việt Nam nhiều lần và kiểm chứng tư liệu cũng như đánh giá của mình qua rất nhiều nhân vật chính khách, văn nghệ sĩ thời kỳ đó.
- Năm 1992, tại Paris nhà xuất bản Quê mẹ của Võ Văn Ái in cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường Un Excommunie (Kẻ bị khai trừ) với tiểu tựa Hanoi 1954- 1991: Proces d ún intellectuel (Hà Nội 1954- 1991: Kết án một nhà trí thức).
- Năm 2001, Nhà xuất bản Văn Nghệ California Hoa Kỳ xuất bản cuốn nhật kí của Trần Dần tên là Trần Dần ghi trích những ghi chép của Trần Dần trong hai thời kỳ CCRĐ và NVGP 1954- 1960. Đặc biệt đây là một cuốn sách thật nhất về NVGP, về cuộc sống thời kỳ này của dân tộc mà người ta không thể tìm thấy các hình ảnh rớm máu ấy trong các tác phẩm tuyên truyền công khai ở miền Bắc.
- Ngoài ra còn có một số cuốn khác đề cập đến NVGP như: Hồi ký Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên do NXB Văn nghệ ở Hoa Kỳ, của Nguyễn Minh Cần, Trần Trung Phụng, Bùi Tín, Hoàng Giang, Kim.N.B. Ninh, Website của Trần Hữu Dũng, Talawas, một số bài viết trong nước, ngoài nước về các nhân vật chủ chốt NVGP và bài viết của chính họ về họ.
- Để hiểu thấu đáo bối cảnh xã hội của phong trào NVGP còn có một số tài liệu lịch sử nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam giai đoạn 1945- 1954 đặc biệt là quan hệ giữa chủ nghĩa Mao và cách mạng Việt Nam của Vũ Ngự Chiêu (30), Vũ Tường (31), Trình Ánh Hồng (32), Davis Mar (33), Huỳnh Kim Khánh, Ninh Kim N. B (34),…
Tuy nhiên do điều kiện thiếu tư liệu và khả năng kiểm chứng, kể cả Schutte, trong các tác phẩm nói trên có một số chi tiết không chính xác. Cũng do động cơ đánh giá chưa thật sự khách quan các tác giả thường nhìn toàn bộ phong trào Nhân Văn Giai Phẩm qua hệ quy chiếu đối kháng với ĐCSVN, với chính quyền Việt Nam. Điều này có thể làm sai lệch nội dung các văn bản và gây mất thiện cảm đối với một thế hệ độc giả trong nước.
- Cũng nên nói thêm ở trong nước đã có người đang tập hợp hồ sơ về NVGP. Đó là nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Ông đã công bố một phần sưu tập này trên Talawas và một vài bài viết về các tờ báo Trăm hoa, Sáng Tạo, về Hội Nhà văn Việt Nam trong thời kì này (35).
- Ở các ấn phẩm khác mới xuất bản gần đây, đặc biệt là các tuyển tập của các nhà văn có vai trò nhất định trong thời kì NVGP người ta đã cắt bỏ những bài viết về NVGP, còn trong tuyển tập của các nhà văn NVGP vẫn còn có những trường hợp loại bỏ tác phẩm mặc dù nó không sai trái theo quan điểm hiện nay như của Trương Tửu, Phan Khôi, Trần Duy. Ở một số cuốn hồi kí khi đến giai đoạn này người ta chỉ lướt qua một vài dòng, kể cả hồi kí của Đào Duy Anh, Vũ Đình Hòe, Gia đình Khan Khôi, Vũ Ngọc Phan, Tố Hữu. Nghĩa là việc nói lại một cách rành mạch về NVGP vẫn còn là một việc cấm kỵ hoặc ít ra là khó nói!
4- Món nợ với lịch sử
Công cuộc đổi mới của đất nước đã đem lại những thay đổi to lớn về tinh thần cho nhân dân và văn nghệ sĩ. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị khóa VI với các tiêu chí dân chủ không những đã cho các nhà nghiên cứu và văn nghệ sĩ tư tưởng tự do trong sáng tác mà còn định hình lại những giá trị tinh thần của dân tộc đã bị bỏ qua. Các di sản văn hóa khoa học đóng góp vào hành trình hiện đại hóa ngôn ngữ, tư duy dân tộc của Tự Lực Văn Đoàn, của Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Lan Khai… đã được xem xét đánh giá lại.
Đáng lí ra những vụ án chính trị trong quá khứ của nước ta sau một thời gian dài đã phải được công khai về tư liệu, minh bạch về kết luận. Nếu ĐCSVN và chính quyền sai lầm thì phải sửa chữa các sai lầm đó như Liên Xô, Nga, các nước Đông Âu và Trung Quốc đã làm. Nhưng tất cả vẫn mù mờ. Những người tham gia đấu tranh và các đối tượng hầu hết đã chết mà những người lãnh đạo hiện nay vẫn im lặng, các nhà nghiên cứu không dám khai thác tài liệu hoặc phỏng vấn các nhân chứng. Hầu hết các bài viết cơ bản của NVGP trước đây bị quy kết là có tư tưởng phản động đều đã được in lại trong các tuyển tập văn học, tuyển tập cá nhân của họ, trên một số trang mạng và báo viết. Họ được ca ngợi, được giải thưởng HCM, Gỉai thưởng Nhà nước, nhưng công khai thì không ai dám nói NVGP là vụ án gì?
Trong lần trả lời phỏng vấn RFI lão hoạ sỹ Trần Duy nói:
Cái gì trong cuộc đời cũng dở dang, con người mình cũng dở dang, năm nay 90 tuổi rồi, không biết mình đi đúng hay mình đi sai, mình đi đúng thì sống đến 90 tuổi rồi, mà mình đi sai thì đã chết từ 50 tuổi rồi. Bây giờ sống đến 90 tuổi thì cũng không biết con đường đã đi là con đường nào. Ai ghét mình? Ai yêu mình? Mình nên yêu ai, nên ghét ai? Thực tế ra sống đến chừng này tuổi tôi không nghĩ là tôi ghét ai cả, nhưng yêu ai thì cũng rất khó.(36)
Ở bài Tưởng niệm Phan Khôi ông viết:
Ông Phan Khôi không còn nữa, nỗi oan khuất của đời ông vẫn chưa có lời giải!
Nỗi oan của nàng Đậu Nga trong Kinh dịch nổi tiếng của Trung Quốc đã được minh oan. Nỗi oan của gia đình Nguyễn Trãi – Thị Lộ đã được minh giải. Nguyễn Du chưa đến ba trăm năm sau đã được đồng bào mình thấu hiểu. Riêng nỗi oan của Phan Khôi, cái mà ông quý nhất, gìn giữ nhất là phẩm giá thì đã bị bôi nhọ, bị chà đạp. Ai là người minh giải?
Tiếng thở dài và tiếng chép miệng của ông trong những ngày cuối cùng như còn vọng lại. Sinh thời mỗi lần ông nói đến nỗi oan khuất nào đó của người đời, ông vẫn thường nhắc đến tiếng cóc kêu với trời! Gió mưa là do chuyển hóa Đông- Tây của thời tiết, nhưng vẫn có người tốt bụng tin rằng: Trời mưa là nhờ có cóc kêu. (37)
Còn Phùng Quán sau đổi mới có viết :
Tôi chết giữa Hồng Hà sóng đỏ
Ba mươi năm sau
Tôi hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn giang. (38)
Trong tư liệu của tác giả có lá thư Trần Dần viết gửi một người lãnh đạo ngay sau chiến thắng 1975. Đó là một cái giọng rất tội nghiệp kiểu Trần Dần, không thể nghĩ là tâm tư của một kẻ phản trắc.
Rồi đám cháy tắt. Đất nước dập tắt cái đám cháy ngoại xâm ấy. Mỹ cút… Tôi hy vọng… vấn đề cuộc đời tôi lại đặt ra, ít nhất cũng với tôi, vợ con, gia đình, ở ngưỡng cửa của Đất nước chiến thắng… Tôi vẫn hy vọng. Tôi còn ít nhiều năm tháng. Còn một phần đời. Một phần đời, một ngày cũng đáng sống. Dù một buổi chiều. Nhất là trong khi ngày ấy, buổi chiều ấy, phần đời ấy dù bé bỏng nhưng nằm ở ngưỡng cửa Khải hoàn môn… Tôi hy vọng. Tôi còn một phần đời. Để sống nó. Để làm việc. Con cái. Sự gây dựng. Sự chuộc lại…Tôi xin sự giúp đỡ. Sự rộng lượng. Ở các anh. Ở tổ chức. (39)
Đáng tiếc là lời kêu cứu của Trần Dần, cũng là nguyện vọng chung của các nạn nhân NVGP đã rơi vào im lặng. Họ phải đợi thêm 12 năm nữa mới có ngọn gió đổi mới.
Trần Dần từ trần tại Hà Nội ngày 17- 1- 1997. Mười năm sau 2007 ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Dù sao Trần Dần, cũng như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán còn được may mắn hơn nhiều người khác.
Cần có câu trả lời cho tất cả những người đã làm Bông hồng nở sớm (40) cho mùa xuân của đất nước.
V- Phần kết
Trong một xã hội đã kéo dài hơn nửa thế kỷ về sự mê muội dân trí, về sự độc tài về chính trị, sự lừa dối, sự đầu độc để có sự đồng thuận về vụ NVGP và các nhân vật của nó thật khó như đáy bể mò kim… Nhưng trong đêm tối không phải không có những người đã nhìn thấy ánh sáng của chân lý. Sẽ có nhiều người phản đối tôi. Nhưng chẳng lẽ cứ im lặng mãi. Mỗi người chỉ là một góc của thế giới, và người ta bị thôi miên nữa, người ta cả tin. Tôi nghĩ đau khổ nhất của con người là đánh mất lý trí, là không hiểu, không thấy được thế giới thật đang ở bên mình. Họ đã sống và tàn sát đồng loại và tự biện ninh bằng một cái mục đích hão huyền vô nhân tính. Vào những năm đầu đổi mới tôi đã viết trong bài thơ Thế giới đang tồn tại:
Bi kịch thay cho những dân tộc chỉ tin vào những thần tượng, những tín điều.
Người ta đã trả giá
Một tuổi thanh xuân, một đời người, một thế hệ, một thiên niên kỷ để hiểu ra cái giản đơn giữa bao mê cung rắc rối: Con người.
Cắt thế giới ra từng khúc, từng đoạn ư? Hay để nguyên nó mà trầm tưởng, mà chiêm ngưỡng.
Tôi là một phần không thể chia cắt khỏi thế giới.
Tôi hiểu:
Cần phải đối xử với thế giới như nó đang tồn tại. (41)
Cuộc đời của các nhân vật NVGP cho tôi cảm hứng viết bài thơ Bông hồng nở sớm. Bài thơ được in trong Tuyển tập Văn học hiện đại Việt Nam 1945- 1993. NXB Văn học, 1993.
Hai mươi lăm năm qua tôi đã cố gắng hóa thân vào hàng nghìn trang tài liệu, vào hàng trăm con người để hiểu một câu hỏi duy nhất NVGP là cái gì? Nay tôi thấy cần phải lên tiếng về sự kiện này. Nếu không thì đã quá chậm trễ, là có tội với vong linh những người đã khuất. Cả những người là NVGP. Cả những người đã vùi dập NVGP vì cuồng tín ngây thơ hoặc nhờ đàn áp NVGP mà tiến thân. Họ có thể cần nói một lời sám hối với các bạn bè đồng nghiệp oan khuất của mình, những người bị mình sát hại một cách lương thiện mà vẫn còn bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi vô hình, đã nhắm mắt mà vẫn chưa nói được.
Với chức nghiệp éo le của mình, tôi đã cứu được nhiều người, đã giữ bình yên cho nền VHNT nhiều năm nhưng tôi đã trả giá cuộc đời mình cho những nhà văn đã dám đốt mình lên trước vận mệnh của đất nước, của nhân dân.(42)
Tôi không mảy may ân hận, luyến tiếc về việc đã làm!
Lê Hoài Nguyên
Đại tá công an, Tổng cục A 25.
Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25, chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa.
_______
1-Tố Hữu: Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta thời đại ta, Nxb Văn học 1973, trang 132-219.
2- Hoàng Tiến: Nhìn lại vụ án Nhân Văn Giai Phẩm cách đây 40 năm, tài liệu nghiên cứu 1997.
3- Vũ Tường: Ngày nay cách mạng Đông Dương phải hiện nguyên hình: Bước ngoặt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp và nội chiến Việt Nam vào năm 1948. Journal of Southeast Asian Studies, 40, 3 (10- 2009), 519- 542. Bản dich tiếng Việt trên Talawas số Mùa Thu chuyên đề Bao nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?
4- Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ, sinh năm 1939 quê Hải Phòng, sống ở Hà Nội bị bắt năm 1980 vì đưa tập thơ Tiếng vọng từ đáy vực gồm 400 bài vào Sứ quán Anh. Trước đó đã bị bắt và đi tù 2 lần vì tội phản tuyên truyền. Được trả tự do năm 1991, tổng cộng ngồi tù 27 năm, được nhập cư vào Mỹ năm 1995. Tập thơ của ông với tựa đề Bản Chúc thư của Một Người Việt Nam – Hoa Điạ Ngục được Văn Bút Quốc Tế tặng Giải thưởng Thơ ca Quốc tế năm 1985. Ông còn có tập truyện Hỏa Lò do Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ xuất bản nảm 2001 và Tuyển tập thơ Nguyễn Chí Thiện 700 bài xuất bản năm 2006.
5- Các bài Tuyên ngôn của nhóm Văn nghệ Chân đất, Họp báo về phong trào ly khai ở Hà Nội, Lá thư của người Hà Nội, Hà Nội một mối buồn dài, 30 năm văn học ly khai ở miền Bắc in trong tạp chí văn học Quê Mẹ của người Việt Hải ngoại ở Paris số 40- 41- 42, 1980.
6- Nam Dao: Hoàng Cầm (1922 – 2010). Talawas tháng 10- 2010
7- Trình Ánh Hồng: Không chỉ có Moskva: Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Âu và Bắc Việt thời kỳ hậu Stalin. Bản dịch Lê Quỳnh, Talawas. Tham khảo thêm ở Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954 – 1960 của Heinz Schutte, Berlin 2009.
8- Vũ Tường, Bđd.
9- Trình Ánh Hồng, Bđd.
10- Vũ Tường, Bđd.
11- Hoàng Giang: La Révolte des Intellectuels au Viêt- Nam en 1956, The Vietnam Forum 13.
Georges Boudarel, Université de Paris VII: Intellectual dissidence in the 1950s THE NHÂN- VĂN GIAI- PHẨM AFFAIR. The Vietnam Frum 13.
12- Sau đổi mới tài liệu này đã phát hành công khai trên Bản tin Thông tấn xã Việt Nam. Có thể tham khảo thêm trong Hồi ký Khơ rút Sốp, trên mạng.
13- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9+10 BCHTƯ ĐCSVN khóa II. Văn kiện Đảng.
14- Vũ Tường, Trình Ánh Hồng Bđd.
15- Tố Hữu: Sđd.
16- Thái Kế Toại: Luận văn tốt nghiệp ĐHAN HN Về các đối tượng NVGP và giải pháp trong tình hình đổi mới hiện nay, năm 1987.
17- Nguyễn Mạnh Tường: Hồi ký bản tiếng Việt Kẻ bị mất phép thông công – Hà Nội 1954- 1991: Bản án cho một trí thức. Trên mạng.
18- Phỏng vấn Đào Duy Anh, Đặng Văn Ngữ với chủ đề Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, báo Nhân Văn số 2 – 3.
19- Đào Duy Anh: Muốn phát triển học thuật. Giai phẩm Mùa Thu tập III.
20- Phan Khôi: Phê bình lãnh đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu tập I.
21- Trương Tửu: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu tập II.
22- Thụy Khuê: Nói chuyện với họa sĩ Trần Duy. Website Thụy Khuê.
23- Thụy Khuê: Bđd.
24- Nguyễn Mạnh Tường có nhắc đến việc bị học trò đấu tố trong hồi kí Kẻ bị mất phép thông công…
25- Nguyễn Huệ Chi trong bài viết Trao đổi cùng Nguyễn Văn Hoàn trên Talawas về thắc mắc của ông trường hợp Toàn tập Trần Thanh Mại không có bài đấu tranh trong thời kì NVGP, cho biết bố ông nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi bị ép viết bài phê phán Phan Khôi coi đó là một việc vẫn lấy làm xấu hổ, một vết nhơ không gột nổi. Khi chết ông dặn con tìm cơ hội gột rửa giúp mình.
Tác giả được nghe từ các nhân vật NVGP nhiều chuyện khôi hài về sự quay quắt tráo trở của tình bạn văn nghệ sĩ thời NVGP.
26- Trong bài trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê, Trần Duy cho biết em ruột mình, một sĩ quan quân đội khai lý lịch đổi tên lót truyền thống của dòng họ, không khai tên ông và chỉ nhận là con nuôi bố ông.
27- Trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê với các ông Hoàng Cầm, Lê Đạt có nhắc trường hợp vợ chồng Vũ Ngoc Phan- Hằng Phương. Hằng Phương gọi Phan Khôi là bác ruột anh mẹ, khi xảy ra NVGP họ viết bài đấu tố Phan Khôi, không dám đi đưa ma Phan Khôi. Một trường hợp nữa là quan hệ Tố Hữu – Phùng Quán, Tố Hữu là anh cùng cha khác mẹ với mẹ Phùng Quán.
Phan Thao là con Phan Khôi vẫn phải ký tên vào tuyên bố lên án NVGP.
28- Trong phỏng vấn của Thụy Khuê với Lê Đạt, Trần Duy.
29- Tạp chí Quê Mẹ đã dẫn.
30- Vũ Ngự Chiêu: Hồ Chí Minh nhà ngoại giao 1945- 1946.
Chuyến đi cầu viện bí mật năm 1950 của Hồ. Tạp chí Hợp Lưu
31- Vũ Tường, Bđd.
32- Trình Ánh Hồng, Bđd.
33- David G. Marr: Vietnam 1945 The quest for Power
34- Ninh Kim N.B: A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam, 1945- 1965. University ò Michigan Press 2002.
35- Lại Nguyên Ân có các bài: Hội Nhà văn Việt Nam: Sự thành lập và hai năm đầu tiên tồn tại ( 1957- 1958 ). Đi tìm dấu tích tờ Sáng Tạo ( Hà Nội, 1956). Nguyễn Bính và tuần báo Trăm Hoa (1955- 1957). Xuân Diệu trong những năm 1954 – 1958.
36- Trần Duy trả lời phỏng vấn Thụy Khuê.
37- Trần Duy: Tưởng niệm Phan Khôi. Talawas.
38- Trong trường ca Cây Cà báo Đà Nẵng tháng 1- năm 1987. Tên Phùng Quán lần đầu tiên trở lại công khai trên mặt báo.
39- Thái kế Toại: Bđd.
40- Bông hồng nở sớm
Sau mùa giông bão xác xơ
Hàng cây thu mình trong gió rét
Đón anh về sáng nay
Vườn mẹ nở bông hồng
Màu đỏ thắm chạm vào nỗi đau của mẹ
Suốt một đời mòn mỏi lo âu
Màu đỏ thắm đánh thức nỗi buồn của đất
Bao năm mặt đất khô cằn
Màu đỏ cháy lên ký ức của anh
Một tình yêu vụt mất hai mươi năm
Bao mộng mơ khao khát âm thầm.
Có ai nói với anh:
Ngày mai thôi bông hồng sẽ chết
Nhưng hề chi
Màu đỏ kiêu sa cứ cháy trong gió rét
Và ở chân trời
Đang thì thầm cơn gió mùa xuân.
1988
41- Tập thơ Thế giới đang tồn tại, Nxb Văn học 1994
42- Đó là việc tác giả và nhà văn Ma Văn Kháng bảo vệ cuốn tiểu thuyết Chúa Trời ngủ gật của Nguyễn Dậu in ở Nhà xuất bản Lao Động năm 1993 bị cơ quan Tổng công đoàn lao động quyết định nghiền hủy làm bột giấy. Ma Văn Kháng đã viết lại một phần vụ này, những gì có thể viết được công khai nhưng bị kiểm duyệt cắt bỏ một số đoạn trong hồi kí Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, NXB Hội Nhà văn xuất bản năm 2009, trang 385- 400.
Qua vụ này có thể rút ra vài điều :
Bộ máy văn nghệ Việt Nam và Luật xuất bản Việt Nam đã tạo ra rất nhiều cơ quan cảnh sát văn hóa với tư cách là cơ quan chủ quản của nhà xuất bản. Một khi sức ép trực tiếp với nhà xuất bản của A25 và Ban Tuyên giáo không thành, người ta dùng quyền lực của cơ quan chủ quản ép nhà xuất bản tiêu hủy cuốn sách. Trong trường hợp của Chúa Trời ngủ gật Bộ VHTT do nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm Thứ trưởng, đã có công văn ủng hộ gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng xin vẫn cho sách được xuất bản. Nhưng các phần tử chủ chốt của A25 vẫn gây được sức ép buộc Tổng công đoàn lao động Việt Nam bóp chết cuốn sách.
Làng Mọc Tháng Ba năm Canh Dần
LHN.
Nguồn: nguyentrongtao.org
Lê Hoài Nguyên - trieuxuan
Thứ năm Ngày 23/09/2010
Văn Cao gần như không công bố thơ của mình trên báo, chỉ chuyên làm bìa sách và vẽ minh họa cho các báo. Bắt đầu đổi mới, ông công bố bài thơ dài Năm buổi sáng không có trong sự thật trên tạp chí Sông Hương tạo ra sự ngạc nhiên của dư luận. Ông đã mất năm 1995.
Đặng Đình Hưng cũng âm thầm thể nghiệm một thể thơ hiện đại trên chất liệu chính cuộc sống mòn mỏi, tù túng của ông, sau này in thành tập Ô Mai và Bến Lạ.
Tôi lại đi…
Jiữa cái nong hình dáng lưng tôi, một bảng đen trước mặt, một vòng phấn dưới chân, zính zính… những con 8 lộn zọc nhẵn thín nam châm gói trong hatj thóc zống của không biết
… Tôi hề biết/ kể cả quả mít nứt
Tôi đã tìm ở sau cái gương/ cũng không có jì hết
Tôi đã tiếp đau thương những nhỏ nhỏ
thường thường
Đã húp ra đi từng bát những nhạt nhạt
mềm mềm, và rất ngon
Ông mất năm 1990 tại thành phố HCM.
Trần Duy từ bỏ văn chương tuy không phải nghề chính nhưng ông cũng được đánh giá cao với truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp trên Giai phẩm Mùa Thu tập I. Ông chuyên tâm với tranh lụa mà đề tài là các di tích văn hóa lịch sử, các danh thắng và có được một bộ sưu tập có giá trị. Ông được khôi phục Hội viên Hội nghệ sĩ tạo hình năm 1988, mở Triển lãm tranh năm 1991. Gần đây ông lại tái xuất giang hồ với vài truyện ngắn và đoạt ngay giải thưởng truyện hay trong năm của báo Văn Nghệ.
Nguyễn Hữu Đang ra tù từ năm 1973, nhưng bị quản chế kéo dài ở quê ông Vũ Thư Thái Bình. Ông nghiên cứu về triết học Trung Quốc, đặc biệt là Lão Trang, về Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô. Ông có viết, đăng một số bài báo về Hội truyền bá quốc ngữ, về Văn hóa Cứu quốc, về điện ảnh trước 1945 và một vài truyện ngắn. Ông đã mất năm 2007.
Thụy An cũng ra tù từ 1973, an trí tại quê làng Hòa Xá Hà Tây, sau chuyển vào thành phố Hồ chí Minh sống với con cháu. Có nguồn nói rằng trong thời gian ở tù bà có làm được một số bài thơ nhưng chưa thấy công bố. Con trai của bà là Bùi Thụy Băng ở Canada đã công bố cuốn hồi ký về bà. Bà đã mất năm 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh. Nói thêm về Thụy An: Bà đã có mặt trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, xứng đáng với tư cách là một nhà văn nữ viết tiểu thuyết. Bà còn là một nhà báo có năng lực, dũng cảm đấu tranh cho nữ quyền, từng là Chủ nhiệm báo Đàn bà mới, Quyền Tổng Giám đốc Việt tấn xã, là hội viên HNVVN khóa I 1957.
Trần Dần là người tỏ ra bền bỉ và dẻo dai kiên trì với đường lối thơ cách tân siêu thực theo một kế hoạch nghiêm túc. Ông có nhiều tập thơ sau này đã in trong Trần Dần Thơ năm 2008, tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh xuất bản 1994 được Giải thưởng HNVVN năm 1995, tiểu thuyết Những ngã tư, những cột đèn, Một ngày Cẩm Phả… Ông đã mất năm 1997.
Lê Đạt sau thời gian dịch sách và đọc sách phương Tây đã tập trung vào cách tân hình thức thơ mà sau đổi mới ông đã in thành tập Bóng chữ gây nhiều tranh cãi. Đồng thời ông còn sáng tác truyện ngắn phần lớn mượn đề tài lịch sử hoặc phương Tây. Ông đã mất năm 2008.
Các nhà văn, họa sĩ, nghệ sĩ khác bị xử lý nhẹ hơn vẫn tiếp tục sáng tác và công bố tác phẩm như bộ tứ Nguyễn Tư Nghiêm – Dương Bích Liên- Nguyễn Sáng – Bùi Xuân Phái, Nguyễn Bính, Trần Lê Văn, Huy Phương, Thái Vũ (Bùi Quang Đoài), Phan Vũ, Quang Dũng, Hoàng Tố Nguyên, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Hải Bằng, Nguyễn Văn Tý, Phạm Kỳ Nam, Văn Tâm, Hoàng Yến…
Có một số người sau NVGP không hoặc hầu như không sáng tác hoặc không công bố tác phẩm cho đến thời kỳ đổi mới như Nhuyễn Khắc Dực, Chu Ngọc, Sĩ Ngọc, Lê Đại Thanh, Hữu Loan, Thanh Châu, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Hoàng Huế, Thúc Hà, Trương Tửu…
Trong thời gian này có một sự kiện đáng chú ý là ở Hà Nội xuất hiện một nhóm văn nghệ sĩ trẻ lấy tên là nhóm Văn nghệ chân đất với tuyên ngôn nêu gương các đàn anh NVGP, đòi tự do sáng tác và thể nghiệm nghệ thuật. Nhóm này chỉ sinh hoạt bí mật, tùy hứng chưa có tổ chức; nhưng đến năm 1983, một thành viên là Diệu Tô Minh làm việc ở Đài Phát thanh TNVN vượt biên và công bố trước một tòa án nhân quyền ở Paris bản Tuyên ngôn của nhóm Văn Nghệ Chân đất, tài liệu Một nền thơ ly khai chủ nghĩa xã hội ở Hà Nội, trong đó có nhiều người sau này đã trở thành hội viên HNVHN, HNVVN như Lê Huy Quang, Chu Hoạch, Phan Đan, Lương Vĩnh…(29).
2-Thời kỳ 1987 đến nay
Sau khi có Nghị quyêt 05 của Bộ Chính trị ĐCSVN Về đổi mới công tác quản lí văn học nghệ thuật trong tình hình hiện nay vấn đề NVGP đã được đặt ra ở góc độ xem xét phục hồi hội tịch cho số người bị khai trừ có thời hạn nhưng kéo dài vô thời hạn, đồng thời giải quyết chế độ chính sách như cấp nhà, nâng lương cho một số người. Nguyễn Hữu Đang được tự do đi lại, được bố trí chuyển lên Hà Nội, được cấp nhà ở. Tất cả những người tham gia NVGP được công bố tác phẩm nếu như tác phẩm của họ không vi phạm các điều cấm theo quy định. Họ tham gia vào các sinh hoạt văn học nghệ thuật bình thường. Và không thấy trong hoạt động của họ có vấn đề gì phức tạp như thời kỳ NVGP trước đây.
Các ông Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Loan, Lê Đại Thanh, Phùng Cung, Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo Trần Duy… lần lượt cho in tác phẩm taị các nhà xuất bản trong nước. Có quy mô và bề thế là tuyển tập của các ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Trương Tửu, Phan Khôi…
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT đã được trao cho các ông Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Sĩ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Bính, Lộng Chương, Đặng Văn Ngữ…
Giải thưởng Nhà nước về VHNT đã được trao cho các ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Yến Lan, Phạm Kỳ Nam, Nguyễn Thành Long… và nhiều ông khác.
Dư luận đòi hỏi ĐCSVN, Nhà nước không nên mập mờ mà phải bày tỏ công khai việc đánh giá lại vụ NVGP cùng những sai lầm trong xử lý vụ án này.
Việc chiêu tuyết cho các nhân vật còn lại vẫn được tiếp tục như đối với Phan Khôi,Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Hữu Loan, Thụy An, Tử Phác, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại…
3- Nguồn tư liệu và các kết quả nghiên cứu về NVGP
Đã sinh ra một tập quán kỳ lạ trong giới VHNT và Nghiên cứu Khoa học xã hội là người ta né tránh NVGP suốt thời gian dài đến 55 năm. Cho đến nay tôi chưa thấy trong nước có bất cứ bài viết có hệ thống hoặc công trình nghiên cứu nào về NVGP đã được công bố. Vì thế tài liệu về các ấn phẩm NVGP bị rơi rụng gần hết. Tài liệu của các cá nhân NVGP thì đã bị tịch thu hoặc đem giao nộp, các gia đình không dám tàng trữ, chỉ các thư viện quốc gia mới được bảo quản và cũng không phục vụ bạn đọc. Chỉ còn trong hồ sơ công an một số ấn phẩm và một số bản thảo thời kỳ NVGP và sau NVGP. Ví dụ khi tác giả đang phụ trách công tác về chuyên đề NVGP đã trao lại cho ông Lê Đạt bản thảo bài Cửa hàng Lê Đạt, trao lại cho ông Nguyễn Hữu Đang bức ảnh có ông đứng trên lễ đài Độc Lập cùng Hồ Chủ tịch ngày 2- 9- 1945, trao lại cho Trần Dần bản thảo tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh, bản thảo tiểu thuyết Những ngã tư, những cột đèn…
Mới đây ông Lại Nguyên Ân đi tìm dấu vết của tờ Sáng Tạo cũng cho biết rằng tại Thư viện Quốc gia cũng không tìm thấy 2 số báo hiếm hoi này. Mà nội dung của nó hầu như không được đề cập trong các bài nghiên cứu ở nước ngoài.
Vậy có thể một số ấn phẩm NVGP còn nằm rải rác trong một số cá nhân, người chơi sách, bán sách cũ từ thời NVGP.
Tại miền Bắc cuốn Bọn Nhân Văn Giai phẩm trước tòa án dư luận là tài liệu duy nhất tập hợp các bài tổng kết phê phán chính thống về NVGP. Một số người nghiên cứu do không có tư liệu thường dựa viết theo cuốn này khi phải nói về giai đoạn 1954- 1960. Tiếc rằng hầu hết các bài trong tập sách đều viết theo lối tố khổ CCRĐ, rất thiếu tinh thần khách quan khoa học.
Tại miền Nam, công trình sớm nhất về NVGP là cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí, một người cháu rể của Phan Khôi. Cuốn này có một bài tổng quan và tuyển tập các bài văn cơ bản của NVGP nhưng trừ ra 4 người quan trọng là Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Lê Đạt. Bên cạnh cuốn này một vài tuyển thi ca chung có một số bài của các nhà thơ NVGP. Các sách này trước 1975 lưu hành ở miền Nam, còn sau 1975 thì được coi là sách cấm trong cả nước.
Như vậy trong nước chưa có một cơ quan nghiên cứu nào, một nhà nghiên cứu nào thực sự bắt tay nghiên cứu về NVGP. Hầu như toàn bộ các thế hệ sau không biết mặt mũi các ấn phẩm NVGP là thế nào, người ta chỉ lặp lại các luận điệu chính thống mỗi khi nói về nó.
Gần đây ngành Điện ảnh đã biên soạn xong và phát hành cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam tương đối công phu dày hơn 1000 trang, nhưng coi như không có hiện tượng NVGP trong làng điện ảnh thời kỳ 1955- 1958.
Cũng may là trong số các hàng binh châu Âu khi hồi hương có người đã mang được một số ấn phẩm NVGP về Paris. Trong điều kiện đó, ở Đài RFI, BBC, một vài nhà nghiên cứu văn học, sử học đã kết hợp các tài liệu này với các cuộc phỏng vấn bằng điện thoại hoặc trực tiếp tại Paris, mới bắt đầu công bố những phác thảo gương mặt NVGP hoặc đánh giá về giai đoạn này.
Cho đến nay đã có các công trình và các tác phẩm của những người tham gia NVGP xuất bản ở nước ngoài như sau:
- Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) của Georges Boudarel xuất bản năm 1991. Trước đó năm 1987 đầu 1988 ông đã viết bài tựa đề Disidences intellectueles au Vietnam L áfaire Nhân Văn- Giai Phẩm (Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn – Giai Phẩm) in trên hai số tập san ở Paris Sudestasie và Politique Aujourdhui en Europe. Boudarel là hàng binh đã tham gia công tác cho kháng chiến chống Pháp, sau hòa bình ông làm biên dịch buổi phát thanh tiếng Pháp ở Đài Tiếng nói Việt Nam đến năm 1966 thì hồi hương. Ông là bạn của nhiều nhân vật NVGP trong quân đội.
- Thụy Khuê ở Paris cuối năm 2004 có bài Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và công bố loạt bài phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Duy. Từ giữa năm 2009 bà công bố từng phần trên website đài RFI như một công trình nghiên cứu tương đối hoàn chỉnh với tựa đề Tìm hiểu Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Đặc biệt sau phần nghiên cứu chung bà đã dựng lại chân dung tinh thần NVGP từng cá nhân trí thức văn nghệ sỹ tiêu biểu của phong trào.
- Công trình mới nhất xuất bản năm 2009 tại Berlin Funfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954- 1960 (Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954- 1960) của nhà nghiên cứu Heinz Schutte giảng dạy tại Khoa Đông Nam Á Đại học Hamburger. Độc đáo của công trình này là tác giả đã khai thác được hồ sơ của Sứ quán Đông Đức tại Hà Nội phản ánh sự kiện NVGP, đồng thời tác giả đã vào Việt Nam nhiều lần và kiểm chứng tư liệu cũng như đánh giá của mình qua rất nhiều nhân vật chính khách, văn nghệ sĩ thời kỳ đó.
- Năm 1992, tại Paris nhà xuất bản Quê mẹ của Võ Văn Ái in cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường Un Excommunie (Kẻ bị khai trừ) với tiểu tựa Hanoi 1954- 1991: Proces d ún intellectuel (Hà Nội 1954- 1991: Kết án một nhà trí thức).
- Năm 2001, Nhà xuất bản Văn Nghệ California Hoa Kỳ xuất bản cuốn nhật kí của Trần Dần tên là Trần Dần ghi trích những ghi chép của Trần Dần trong hai thời kỳ CCRĐ và NVGP 1954- 1960. Đặc biệt đây là một cuốn sách thật nhất về NVGP, về cuộc sống thời kỳ này của dân tộc mà người ta không thể tìm thấy các hình ảnh rớm máu ấy trong các tác phẩm tuyên truyền công khai ở miền Bắc.
- Ngoài ra còn có một số cuốn khác đề cập đến NVGP như: Hồi ký Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên do NXB Văn nghệ ở Hoa Kỳ, của Nguyễn Minh Cần, Trần Trung Phụng, Bùi Tín, Hoàng Giang, Kim.N.B. Ninh, Website của Trần Hữu Dũng, Talawas, một số bài viết trong nước, ngoài nước về các nhân vật chủ chốt NVGP và bài viết của chính họ về họ.
- Để hiểu thấu đáo bối cảnh xã hội của phong trào NVGP còn có một số tài liệu lịch sử nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam giai đoạn 1945- 1954 đặc biệt là quan hệ giữa chủ nghĩa Mao và cách mạng Việt Nam của Vũ Ngự Chiêu (30), Vũ Tường (31), Trình Ánh Hồng (32), Davis Mar (33), Huỳnh Kim Khánh, Ninh Kim N. B (34),…
Tuy nhiên do điều kiện thiếu tư liệu và khả năng kiểm chứng, kể cả Schutte, trong các tác phẩm nói trên có một số chi tiết không chính xác. Cũng do động cơ đánh giá chưa thật sự khách quan các tác giả thường nhìn toàn bộ phong trào Nhân Văn Giai Phẩm qua hệ quy chiếu đối kháng với ĐCSVN, với chính quyền Việt Nam. Điều này có thể làm sai lệch nội dung các văn bản và gây mất thiện cảm đối với một thế hệ độc giả trong nước.
- Cũng nên nói thêm ở trong nước đã có người đang tập hợp hồ sơ về NVGP. Đó là nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Ông đã công bố một phần sưu tập này trên Talawas và một vài bài viết về các tờ báo Trăm hoa, Sáng Tạo, về Hội Nhà văn Việt Nam trong thời kì này (35).
- Ở các ấn phẩm khác mới xuất bản gần đây, đặc biệt là các tuyển tập của các nhà văn có vai trò nhất định trong thời kì NVGP người ta đã cắt bỏ những bài viết về NVGP, còn trong tuyển tập của các nhà văn NVGP vẫn còn có những trường hợp loại bỏ tác phẩm mặc dù nó không sai trái theo quan điểm hiện nay như của Trương Tửu, Phan Khôi, Trần Duy. Ở một số cuốn hồi kí khi đến giai đoạn này người ta chỉ lướt qua một vài dòng, kể cả hồi kí của Đào Duy Anh, Vũ Đình Hòe, Gia đình Khan Khôi, Vũ Ngọc Phan, Tố Hữu. Nghĩa là việc nói lại một cách rành mạch về NVGP vẫn còn là một việc cấm kỵ hoặc ít ra là khó nói!
4- Món nợ với lịch sử
Công cuộc đổi mới của đất nước đã đem lại những thay đổi to lớn về tinh thần cho nhân dân và văn nghệ sĩ. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị khóa VI với các tiêu chí dân chủ không những đã cho các nhà nghiên cứu và văn nghệ sĩ tư tưởng tự do trong sáng tác mà còn định hình lại những giá trị tinh thần của dân tộc đã bị bỏ qua. Các di sản văn hóa khoa học đóng góp vào hành trình hiện đại hóa ngôn ngữ, tư duy dân tộc của Tự Lực Văn Đoàn, của Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Lan Khai… đã được xem xét đánh giá lại.
Đáng lí ra những vụ án chính trị trong quá khứ của nước ta sau một thời gian dài đã phải được công khai về tư liệu, minh bạch về kết luận. Nếu ĐCSVN và chính quyền sai lầm thì phải sửa chữa các sai lầm đó như Liên Xô, Nga, các nước Đông Âu và Trung Quốc đã làm. Nhưng tất cả vẫn mù mờ. Những người tham gia đấu tranh và các đối tượng hầu hết đã chết mà những người lãnh đạo hiện nay vẫn im lặng, các nhà nghiên cứu không dám khai thác tài liệu hoặc phỏng vấn các nhân chứng. Hầu hết các bài viết cơ bản của NVGP trước đây bị quy kết là có tư tưởng phản động đều đã được in lại trong các tuyển tập văn học, tuyển tập cá nhân của họ, trên một số trang mạng và báo viết. Họ được ca ngợi, được giải thưởng HCM, Gỉai thưởng Nhà nước, nhưng công khai thì không ai dám nói NVGP là vụ án gì?
Trong lần trả lời phỏng vấn RFI lão hoạ sỹ Trần Duy nói:
Cái gì trong cuộc đời cũng dở dang, con người mình cũng dở dang, năm nay 90 tuổi rồi, không biết mình đi đúng hay mình đi sai, mình đi đúng thì sống đến 90 tuổi rồi, mà mình đi sai thì đã chết từ 50 tuổi rồi. Bây giờ sống đến 90 tuổi thì cũng không biết con đường đã đi là con đường nào. Ai ghét mình? Ai yêu mình? Mình nên yêu ai, nên ghét ai? Thực tế ra sống đến chừng này tuổi tôi không nghĩ là tôi ghét ai cả, nhưng yêu ai thì cũng rất khó.(36)
Ở bài Tưởng niệm Phan Khôi ông viết:
Ông Phan Khôi không còn nữa, nỗi oan khuất của đời ông vẫn chưa có lời giải!
Nỗi oan của nàng Đậu Nga trong Kinh dịch nổi tiếng của Trung Quốc đã được minh oan. Nỗi oan của gia đình Nguyễn Trãi – Thị Lộ đã được minh giải. Nguyễn Du chưa đến ba trăm năm sau đã được đồng bào mình thấu hiểu. Riêng nỗi oan của Phan Khôi, cái mà ông quý nhất, gìn giữ nhất là phẩm giá thì đã bị bôi nhọ, bị chà đạp. Ai là người minh giải?
Tiếng thở dài và tiếng chép miệng của ông trong những ngày cuối cùng như còn vọng lại. Sinh thời mỗi lần ông nói đến nỗi oan khuất nào đó của người đời, ông vẫn thường nhắc đến tiếng cóc kêu với trời! Gió mưa là do chuyển hóa Đông- Tây của thời tiết, nhưng vẫn có người tốt bụng tin rằng: Trời mưa là nhờ có cóc kêu. (37)
Còn Phùng Quán sau đổi mới có viết :
Tôi chết giữa Hồng Hà sóng đỏ
Ba mươi năm sau
Tôi hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn giang. (38)
Trong tư liệu của tác giả có lá thư Trần Dần viết gửi một người lãnh đạo ngay sau chiến thắng 1975. Đó là một cái giọng rất tội nghiệp kiểu Trần Dần, không thể nghĩ là tâm tư của một kẻ phản trắc.
Rồi đám cháy tắt. Đất nước dập tắt cái đám cháy ngoại xâm ấy. Mỹ cút… Tôi hy vọng… vấn đề cuộc đời tôi lại đặt ra, ít nhất cũng với tôi, vợ con, gia đình, ở ngưỡng cửa của Đất nước chiến thắng… Tôi vẫn hy vọng. Tôi còn ít nhiều năm tháng. Còn một phần đời. Một phần đời, một ngày cũng đáng sống. Dù một buổi chiều. Nhất là trong khi ngày ấy, buổi chiều ấy, phần đời ấy dù bé bỏng nhưng nằm ở ngưỡng cửa Khải hoàn môn… Tôi hy vọng. Tôi còn một phần đời. Để sống nó. Để làm việc. Con cái. Sự gây dựng. Sự chuộc lại…Tôi xin sự giúp đỡ. Sự rộng lượng. Ở các anh. Ở tổ chức. (39)
Đáng tiếc là lời kêu cứu của Trần Dần, cũng là nguyện vọng chung của các nạn nhân NVGP đã rơi vào im lặng. Họ phải đợi thêm 12 năm nữa mới có ngọn gió đổi mới.
Trần Dần từ trần tại Hà Nội ngày 17- 1- 1997. Mười năm sau 2007 ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Dù sao Trần Dần, cũng như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán còn được may mắn hơn nhiều người khác.
Cần có câu trả lời cho tất cả những người đã làm Bông hồng nở sớm (40) cho mùa xuân của đất nước.
V- Phần kết
Trong một xã hội đã kéo dài hơn nửa thế kỷ về sự mê muội dân trí, về sự độc tài về chính trị, sự lừa dối, sự đầu độc để có sự đồng thuận về vụ NVGP và các nhân vật của nó thật khó như đáy bể mò kim… Nhưng trong đêm tối không phải không có những người đã nhìn thấy ánh sáng của chân lý. Sẽ có nhiều người phản đối tôi. Nhưng chẳng lẽ cứ im lặng mãi. Mỗi người chỉ là một góc của thế giới, và người ta bị thôi miên nữa, người ta cả tin. Tôi nghĩ đau khổ nhất của con người là đánh mất lý trí, là không hiểu, không thấy được thế giới thật đang ở bên mình. Họ đã sống và tàn sát đồng loại và tự biện ninh bằng một cái mục đích hão huyền vô nhân tính. Vào những năm đầu đổi mới tôi đã viết trong bài thơ Thế giới đang tồn tại:
Bi kịch thay cho những dân tộc chỉ tin vào những thần tượng, những tín điều.
Người ta đã trả giá
Một tuổi thanh xuân, một đời người, một thế hệ, một thiên niên kỷ để hiểu ra cái giản đơn giữa bao mê cung rắc rối: Con người.
Cắt thế giới ra từng khúc, từng đoạn ư? Hay để nguyên nó mà trầm tưởng, mà chiêm ngưỡng.
Tôi là một phần không thể chia cắt khỏi thế giới.
Tôi hiểu:
Cần phải đối xử với thế giới như nó đang tồn tại. (41)
Cuộc đời của các nhân vật NVGP cho tôi cảm hứng viết bài thơ Bông hồng nở sớm. Bài thơ được in trong Tuyển tập Văn học hiện đại Việt Nam 1945- 1993. NXB Văn học, 1993.
Hai mươi lăm năm qua tôi đã cố gắng hóa thân vào hàng nghìn trang tài liệu, vào hàng trăm con người để hiểu một câu hỏi duy nhất NVGP là cái gì? Nay tôi thấy cần phải lên tiếng về sự kiện này. Nếu không thì đã quá chậm trễ, là có tội với vong linh những người đã khuất. Cả những người là NVGP. Cả những người đã vùi dập NVGP vì cuồng tín ngây thơ hoặc nhờ đàn áp NVGP mà tiến thân. Họ có thể cần nói một lời sám hối với các bạn bè đồng nghiệp oan khuất của mình, những người bị mình sát hại một cách lương thiện mà vẫn còn bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi vô hình, đã nhắm mắt mà vẫn chưa nói được.
Với chức nghiệp éo le của mình, tôi đã cứu được nhiều người, đã giữ bình yên cho nền VHNT nhiều năm nhưng tôi đã trả giá cuộc đời mình cho những nhà văn đã dám đốt mình lên trước vận mệnh của đất nước, của nhân dân.(42)
Tôi không mảy may ân hận, luyến tiếc về việc đã làm!
Lê Hoài Nguyên
Đại tá công an, Tổng cục A 25.
Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25, chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa.
_______
1-Tố Hữu: Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta thời đại ta, Nxb Văn học 1973, trang 132-219.
2- Hoàng Tiến: Nhìn lại vụ án Nhân Văn Giai Phẩm cách đây 40 năm, tài liệu nghiên cứu 1997.
3- Vũ Tường: Ngày nay cách mạng Đông Dương phải hiện nguyên hình: Bước ngoặt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp và nội chiến Việt Nam vào năm 1948. Journal of Southeast Asian Studies, 40, 3 (10- 2009), 519- 542. Bản dich tiếng Việt trên Talawas số Mùa Thu chuyên đề Bao nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?
4- Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ, sinh năm 1939 quê Hải Phòng, sống ở Hà Nội bị bắt năm 1980 vì đưa tập thơ Tiếng vọng từ đáy vực gồm 400 bài vào Sứ quán Anh. Trước đó đã bị bắt và đi tù 2 lần vì tội phản tuyên truyền. Được trả tự do năm 1991, tổng cộng ngồi tù 27 năm, được nhập cư vào Mỹ năm 1995. Tập thơ của ông với tựa đề Bản Chúc thư của Một Người Việt Nam – Hoa Điạ Ngục được Văn Bút Quốc Tế tặng Giải thưởng Thơ ca Quốc tế năm 1985. Ông còn có tập truyện Hỏa Lò do Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ xuất bản nảm 2001 và Tuyển tập thơ Nguyễn Chí Thiện 700 bài xuất bản năm 2006.
5- Các bài Tuyên ngôn của nhóm Văn nghệ Chân đất, Họp báo về phong trào ly khai ở Hà Nội, Lá thư của người Hà Nội, Hà Nội một mối buồn dài, 30 năm văn học ly khai ở miền Bắc in trong tạp chí văn học Quê Mẹ của người Việt Hải ngoại ở Paris số 40- 41- 42, 1980.
6- Nam Dao: Hoàng Cầm (1922 – 2010). Talawas tháng 10- 2010
7- Trình Ánh Hồng: Không chỉ có Moskva: Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Âu và Bắc Việt thời kỳ hậu Stalin. Bản dịch Lê Quỳnh, Talawas. Tham khảo thêm ở Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954 – 1960 của Heinz Schutte, Berlin 2009.
8- Vũ Tường, Bđd.
9- Trình Ánh Hồng, Bđd.
10- Vũ Tường, Bđd.
11- Hoàng Giang: La Révolte des Intellectuels au Viêt- Nam en 1956, The Vietnam Forum 13.
Georges Boudarel, Université de Paris VII: Intellectual dissidence in the 1950s THE NHÂN- VĂN GIAI- PHẨM AFFAIR. The Vietnam Frum 13.
12- Sau đổi mới tài liệu này đã phát hành công khai trên Bản tin Thông tấn xã Việt Nam. Có thể tham khảo thêm trong Hồi ký Khơ rút Sốp, trên mạng.
13- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9+10 BCHTƯ ĐCSVN khóa II. Văn kiện Đảng.
14- Vũ Tường, Trình Ánh Hồng Bđd.
15- Tố Hữu: Sđd.
16- Thái Kế Toại: Luận văn tốt nghiệp ĐHAN HN Về các đối tượng NVGP và giải pháp trong tình hình đổi mới hiện nay, năm 1987.
17- Nguyễn Mạnh Tường: Hồi ký bản tiếng Việt Kẻ bị mất phép thông công – Hà Nội 1954- 1991: Bản án cho một trí thức. Trên mạng.
18- Phỏng vấn Đào Duy Anh, Đặng Văn Ngữ với chủ đề Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, báo Nhân Văn số 2 – 3.
19- Đào Duy Anh: Muốn phát triển học thuật. Giai phẩm Mùa Thu tập III.
20- Phan Khôi: Phê bình lãnh đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu tập I.
21- Trương Tửu: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu tập II.
22- Thụy Khuê: Nói chuyện với họa sĩ Trần Duy. Website Thụy Khuê.
23- Thụy Khuê: Bđd.
24- Nguyễn Mạnh Tường có nhắc đến việc bị học trò đấu tố trong hồi kí Kẻ bị mất phép thông công…
25- Nguyễn Huệ Chi trong bài viết Trao đổi cùng Nguyễn Văn Hoàn trên Talawas về thắc mắc của ông trường hợp Toàn tập Trần Thanh Mại không có bài đấu tranh trong thời kì NVGP, cho biết bố ông nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi bị ép viết bài phê phán Phan Khôi coi đó là một việc vẫn lấy làm xấu hổ, một vết nhơ không gột nổi. Khi chết ông dặn con tìm cơ hội gột rửa giúp mình.
Tác giả được nghe từ các nhân vật NVGP nhiều chuyện khôi hài về sự quay quắt tráo trở của tình bạn văn nghệ sĩ thời NVGP.
26- Trong bài trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê, Trần Duy cho biết em ruột mình, một sĩ quan quân đội khai lý lịch đổi tên lót truyền thống của dòng họ, không khai tên ông và chỉ nhận là con nuôi bố ông.
27- Trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê với các ông Hoàng Cầm, Lê Đạt có nhắc trường hợp vợ chồng Vũ Ngoc Phan- Hằng Phương. Hằng Phương gọi Phan Khôi là bác ruột anh mẹ, khi xảy ra NVGP họ viết bài đấu tố Phan Khôi, không dám đi đưa ma Phan Khôi. Một trường hợp nữa là quan hệ Tố Hữu – Phùng Quán, Tố Hữu là anh cùng cha khác mẹ với mẹ Phùng Quán.
Phan Thao là con Phan Khôi vẫn phải ký tên vào tuyên bố lên án NVGP.
28- Trong phỏng vấn của Thụy Khuê với Lê Đạt, Trần Duy.
29- Tạp chí Quê Mẹ đã dẫn.
30- Vũ Ngự Chiêu: Hồ Chí Minh nhà ngoại giao 1945- 1946.
Chuyến đi cầu viện bí mật năm 1950 của Hồ. Tạp chí Hợp Lưu
31- Vũ Tường, Bđd.
32- Trình Ánh Hồng, Bđd.
33- David G. Marr: Vietnam 1945 The quest for Power
34- Ninh Kim N.B: A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam, 1945- 1965. University ò Michigan Press 2002.
35- Lại Nguyên Ân có các bài: Hội Nhà văn Việt Nam: Sự thành lập và hai năm đầu tiên tồn tại ( 1957- 1958 ). Đi tìm dấu tích tờ Sáng Tạo ( Hà Nội, 1956). Nguyễn Bính và tuần báo Trăm Hoa (1955- 1957). Xuân Diệu trong những năm 1954 – 1958.
36- Trần Duy trả lời phỏng vấn Thụy Khuê.
37- Trần Duy: Tưởng niệm Phan Khôi. Talawas.
38- Trong trường ca Cây Cà báo Đà Nẵng tháng 1- năm 1987. Tên Phùng Quán lần đầu tiên trở lại công khai trên mặt báo.
39- Thái kế Toại: Bđd.
40- Bông hồng nở sớm
Sau mùa giông bão xác xơ
Hàng cây thu mình trong gió rét
Đón anh về sáng nay
Vườn mẹ nở bông hồng
Màu đỏ thắm chạm vào nỗi đau của mẹ
Suốt một đời mòn mỏi lo âu
Màu đỏ thắm đánh thức nỗi buồn của đất
Bao năm mặt đất khô cằn
Màu đỏ cháy lên ký ức của anh
Một tình yêu vụt mất hai mươi năm
Bao mộng mơ khao khát âm thầm.
Có ai nói với anh:
Ngày mai thôi bông hồng sẽ chết
Nhưng hề chi
Màu đỏ kiêu sa cứ cháy trong gió rét
Và ở chân trời
Đang thì thầm cơn gió mùa xuân.
1988
41- Tập thơ Thế giới đang tồn tại, Nxb Văn học 1994
42- Đó là việc tác giả và nhà văn Ma Văn Kháng bảo vệ cuốn tiểu thuyết Chúa Trời ngủ gật của Nguyễn Dậu in ở Nhà xuất bản Lao Động năm 1993 bị cơ quan Tổng công đoàn lao động quyết định nghiền hủy làm bột giấy. Ma Văn Kháng đã viết lại một phần vụ này, những gì có thể viết được công khai nhưng bị kiểm duyệt cắt bỏ một số đoạn trong hồi kí Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, NXB Hội Nhà văn xuất bản năm 2009, trang 385- 400.
Qua vụ này có thể rút ra vài điều :
Bộ máy văn nghệ Việt Nam và Luật xuất bản Việt Nam đã tạo ra rất nhiều cơ quan cảnh sát văn hóa với tư cách là cơ quan chủ quản của nhà xuất bản. Một khi sức ép trực tiếp với nhà xuất bản của A25 và Ban Tuyên giáo không thành, người ta dùng quyền lực của cơ quan chủ quản ép nhà xuất bản tiêu hủy cuốn sách. Trong trường hợp của Chúa Trời ngủ gật Bộ VHTT do nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm Thứ trưởng, đã có công văn ủng hộ gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng xin vẫn cho sách được xuất bản. Nhưng các phần tử chủ chốt của A25 vẫn gây được sức ép buộc Tổng công đoàn lao động Việt Nam bóp chết cuốn sách.
Làng Mọc Tháng Ba năm Canh Dần
LHN.
Nguồn: nguyentrongtao.org
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Tìm hiểu chuyện “yêu ai, ghét ai” của nhà văn Phùng Quán
Hoàng Ngọc Tuấn
18 tháng 1, 2022 - Sài Gòn nhỏ
Phùng Quán là một trong những tên tuổi được nhắc đến nhiều nhất mỗi khi người ta nói đến phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, và có lẽ bài thơ “Lời mẹ dặn” là một trong vài bài thơ nổi tiếng nhất của Phùng Quán. Trong bài thơ, những câu sau đây được rất nhiều người trích và ca tụng:
“… Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá”.
Thế nhưng, trong bài thơ này, Phùng Quán không nói thẳng ra là ông yêu ai và ghét ai. Bởi vậy, tôi muốn nêu ra câu hỏi: “Thế thì Phùng Quán yêu ai và ghét ai?”
Để tìm kiếm câu trả lời, tôi lục lọi khắp nơi để đọc những gì Phùng Quán đã viết. Sau đây là một số bài thơ cho thấy Phùng Quán yêu ai và ghét ai.
[Năm 1949, lúc Phùng Quán được 17 tuổi, ông đã viết bài thơ “Đất” để ca ngợi “thế giới đại đồng Cộng Sản”.]
ĐẤT
(trích)
…
Đất ơi!
Con nguyện yêu Người với tất cả máu xương
Với tất cả cuộc đời con mười bảy tuổi!
Con vui sao!
Khi nghĩ tới gương mặt Người
Đã rửa sạch hết máu và bùn
Tươi vui, chói lọi…
Người sẽ hát cho thế hệ mai sau
Về thế giới đại đồng Cộng Sản
Mà thế hệ chúng con hôm nay
Không tiếc máu để sửa soạn cho lời ca
[Năm 1952, Võ Thị Sáu bị tử hình tại Côn Đảo. Năm 1955, Phùng Quán ở ngoài Bắc (chưa từng đến Côn Đảo) đã viết bài thơ “Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo” để ca tụng Võ Thị Sáu. Trong bài thơ, ông bịa thêm chuyện Võ Thị Sáu trên đường ra pháp trường còn nghiêng mình hái bông hoa ven rừng cài lên mái tóc và cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê.
“… Trên đường vào đảo hôm qua
Nghiêng mình Sáu hái bông hoa ven rừng
Cài lên mái tóc rối tung,
Cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê.”
Phùng Quán còn bịa thêm chuyện Võ Thị Sáu quát to “Bắn tao đi! Tao không bao giờ sợ. Tao mở mắt to để nhìn luồng đạn chúng mày. Bắn tao đi! Mắt tao, ngực tao đây!” khiến “bọn giặc rùng mình run tay súng. Bốn phát chị vẫn sống… Tám phát chị mới gục”.
Dưới đây là một đoạn trích.]
TIẾNG HÁT TRÊN ĐỊA NGỤC CÔN ĐẢO
(trích)
…
Yêu Tổ quốc tha thiết,
Yêu Bác, yêu nhân dân.
Sáu không thể ngồi không,
Đợi ngày đưa đi bắn,
Ở đâu cũng có Đảng,
Ngay giữa tim kẻ thù,
Chi bộ của nhà tù,
Sáu được làm liên lạc.
Ngày nấu cơm đun nước,
Đem đến cho anh em,
Những người bị xiềng gông.
Cho đến giờ phút cuối.
Những đồng chí hấp hối,
Quằn quại kiết, ho lao,
Ngày hai buổi Sáu vào,
Nắm tay từng đồng chí,
Chuyền hơi ấm Đoàn thể,
Cho trái tim sắp ngừng,
…
Đồng bào bưng mặt khóc,
Như xé ruột cắt lòng.
Trên trời dưới biển mênh mông
Xa Bác, xa Đảng, nhân dân đồng bào.
…
Nghĩ đến Tổ quốc tôi không sợ kẻ thù.
Nhất định có ngày bộ đội của Bác Hồ,
Sẽ đến cứu chúng ta khỏi lao tù ngục tối
…
Hai mắt vẫn sáng chói,
Nhìn cháy thịt kẻ thù.
Tiếng hô Đảng! Bác Hồ!
Gió bể mang về đất liền Tổ quốc.
Tám phát chị mới gục,
Đầu nghiêng như ngủ say.
Mái tóc gió bay bay,
Xanh rờn mười bảy tuổi…
Trong Giai Phẩm Mùa Thu 1956, tập II, Phùng Quán viết bài thơ “Chống tham ô lãng phí” diễn tả nỗi căm ghét của ông đối với những tên cán bộ quan liêu tham ô lãng phí. Tuy nhiên, Phùng Quán vẫn tin tưởng rằng Đảng thì chính trực và Đảng sẵn sàng trừ diệt bọn tham ô lãng phí. Phùng Quán đề nghị nếu Trung ương Đảng lập đội quân trừ diệt tham ô lãng phí, thì ông sẽ tình nguyện “Có tôi! đi trong hàng ngũ tiền phong”, và ông sẽ rút thơ ca ra từ tuỷ xương để “hiến dâng hết cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng”.
CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ
(trích)
…
Tôi gài bẫy chăng lưới khắp mọi tâm hồn.
Xông khói ớt quạt lùa vào hang hốc.
Lưới bẫy của tôi chẳng tốn tơ tốn sắt.
(Dành công nhân dệt lụa dựng cầu)
Khói của tôi chẳng tốn ớt tốn rơm
Tất cả là thơ ca
Tôi rút từ tủy xương
Hiến dâng hết cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng.
[Ngày 15/10/1964, Nguyễn Văn Trỗi bị chính quyền VNCH đem ra xử bắn tại Sài Gòn, vì Trỗi và một nhóm Việt Cộng nằm vùng đã bị bắt quả tang trong đêm 09/05/1964 khi họ đang cài mìn ở cầu Công Lý với âm mưu ám sát Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert McNamara. Báo chí quốc tế đưa tin, viết tên Nguyen Van Troi (không có dấu), nên dân ở ngoài Bắc lúc ấy không biết Troi là Trỗi, hay Trôi, hay Trội. Nhạc sĩ văn công CSVN là Vũ Thanh lúc ấy liền sáng tác bài “Lời anh vọng mãi ngàn năm” có những lời hát: “Nguyễn Văn Trôi, Nguyễn Văn Trôi người công nhân thành phố Sài Gòn mà lời anh trước súng giặc thù vẫn cháy lửa chiến đấu…”
Nhà thơ Phùng Quán lúc ấy cũng vội vàng viết bài thơ “Anh Nguyễn Văn Trôi, anh Nguyễn Văn Trỗi”, có những câu sau đây.]
ANH NGUYỄN VĂN TRÔI, ANH NGUYỄN VĂN TRỖI
(trích)
…
Anh Nguyễn Văn Trỗi
Anh Nguyễn Văn Trôi
Anh Nguyễn Văn Trội
Cả ba cách gọi
Đều là gọi Anh
Như hoa, như huê, đều là thơm ngát
Như đàn như đờn đều ngân tiếng nhạc
Như hận, như hờn đều là bất khuất
Như nỏ như ná đều là giết giặc
Như biển, như bể đều là mêng mông
Như hường, như hồng đều sắc cờ Đảng
Như đào, như điều đều là nhiễu thắm phủ lấy giá gương
…
Kết luận:
Đọc xong những bài thơ trên đây, tôi nghĩ: “À, thì ra… Thế là tôi biết ông Phùng Quán yêu ai, ghét ai.”
Sydney, 18-1-2022
Hoàng Ngọc Tuấn
18 tháng 1, 2022 - Sài Gòn nhỏ
Phùng Quán là một trong những tên tuổi được nhắc đến nhiều nhất mỗi khi người ta nói đến phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, và có lẽ bài thơ “Lời mẹ dặn” là một trong vài bài thơ nổi tiếng nhất của Phùng Quán. Trong bài thơ, những câu sau đây được rất nhiều người trích và ca tụng:
“… Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá”.
Thế nhưng, trong bài thơ này, Phùng Quán không nói thẳng ra là ông yêu ai và ghét ai. Bởi vậy, tôi muốn nêu ra câu hỏi: “Thế thì Phùng Quán yêu ai và ghét ai?”
Để tìm kiếm câu trả lời, tôi lục lọi khắp nơi để đọc những gì Phùng Quán đã viết. Sau đây là một số bài thơ cho thấy Phùng Quán yêu ai và ghét ai.
[Năm 1949, lúc Phùng Quán được 17 tuổi, ông đã viết bài thơ “Đất” để ca ngợi “thế giới đại đồng Cộng Sản”.]
ĐẤT
(trích)
…
Đất ơi!
Con nguyện yêu Người với tất cả máu xương
Với tất cả cuộc đời con mười bảy tuổi!
Con vui sao!
Khi nghĩ tới gương mặt Người
Đã rửa sạch hết máu và bùn
Tươi vui, chói lọi…
Người sẽ hát cho thế hệ mai sau
Về thế giới đại đồng Cộng Sản
Mà thế hệ chúng con hôm nay
Không tiếc máu để sửa soạn cho lời ca
[Năm 1952, Võ Thị Sáu bị tử hình tại Côn Đảo. Năm 1955, Phùng Quán ở ngoài Bắc (chưa từng đến Côn Đảo) đã viết bài thơ “Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo” để ca tụng Võ Thị Sáu. Trong bài thơ, ông bịa thêm chuyện Võ Thị Sáu trên đường ra pháp trường còn nghiêng mình hái bông hoa ven rừng cài lên mái tóc và cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê.
“… Trên đường vào đảo hôm qua
Nghiêng mình Sáu hái bông hoa ven rừng
Cài lên mái tóc rối tung,
Cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê.”
Phùng Quán còn bịa thêm chuyện Võ Thị Sáu quát to “Bắn tao đi! Tao không bao giờ sợ. Tao mở mắt to để nhìn luồng đạn chúng mày. Bắn tao đi! Mắt tao, ngực tao đây!” khiến “bọn giặc rùng mình run tay súng. Bốn phát chị vẫn sống… Tám phát chị mới gục”.
Dưới đây là một đoạn trích.]
TIẾNG HÁT TRÊN ĐỊA NGỤC CÔN ĐẢO
(trích)
…
Yêu Tổ quốc tha thiết,
Yêu Bác, yêu nhân dân.
Sáu không thể ngồi không,
Đợi ngày đưa đi bắn,
Ở đâu cũng có Đảng,
Ngay giữa tim kẻ thù,
Chi bộ của nhà tù,
Sáu được làm liên lạc.
Ngày nấu cơm đun nước,
Đem đến cho anh em,
Những người bị xiềng gông.
Cho đến giờ phút cuối.
Những đồng chí hấp hối,
Quằn quại kiết, ho lao,
Ngày hai buổi Sáu vào,
Nắm tay từng đồng chí,
Chuyền hơi ấm Đoàn thể,
Cho trái tim sắp ngừng,
…
Đồng bào bưng mặt khóc,
Như xé ruột cắt lòng.
Trên trời dưới biển mênh mông
Xa Bác, xa Đảng, nhân dân đồng bào.
…
Nghĩ đến Tổ quốc tôi không sợ kẻ thù.
Nhất định có ngày bộ đội của Bác Hồ,
Sẽ đến cứu chúng ta khỏi lao tù ngục tối
…
Hai mắt vẫn sáng chói,
Nhìn cháy thịt kẻ thù.
Tiếng hô Đảng! Bác Hồ!
Gió bể mang về đất liền Tổ quốc.
Tám phát chị mới gục,
Đầu nghiêng như ngủ say.
Mái tóc gió bay bay,
Xanh rờn mười bảy tuổi…
Trong Giai Phẩm Mùa Thu 1956, tập II, Phùng Quán viết bài thơ “Chống tham ô lãng phí” diễn tả nỗi căm ghét của ông đối với những tên cán bộ quan liêu tham ô lãng phí. Tuy nhiên, Phùng Quán vẫn tin tưởng rằng Đảng thì chính trực và Đảng sẵn sàng trừ diệt bọn tham ô lãng phí. Phùng Quán đề nghị nếu Trung ương Đảng lập đội quân trừ diệt tham ô lãng phí, thì ông sẽ tình nguyện “Có tôi! đi trong hàng ngũ tiền phong”, và ông sẽ rút thơ ca ra từ tuỷ xương để “hiến dâng hết cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng”.
CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ
(trích)
…
Tôi gài bẫy chăng lưới khắp mọi tâm hồn.
Xông khói ớt quạt lùa vào hang hốc.
Lưới bẫy của tôi chẳng tốn tơ tốn sắt.
(Dành công nhân dệt lụa dựng cầu)
Khói của tôi chẳng tốn ớt tốn rơm
Tất cả là thơ ca
Tôi rút từ tủy xương
Hiến dâng hết cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng.
[Ngày 15/10/1964, Nguyễn Văn Trỗi bị chính quyền VNCH đem ra xử bắn tại Sài Gòn, vì Trỗi và một nhóm Việt Cộng nằm vùng đã bị bắt quả tang trong đêm 09/05/1964 khi họ đang cài mìn ở cầu Công Lý với âm mưu ám sát Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert McNamara. Báo chí quốc tế đưa tin, viết tên Nguyen Van Troi (không có dấu), nên dân ở ngoài Bắc lúc ấy không biết Troi là Trỗi, hay Trôi, hay Trội. Nhạc sĩ văn công CSVN là Vũ Thanh lúc ấy liền sáng tác bài “Lời anh vọng mãi ngàn năm” có những lời hát: “Nguyễn Văn Trôi, Nguyễn Văn Trôi người công nhân thành phố Sài Gòn mà lời anh trước súng giặc thù vẫn cháy lửa chiến đấu…”
Nhà thơ Phùng Quán lúc ấy cũng vội vàng viết bài thơ “Anh Nguyễn Văn Trôi, anh Nguyễn Văn Trỗi”, có những câu sau đây.]
ANH NGUYỄN VĂN TRÔI, ANH NGUYỄN VĂN TRỖI
(trích)
…
Anh Nguyễn Văn Trỗi
Anh Nguyễn Văn Trôi
Anh Nguyễn Văn Trội
Cả ba cách gọi
Đều là gọi Anh
Như hoa, như huê, đều là thơm ngát
Như đàn như đờn đều ngân tiếng nhạc
Như hận, như hờn đều là bất khuất
Như nỏ như ná đều là giết giặc
Như biển, như bể đều là mêng mông
Như hường, như hồng đều sắc cờ Đảng
Như đào, như điều đều là nhiễu thắm phủ lấy giá gương
…
Kết luận:
Đọc xong những bài thơ trên đây, tôi nghĩ: “À, thì ra… Thế là tôi biết ông Phùng Quán yêu ai, ghét ai.”
Sydney, 18-1-2022
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Phần XIV: Phùng Cung - Chương 1: Tại sao Phùng Cung bị bắt, bị biệt giam không có án?
Đăng ngày: 05/06/2010 - 20:31
Sửa đổi ngày: 30/01/2013 - 18:56 - rfi
Bìa tập "Truyện và Thơ" do Nhà Xuất Bản Văn Nghệ (Hoa Kỳ) phát hành
Thụy Khuê
Tư tưởng của Phùng Cung độc đáo và ngược hướng với những người cùng thời, kể cả các thành viên NVGP và thế hệ ngày nay, trên nhiều địa hạt: Bảo tồn văn hoá, lòng ái quốc, cách mạng mùa thu, kháng chiến chống Pháp, chiến tranh Nam-Bắc, tình nước và tình người. Chưa một nhà thơ, nhà văn nào dám đi xa như thế, viết những lời đả phá mãnh liệt như thế về quốc ca, quốc thiều, về cách mạng mùa thu, về chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản, về những tín điều đã mê hoặc người Việt Nam trong suốt thế kỷ qua. Và đó là lý do chính khiến Phùng Cung bị 12 năm tù, không có án.
QUẢNG CÁO
Tìm hiểu Phùng Cung là tìm hiểu nguồn tư tưởng yêu nước đối lập với quan niệm chính thống và đi ngược lại niềm tự hào dân tộc cố hữu, nhưng sẽ là kim chỉ nam cho một con đường dân tộc mới: con đường chuyển giáo dục chiến tranh và giáo dục hận thù thành giáo dục hoà bình và giáo dục văn hoá.
Bao nhiêu người bị liên lụy trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm ?
1- Danh sách những người trong nhóm "phá hoại" Nhân Văn Giai Phẩm được chính thức ghi nhận trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận năm 1959, như sau:
"Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị [Thái Hà ấp] nói trên, chúng ta được biết nhóm phá hoại "Nhân văn-Giai phẩm" bao gồm những tên "đầu sỏ", những "cây bút" đã viết "hoặc nhiều hoặc ít" cho "Nhân văn-Giai phẩm" như: Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh v.v...
Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải tất cả những "cây bút" trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ họa, có người bị lôi cuốn vì ngây thơ chính trị... (Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1959, trang 309-310).
Trong danh sách trên đây có 34 người bị nêu tên.
2- Danh sách những người có tên trên 5 số báo Nhân Văn và 5 tập Giai Phẩm: Nguyễn Hữu Đang, Minh Đức (Trần Thiếu Bảo), Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Duy, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, Sỹ Ngọc, Tử Phác, Tô Vũ, Nguyễn Bính, Quang Dũng, Phan Khôi, Hữu Loan, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Phác Văn, Huy Phương, Lê Đại Thanh, Hoàng Yến, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Công, Hoàng Huế, Hồng Lực, Bùi Xuân Phái, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Bùi Quang Đoài, Mai Hạnh, Chu Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trúc Lâm, Phan Vũ, Hoàng Tích Linh, Đặng Văn Ngữ, Trần Thịnh, Hữu Tâm, Thanh Bình, Trần Phương, Thanh Châu, Châm Văn Biếm, Hoàng Tố Nguyên, Cao Nhị, Trần Hải An... gồm 47 người.
Hai danh sách trên đây không hoàn toàn giống nhau, vì ngoài Nhân Văn và Giai Phẩm, còn có một số sách báo khác, cùng xu hướng, như Đất mới của Sinh viên, hoặc Tự do diễn đàn (nghị luận, số 1, ra ngày 10/12/ 56 Minh Đức xuất bản, vừa phát hành đã bị tịch thu), Sách Tết 1957, do Minh Đức in đầu năm 1957; hoặc tạp chí Sáng tạo (kịch trường và điện ảnh) của nhóm Trần Thịnh-Trần Công. Ngoài ra còn có những bài in trên các báo khác như báo Văn năm 1957, sau khi NVGP bị đình bản.
3- Trong một tài liệu mới nhất, LHN cho biết: "Số người gọi là tham gia NVGP tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, do tác giả [LHN] thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người. Bởi vì các ấn phẩm của phong trào NVGP đã được đón nhận nồng nhiệt, được hưởng ứng không chỉ ở Hà Nội, mà xuống đến tận các vùng nông thôn miền núi." (Trích bài nghiên cứu chưa công bố của LHN).
Như vậy chúng ta tạm nhận con số gần 100 người bị xử lý nặng, do LHN đưa ra, cho đến khi nào có những chứng từ khác.
Trong danh sách chính thức năm 1959, thiếu tên hai người: Phan Tại và Phùng Cung, mặc dù cả hai đều bị đi tù, có thể vì Phan Tại và Phùng Cung, năm 1959, chưa bị tố giác. Nhưng hai trường hợp này cần tìm hiểu.
Phan Tại không viết bài trên cả Nhân Văn lẫn Giai Phẩm. Còn Phùng Cung với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh, tác phẩm có giá trị tương đương với Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, nhưng ý nghĩa kín đáo, khó có thể kết tội công khai được.
Phan Tại và nhóm Sáng Tạo trong điạ hạt điện ảnh kịch trường
Trong phiên toà ngày 19/1/1960, xử Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Lê Nguyên Chí (người giúp Nguyễn Hữu Đang trốn vào Nam), Phan Tại bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm mất quyền công dân.
Tại sao kịch tác gia Phan Tại, chủ đoàn kịch Sông Nhị, lại bị kết án nặng như vậy? Tội của ông là tội gì?
Tổng hợp lời những nhân chứng, những bài viết, ông đã "phạm những tội" sau đây:
- "Chứa chấp" Thụy An (bà Thụy An ở chung nhà với ông bà Phan Tại).
- Nhà Phan Tại - Thuỵ An là một "câu lạc bộ văn nghệ" (tập kịch, chiếu phim, hội họp).
- "Nhóm" Thụy An-Phan Tại cùng với nhóm Sáng Tạo của Trần Thịnh-Trần Công chủ trương thành lập một hội điện ảnh độc lập. Đả phá phim tuyên truyền của Liên Xô. Đổi mới kịch nghệ và điện ảnh theo đường lối Tân hiện thực (Néoréalisme) Ý và Nhật. Thụy An, Cao Nhị, Nắng Mai Hồng, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam...viết những bài giới thiệu, phê bình điện ảnh. Tổ chức chiếu lại những phim hay đã chiếu ở Hà Nội trước 1954, do Thụy An viết thuyết minh. Chiếu những kiệt tác tân hiện thực như Miếng cơm cay đắng (Riz amer), Chiếc xe đạp (La bicyclette) của Ý, Rashomon, Những đứa trẻ Hiroshima, Anh gắng nuôi con của Nhật...
Những người trong Sáng Tạo như đạo diễn Trần Thịnh (chủ nhiệm Sáng Tạo), Trần Công, Chu Ngọc, Phan Vũ, Cao Nhị, v.v... đều có bài đăng trên NVGP.
Trong bài Đi tìm dấu tích tờ báo Sáng Tạo (Hà Nội, 1956) công bố trên Talawas ngày 3/2/2010, Lại Nguyên Ân cho biết: Sáng Tạo ra được hai số: Số 1 (5/11/1956) và số 2 (20/11/1956). Trong đợt đánh Sáng Tạo, Trần Đức Hinh, chủ nhiệm tờ Điện Ảnh của Cục điện ảnh, viết:
"Nửa tháng "Liên hoan phim Liên Xô" khai mạc vào ngày 7-11-56, thì đúng ngày 5-11-56, Giai phẩm mùa thu tập III xuất bản, trong đó có đăng bài "Chúng ta gắng nuôi con", hoạt cảnh của Chu Ngọc, đả kích không tiếc lời vào phim Liên Xô. Cùng ngày 5-11-56, báo Sáng Tạo ra số đầu, đã lộ ngay ý định xấu đối với phim Liên Xô (...) Những bài như trên phải được đặt bên cạnh bao nhiêu bài khác của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, v.v… đang nhan nhản lúc bấy giờ ở các số Nhân văn, Giai phẩm thì mới thấy đầy đủ tính chất nguy hiểm của nó" (Trần Đức Hinh "Tẩy sạch nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong việc giới thiệu, phê bình phim ảnh", Điện ảnh số 14, ngày 1/5/58, tài liệu của Lại Nguyên Ân).
Như vậy, có thể nói: song song với Nhân Văn và Giai Phẩm, đã có một phong trào điện ảnh kịch trường, do hai nhóm Phan Tại-Thụy An và Trần Thịnh-Trần Công chủ trương.
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như vậy, không chỉ giới hạn trong phạm vi văn học, mà còn lan rộng ra các ngành nghệ thuật khác, để trở thành cuộc cách mạng văn hóa toàn diện của các trí thức văn nghệ sĩ miền Bắc, đòi tự do sáng tác và tự do dân chủ.
Phan Tại, bị đi tù 6 năm, kèm 3 năm quản thúc, có thể vì những tội: "cấu kết" với Thụy An, là một trong những người "lãnh đạo" phong trào điện ảnh kịch trường cùng với Trần Thịnh-Trần Công trong nhóm Sáng Tạo.
Trường hợp Phùng Cung
Phùng Cung đại diện cho tất cả những người bị tù không có án, thậm chí không có lý do, hoặc lý do mơ hồ, khó hiểu, trong danh sách hàng trăm người bị xử lý nặng, hoặc hàng ngàn người, đã "liên hệ" xa gần với NVGP, với nhóm "Xét lại chống đảng" những năm sáu mươi.
Mỗi cá nhân là một trường hợp, là một chân dung bị xoá, bị đưa đi biệt tích, trong cô đơn, đau khổ.
Phùng Cung cũng là khuôn mặt văn nghệ sĩ cuối cùng trong nhóm NVGP mà chúng tôi đề cập trong loạt bài chân dung này, trước khi bước sang địa hạt trí thức. Nhưng không có nghiã là những người khác không có giá trị: Mỗi con người đã góp phần vào việc đấu tranh cho dân chủ của đất nước Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến ngày nay là một giá trị, một biệt cách. Chỉ riêng trong phong trào NVGP không thôi, sự can trường của Hữu Loan không giống sự can trường của Phùng Cung. Lòng nhiệt tình của Phùng Quán không dễ ai sánh được. Sự góp phần của Bùi Xuân Phái không giống Nguyễn Sáng. Kịch của Hoàng Tích Linh không giống kịch của Chu Ngọc... Mỗi nghệ sĩ, mỗi tác giả là một chân dung, mà ký ức lịch sử và văn học sẽ không thể bỏ qua.
Sau này, khi nhắc đến Phùng Cung, người ta thường cho rằng ông bị tù vì truyện "Con ngựa già của chúa Trịnh". Sự thực có lẽ phức tạp hơn nhiều, nó nằm trong toàn bộ thái độ sống và sáng tác của Phùng Cung. Bài viết này cố gắng tìm hiểu những nguyên do sâu xa đã đưa Phùng Cung vào vòng tù tội và bị theo dõi suốt đời. Nguyên do ấy có thể tóm tắt như sau:
Một tinh thần bất khuất không đầu hàng bạo lực cách mạng.
Một sự nghiệp thơ văn chống lại chiến tranh và xây dựng văn hoá dân tộc.
Tiểu sử Phùng Cung
Những chi tiết đáng tin cậy nhất về Phùng Cung nằm trong bài Nhà thơ Phùng Cung của Phùng Hà Phủ, con trai Phùng Cung, nay đã qua đời.
Phùng Cung sinh ngày 18/7/1928 tại làng Kim Lân, xã Hồng Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên. Mất ngày 9/5/1998 tại Hà Nội. Quê tổ ở xã Cam Lâm, quận Đường Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Vĩnh Yên (quê sinh) và Hà Tây (quê tổ) của Phùng Cung đều thuộc tỉnh Sơn Tây. Họ Phùng ở Cam Lâm dòng dõi Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương).
Là con trưởng một gia đình giàu có, đông con. Phùng Cung được gửi đi trọ học ở thị xã Sơn Tây. Có bằng Trung học (Brevet). Tháng 4/45, Nhật đảo chính Pháp, Phùng Cung trở lại quê nhà. Tháng 9/45, Phùng Cung (17 tuổi) được bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu-Liên Châu. Tên xã do ông đặt và tên ấy vẫn còn giữ đến ngày nay. Phùng Cung làm chủ tịch xã được 2 năm. Đến tháng 10/1947, Pháp chiếm Tông và Sơn Tây, Phùng Cung chạy lên Việt Bắc cùng mấy anh em trai. Tại quê nhà, gia đình ông bị liên lụy vì có con đi làm cách mạng.
Phùng Hà Phủ viết: "Khi lên chiến khu, bố tôi làm công tác thông tin ở liên khu 10 Việt Bắc, cơ quan thông tin của ông Nguyễn Tấn Gi Trọng (bác sĩ Trọng sau này làm công tác chuyên môn tại trường Ðại học Y Dược Hà Nội và là người giúp mẹ tôi theo học lớp dược tá khi hòa bình lập lại). Sau một thời gian làm tại liên khu 10, bố tôi mới chuyển sang an toàn khu và làm công tác văn nghệ, cùng sống và làm việc với các ông Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài,... cho đến khi hòa bình lập lại (1954) thì cùng với cơ quan Hội văn nghệ về tiếp quản thủ đô Hà Nội." (Phùng Hà Phủ, Nhà thơ Phùng Cung, in trong Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản (Văn Nghệ, California 2003), in lại trong Phùng Cung (Trung tâm dân chủ cho Việt Nam, Canada 2004); bài có trên Talawas).
Trong thời kỳ Cải cách ruộng đất, gia đình ông bị quy vào thành phần địa chủ cường hào. Cha ông bị đem ra đấu tố, rồi bị đưa lên giam giữ ở trại Cò Nỉ - Thái Nguyên. Khi ấy, Phùng Cung đang làm việc trong cơ quan văn nghệ kháng chiến ở Tuyên Quang.
Phùng Hà Phủ viết: " Khi bố tôi hay tin, bố rất nóng lòng chuyện nhà và muốn quay về xem sự thể ra sao. Những bạn bè thân trong cơ quan biết chuyện như ông Tô Hoài (lúc này đang phụ trách công tác Ðảng - Ðoàn của Cơ quan văn nghệ) đều khuyên nên thật bình tĩnh, chờ Ðảng sẽ sửa sai. Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ, chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phía sau trại giam và chỉ cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của cụ, bố tôi quay ngay về Hà Nội, bố rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh mọi sự tiếp xúc với bên ngoài." (Bài đã dẫn)
1954, Phùng Cung làm việc tại Hội Văn nghệ.
1956, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh đăng trên Nhân Văn số 4.
Tháng 5/1961 (theo Phùng Hà Phủ), công an đến nhà bắt Phùng Cung. Theo Nguyễn Hữu Hiệu, thì đó là ngày "19 tháng Chạp năm Canh Tý" [tức là 4/2/1961]. Ông bị tịch thu tất cả bản thảo và bị giam vào Hỏa Lò Hà Nội. Rồi bị chuyển đi các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái) và Phong Quang (Lào Cai), bị tù 12 năm, với 11 năm biệt giam, không có án.
Trong suốt thời gian từ tháng 2/58 (bắt đầu lớp Thái Hà) đến tháng 5/61, khi ông bị bắt, trong hơn ba năm, Phùng Cung vẫn sáng tác đều và không hề nhụt tay trong sự lên án chế độ.
Tháng 11/1972 ông được tha về.
Ông làm nghề thợ đinh trong những ngày tháng còn lại, ông vẫn âm thầm sáng tác, vẫn bị công an đến thăm dò và kiểm soát. Ông phải chép bản thảo làm nhiều bản gửi nhiều nơi.
Phùng Cung mất năm 1998 tại Hà Nội.
Sáng tác và sáng tác trong tù / Bản thảo và gửi giữ bản thảo
1- Nguyễn Chí Thiện cho biết ông gặp Phùng Cung tại trại Phong Quang, Yên Bái năm 1970, Phùng Cung đang nằm bệnh xá vì bị lao phổi. Trong những trao đổi của ông với Phùng Cung có câu:
"- Anh tù đã 10 năm rồi, anh sáng tác được nhiều không?
Anh Cung lắc đầu:
- Mấy năm đầu rầu rĩ, lo nghĩ về vợ con, không làm gì được. Sau đó có viết một số truyện ngắn trong đầu, nhưng không nhớ nổi. Đành chuyển sang thơ. Làm cũng được ít thôi, độ vài chục bài" (Nguyễn Chí Thiện viết về Phùng Cung, Phùng Cung truyện và thơ, nxb Văn Nghệ, 2003, phần phụ lục, trang 397).
2- Phùng Quán viết: Sau mười hai năm cách ly đời thường, Phùng Cung như xa lạ với môi trường văn nghệ. Được trả lại tự do, việc đầu tiên là anh cùng với vợ sửa lễ "Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở về quê quán". Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, gỉ sắt, mỡ rán vẫn không át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên mặt bàn" (Phùng Quán, Hằng Nga thức dậy, tài liệu Talawas).
3- Về việc bản thảo và giữ gìn bản thảo, Ngô Minh thuật lại bối cảnh khi được Phùng Quán dẫn đến gặp Phùng Cung lần đầu, năm 1986:
"... rồi ông đứng lên mở ngăn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: “Sau mười hai năm khổ ải, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm.” Phùng Cung trầm ngâm: “Quán ạ, mình cố quên hết văn chương. Nhưng không sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê nhà. Nhưng bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng dưng chú cười hỏi: ‘Chào bác Phùng Cung, nghe nói dạo này bác lại viết thơ nữa à?’ Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá. Tập thơ này toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có "chuyện gì" trong đó cả. Nhưng nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình cho chắc.”(...)
Phùng Quán đưa cho tôi xem tập thơ chép tay. Tập vở mỏng, giấy học trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn, có bài chỉ hai ba câu, bốn năm câu giống như thơ Haiku của Nhật Bản, nét chữ Phùng Cung viết bằng bút chì rất nắn nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả. Tôi liếc bài thơ hai câu đầu tiên nhan đề là “Bèo”, bỗng nổi da gà: Thơ ghê quá, bất ngờ quá:
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh (...)
Trên đường về lại Hồ Tây, tôi bảo anh Quán: “Anh để em giữ tập thơ này cho. Anh giữ cùng chưa chắc an toàn”. Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi mang vào Huế. (...)
Tôi đã chọn hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút chì của Phùng Cung cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập Sông Hương, sau này một giai đoạn là Tổng biên tập. Tạp chí Sông Hương năm 1988 đã hai lần giới thiệu thơ Phùng Cung với những bài như “Nghiêng lụy”, “Bèo”, “Người làng”, “Chiếc lá rụng”, “Cô lái đò”, rút trong tập thơ chép tay bằng bút chì ấy. Có thể nói văn chương Phùng Cung lần đầu tiên sau 32 năm kể từ Con ngựa già Chúa Trịnh (1956) mới được xuất hiện trở lại, đã gây ấn tượng mạnh đối với độc giả Sông Hương và cả nước. Chắc chắn những ngày cuối năm 1988 ấy ông vui lắm.
Gần đây tôi mới biết, khi nhà thơ Phùng Quán còn sống, một lần nữ nhà văn Hà Khánh Linh ở Huế ra Hà Nội, anh Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ Phùng Cung ở Bưởi. Buổi trưa hôm đó Phùng Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu Đang mời cơm nữ sĩ Hà Khánh Linh. Tại bữa cơm ấy Phùng Cung cũng đưa cho Hà Khánh Linh một tập thơ chép tay như thế, nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải bút chì (...) Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ là cách “lưu trữ” thơ của Phùng Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng bị mất…" (Ngô Minh, Phùng Cung trong tôi, Huế, 3-2008, tài liệu Talawas)
Xuất hiện lại trên văn đàn
Như vậy, lần đầu tiên tác phẩm của Phùng Cung xuất hiện trở lại, là trên báo Sông Hương ở Huế năm 1988, với các bài thơ "Nghiêng lụy”, “Bèo”, “Người làng”, “Chiếc lá rụng”, “Cô lái đò”.
Nguyễn Hữu Hiệu, trong một thời gian dài, hay về nước, ông đã gặp Phùng Cung và nhiều nhà văn trong nhóm NVGP. Ông đã đem được bản thảo của Phùng Cung ra hải ngoại: Bài Dạ Ký được đăng lần đầu trên tạp chí Khởi Hành của Viên Linh (bộ mới, số 1 và 2, tháng 11 và 12/1996); tiếp đó là Ván cờ khai xuân (Khởi Hành số 4, tháng 2/1997) và Phòng tuyên truyền địa ngục (số 7 và 8, tháng 6 và 7/ 1997).
Năm 1995, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin in tập Xem đêm của Phùng Cung, gồm 200 bài thơ. "Tập thơ Xem đêm được in ra có phần cổ vũ, trợ giúp không nhỏ về tài chính của ông Đang và sự nhiệt tình của ông Quán. Ngoài ra cũng phải kể đến sự quý trọng và can thiệp trong khâu kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản đồng thời là người viết tựa cho cuốn sách này" (Phùng Hà Phủ, bđd).
Năm năm sau khi Phùng Cung qua đời, Lâm Thu Vân cho in tại hải ngoại, cuốn Phùng Cung truyện và thơ (chưa hề xuất bản) (Văn Nghệ, 2003), gồm tập thơ Trăng ngục (35 bài làm trong tù, từ 1961 đến 1972) và 11 truyện ngắn (10 truyện mới và Con ngựa già của chúa Trịnh). Năm sau, sách tái bản dưới tựa Phùng Cung Trăng ngục (Trung Tâm dân chủ cho Việt nam, 2004) có thêm 74 bài thơ trích trong tập Xem đêm.
Về tập Xem đêm, Nguyễn Hữu Đang viết: "Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin đã sốt sắng nhận làm bà mụ đỡ đẻ cho đứa con tinh thần này của Phùng Cung. Khi đón nhận nó với cái tên ngộ nghĩnh Xem Đêm, tôi nghĩ ngay đến một câu của thi hào cổ đại Horace như đã "ứng" vào trường hợp này: "Tôi sẽ không chết tất cả" (nguyên văn tiếng La Tinh Non omnis moriar), ngụ ý sau khi thi sĩ qua đời, tác phẩm của ông là một phần con người ông sẽ còn sống mãi), Phùng Cung cũng hoàn toàn tin tưởng lạc quan ở sức sống lâu dài của thơ ông như Horace nghĩ về thơ mình. Và cố nhiên bấy lâu ông hằng mong thơ ông chóng thoát ly bản thảo để sức sống kia được thử thách và cống hiến" (Nguyễn Hữu Đang, Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm, Hợp Lưu số 94, tháng 4-5/2007).
Thơ Phùng Cung in được, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang là hai bạn đồng hành và vài người "ngoài cuộc" như Quang Huy, nhóm Ngô Minh-Hà Khánh Linh và báo Sông Hương, ở Huế, ủng hộ. Còn sĩ phu Bắc Hà thì sao?
Xem đêm ra mắt độc giả trong nước từ 1995. Về mặt giá trị văn học, thơ Phùng Cung không thua gì những tập thơ khác của các bạn trong NVGP đã được in ra. Nhưng "giới sành thơ" ngoài Bắc không mấy ai nhắc đến. Từ điển văn học cũng không có mục từ về Phùng Cung trong khi Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Phùng Quán, có cả.
Phải chăng vì Phùng Cung chưa bao giờ được chính thức "xoá án"? Chưa bao giờ được công khai "hồi phục" như những thành viên khác của NVGP?
Nhưng còn một lý do nữa, có lẽ quan trọng hơn cả: là mọi người ngại, không nhắc đến Phùng Cung, không phải vì Xem đêm, mà vì nội dung toàn bộ tác phẩm của Phùng Cung, dù chưa in ở trong nước, nhưng đã có nhiều người biết hoặc đã đọc qua.
Cái làm cho người ta ngại, chính là tư tưởng của Phùng Cung. Một tư tưởng độc đáo và ngược hướng những người cùng thời, kể cả các thành viên NVGP và thế hệ ngày nay, trên nhiều địa hạt: Bảo tồn văn hoá, lòng ái quốc, cách mạng mùa thu, kháng chiến chống Pháp, chiến tranh Nam-Bắc, tình nước và tình người.
Chưa một nhà thơ, nhà văn nào dám đi xa như thế, viết những lời đả kích mãnh liệt như thế về quốc ca, quốc thiều, về cách mạng mùa thu, về chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản, về những tín điều đã mê hoặc người Việt Nam trong suốt thế kỷ qua. Và đó là lý do chính khiến Phùng Cung bị 12 năm tù. Rồi khi được thả, ông vẫn bị gạt ra ngoài vòng chấp nhận của nhiều người trong và ngoài đảng.
Tìm hiểu Phùng Cung là tìm hiểu dòng tư tưởng yêu nước đối lập với các quan niệm chính thống và đi ngược lại niềm tự hào dân tộc cố hữu, nhưng sẽ là kim chỉ nam cho một con đường dân tộc mới: con đường chuyển giáo dục chiến tranh và giáo dục hận thù thành giáo dục hoà bình và giáo dục văn hoá.
Phùng Cung và lớp chỉnh huấn Thái Hà ấp
NVGP bị đình bản cuối tháng 12/1956. Trong năm 1957, mọi việc "bình thường" trở lại. Đến tháng 2/1958 sự thanh trừng mới bắt đầu với hai "lớp học" ở ấp Thái Hà.
1- Một số dữ kiện được ghi lại trong nhật ký Trần Dần, về những ngày sắp dự lớp học Thái Hà:
27/2/58 PhCung: Tự dưng học hành đến nơi mà Liên Hiệp Hội lại cho PhCung nghỉ công tác. PhCung lo. Không hiểu sao. Có phải vì các ông ấy sợ mình ở đấy đâm lộ chuyện hay không? Hay là vì cái "giả viá", các ông ấy mới cho mình là cái thằng mất dậy? Đã mất dậy thì thôi, không dậy cho nữa, để mà biết tay!
Tôi hỏi PhCung xem cái "giả viá" ấy có gì?
PhCung cười hì hì, kể lại:
- Cũng chả có gì hì... Có một chỗ mình bảo là cái "đảng mạ", hì, nghiã là cái thứ mạ, mình gọi là "đảng mạ", dùng tiếng quê vậy cho nó vui, hì... Lại có chỗ mình định ca ngợi các đồng chí chuyên gia, thì mình cũng dùng tiếng quê, bảo là "các ông ấy béo mà phương phi như tây đoan", "cái đệm các ông ấy nằm mà bà con ta nằm thì ngủ không biết khi nào trở dậy được", hì, mình cứ nói tiếng quê vậy, để bà con nhân dân ta đọc cho nó vui... hì...
Tôi lo dựng tóc gáy:
Anh viết thế mà anh bảo là tiếng quê! Anh có bị đánh mất xác cũng không oan...
Về sau tôi hỏi HtLinh. Linh bảo:
- Cái thằng, nó cứ có cái lối thế. Nó cho rằng viết phải đả cái gì một tí thì mới oai. Anh em khỏi cười.
- Ai bảo nó thế?
- Ấy thế mới khỉ!...Nó cứ nghĩ như thế cơ chứ! (Trần Dần ghi, Văn Nghệ, 2001, trang 238-239)
Những dòng này chứng tỏ, trước lớp Thái Hà, Phùng Cung vẫn sáng tác đều và bút pháp của ông vẫn không hề nhụt tay trong sự châm biếm Đảng.
2- Phùng Quán, trong bài Hằng Nga thức dậy, cho biết về số truyện ngắn Phùng Cung viết trong thời kỳ này:
"Anh còn một tập truyện ngắn, đâu như tám truyện thì phải, cũng một dòng "ngựa, voi", chưa kịp ra mắt bạn đọc thì đã bị cái khách quan khắc nghiệt "bảo lưu" cùng với tài năng của tác giả. Truyện nào viết xong anh cũng đưa tôi đọc. Truyện nào cũng làm tôi say mê vì vẻ đẹp của ngôn từ. Cái kho ngôn từ dân dã của anh dường như vô tận. So với tất cả văn xuôi của tôi đã in ra, tôi có cảm giác mình là người nước ngoài viết tiếng Việt."
Phùng Hà Phủ viết: "Cũng khoảng thời gian này, [thời gian báo NV bị cấm] bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố tôi ít đến cơ quan và chỉ viết ở nhà, một số bạn thân của bố tôi thường lui tới như Trần Dần, Hoàng Cầm, Ðặng Ðình Hưng..."
Như vậy, từ cuối năm 1956 đến 1961 (khi bị bắt) Phùng Cung vẫn sáng tác, Phùng Quán được đọc một số, ngoài Phùng Quán, nhiều người khác cũng được đọc, vì theo Tô Hoài, (trích dẫn ở dưới) bài Dạ Ký lúc bấy giờ, đã nổi tiếng lắm, đã đến tai ông.
3- Phùng Cung là đảng viên (vào đảng từ khi ở Việt Bắc, chưa xác định rõ năm nào). Vậy ông phải đi cả hai lớp Thái Hà (cho đảng viên và cho người ngoài đảng). Trong kỳ học tập này, chắc ông chưa bị "tố giác".
Hoàng Cầm viết: "Tôi đi động viên Phùng Cung viết chuyện, và khi Phùng Cung viết "Con ngựa già của Chúa Trịnh" đưa tôi xem bản thảo đầu tiên, tôi có góp ý kiến vào viêc diễn tả: "Chỗ con ngựa vào cung Vua, nên tả cho đáng ghét hơn". Khi Phùng Cung đưa bản thảo lần thứ hai, tôi chữa văn và thêm nhiều câu diễn tả cảnh đẹp, diễn tả con ngựa càng ngày càng béo..." (Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ, số 12, tháng 5 năm 1958)
Lê Đạt viết: "Tôi lại viết “lời toà soạn” cho chuyện “Con ngựa già” của Phùng Cung đả kích và vu khống lãnh đạo văn nghệ không chú ý đến các nhà văn trẻ" (Những lời thú nhận của Lê Đạt, Văn Nghệ, số 12, tháng 5 năm 1958).
Hai lời "thú nhận" trên đây chứng tỏ Hoàng Cầm, Lê Đạt đều muốn "che tội" cho Phùng Cung hơn là tố giác.
4- Thái độ của Phùng Cung ở lớp Thái Hà được Trần Dần ghi trong nhật ký như sau:
29/4/58 Phùng Cung
- Nhục lắm. Mẹ nó. Mình xin về nhà có được không nhỉ? (...) Có nên xin ra biên chế không? Tôi nhìn PhCung, ái ngại cho anh quá. Đâu như trong khi học tập, anh ta "hỗn" quá, bị đuổi khỏi lớp làm sao ấy... Tôi khuyên anh, rằng nên đầu hàng đi; rằng chỉ có một con đường, "họ" là chân lý, mình đầu hàng, là phải; rằng không nên xin ra biên chế, lúc này việc ấy có thể là một sự tiến công của tư tưởng thù địch; rằng không nên coi là nhục, oan ức gì nữa, mà cứ nghĩ lại xem tổng cộng cái bồ chữ mình đã chửi vào lãnh đạo nó to như thế nào, còn oan và nhục gì nữa? PhCung xem ý không thông gì lắm. Tôi thấy khổ! Một con người có cái gan "tử vì đạo" là PhCung, than ôi, cái đạo anh định chết vì nó chính là cái đạo phản cách mạng, sao mà anh chưa tỉnh ngộ ra hử anh?" (Trang 253)
Vậy theo nhật ký Trần Dần, ở lớp học Thái Hà, Phùng Cung đã lựa chọn thái độ cứng rắn, không đầu hàng, "tử vì đạo". Trong khi Tôi khuyên anh, rằng nên đầu hàng đi.
5- Tháng 5/58, tức là thời gian ngay sau lớp Thái Hà, Trần Dần ghi tiếp về sự phải tự tố trong các bài kiểm thảo:
Ngày 7/5/58 Kiểm thảo sáng tác.
Đảng đoàn HNVăn để cả một tuần này, để cho Nhân Văn viết lại cái phần kiểm thảo sáng tác! Theo như đồng chí NxSanh [Nguyễn Xuân Sanh] nói, thì tuần trước, phần đó viết chưa sâu, vì thiếu thời giờ, thì tuần này viết lại cho kỹ. Mà phải viết sao cho có thể dùng in công khai được. Sau khi mọi người đã nộp cái của quốc cấm, nghiã là cả một đống những Nhân Văn Giai Phẩm rồi, thì tập trung ở cả một phòng, viết kiểm thảo. (...) Anh nào anh nấy lăn vào viết. Lắm hình dung từ, lắm tiếng tự phê dao búa! (...)
Tôi cũng không kém. Bao nhiêu hình dung từ phản cách mạng, phản động, phản Đảng, phản bội, chống chế độ, xét lại, tờ-rốt-kít. Không còn thiếu chữ gì. Giặc bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc địa của chủ nghĩa cá nhân đồi trụy, chủ nghĩa vô chính phủ và đầu óc làm phản v.v... Tôi sáng tác thêm nhiều chữ nữa để mà miêu tả chân tướng mình, cho nó hết lòng một thể.
Chắc các đồng chí lãnh đạo đọc một loạt kiểm thảo bọn tôi lần này thì phải bựt cười lắm đấy! "Trước kia thì nói nhẹ chúng cũng không nghe. Bây giờ thì chúng lại còn tự sỉ vả gấp triệu lần sự phê bình của lãnh đạo!" (trang 257)
6- Trần Dần mô tả tâm trạng ông và các bạn trong tình hình ấy:
Ngày 12/5/58 Tình hình
Cuộc đấu tranh cứ lộn đi lộn lại từ B [văn nghệ sĩ] sang A [trí thức], lại A sang B, báo chí cứ xoay đi xoay lại mãi, cứ như một cái nồi khổng lồ của vô sản chuyên chính, ninh đi ninh lại cho nó dừ cái chủ nghiã xét lại ra.
Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ. Không còn cách nào. Đây không phải là một sự trừng trị cá nhân; mà đây là "chúng ta" trừng trị một phong trào, một trào lưu tư tưởng của chủ nghiã xét lại... Tôi vừa là một tội nhân. Vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn" (trang 260).
Sau cùng, Trần Dần kể lại chiến thuật của mình, ông giải thích tại sao phải tố các bạn để tìm lối thoát và tố như thế nào:
21/5/58
"Thực ra, trước khi HCầm báo cáo, tôi dự định là giữ VCao và ĐđHưng lại, như là "giữ một nửa thành phố, chỉ đầu hàng một nửa" (...). Nên báo cáo tổ, bị hỏi, bị dồn, bị truy nữa, tôi vẫn giấu quanh, không chịu thúc thủ cái một nửa thành phố đó!
Đến lúc HCầm báo cáo, tức HCầm "rendre" [khai] hai ông bạn quý đó rồi. PhVũ lên tố thêm VCao. LĐạt thì chỉ xác nhận, tố thêm tí tỉnh, còn bao che ĐđHưng nhiều. Hơn nữa, qua báo cáo HCầm và LĐạt, thì tôi "được" đưa lên mũi nhọn, "được" hội trường chờ đợi rất ghê!
Bão lúc ấy chầu chực trên đầu lâu tôi!
Tôi phải tính kế, vừa thoát thân, vừa thoát cho 4 thằng đang bị dồn đánh ghê gớm (TD, HC, LĐ, TPh) [Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Tử Phác] vừa để sao cho VCao, ĐđH hiểu mình, qua cái ý ngầm của bản báo cáo!
Cụ thể, tức là tôi nghĩ rằng: "Bây giờ chỉ còn con đường duy nhất, là đầu hàng Đảng. Không có con đường khác. Mà đã hàng thì hàng thực sự, về sau mới thực sự trời êm bể lặng được. Thế nào là hàng thực sự? Hàng thực sự là: mỗi người phải ra mà gánh lấy cái phần bão, do chính trách nhiệm mình gây ra! 4 thằng đang chịu cái trận bão đó rồi, còn hai ông anh VCao, ĐđHưng thì xin nhờ đến vai hai ông, mang vác lấy cái phần của các ông! (...)
Thực tế đã chứng minh cho giá trị chủ trương đó. Quả nhiên: ngay trong lớp học, bão cũng đã ngàn đi dần dần trên đầu 4 thằng, và sau khi chuyển mạnh sang đầu 2 thằng kia ít bữa, rồi nó cũng ngàn đi.
Đến sau lớp học nữa, thằng nào cũng đều được sống trong một không khí được giải vây tương đối dễ thở. Với thời gian chắc nó sẽ càng dễ thở hơn.
Chỉ có cái là trong bộ 6 [Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng] thì có một sự phân hoá của trách móc, hằn thù... HCầm có vẻ khổ! LĐạt tự cho mình là oai nhất, "đúng nhất, vừa mức nhất, không vấy cho ai!", LĐạt cho tôi là "quá mức!", ĐdHưng thì kẻ cả: "Tất nhiên có chuyện đó, nhưng đã thuộc lịch sử rồi. TPhác khó hiểu, vừa ghét HCầm, vừa ghét VCao mà vẫn nối lại một phần, còn đối tôi thì lại bảo là: "anh ghê nhất, anh giỏi nhất!" (trang 267-268).
Những trang nhật ký trên đây của Trần Dần, giải thích sự kiện tại sao những con người như ông phải đầu hàng trước hệ thống cưỡng bách thẩm vấn trong chế độ toàn trị, chúng cho biết thêm về điều kiện viết những bản tự thú hoặc tố giác người khác, đồng thời vô hiệu hoá giá trị những văn bản này trong một chế độ dân chủ.
Phùng Cung bị bắt
1- Họa sĩ Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn, trong bài "Một câu hỏi còn chưa được trả lời" đăng ngày 10/7/2009 trên Talawas, viết:
"Chính việc anh Phùng Cung bị bắt làm tôi rất lo sợ và đau buồn, vì Phùng Cung không tham gia Nhân văn ngoài bài viết “Con ngựa già của Chúa Trịnh” nhằm vào một nhân vật có tên tuổi trong Hội Nhà văn (Nguyễn Tuân). Nhưng vì anh Phùng Cung có một số bài viết đầu tay đã chuyển cho một số đàn anh xem để biết, rồi không hiểu bằng cách nào đó những bản thảo ấy lại vào tay lãnh đạo (tôi không được đọc những bài viết ấy) (...)
Tôi nhớ một cuộc họp tại trụ sở Hội Nhà văn ở đường Nguyễn Du năm 1957 dưới sự chủ tọa của Hà Minh Tuân, Nguyên Hồng… người đến họp có đông văn nghệ sĩ, trong đó có Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần…, qua những câu hỏi, những lời xác minh của các anh Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần thì đúng Phùng Cung là tác giả của những bài viết kể trên, và như vậy bản án đã úp lên đời Phùng Cung một tội trạng. Tôi còn nhớ câu của Nguyên Hồng nói sau khi kết thúc buổi họp: “Các anh lúc bình thường đối xử với nhau có vẻ trí thức lắm, nhưng lúc có sự việc xảy ra thì các anh đối xử với nhau không bằng lũ chăn trâu!”. Ra đến cổng anh Nguyên Hồng vỗ vào vai tôi và bảo: “Đã biết sợ chưa!”.
Quả tình tôi rất sợ, tất nhiên sợ về pháp luật là chính nhưng sợ hơn nữa là nhân tâm con người, sự tàn nhẫn của những con người đã bán rẻ nhân phẩm của mình để tự cứu mình, giẫm lên sinh mạng của những người khác để tự thoát thân".
Theo họa sĩ Trần Duy, thì việc Phùng Cung bị tố giác xẩy ra năm 1957, và Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần là những người tố, việc tố này đã khiến Phùng Cung bị kết án.
Chúng tôi so sánh với những tài liệu khác thì không thấy nơi nào ghi năm 1957 đã có việc tố giác Phùng Cung. Vậy có thể họa sĩ Trần Duy đã nhớ lầm vài năm. Hầu hết đều ghi sự việc bắt đầu vào khoảng cuối năm 1960 trở đi, nghiã là sau lớp học Thái Hà hơn một năm.
2- Phùng Hà Phủ viết: "Một buổi sáng như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúc đó hai anh em tôi còn nhỏ, chưa đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà gia đình tôi ở bị công an mang xe ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi khám nhà và tịch thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Ðó là tháng 5/1961. Kể từ ngày đó mãi cho đến thời gian chuẩn bị ký hiệp định Paris (1973), tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. Thời gian đầu bố tôi bị giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), sau đó đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Yên Bình (Yên Bái), Phong Quang (Lào Cai)".
"Bố tôi bị bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là đi tập trung cải tạo (...)
Sau này lúc mãn hạn tù, mẹ tôi mới biết bố tôi luôn là đối tượng bị giam cấm cố trong xà lim, bị hạn chế tôi đa tiếp xúc với thân nhân.
Nhớ lại theo bố tôi kể "khi xẩy ra chuyện", buổi sáng đó bố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Đến nơi thấy mọi người xung quanh đều có ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả những bạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt. Ngay sau đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thực chất gần như một buổi đấu tố thời "cải cách" của liên hiệp Hội văn học nghệ thuật (gồm cả đại diện bên văn nghệ quân đội). Chủ trì cuộc đấu tố gồm các ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh... Cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất đối với bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi như vậy đều tham gia vào việc "đấu tố". Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên "tố" để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị "tố" là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình. Lôi kéo người khác cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác - Tất cả nội dung đều tập trung vào lãnh tụ và Đảng cộng sản như: Dạ ký, Chiếc mũ lông, Quản thổi, Kép Nghế... Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia làm báo Nhân Văn nhưng theo mẹ tôi còn nhiều lý do khác nữa (...)
Từ ngày ra tù bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quan hệ với ai ngay trong các bạn văn quen biết cũ. Những người trực tiếp "tố" bố tôi ngày xưa đều cảm thấy hối hận về việc làm của mình và xin lỗi bố tôi." (Trích Phùng Cung truyện và thơ (Văn Nghệ 2003)
Phùng Hà Phủ, không ghi rõ ngày "xẩy ra chuyện" (khi đó hai anh em mới 4 tuổi và 2 tuổi), chỉ thuật những gì nghe cha mẹ kể lại, có những chi tiết phù hợp với những điều Nguyễn Hữu Hiệu viết trên báo Khởi Hành.
3- Nguyễn Hữu Hiệu viết:
"Theo lệ thường, mỗi năm, hội viên Hội Nhà Văn phải viết bá cáo, tự thuật, tự đánh giá mình đọc trước lãnh đạo.
Trong đợt học tập cuối năm 1960, tổ học tập gồm bọn bốn người cứng đầu kia [Phùng Cung, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt] bị trực tiếp đặt dưới quyền tổ trưởng Võ Hồng Chương [chắc là Võ Hồng Cương]. Trong đợt học tập này T.D. được lãnh đạo viết bản tố cáo dài gần 40 trang viết tay chữ nhỏ như kiến. Phùng Cung bị đấu hai buổi trước đông đảo văn nghệ sĩ tại trụ sở Hội Nhà Văn; bị tố cáo là tên phản động ngoan cố nhất của "Nhân Văn Giai Phẩm".
Chế Lan Viên, cuối cùng, mới đứng lên đề nghị phải lập tức điều Công an đến khám nhà và bắt Phùng Cung.
Nỗi đau nhục bị phản bội chưa qua thì họa khám nhà đã đến. Ngày 19 tháng Chạp năm Canh Tý 1960 [thực ra ngày 19 tháng Chạp năm Canh tý là ngày 4/2/1961]. Công an vây kín ngõ, xồng xộc vào nhà, lục soát, dầy xéo lung tung, tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ. Phùng Cung bị đưa vào Hỏa Lò Hà Nội.
Sau đó, ông bị đưa đi biệt giam qua các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái), Bảo Thắng (Lào Kai) từ đầu 1961 đến cuối 1972. Suốt trong mười một năm bị biệt giam, Phùng Cung bị lao nặng và nhiều bệnh trầm kha khác. Khi được phóng thích ông vẫn bị quản chế rất chặt tại địa phương"
Khi làn sóng Dân chủ đích thực -giấc mơ đời của Phùng Cung- dâng lên de dọa nhận chìm Liên Xô "Thành đồng của Cách Mạng" thì Phùng Cung không được làm "bất cứ việc gì liên quan đến chữ nghĩa" kể cả việc làm gia sư. Đều đặn hàng tuần Công an đến nhà thăm hỏi sức khoẻ, ngồi ì trong nhà khiến không ai dám bén mảng tới. Đông Âu sụp đổ, hình thức quản chế cũng theo đà "đổi mới" theo, nghiã là Công an vẫn đến thăm hỏi như xưa nhưng nhẹ nhàng và ít thường xuyên hơn.
Hiện Phùng Cung đang sống lây lất với gia đình tại một căn nhà âm u, lụp xụp tại vùng Quần Ngựa ngoại thành cũ". (Nguyễn Hữu Hiệu, Phùng Cung, Khởi Hành, Bộ mới số 1, tháng 11/1996, trang 7).
Chế Lan Viên ra lệnh bắt Phùng Cung
Tổng hợp những thông tin của Phùng Hà Phủ, Nguyễn Hữu Hiệu và Trần Duy, chúng ta có thể xây dựng lại một thực tại như sau:
Trong đợt học tập cuối năm 1960, T.D. [chắc là Trần Dần], được chỉ định viết bản tố cáo dầy gần 40 trang, [Trần Dần cũng xác nhận việc phải khai các bạn, và các bạn khai mình, để tìm lối thoát, trong nhật ký]. Sau bài tố của Trần Dần, Hoàng Cầm và Lê Đạt, phải đứng lên phụ họa, xác định các tác phẩm mà Phùng Cung viết trong mấy năm qua ngụ ý chống đảng là có thật.
Màn bi kịch này có thể đã được dàn dựng trước, với những yếu tố sau đây:
- Sau khi NVGP bị đình bản, Phùng Cung vẫn tiếp tục sáng tác và ngoài bộ ba Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt còn nhiều người được đọc các sáng tác này, vì họ vẫn công khai trao đổi văn chương ở trụ sở Hội Nhà Văn (khoảng 18 tháng, từ đầu năm 1957 đến tháng 8/58 khi Trần Dần, Lê Đạt bị đi cải tạo đợt đầu). Đặc biệt bài Dạ Ký, dường như đã "nổi tiếng" lắm trong giới văn học và công an đương thời:
"Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất Đông Dương". Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm" (Tô Hoài, Cát bụi chân ai).
"Quả thật sau đợt học tập này [Thái Hà], những anh em "Nhân Văn" hầu hết đều không dám qua lại nhà nhau, có chạm mặt ở cơ quan cũng không dám chào hỏi nhau, len lén cúi đầu sợ sệt. Riêng có bọn "chúng nó bốn thằng" là Phùng Cung, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt vẫn bất chấp, ngang nhiên quấn quýt, trao đổi văn chương, chuyện trò rôm rả, nhất là khi gặp nhau tại trụ sở Hội Nhà Văn 84 Nguyễn Du. Thái độ ngông nghênh này làm gai mắt lãnh đạo. Khi nào Công an chịu bỏ qua?" (Nguyễn Hữu Hiệu).
- Cuối 1960, đầu 1961, khi Phùng Cung bị gọi lên kiểm thảo, bộ ba Trần Dần, Hoàng Cầm Lê Đạt đã bị đánh tan nát. Trần Dần, Lê Đạt, phải đi chăn bò, chăn trâu, bị cách ly. Trong hoàn cảnh như vậy, liệu họ còn có thể từ chối khi "được" chỉ định phải tố Phùng Cung hay không?
- Hay đây chỉ là sự dàn cảnh để mọi người thấy rõ "bộ mặt tồi tệ của bọn Nhân Văn", "bọn chúng tố cáo lẫn nhau" đây, và để cho Chế Lan Viên có cớ ra lệnh khám nhà và bắt "tên phản động" Phùng Cung.
- Chế Lan Viên đã đóng đúng vai trò Tố Hữu trong việc bắt Trần Dần, nhưng một cách "đường đường chính chính", không ám lậu như Tố Hữu.
- Ba người nắm hồ sơ và hoạt động đắc lực nhất trong vụ thanh trừng NVGP là Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông và Đào Vũ. Nhưng Chế Lan Viên khôn khéo hơn hai người kia, ông không viết bài đánh nên không có văn bản "để đời".
Nhưng ông thù Phùng Cung vì bài Dạ Ký, trong đó Phùng Cung vẽ biếm họa một số chân dung văn học, đặc biệt bốn vị "tứ bất tử": Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh và Nguyễn Đình Thi, có thêm "đương kim vô địch khôn" Tô Hoài, và vẽ cả các bạn đồng hành Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
Tất nhiên Chế Lan Viên không thể thích bức chân dung "nhà thơ giả thiểu số" chuyên dùng khoa "Phật vận" tức là "lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay" mà Phùng Cung hoạ về mình. Bài Dạ Ký đối với bốn vị lãnh đạo văn nghệ "tứ bất tử" là không thể chấp nhận được. Đặc biệt với Chế Lan Viên, sự "phạm thượng" có thể sánh ngang vụ Việt Bắc đối với Tố Hữu.
- Phùng Cung bị bắt và bị tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ (theo Nguyễn Hữu Hiệu). Vậy những bản thảo này hiện ở đâu? Từ khi được tha về cho đến lúc mất, Phùng Cung chỉ viết lại (hay sửa lại) được 10 truyện ngắn, in năm 2003 tại hải ngoại.
Như vậy, có thể nói, bài Dạ Ký là cái họa lớn của Phùng Cung, lớn hơn Con ngựa già của chúa Trịnh.
Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế
Trong Cát bụi chân ai, viết về Phùng Cung năm 1990, giọng Tô Hoài vẫn còn cay đắng:
"Tan lớp ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt. Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội văn nghệ từ trên Tuyên Quang. Ở rừng những việc tủn mủn không tên, sổ sách công văn, giữ thư viện, làm lán mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan... Nghĩ đến Phùng Cung, tôi nhớ những việc linh tinh hàng ngày ở cơ quan kháng chiến (...) Phùng Cung ở cơ quan nào dạt đến, không nhớ. Chơi vui, cũng không để ý, kể cả việc hệ trọng khi tôi nhờ Phùng Cung đi đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy. Đọc truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh" của Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù đại khái "thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ". Cũng điếu đóm tập tành như mình ngày xưa, đâu đã mà có sừng có mỏ ngay.
Phùng Cung bị bắt khi "nhân văn, nhân võ" đã được dọn dẹp êm ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất Đông Dương". Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm".
Tôi không thể tưởng tượng một Phùng Cung thế nào, tôi không biết được. Tôi vẫn mơ màng chúng tôi, cây số ba, cây số bảy trên Tuyên, phở Dơi, cà phê Pháo, anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột. Về Hà Nội, đôi ba lần chúng tôi láng cháng lên cà phê Phúc Châu phố trên. Hình như Phùng Cung quê ở Sơn Tây và nỗi nhà địa chủ phú nông thế nào đấy, cũng không bao giờ nói và tôi cũng không hỏi.
Lại bao nhiêu năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.
- Phùng Cung phải không?
- Tôi đây.
- Còn sống về được à?
- Cũng không hiểu tại sao anh ạ.
(...)
- Anh có biết tôi phải tù bao nhiêu năm?
- Không biết.
- Vâng tù biệt giam mười một năm.
Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù. Thế nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại lâu lắm không gặp gỡ. Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng một hôm, có người sở Công an đến nhờ tôi ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung làm việc, trước khi phải tù.
Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy.
- Chứng nhận để làm gì?
- Có liên tục công tác mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục ạ.
- Liên tục cả ở cơ quan nhà tù?
Anh công an cười hồn nhiên, chào"cám ơn bác".
Gần đây, nghe Phùng Cung đã chuyển lên ở trên Quần Ngựa. Nghe nói đã khấm khá, làm nhà mới. Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời? Định có hôm nào lên chơi, vẫn chưa đi được." (Cát bụi chân ai, Bản Hồng Lĩnh, Cali, 1993, trang 120-123).
Những dòng trên đây phản ảnh khá rõ tình cảm Tô Hoài dành cho cái xóm "nhà lá" mà ông gọi mỉa là "nhân văn, nhân võ". Đặc biệt Phùng Cung, hồi trẻ, được ông mô tả: "anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột". Người thanh niên này làm việc dưới quyền ông, chỉ được ông giao cho việc vặt, đại loại "công tác chạy hiệu", "Ở rừng", làm "những việc tủn mủn", "đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan"... Việc quan trọng nhất được ông sai là "đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy". Và khi đọc Con ngựa già của chúa Trịnh, ông nghĩ "thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ". Sau khi đi tù 12 năm, về, đến thăm, ông rủa thầm "Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù".... Thế mà vẫn không chừa, vẫn lại chứng nào tật ấy: "Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời?"
Những dòng này viết năm 1990, hơn bốn mươi năm sau khi NVGP bị dẹp, mà giọng Tô Hoài vẫn chưa thôi miệt thị và hằn học, như vậy đủ biết mấy trang Dạ Ký của Phùng Cung, nặng nợ như thế nào.
Nhưng chỉ một Dạ Ký thôi, có lẽ chưa đủ để "lĩnh án" 12 năm. Dạ Ký là cái cớ đầu tiên cho những người lãnh đạo văn nghệ bị Phùng Cung biếm họa nổi giận. Để Chế Lan Viên ra lệnh bắt. Việc tù tội tiếp sau, dựa trên toàn bộ tác phẩm thơ văn của Phùng Cung, một nội dung đào sâu vào tận gốc chính sách tiêu diệt văn hoá của đảng, áp dụng từ cách mạng tháng Tám:
"Giải thoát" và "Mộ phách" viết về sự bức tử nghề ca trù và tuồng chèo cổ.
"Biệt tích" là sự thủ tiêu nghề thợ mộc chân chính.
"Mạt kiếp" là cái đói và cái chết của người cùng đinh.
"Phòng tuyên truyền điạ ngục" là cơ quan dụ dỗ con người bỏ trần gian để về với thiên đường địa ngục...
(Đọc tiếp chương 2: Mộ Phách - Mồ chôn văn hoá)
Phần XIV: Phùng Cung - Chương 1: Tại sao Phùng Cung bị bắt, bị biệt giam không có án?
Đăng ngày: 05/06/2010 - 20:31
Sửa đổi ngày: 30/01/2013 - 18:56 - rfi
Bìa tập "Truyện và Thơ" do Nhà Xuất Bản Văn Nghệ (Hoa Kỳ) phát hành
Thụy Khuê
Tư tưởng của Phùng Cung độc đáo và ngược hướng với những người cùng thời, kể cả các thành viên NVGP và thế hệ ngày nay, trên nhiều địa hạt: Bảo tồn văn hoá, lòng ái quốc, cách mạng mùa thu, kháng chiến chống Pháp, chiến tranh Nam-Bắc, tình nước và tình người. Chưa một nhà thơ, nhà văn nào dám đi xa như thế, viết những lời đả phá mãnh liệt như thế về quốc ca, quốc thiều, về cách mạng mùa thu, về chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản, về những tín điều đã mê hoặc người Việt Nam trong suốt thế kỷ qua. Và đó là lý do chính khiến Phùng Cung bị 12 năm tù, không có án.
QUẢNG CÁO
Tìm hiểu Phùng Cung là tìm hiểu nguồn tư tưởng yêu nước đối lập với quan niệm chính thống và đi ngược lại niềm tự hào dân tộc cố hữu, nhưng sẽ là kim chỉ nam cho một con đường dân tộc mới: con đường chuyển giáo dục chiến tranh và giáo dục hận thù thành giáo dục hoà bình và giáo dục văn hoá.
Bao nhiêu người bị liên lụy trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm ?
1- Danh sách những người trong nhóm "phá hoại" Nhân Văn Giai Phẩm được chính thức ghi nhận trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận năm 1959, như sau:
"Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị [Thái Hà ấp] nói trên, chúng ta được biết nhóm phá hoại "Nhân văn-Giai phẩm" bao gồm những tên "đầu sỏ", những "cây bút" đã viết "hoặc nhiều hoặc ít" cho "Nhân văn-Giai phẩm" như: Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh v.v...
Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải tất cả những "cây bút" trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ họa, có người bị lôi cuốn vì ngây thơ chính trị... (Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1959, trang 309-310).
Trong danh sách trên đây có 34 người bị nêu tên.
2- Danh sách những người có tên trên 5 số báo Nhân Văn và 5 tập Giai Phẩm: Nguyễn Hữu Đang, Minh Đức (Trần Thiếu Bảo), Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Duy, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, Sỹ Ngọc, Tử Phác, Tô Vũ, Nguyễn Bính, Quang Dũng, Phan Khôi, Hữu Loan, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Phác Văn, Huy Phương, Lê Đại Thanh, Hoàng Yến, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Công, Hoàng Huế, Hồng Lực, Bùi Xuân Phái, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Bùi Quang Đoài, Mai Hạnh, Chu Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trúc Lâm, Phan Vũ, Hoàng Tích Linh, Đặng Văn Ngữ, Trần Thịnh, Hữu Tâm, Thanh Bình, Trần Phương, Thanh Châu, Châm Văn Biếm, Hoàng Tố Nguyên, Cao Nhị, Trần Hải An... gồm 47 người.
Hai danh sách trên đây không hoàn toàn giống nhau, vì ngoài Nhân Văn và Giai Phẩm, còn có một số sách báo khác, cùng xu hướng, như Đất mới của Sinh viên, hoặc Tự do diễn đàn (nghị luận, số 1, ra ngày 10/12/ 56 Minh Đức xuất bản, vừa phát hành đã bị tịch thu), Sách Tết 1957, do Minh Đức in đầu năm 1957; hoặc tạp chí Sáng tạo (kịch trường và điện ảnh) của nhóm Trần Thịnh-Trần Công. Ngoài ra còn có những bài in trên các báo khác như báo Văn năm 1957, sau khi NVGP bị đình bản.
3- Trong một tài liệu mới nhất, LHN cho biết: "Số người gọi là tham gia NVGP tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, do tác giả [LHN] thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người. Bởi vì các ấn phẩm của phong trào NVGP đã được đón nhận nồng nhiệt, được hưởng ứng không chỉ ở Hà Nội, mà xuống đến tận các vùng nông thôn miền núi." (Trích bài nghiên cứu chưa công bố của LHN).
Như vậy chúng ta tạm nhận con số gần 100 người bị xử lý nặng, do LHN đưa ra, cho đến khi nào có những chứng từ khác.
Trong danh sách chính thức năm 1959, thiếu tên hai người: Phan Tại và Phùng Cung, mặc dù cả hai đều bị đi tù, có thể vì Phan Tại và Phùng Cung, năm 1959, chưa bị tố giác. Nhưng hai trường hợp này cần tìm hiểu.
Phan Tại không viết bài trên cả Nhân Văn lẫn Giai Phẩm. Còn Phùng Cung với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh, tác phẩm có giá trị tương đương với Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, nhưng ý nghĩa kín đáo, khó có thể kết tội công khai được.
Phan Tại và nhóm Sáng Tạo trong điạ hạt điện ảnh kịch trường
Trong phiên toà ngày 19/1/1960, xử Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Lê Nguyên Chí (người giúp Nguyễn Hữu Đang trốn vào Nam), Phan Tại bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm mất quyền công dân.
Tại sao kịch tác gia Phan Tại, chủ đoàn kịch Sông Nhị, lại bị kết án nặng như vậy? Tội của ông là tội gì?
Tổng hợp lời những nhân chứng, những bài viết, ông đã "phạm những tội" sau đây:
- "Chứa chấp" Thụy An (bà Thụy An ở chung nhà với ông bà Phan Tại).
- Nhà Phan Tại - Thuỵ An là một "câu lạc bộ văn nghệ" (tập kịch, chiếu phim, hội họp).
- "Nhóm" Thụy An-Phan Tại cùng với nhóm Sáng Tạo của Trần Thịnh-Trần Công chủ trương thành lập một hội điện ảnh độc lập. Đả phá phim tuyên truyền của Liên Xô. Đổi mới kịch nghệ và điện ảnh theo đường lối Tân hiện thực (Néoréalisme) Ý và Nhật. Thụy An, Cao Nhị, Nắng Mai Hồng, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam...viết những bài giới thiệu, phê bình điện ảnh. Tổ chức chiếu lại những phim hay đã chiếu ở Hà Nội trước 1954, do Thụy An viết thuyết minh. Chiếu những kiệt tác tân hiện thực như Miếng cơm cay đắng (Riz amer), Chiếc xe đạp (La bicyclette) của Ý, Rashomon, Những đứa trẻ Hiroshima, Anh gắng nuôi con của Nhật...
Những người trong Sáng Tạo như đạo diễn Trần Thịnh (chủ nhiệm Sáng Tạo), Trần Công, Chu Ngọc, Phan Vũ, Cao Nhị, v.v... đều có bài đăng trên NVGP.
Trong bài Đi tìm dấu tích tờ báo Sáng Tạo (Hà Nội, 1956) công bố trên Talawas ngày 3/2/2010, Lại Nguyên Ân cho biết: Sáng Tạo ra được hai số: Số 1 (5/11/1956) và số 2 (20/11/1956). Trong đợt đánh Sáng Tạo, Trần Đức Hinh, chủ nhiệm tờ Điện Ảnh của Cục điện ảnh, viết:
"Nửa tháng "Liên hoan phim Liên Xô" khai mạc vào ngày 7-11-56, thì đúng ngày 5-11-56, Giai phẩm mùa thu tập III xuất bản, trong đó có đăng bài "Chúng ta gắng nuôi con", hoạt cảnh của Chu Ngọc, đả kích không tiếc lời vào phim Liên Xô. Cùng ngày 5-11-56, báo Sáng Tạo ra số đầu, đã lộ ngay ý định xấu đối với phim Liên Xô (...) Những bài như trên phải được đặt bên cạnh bao nhiêu bài khác của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, v.v… đang nhan nhản lúc bấy giờ ở các số Nhân văn, Giai phẩm thì mới thấy đầy đủ tính chất nguy hiểm của nó" (Trần Đức Hinh "Tẩy sạch nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong việc giới thiệu, phê bình phim ảnh", Điện ảnh số 14, ngày 1/5/58, tài liệu của Lại Nguyên Ân).
Như vậy, có thể nói: song song với Nhân Văn và Giai Phẩm, đã có một phong trào điện ảnh kịch trường, do hai nhóm Phan Tại-Thụy An và Trần Thịnh-Trần Công chủ trương.
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như vậy, không chỉ giới hạn trong phạm vi văn học, mà còn lan rộng ra các ngành nghệ thuật khác, để trở thành cuộc cách mạng văn hóa toàn diện của các trí thức văn nghệ sĩ miền Bắc, đòi tự do sáng tác và tự do dân chủ.
Phan Tại, bị đi tù 6 năm, kèm 3 năm quản thúc, có thể vì những tội: "cấu kết" với Thụy An, là một trong những người "lãnh đạo" phong trào điện ảnh kịch trường cùng với Trần Thịnh-Trần Công trong nhóm Sáng Tạo.
Trường hợp Phùng Cung
Phùng Cung đại diện cho tất cả những người bị tù không có án, thậm chí không có lý do, hoặc lý do mơ hồ, khó hiểu, trong danh sách hàng trăm người bị xử lý nặng, hoặc hàng ngàn người, đã "liên hệ" xa gần với NVGP, với nhóm "Xét lại chống đảng" những năm sáu mươi.
Mỗi cá nhân là một trường hợp, là một chân dung bị xoá, bị đưa đi biệt tích, trong cô đơn, đau khổ.
Phùng Cung cũng là khuôn mặt văn nghệ sĩ cuối cùng trong nhóm NVGP mà chúng tôi đề cập trong loạt bài chân dung này, trước khi bước sang địa hạt trí thức. Nhưng không có nghiã là những người khác không có giá trị: Mỗi con người đã góp phần vào việc đấu tranh cho dân chủ của đất nước Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến ngày nay là một giá trị, một biệt cách. Chỉ riêng trong phong trào NVGP không thôi, sự can trường của Hữu Loan không giống sự can trường của Phùng Cung. Lòng nhiệt tình của Phùng Quán không dễ ai sánh được. Sự góp phần của Bùi Xuân Phái không giống Nguyễn Sáng. Kịch của Hoàng Tích Linh không giống kịch của Chu Ngọc... Mỗi nghệ sĩ, mỗi tác giả là một chân dung, mà ký ức lịch sử và văn học sẽ không thể bỏ qua.
Sau này, khi nhắc đến Phùng Cung, người ta thường cho rằng ông bị tù vì truyện "Con ngựa già của chúa Trịnh". Sự thực có lẽ phức tạp hơn nhiều, nó nằm trong toàn bộ thái độ sống và sáng tác của Phùng Cung. Bài viết này cố gắng tìm hiểu những nguyên do sâu xa đã đưa Phùng Cung vào vòng tù tội và bị theo dõi suốt đời. Nguyên do ấy có thể tóm tắt như sau:
Một tinh thần bất khuất không đầu hàng bạo lực cách mạng.
Một sự nghiệp thơ văn chống lại chiến tranh và xây dựng văn hoá dân tộc.
Tiểu sử Phùng Cung
Những chi tiết đáng tin cậy nhất về Phùng Cung nằm trong bài Nhà thơ Phùng Cung của Phùng Hà Phủ, con trai Phùng Cung, nay đã qua đời.
Phùng Cung sinh ngày 18/7/1928 tại làng Kim Lân, xã Hồng Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên. Mất ngày 9/5/1998 tại Hà Nội. Quê tổ ở xã Cam Lâm, quận Đường Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Vĩnh Yên (quê sinh) và Hà Tây (quê tổ) của Phùng Cung đều thuộc tỉnh Sơn Tây. Họ Phùng ở Cam Lâm dòng dõi Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương).
Là con trưởng một gia đình giàu có, đông con. Phùng Cung được gửi đi trọ học ở thị xã Sơn Tây. Có bằng Trung học (Brevet). Tháng 4/45, Nhật đảo chính Pháp, Phùng Cung trở lại quê nhà. Tháng 9/45, Phùng Cung (17 tuổi) được bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu-Liên Châu. Tên xã do ông đặt và tên ấy vẫn còn giữ đến ngày nay. Phùng Cung làm chủ tịch xã được 2 năm. Đến tháng 10/1947, Pháp chiếm Tông và Sơn Tây, Phùng Cung chạy lên Việt Bắc cùng mấy anh em trai. Tại quê nhà, gia đình ông bị liên lụy vì có con đi làm cách mạng.
Phùng Hà Phủ viết: "Khi lên chiến khu, bố tôi làm công tác thông tin ở liên khu 10 Việt Bắc, cơ quan thông tin của ông Nguyễn Tấn Gi Trọng (bác sĩ Trọng sau này làm công tác chuyên môn tại trường Ðại học Y Dược Hà Nội và là người giúp mẹ tôi theo học lớp dược tá khi hòa bình lập lại). Sau một thời gian làm tại liên khu 10, bố tôi mới chuyển sang an toàn khu và làm công tác văn nghệ, cùng sống và làm việc với các ông Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài,... cho đến khi hòa bình lập lại (1954) thì cùng với cơ quan Hội văn nghệ về tiếp quản thủ đô Hà Nội." (Phùng Hà Phủ, Nhà thơ Phùng Cung, in trong Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản (Văn Nghệ, California 2003), in lại trong Phùng Cung (Trung tâm dân chủ cho Việt Nam, Canada 2004); bài có trên Talawas).
Trong thời kỳ Cải cách ruộng đất, gia đình ông bị quy vào thành phần địa chủ cường hào. Cha ông bị đem ra đấu tố, rồi bị đưa lên giam giữ ở trại Cò Nỉ - Thái Nguyên. Khi ấy, Phùng Cung đang làm việc trong cơ quan văn nghệ kháng chiến ở Tuyên Quang.
Phùng Hà Phủ viết: " Khi bố tôi hay tin, bố rất nóng lòng chuyện nhà và muốn quay về xem sự thể ra sao. Những bạn bè thân trong cơ quan biết chuyện như ông Tô Hoài (lúc này đang phụ trách công tác Ðảng - Ðoàn của Cơ quan văn nghệ) đều khuyên nên thật bình tĩnh, chờ Ðảng sẽ sửa sai. Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ, chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phía sau trại giam và chỉ cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của cụ, bố tôi quay ngay về Hà Nội, bố rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh mọi sự tiếp xúc với bên ngoài." (Bài đã dẫn)
1954, Phùng Cung làm việc tại Hội Văn nghệ.
1956, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh đăng trên Nhân Văn số 4.
Tháng 5/1961 (theo Phùng Hà Phủ), công an đến nhà bắt Phùng Cung. Theo Nguyễn Hữu Hiệu, thì đó là ngày "19 tháng Chạp năm Canh Tý" [tức là 4/2/1961]. Ông bị tịch thu tất cả bản thảo và bị giam vào Hỏa Lò Hà Nội. Rồi bị chuyển đi các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái) và Phong Quang (Lào Cai), bị tù 12 năm, với 11 năm biệt giam, không có án.
Trong suốt thời gian từ tháng 2/58 (bắt đầu lớp Thái Hà) đến tháng 5/61, khi ông bị bắt, trong hơn ba năm, Phùng Cung vẫn sáng tác đều và không hề nhụt tay trong sự lên án chế độ.
Tháng 11/1972 ông được tha về.
Ông làm nghề thợ đinh trong những ngày tháng còn lại, ông vẫn âm thầm sáng tác, vẫn bị công an đến thăm dò và kiểm soát. Ông phải chép bản thảo làm nhiều bản gửi nhiều nơi.
Phùng Cung mất năm 1998 tại Hà Nội.
Sáng tác và sáng tác trong tù / Bản thảo và gửi giữ bản thảo
1- Nguyễn Chí Thiện cho biết ông gặp Phùng Cung tại trại Phong Quang, Yên Bái năm 1970, Phùng Cung đang nằm bệnh xá vì bị lao phổi. Trong những trao đổi của ông với Phùng Cung có câu:
"- Anh tù đã 10 năm rồi, anh sáng tác được nhiều không?
Anh Cung lắc đầu:
- Mấy năm đầu rầu rĩ, lo nghĩ về vợ con, không làm gì được. Sau đó có viết một số truyện ngắn trong đầu, nhưng không nhớ nổi. Đành chuyển sang thơ. Làm cũng được ít thôi, độ vài chục bài" (Nguyễn Chí Thiện viết về Phùng Cung, Phùng Cung truyện và thơ, nxb Văn Nghệ, 2003, phần phụ lục, trang 397).
2- Phùng Quán viết: Sau mười hai năm cách ly đời thường, Phùng Cung như xa lạ với môi trường văn nghệ. Được trả lại tự do, việc đầu tiên là anh cùng với vợ sửa lễ "Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở về quê quán". Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, gỉ sắt, mỡ rán vẫn không át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên mặt bàn" (Phùng Quán, Hằng Nga thức dậy, tài liệu Talawas).
3- Về việc bản thảo và giữ gìn bản thảo, Ngô Minh thuật lại bối cảnh khi được Phùng Quán dẫn đến gặp Phùng Cung lần đầu, năm 1986:
"... rồi ông đứng lên mở ngăn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: “Sau mười hai năm khổ ải, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm.” Phùng Cung trầm ngâm: “Quán ạ, mình cố quên hết văn chương. Nhưng không sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê nhà. Nhưng bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng dưng chú cười hỏi: ‘Chào bác Phùng Cung, nghe nói dạo này bác lại viết thơ nữa à?’ Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá. Tập thơ này toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có "chuyện gì" trong đó cả. Nhưng nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình cho chắc.”(...)
Phùng Quán đưa cho tôi xem tập thơ chép tay. Tập vở mỏng, giấy học trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn, có bài chỉ hai ba câu, bốn năm câu giống như thơ Haiku của Nhật Bản, nét chữ Phùng Cung viết bằng bút chì rất nắn nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả. Tôi liếc bài thơ hai câu đầu tiên nhan đề là “Bèo”, bỗng nổi da gà: Thơ ghê quá, bất ngờ quá:
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh (...)
Trên đường về lại Hồ Tây, tôi bảo anh Quán: “Anh để em giữ tập thơ này cho. Anh giữ cùng chưa chắc an toàn”. Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi mang vào Huế. (...)
Tôi đã chọn hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút chì của Phùng Cung cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập Sông Hương, sau này một giai đoạn là Tổng biên tập. Tạp chí Sông Hương năm 1988 đã hai lần giới thiệu thơ Phùng Cung với những bài như “Nghiêng lụy”, “Bèo”, “Người làng”, “Chiếc lá rụng”, “Cô lái đò”, rút trong tập thơ chép tay bằng bút chì ấy. Có thể nói văn chương Phùng Cung lần đầu tiên sau 32 năm kể từ Con ngựa già Chúa Trịnh (1956) mới được xuất hiện trở lại, đã gây ấn tượng mạnh đối với độc giả Sông Hương và cả nước. Chắc chắn những ngày cuối năm 1988 ấy ông vui lắm.
Gần đây tôi mới biết, khi nhà thơ Phùng Quán còn sống, một lần nữ nhà văn Hà Khánh Linh ở Huế ra Hà Nội, anh Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ Phùng Cung ở Bưởi. Buổi trưa hôm đó Phùng Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu Đang mời cơm nữ sĩ Hà Khánh Linh. Tại bữa cơm ấy Phùng Cung cũng đưa cho Hà Khánh Linh một tập thơ chép tay như thế, nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải bút chì (...) Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ là cách “lưu trữ” thơ của Phùng Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng bị mất…" (Ngô Minh, Phùng Cung trong tôi, Huế, 3-2008, tài liệu Talawas)
Xuất hiện lại trên văn đàn
Như vậy, lần đầu tiên tác phẩm của Phùng Cung xuất hiện trở lại, là trên báo Sông Hương ở Huế năm 1988, với các bài thơ "Nghiêng lụy”, “Bèo”, “Người làng”, “Chiếc lá rụng”, “Cô lái đò”.
Nguyễn Hữu Hiệu, trong một thời gian dài, hay về nước, ông đã gặp Phùng Cung và nhiều nhà văn trong nhóm NVGP. Ông đã đem được bản thảo của Phùng Cung ra hải ngoại: Bài Dạ Ký được đăng lần đầu trên tạp chí Khởi Hành của Viên Linh (bộ mới, số 1 và 2, tháng 11 và 12/1996); tiếp đó là Ván cờ khai xuân (Khởi Hành số 4, tháng 2/1997) và Phòng tuyên truyền địa ngục (số 7 và 8, tháng 6 và 7/ 1997).
Năm 1995, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin in tập Xem đêm của Phùng Cung, gồm 200 bài thơ. "Tập thơ Xem đêm được in ra có phần cổ vũ, trợ giúp không nhỏ về tài chính của ông Đang và sự nhiệt tình của ông Quán. Ngoài ra cũng phải kể đến sự quý trọng và can thiệp trong khâu kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản đồng thời là người viết tựa cho cuốn sách này" (Phùng Hà Phủ, bđd).
Năm năm sau khi Phùng Cung qua đời, Lâm Thu Vân cho in tại hải ngoại, cuốn Phùng Cung truyện và thơ (chưa hề xuất bản) (Văn Nghệ, 2003), gồm tập thơ Trăng ngục (35 bài làm trong tù, từ 1961 đến 1972) và 11 truyện ngắn (10 truyện mới và Con ngựa già của chúa Trịnh). Năm sau, sách tái bản dưới tựa Phùng Cung Trăng ngục (Trung Tâm dân chủ cho Việt nam, 2004) có thêm 74 bài thơ trích trong tập Xem đêm.
Về tập Xem đêm, Nguyễn Hữu Đang viết: "Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin đã sốt sắng nhận làm bà mụ đỡ đẻ cho đứa con tinh thần này của Phùng Cung. Khi đón nhận nó với cái tên ngộ nghĩnh Xem Đêm, tôi nghĩ ngay đến một câu của thi hào cổ đại Horace như đã "ứng" vào trường hợp này: "Tôi sẽ không chết tất cả" (nguyên văn tiếng La Tinh Non omnis moriar), ngụ ý sau khi thi sĩ qua đời, tác phẩm của ông là một phần con người ông sẽ còn sống mãi), Phùng Cung cũng hoàn toàn tin tưởng lạc quan ở sức sống lâu dài của thơ ông như Horace nghĩ về thơ mình. Và cố nhiên bấy lâu ông hằng mong thơ ông chóng thoát ly bản thảo để sức sống kia được thử thách và cống hiến" (Nguyễn Hữu Đang, Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm, Hợp Lưu số 94, tháng 4-5/2007).
Thơ Phùng Cung in được, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang là hai bạn đồng hành và vài người "ngoài cuộc" như Quang Huy, nhóm Ngô Minh-Hà Khánh Linh và báo Sông Hương, ở Huế, ủng hộ. Còn sĩ phu Bắc Hà thì sao?
Xem đêm ra mắt độc giả trong nước từ 1995. Về mặt giá trị văn học, thơ Phùng Cung không thua gì những tập thơ khác của các bạn trong NVGP đã được in ra. Nhưng "giới sành thơ" ngoài Bắc không mấy ai nhắc đến. Từ điển văn học cũng không có mục từ về Phùng Cung trong khi Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Phùng Quán, có cả.
Phải chăng vì Phùng Cung chưa bao giờ được chính thức "xoá án"? Chưa bao giờ được công khai "hồi phục" như những thành viên khác của NVGP?
Nhưng còn một lý do nữa, có lẽ quan trọng hơn cả: là mọi người ngại, không nhắc đến Phùng Cung, không phải vì Xem đêm, mà vì nội dung toàn bộ tác phẩm của Phùng Cung, dù chưa in ở trong nước, nhưng đã có nhiều người biết hoặc đã đọc qua.
Cái làm cho người ta ngại, chính là tư tưởng của Phùng Cung. Một tư tưởng độc đáo và ngược hướng những người cùng thời, kể cả các thành viên NVGP và thế hệ ngày nay, trên nhiều địa hạt: Bảo tồn văn hoá, lòng ái quốc, cách mạng mùa thu, kháng chiến chống Pháp, chiến tranh Nam-Bắc, tình nước và tình người.
Chưa một nhà thơ, nhà văn nào dám đi xa như thế, viết những lời đả kích mãnh liệt như thế về quốc ca, quốc thiều, về cách mạng mùa thu, về chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản, về những tín điều đã mê hoặc người Việt Nam trong suốt thế kỷ qua. Và đó là lý do chính khiến Phùng Cung bị 12 năm tù. Rồi khi được thả, ông vẫn bị gạt ra ngoài vòng chấp nhận của nhiều người trong và ngoài đảng.
Tìm hiểu Phùng Cung là tìm hiểu dòng tư tưởng yêu nước đối lập với các quan niệm chính thống và đi ngược lại niềm tự hào dân tộc cố hữu, nhưng sẽ là kim chỉ nam cho một con đường dân tộc mới: con đường chuyển giáo dục chiến tranh và giáo dục hận thù thành giáo dục hoà bình và giáo dục văn hoá.
Phùng Cung và lớp chỉnh huấn Thái Hà ấp
NVGP bị đình bản cuối tháng 12/1956. Trong năm 1957, mọi việc "bình thường" trở lại. Đến tháng 2/1958 sự thanh trừng mới bắt đầu với hai "lớp học" ở ấp Thái Hà.
1- Một số dữ kiện được ghi lại trong nhật ký Trần Dần, về những ngày sắp dự lớp học Thái Hà:
27/2/58 PhCung: Tự dưng học hành đến nơi mà Liên Hiệp Hội lại cho PhCung nghỉ công tác. PhCung lo. Không hiểu sao. Có phải vì các ông ấy sợ mình ở đấy đâm lộ chuyện hay không? Hay là vì cái "giả viá", các ông ấy mới cho mình là cái thằng mất dậy? Đã mất dậy thì thôi, không dậy cho nữa, để mà biết tay!
Tôi hỏi PhCung xem cái "giả viá" ấy có gì?
PhCung cười hì hì, kể lại:
- Cũng chả có gì hì... Có một chỗ mình bảo là cái "đảng mạ", hì, nghiã là cái thứ mạ, mình gọi là "đảng mạ", dùng tiếng quê vậy cho nó vui, hì... Lại có chỗ mình định ca ngợi các đồng chí chuyên gia, thì mình cũng dùng tiếng quê, bảo là "các ông ấy béo mà phương phi như tây đoan", "cái đệm các ông ấy nằm mà bà con ta nằm thì ngủ không biết khi nào trở dậy được", hì, mình cứ nói tiếng quê vậy, để bà con nhân dân ta đọc cho nó vui... hì...
Tôi lo dựng tóc gáy:
Anh viết thế mà anh bảo là tiếng quê! Anh có bị đánh mất xác cũng không oan...
Về sau tôi hỏi HtLinh. Linh bảo:
- Cái thằng, nó cứ có cái lối thế. Nó cho rằng viết phải đả cái gì một tí thì mới oai. Anh em khỏi cười.
- Ai bảo nó thế?
- Ấy thế mới khỉ!...Nó cứ nghĩ như thế cơ chứ! (Trần Dần ghi, Văn Nghệ, 2001, trang 238-239)
Những dòng này chứng tỏ, trước lớp Thái Hà, Phùng Cung vẫn sáng tác đều và bút pháp của ông vẫn không hề nhụt tay trong sự châm biếm Đảng.
2- Phùng Quán, trong bài Hằng Nga thức dậy, cho biết về số truyện ngắn Phùng Cung viết trong thời kỳ này:
"Anh còn một tập truyện ngắn, đâu như tám truyện thì phải, cũng một dòng "ngựa, voi", chưa kịp ra mắt bạn đọc thì đã bị cái khách quan khắc nghiệt "bảo lưu" cùng với tài năng của tác giả. Truyện nào viết xong anh cũng đưa tôi đọc. Truyện nào cũng làm tôi say mê vì vẻ đẹp của ngôn từ. Cái kho ngôn từ dân dã của anh dường như vô tận. So với tất cả văn xuôi của tôi đã in ra, tôi có cảm giác mình là người nước ngoài viết tiếng Việt."
Phùng Hà Phủ viết: "Cũng khoảng thời gian này, [thời gian báo NV bị cấm] bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố tôi ít đến cơ quan và chỉ viết ở nhà, một số bạn thân của bố tôi thường lui tới như Trần Dần, Hoàng Cầm, Ðặng Ðình Hưng..."
Như vậy, từ cuối năm 1956 đến 1961 (khi bị bắt) Phùng Cung vẫn sáng tác, Phùng Quán được đọc một số, ngoài Phùng Quán, nhiều người khác cũng được đọc, vì theo Tô Hoài, (trích dẫn ở dưới) bài Dạ Ký lúc bấy giờ, đã nổi tiếng lắm, đã đến tai ông.
3- Phùng Cung là đảng viên (vào đảng từ khi ở Việt Bắc, chưa xác định rõ năm nào). Vậy ông phải đi cả hai lớp Thái Hà (cho đảng viên và cho người ngoài đảng). Trong kỳ học tập này, chắc ông chưa bị "tố giác".
Hoàng Cầm viết: "Tôi đi động viên Phùng Cung viết chuyện, và khi Phùng Cung viết "Con ngựa già của Chúa Trịnh" đưa tôi xem bản thảo đầu tiên, tôi có góp ý kiến vào viêc diễn tả: "Chỗ con ngựa vào cung Vua, nên tả cho đáng ghét hơn". Khi Phùng Cung đưa bản thảo lần thứ hai, tôi chữa văn và thêm nhiều câu diễn tả cảnh đẹp, diễn tả con ngựa càng ngày càng béo..." (Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ, số 12, tháng 5 năm 1958)
Lê Đạt viết: "Tôi lại viết “lời toà soạn” cho chuyện “Con ngựa già” của Phùng Cung đả kích và vu khống lãnh đạo văn nghệ không chú ý đến các nhà văn trẻ" (Những lời thú nhận của Lê Đạt, Văn Nghệ, số 12, tháng 5 năm 1958).
Hai lời "thú nhận" trên đây chứng tỏ Hoàng Cầm, Lê Đạt đều muốn "che tội" cho Phùng Cung hơn là tố giác.
4- Thái độ của Phùng Cung ở lớp Thái Hà được Trần Dần ghi trong nhật ký như sau:
29/4/58 Phùng Cung
- Nhục lắm. Mẹ nó. Mình xin về nhà có được không nhỉ? (...) Có nên xin ra biên chế không? Tôi nhìn PhCung, ái ngại cho anh quá. Đâu như trong khi học tập, anh ta "hỗn" quá, bị đuổi khỏi lớp làm sao ấy... Tôi khuyên anh, rằng nên đầu hàng đi; rằng chỉ có một con đường, "họ" là chân lý, mình đầu hàng, là phải; rằng không nên xin ra biên chế, lúc này việc ấy có thể là một sự tiến công của tư tưởng thù địch; rằng không nên coi là nhục, oan ức gì nữa, mà cứ nghĩ lại xem tổng cộng cái bồ chữ mình đã chửi vào lãnh đạo nó to như thế nào, còn oan và nhục gì nữa? PhCung xem ý không thông gì lắm. Tôi thấy khổ! Một con người có cái gan "tử vì đạo" là PhCung, than ôi, cái đạo anh định chết vì nó chính là cái đạo phản cách mạng, sao mà anh chưa tỉnh ngộ ra hử anh?" (Trang 253)
Vậy theo nhật ký Trần Dần, ở lớp học Thái Hà, Phùng Cung đã lựa chọn thái độ cứng rắn, không đầu hàng, "tử vì đạo". Trong khi Tôi khuyên anh, rằng nên đầu hàng đi.
5- Tháng 5/58, tức là thời gian ngay sau lớp Thái Hà, Trần Dần ghi tiếp về sự phải tự tố trong các bài kiểm thảo:
Ngày 7/5/58 Kiểm thảo sáng tác.
Đảng đoàn HNVăn để cả một tuần này, để cho Nhân Văn viết lại cái phần kiểm thảo sáng tác! Theo như đồng chí NxSanh [Nguyễn Xuân Sanh] nói, thì tuần trước, phần đó viết chưa sâu, vì thiếu thời giờ, thì tuần này viết lại cho kỹ. Mà phải viết sao cho có thể dùng in công khai được. Sau khi mọi người đã nộp cái của quốc cấm, nghiã là cả một đống những Nhân Văn Giai Phẩm rồi, thì tập trung ở cả một phòng, viết kiểm thảo. (...) Anh nào anh nấy lăn vào viết. Lắm hình dung từ, lắm tiếng tự phê dao búa! (...)
Tôi cũng không kém. Bao nhiêu hình dung từ phản cách mạng, phản động, phản Đảng, phản bội, chống chế độ, xét lại, tờ-rốt-kít. Không còn thiếu chữ gì. Giặc bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc địa của chủ nghĩa cá nhân đồi trụy, chủ nghĩa vô chính phủ và đầu óc làm phản v.v... Tôi sáng tác thêm nhiều chữ nữa để mà miêu tả chân tướng mình, cho nó hết lòng một thể.
Chắc các đồng chí lãnh đạo đọc một loạt kiểm thảo bọn tôi lần này thì phải bựt cười lắm đấy! "Trước kia thì nói nhẹ chúng cũng không nghe. Bây giờ thì chúng lại còn tự sỉ vả gấp triệu lần sự phê bình của lãnh đạo!" (trang 257)
6- Trần Dần mô tả tâm trạng ông và các bạn trong tình hình ấy:
Ngày 12/5/58 Tình hình
Cuộc đấu tranh cứ lộn đi lộn lại từ B [văn nghệ sĩ] sang A [trí thức], lại A sang B, báo chí cứ xoay đi xoay lại mãi, cứ như một cái nồi khổng lồ của vô sản chuyên chính, ninh đi ninh lại cho nó dừ cái chủ nghiã xét lại ra.
Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ. Không còn cách nào. Đây không phải là một sự trừng trị cá nhân; mà đây là "chúng ta" trừng trị một phong trào, một trào lưu tư tưởng của chủ nghiã xét lại... Tôi vừa là một tội nhân. Vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn" (trang 260).
Sau cùng, Trần Dần kể lại chiến thuật của mình, ông giải thích tại sao phải tố các bạn để tìm lối thoát và tố như thế nào:
21/5/58
"Thực ra, trước khi HCầm báo cáo, tôi dự định là giữ VCao và ĐđHưng lại, như là "giữ một nửa thành phố, chỉ đầu hàng một nửa" (...). Nên báo cáo tổ, bị hỏi, bị dồn, bị truy nữa, tôi vẫn giấu quanh, không chịu thúc thủ cái một nửa thành phố đó!
Đến lúc HCầm báo cáo, tức HCầm "rendre" [khai] hai ông bạn quý đó rồi. PhVũ lên tố thêm VCao. LĐạt thì chỉ xác nhận, tố thêm tí tỉnh, còn bao che ĐđHưng nhiều. Hơn nữa, qua báo cáo HCầm và LĐạt, thì tôi "được" đưa lên mũi nhọn, "được" hội trường chờ đợi rất ghê!
Bão lúc ấy chầu chực trên đầu lâu tôi!
Tôi phải tính kế, vừa thoát thân, vừa thoát cho 4 thằng đang bị dồn đánh ghê gớm (TD, HC, LĐ, TPh) [Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Tử Phác] vừa để sao cho VCao, ĐđH hiểu mình, qua cái ý ngầm của bản báo cáo!
Cụ thể, tức là tôi nghĩ rằng: "Bây giờ chỉ còn con đường duy nhất, là đầu hàng Đảng. Không có con đường khác. Mà đã hàng thì hàng thực sự, về sau mới thực sự trời êm bể lặng được. Thế nào là hàng thực sự? Hàng thực sự là: mỗi người phải ra mà gánh lấy cái phần bão, do chính trách nhiệm mình gây ra! 4 thằng đang chịu cái trận bão đó rồi, còn hai ông anh VCao, ĐđHưng thì xin nhờ đến vai hai ông, mang vác lấy cái phần của các ông! (...)
Thực tế đã chứng minh cho giá trị chủ trương đó. Quả nhiên: ngay trong lớp học, bão cũng đã ngàn đi dần dần trên đầu 4 thằng, và sau khi chuyển mạnh sang đầu 2 thằng kia ít bữa, rồi nó cũng ngàn đi.
Đến sau lớp học nữa, thằng nào cũng đều được sống trong một không khí được giải vây tương đối dễ thở. Với thời gian chắc nó sẽ càng dễ thở hơn.
Chỉ có cái là trong bộ 6 [Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng] thì có một sự phân hoá của trách móc, hằn thù... HCầm có vẻ khổ! LĐạt tự cho mình là oai nhất, "đúng nhất, vừa mức nhất, không vấy cho ai!", LĐạt cho tôi là "quá mức!", ĐdHưng thì kẻ cả: "Tất nhiên có chuyện đó, nhưng đã thuộc lịch sử rồi. TPhác khó hiểu, vừa ghét HCầm, vừa ghét VCao mà vẫn nối lại một phần, còn đối tôi thì lại bảo là: "anh ghê nhất, anh giỏi nhất!" (trang 267-268).
Những trang nhật ký trên đây của Trần Dần, giải thích sự kiện tại sao những con người như ông phải đầu hàng trước hệ thống cưỡng bách thẩm vấn trong chế độ toàn trị, chúng cho biết thêm về điều kiện viết những bản tự thú hoặc tố giác người khác, đồng thời vô hiệu hoá giá trị những văn bản này trong một chế độ dân chủ.
Phùng Cung bị bắt
1- Họa sĩ Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn, trong bài "Một câu hỏi còn chưa được trả lời" đăng ngày 10/7/2009 trên Talawas, viết:
"Chính việc anh Phùng Cung bị bắt làm tôi rất lo sợ và đau buồn, vì Phùng Cung không tham gia Nhân văn ngoài bài viết “Con ngựa già của Chúa Trịnh” nhằm vào một nhân vật có tên tuổi trong Hội Nhà văn (Nguyễn Tuân). Nhưng vì anh Phùng Cung có một số bài viết đầu tay đã chuyển cho một số đàn anh xem để biết, rồi không hiểu bằng cách nào đó những bản thảo ấy lại vào tay lãnh đạo (tôi không được đọc những bài viết ấy) (...)
Tôi nhớ một cuộc họp tại trụ sở Hội Nhà văn ở đường Nguyễn Du năm 1957 dưới sự chủ tọa của Hà Minh Tuân, Nguyên Hồng… người đến họp có đông văn nghệ sĩ, trong đó có Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần…, qua những câu hỏi, những lời xác minh của các anh Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần thì đúng Phùng Cung là tác giả của những bài viết kể trên, và như vậy bản án đã úp lên đời Phùng Cung một tội trạng. Tôi còn nhớ câu của Nguyên Hồng nói sau khi kết thúc buổi họp: “Các anh lúc bình thường đối xử với nhau có vẻ trí thức lắm, nhưng lúc có sự việc xảy ra thì các anh đối xử với nhau không bằng lũ chăn trâu!”. Ra đến cổng anh Nguyên Hồng vỗ vào vai tôi và bảo: “Đã biết sợ chưa!”.
Quả tình tôi rất sợ, tất nhiên sợ về pháp luật là chính nhưng sợ hơn nữa là nhân tâm con người, sự tàn nhẫn của những con người đã bán rẻ nhân phẩm của mình để tự cứu mình, giẫm lên sinh mạng của những người khác để tự thoát thân".
Theo họa sĩ Trần Duy, thì việc Phùng Cung bị tố giác xẩy ra năm 1957, và Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần là những người tố, việc tố này đã khiến Phùng Cung bị kết án.
Chúng tôi so sánh với những tài liệu khác thì không thấy nơi nào ghi năm 1957 đã có việc tố giác Phùng Cung. Vậy có thể họa sĩ Trần Duy đã nhớ lầm vài năm. Hầu hết đều ghi sự việc bắt đầu vào khoảng cuối năm 1960 trở đi, nghiã là sau lớp học Thái Hà hơn một năm.
2- Phùng Hà Phủ viết: "Một buổi sáng như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúc đó hai anh em tôi còn nhỏ, chưa đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà gia đình tôi ở bị công an mang xe ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi khám nhà và tịch thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Ðó là tháng 5/1961. Kể từ ngày đó mãi cho đến thời gian chuẩn bị ký hiệp định Paris (1973), tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. Thời gian đầu bố tôi bị giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), sau đó đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Yên Bình (Yên Bái), Phong Quang (Lào Cai)".
"Bố tôi bị bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là đi tập trung cải tạo (...)
Sau này lúc mãn hạn tù, mẹ tôi mới biết bố tôi luôn là đối tượng bị giam cấm cố trong xà lim, bị hạn chế tôi đa tiếp xúc với thân nhân.
Nhớ lại theo bố tôi kể "khi xẩy ra chuyện", buổi sáng đó bố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Đến nơi thấy mọi người xung quanh đều có ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả những bạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt. Ngay sau đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thực chất gần như một buổi đấu tố thời "cải cách" của liên hiệp Hội văn học nghệ thuật (gồm cả đại diện bên văn nghệ quân đội). Chủ trì cuộc đấu tố gồm các ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh... Cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất đối với bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi như vậy đều tham gia vào việc "đấu tố". Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên "tố" để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị "tố" là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình. Lôi kéo người khác cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác - Tất cả nội dung đều tập trung vào lãnh tụ và Đảng cộng sản như: Dạ ký, Chiếc mũ lông, Quản thổi, Kép Nghế... Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia làm báo Nhân Văn nhưng theo mẹ tôi còn nhiều lý do khác nữa (...)
Từ ngày ra tù bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quan hệ với ai ngay trong các bạn văn quen biết cũ. Những người trực tiếp "tố" bố tôi ngày xưa đều cảm thấy hối hận về việc làm của mình và xin lỗi bố tôi." (Trích Phùng Cung truyện và thơ (Văn Nghệ 2003)
Phùng Hà Phủ, không ghi rõ ngày "xẩy ra chuyện" (khi đó hai anh em mới 4 tuổi và 2 tuổi), chỉ thuật những gì nghe cha mẹ kể lại, có những chi tiết phù hợp với những điều Nguyễn Hữu Hiệu viết trên báo Khởi Hành.
3- Nguyễn Hữu Hiệu viết:
"Theo lệ thường, mỗi năm, hội viên Hội Nhà Văn phải viết bá cáo, tự thuật, tự đánh giá mình đọc trước lãnh đạo.
Trong đợt học tập cuối năm 1960, tổ học tập gồm bọn bốn người cứng đầu kia [Phùng Cung, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt] bị trực tiếp đặt dưới quyền tổ trưởng Võ Hồng Chương [chắc là Võ Hồng Cương]. Trong đợt học tập này T.D. được lãnh đạo viết bản tố cáo dài gần 40 trang viết tay chữ nhỏ như kiến. Phùng Cung bị đấu hai buổi trước đông đảo văn nghệ sĩ tại trụ sở Hội Nhà Văn; bị tố cáo là tên phản động ngoan cố nhất của "Nhân Văn Giai Phẩm".
Chế Lan Viên, cuối cùng, mới đứng lên đề nghị phải lập tức điều Công an đến khám nhà và bắt Phùng Cung.
Nỗi đau nhục bị phản bội chưa qua thì họa khám nhà đã đến. Ngày 19 tháng Chạp năm Canh Tý 1960 [thực ra ngày 19 tháng Chạp năm Canh tý là ngày 4/2/1961]. Công an vây kín ngõ, xồng xộc vào nhà, lục soát, dầy xéo lung tung, tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ. Phùng Cung bị đưa vào Hỏa Lò Hà Nội.
Sau đó, ông bị đưa đi biệt giam qua các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái), Bảo Thắng (Lào Kai) từ đầu 1961 đến cuối 1972. Suốt trong mười một năm bị biệt giam, Phùng Cung bị lao nặng và nhiều bệnh trầm kha khác. Khi được phóng thích ông vẫn bị quản chế rất chặt tại địa phương"
Khi làn sóng Dân chủ đích thực -giấc mơ đời của Phùng Cung- dâng lên de dọa nhận chìm Liên Xô "Thành đồng của Cách Mạng" thì Phùng Cung không được làm "bất cứ việc gì liên quan đến chữ nghĩa" kể cả việc làm gia sư. Đều đặn hàng tuần Công an đến nhà thăm hỏi sức khoẻ, ngồi ì trong nhà khiến không ai dám bén mảng tới. Đông Âu sụp đổ, hình thức quản chế cũng theo đà "đổi mới" theo, nghiã là Công an vẫn đến thăm hỏi như xưa nhưng nhẹ nhàng và ít thường xuyên hơn.
Hiện Phùng Cung đang sống lây lất với gia đình tại một căn nhà âm u, lụp xụp tại vùng Quần Ngựa ngoại thành cũ". (Nguyễn Hữu Hiệu, Phùng Cung, Khởi Hành, Bộ mới số 1, tháng 11/1996, trang 7).
Chế Lan Viên ra lệnh bắt Phùng Cung
Tổng hợp những thông tin của Phùng Hà Phủ, Nguyễn Hữu Hiệu và Trần Duy, chúng ta có thể xây dựng lại một thực tại như sau:
Trong đợt học tập cuối năm 1960, T.D. [chắc là Trần Dần], được chỉ định viết bản tố cáo dầy gần 40 trang, [Trần Dần cũng xác nhận việc phải khai các bạn, và các bạn khai mình, để tìm lối thoát, trong nhật ký]. Sau bài tố của Trần Dần, Hoàng Cầm và Lê Đạt, phải đứng lên phụ họa, xác định các tác phẩm mà Phùng Cung viết trong mấy năm qua ngụ ý chống đảng là có thật.
Màn bi kịch này có thể đã được dàn dựng trước, với những yếu tố sau đây:
- Sau khi NVGP bị đình bản, Phùng Cung vẫn tiếp tục sáng tác và ngoài bộ ba Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt còn nhiều người được đọc các sáng tác này, vì họ vẫn công khai trao đổi văn chương ở trụ sở Hội Nhà Văn (khoảng 18 tháng, từ đầu năm 1957 đến tháng 8/58 khi Trần Dần, Lê Đạt bị đi cải tạo đợt đầu). Đặc biệt bài Dạ Ký, dường như đã "nổi tiếng" lắm trong giới văn học và công an đương thời:
"Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất Đông Dương". Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm" (Tô Hoài, Cát bụi chân ai).
"Quả thật sau đợt học tập này [Thái Hà], những anh em "Nhân Văn" hầu hết đều không dám qua lại nhà nhau, có chạm mặt ở cơ quan cũng không dám chào hỏi nhau, len lén cúi đầu sợ sệt. Riêng có bọn "chúng nó bốn thằng" là Phùng Cung, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt vẫn bất chấp, ngang nhiên quấn quýt, trao đổi văn chương, chuyện trò rôm rả, nhất là khi gặp nhau tại trụ sở Hội Nhà Văn 84 Nguyễn Du. Thái độ ngông nghênh này làm gai mắt lãnh đạo. Khi nào Công an chịu bỏ qua?" (Nguyễn Hữu Hiệu).
- Cuối 1960, đầu 1961, khi Phùng Cung bị gọi lên kiểm thảo, bộ ba Trần Dần, Hoàng Cầm Lê Đạt đã bị đánh tan nát. Trần Dần, Lê Đạt, phải đi chăn bò, chăn trâu, bị cách ly. Trong hoàn cảnh như vậy, liệu họ còn có thể từ chối khi "được" chỉ định phải tố Phùng Cung hay không?
- Hay đây chỉ là sự dàn cảnh để mọi người thấy rõ "bộ mặt tồi tệ của bọn Nhân Văn", "bọn chúng tố cáo lẫn nhau" đây, và để cho Chế Lan Viên có cớ ra lệnh khám nhà và bắt "tên phản động" Phùng Cung.
- Chế Lan Viên đã đóng đúng vai trò Tố Hữu trong việc bắt Trần Dần, nhưng một cách "đường đường chính chính", không ám lậu như Tố Hữu.
- Ba người nắm hồ sơ và hoạt động đắc lực nhất trong vụ thanh trừng NVGP là Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông và Đào Vũ. Nhưng Chế Lan Viên khôn khéo hơn hai người kia, ông không viết bài đánh nên không có văn bản "để đời".
Nhưng ông thù Phùng Cung vì bài Dạ Ký, trong đó Phùng Cung vẽ biếm họa một số chân dung văn học, đặc biệt bốn vị "tứ bất tử": Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh và Nguyễn Đình Thi, có thêm "đương kim vô địch khôn" Tô Hoài, và vẽ cả các bạn đồng hành Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
Tất nhiên Chế Lan Viên không thể thích bức chân dung "nhà thơ giả thiểu số" chuyên dùng khoa "Phật vận" tức là "lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay" mà Phùng Cung hoạ về mình. Bài Dạ Ký đối với bốn vị lãnh đạo văn nghệ "tứ bất tử" là không thể chấp nhận được. Đặc biệt với Chế Lan Viên, sự "phạm thượng" có thể sánh ngang vụ Việt Bắc đối với Tố Hữu.
- Phùng Cung bị bắt và bị tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ (theo Nguyễn Hữu Hiệu). Vậy những bản thảo này hiện ở đâu? Từ khi được tha về cho đến lúc mất, Phùng Cung chỉ viết lại (hay sửa lại) được 10 truyện ngắn, in năm 2003 tại hải ngoại.
Như vậy, có thể nói, bài Dạ Ký là cái họa lớn của Phùng Cung, lớn hơn Con ngựa già của chúa Trịnh.
Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế
Trong Cát bụi chân ai, viết về Phùng Cung năm 1990, giọng Tô Hoài vẫn còn cay đắng:
"Tan lớp ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt. Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội văn nghệ từ trên Tuyên Quang. Ở rừng những việc tủn mủn không tên, sổ sách công văn, giữ thư viện, làm lán mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan... Nghĩ đến Phùng Cung, tôi nhớ những việc linh tinh hàng ngày ở cơ quan kháng chiến (...) Phùng Cung ở cơ quan nào dạt đến, không nhớ. Chơi vui, cũng không để ý, kể cả việc hệ trọng khi tôi nhờ Phùng Cung đi đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy. Đọc truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh" của Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù đại khái "thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ". Cũng điếu đóm tập tành như mình ngày xưa, đâu đã mà có sừng có mỏ ngay.
Phùng Cung bị bắt khi "nhân văn, nhân võ" đã được dọn dẹp êm ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất Đông Dương". Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm".
Tôi không thể tưởng tượng một Phùng Cung thế nào, tôi không biết được. Tôi vẫn mơ màng chúng tôi, cây số ba, cây số bảy trên Tuyên, phở Dơi, cà phê Pháo, anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột. Về Hà Nội, đôi ba lần chúng tôi láng cháng lên cà phê Phúc Châu phố trên. Hình như Phùng Cung quê ở Sơn Tây và nỗi nhà địa chủ phú nông thế nào đấy, cũng không bao giờ nói và tôi cũng không hỏi.
Lại bao nhiêu năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.
- Phùng Cung phải không?
- Tôi đây.
- Còn sống về được à?
- Cũng không hiểu tại sao anh ạ.
(...)
- Anh có biết tôi phải tù bao nhiêu năm?
- Không biết.
- Vâng tù biệt giam mười một năm.
Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù. Thế nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại lâu lắm không gặp gỡ. Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng một hôm, có người sở Công an đến nhờ tôi ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung làm việc, trước khi phải tù.
Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy.
- Chứng nhận để làm gì?
- Có liên tục công tác mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục ạ.
- Liên tục cả ở cơ quan nhà tù?
Anh công an cười hồn nhiên, chào"cám ơn bác".
Gần đây, nghe Phùng Cung đã chuyển lên ở trên Quần Ngựa. Nghe nói đã khấm khá, làm nhà mới. Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời? Định có hôm nào lên chơi, vẫn chưa đi được." (Cát bụi chân ai, Bản Hồng Lĩnh, Cali, 1993, trang 120-123).
Những dòng trên đây phản ảnh khá rõ tình cảm Tô Hoài dành cho cái xóm "nhà lá" mà ông gọi mỉa là "nhân văn, nhân võ". Đặc biệt Phùng Cung, hồi trẻ, được ông mô tả: "anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột". Người thanh niên này làm việc dưới quyền ông, chỉ được ông giao cho việc vặt, đại loại "công tác chạy hiệu", "Ở rừng", làm "những việc tủn mủn", "đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan"... Việc quan trọng nhất được ông sai là "đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy". Và khi đọc Con ngựa già của chúa Trịnh, ông nghĩ "thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ". Sau khi đi tù 12 năm, về, đến thăm, ông rủa thầm "Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù".... Thế mà vẫn không chừa, vẫn lại chứng nào tật ấy: "Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời?"
Những dòng này viết năm 1990, hơn bốn mươi năm sau khi NVGP bị dẹp, mà giọng Tô Hoài vẫn chưa thôi miệt thị và hằn học, như vậy đủ biết mấy trang Dạ Ký của Phùng Cung, nặng nợ như thế nào.
Nhưng chỉ một Dạ Ký thôi, có lẽ chưa đủ để "lĩnh án" 12 năm. Dạ Ký là cái cớ đầu tiên cho những người lãnh đạo văn nghệ bị Phùng Cung biếm họa nổi giận. Để Chế Lan Viên ra lệnh bắt. Việc tù tội tiếp sau, dựa trên toàn bộ tác phẩm thơ văn của Phùng Cung, một nội dung đào sâu vào tận gốc chính sách tiêu diệt văn hoá của đảng, áp dụng từ cách mạng tháng Tám:
"Giải thoát" và "Mộ phách" viết về sự bức tử nghề ca trù và tuồng chèo cổ.
"Biệt tích" là sự thủ tiêu nghề thợ mộc chân chính.
"Mạt kiếp" là cái đói và cái chết của người cùng đinh.
"Phòng tuyên truyền điạ ngục" là cơ quan dụ dỗ con người bỏ trần gian để về với thiên đường địa ngục...
(Đọc tiếp chương 2: Mộ Phách - Mồ chôn văn hoá)
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Một đánh giá mới về Nhân Văn - Giai Phẩm
Lê Quỳnh
BBCVietnamese.com
2 tháng 9 2011
Trang bìa báo Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Mùa Xuân
NGUỒN HÌNH ẢNH,INTERNET
Chụp lại hình ảnh,
Trang bìa báo Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Mùa Xuân
Nhân Văn - Giai Phẩm thường được xem là phong trào đòi tự do dân chủ mạnh mẽ và có ảnh hưởng lớn nhất trong giới trí thức sống dưới sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bị dập tắt vào cuối thập niên 1950, phong trào này đến hôm nay vẫn tiếp tục được nghiên cứu và nhiều nhân vật có vai trò lớn trong giai đoạn đó vẫn để lại cảm hứng và ảnh hưởng cho văn nghệ sĩ người Việt trong ngoài nước.
Tuy vậy, một nghiên cứu công bố gần đây của chuyên gia nổi tiếng về lịch sử Việt Nam, Peter Zinoman, cho rằng danh tiếng của Nhân Văn - Giai Phẩm (NVGP) như một lực lượng đối kháng mạnh mẽ đã bị "thổi phồng".
Tác giả, một người rất quen thuộc với giới nghiên cứu ở Việt Nam, nhận định thời gian qua đã có thêm nhiều nghiên cứu mới "thành công khi thể hiện một hình ảnh đáng tin về NVGP như một phong trào mạnh của sự bất đồng quan điểm chính trị chống lại đảng-nhà nước".
Nhưng ông cho rằng các học giả đã không phân tích sâu sắc nội dung các bài viết đã đăng của NVGP, mà chỉ có xu hướng tập trung vào những tuyên bố chống đối kịch tính nhất.
Lấy ví dụ, sử gia Peter Zinoman, đang là Phó Giáo sư khoa Lịch sử của ĐH Berkeley, Hoa Kỳ, đề cập bài viết Bài học Ba lan và Hung-ga-ri của nhà thơ Lê Đạt, in ở Nhân văn số 5, ngay sau khi xảy ra các biến cố rung chuyển hai nước Đông Âu.
Theo đúng những gì người ta trông đợi từ một phong trào đối kháng, bài này bị chính quyền ở Hà Nội phê phán là "bào chữa cho bọn phản cách mạng".
Nhưng tiến sĩ Zinoman lưu ý người đọc rằng trong phần kết luận, Lê Đạt cho rằng phong trào đối lập ở hai nước Đông Âu bị "bọn đế quốc" kích động và lại còn tán thành với việc dùng bạo lực dập tắt sự nổi dậy ở Hungary.
Ví dụ này phải chăng cho thấy sự hạn chế trong nghị trình của NVGP. Ngoài ra, phong trào khi ấy không thể liên kết với công nhân, sinh viên và cộng đồng tôn giáo, và dường như người dân cũng không bày tỏ ủng hộ giới văn nghệ sĩ.
Tòa án Nhân dân Hà Nội xét xử vụ "Nhân văn - Giai phẩm" ngày 19-1-1960 (ảnh từ Talawas)
NGUỒN HÌNH ẢNH,TALAWAS
Chụp lại hình ảnh,
Tòa án Nhân dân Hà Nội xét xử vụ "Nhân văn - Giai phẩm" ngày 19-1-1960 (ảnh từ Talawas)
Bài nghiên cứu của tiến sĩ người Mỹ này muốn bác lại việc xem NVGP là phong trào "bất đồng chính kiến". Theo ông, khi so sánh với sự trỗi dậy của các phong trào cải cách trong thế giới cộng sản thập niên 1950, thì NVGP là "nỗ lực tương đối hạn chế nhằm 'cứu' chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam bằng cách chuyển hóa nó từ bên trong".
Thách thức mức nào?
Tiến sĩ Peter Zinoman nói "mặc dù NVGP nhắc đến nhiều sự lạm dụng độc đoán của giới chức bậc trung, nó hiếm khi thách thức ban lãnh đạo đảng hay sự chính danh của hệ thống Cộng sản".
"Thông thường NVGP tìm cách giảm nhẹ cường độ công kích bằng việc đi kèm các tuyên bố trung thành với chính thể và ý thức hệ cai trị."
Giọng điệu trung dung của NVGP "thật tương tự với dòng chảy chính trị Cộng sản cải cách hoặc xét lại tăng tốc trong thế giới Cộng sản sau cái chết của Stalin, lên đến đỉnh điểm đúng vào khi NVGP bắt đầu năm 1956".
Lập trường của các phong trào này, như Andras B. Hegedus đã nói về tình hình ở Hungary, là họ tin rằng "có thể cải thiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Marx có thể được tái sinh".
Tiến sĩ Peter Zinoman nhận thấy ở NVGP có sự trung thành chính trị với Đảng Cộng sản, khẳng định đi theo chủ nghĩa Marx, ngưỡng mộ Khrushchev, Lenin và tôn sùng nhà thơ Mayakovskii như biểu tượng chống sự sùng bái cá nhân.
Trong một khảo sát về bảy vấn đề lớn chi phối phong trào cải cách ở Hungary, Ba Lan, Đông Đức và Tiệp Khắc giữa thập niên 1950, Vladimir Kusin ghi nhận có sự gần gũi về quan điểm giữa các phong trào.
Bốn trong số bảy vấn đề này cũng xuất hiện nhiều trong các bài viết của NVGP: (1) dân chủ hóa đảng; (2) cải tổ hệ thống chính trị và pháp luật; (3) bảo vệ tự do trí thức; (4) nhân văn hóa chủ nghĩa Marx.
Có hai vấn đề không được nhóm quan tâm là giảm bớt kiểm soát của Liên Xô với các nước vệ tinh, và thực thi cải cách kinh tế.
Về vấn đề thứ bảy - thúc đẩy chung sống hòa bình với phương Tây - NVGP không tỏ ra có một lập trường mạnh mẽ hay thống nhất.
Sự quan tâm của NVGP đối với dân chủ trong đảng, cải cách hệ thống chính trị - pháp luật, và tự do trí thức đặt phong trào vào dòng chính của xu hướng cải tổ chủ nghĩa cộng sản trên thế giới cùng thời điểm.
NGUỒN HÌNH ẢNH,AP
Chụp lại hình ảnh,
Nhân Văn - Giai Phẩm vừa giống vừa khác các phong trào cải cách ở Đông Âu
Nhưng hai điểm khác của NVGP giúp giải thích vì sao phong trào không nhận được sự ủng hộ hay biết tới của dân chúng.
Thứ nhất là cải tổ kinh tế (kế hoạch hóa tập trung, tập thể hóa, giá lương tiền). Ngay cả các bài viết của NVGP về cải cách ruộng đất chỉ xem đây là vấn đề chính trị chứ không phải là một chính sách kinh tế thất bại.
Như chuyên gia Tường Vũ từng phân tích, chính các đơn thưa của người lao động liên quan lạm phát, điều kiện lao động...là chủ đề của phong trào lao động rộng lớn trong những năm đầu cai trị của Đảng Cộng sản ở miền Bắc.
Vấn đề thứ hai là NVGP hầu như không đề cập vấn đề tự chủ và bình đẳng trước Liên Xô, khác với giới đòi cải cách ở Đông Âu.
Dĩ nhiên, điều này có thể được giải thích vì khi ấy Liên Xô không có mặt nhiều ở miền Bắc, và Đảng Cộng sản, vừa chiến thắng quân Pháp, không bị công kích về tinh thần dân tộc.
Nhưng, theo tiến sĩ Peter Zinoman, việc thiếu vắng hai chủ đề này cũng đã làm giảm sức mạnh chính trị của phong trào khi so với ở Đông Âu.
Kết lại, tác giả xem NVGP là "sự biểu lộ tương đối nhẹ của một hiện tượng toàn cầu".
Theo ông, danh tiếng "bị thổi phồng" của NVGP một phần là nhờ sự kịch tính trong sự trỗi dậy và sụp đổ của phong trào. Những diễn giải sau này, nhấn mạnh sự táo bạo của NVGP, là phản ứng chống lại sự chỉ trích độc địa của báo chí nhà nước thời bấy giờ.
Truyền thống đối kháng nội bộ bên trong Việt Nam tương đối yếu ớt cũng giúp làm tăng sự quan trọng và sức mạnh của NVGP, phong trào chỉ trích đảng duy nhất trước 1986.
Tiến sĩ Peter Zinoman còn cho rằng một thế hệ văn nghệ sĩ, trí thức mới đối lập trong ngoài nước cũng đã phóng đại nội dung phê phán của NVGP nhằm thiết lập "mối dây phả hệ giữa nỗ lực của chính họ và một truyền thống phê phán Cộng sản trước đó".
Tiểu luận dài 40 trang của tác giả, đăng trên Journal of Cold War Studies số Mùa đông 2011, là nghiên cứu mới nhất bằng tiếng Anh về NVGP.
Sự diễn giải mà tác giả gọi là "xét lại" với NVGP hẳn sẽ nhận phản hồi khác nhau của giới trí thức người Việt trong ngoài nước, trong bối cảnh vấn đề trí thức và dân chủ đang được bàn đến nhiều thời gian gần đây.
Tiến sĩ Peter Zinoman nói nghiên cứu của ông không nhằm "phủ nhận sự dũng cảm của các lãnh đạo phong trào hay bi kịch của họ dưới bàn tay tàn nhẫn của đảng - nhà nước". Ông muốn bài viết tìm hiểu lại mục tiêu của NVGP và đánh
giá điềm tĩnh hơn về tiềm năng cũng như hạn chế của phong trào trong vai trò lực lượng chính trị.
Lê Quỳnh
BBCVietnamese.com
2 tháng 9 2011
Trang bìa báo Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Mùa Xuân
NGUỒN HÌNH ẢNH,INTERNET
Chụp lại hình ảnh,
Trang bìa báo Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Mùa Xuân
Nhân Văn - Giai Phẩm thường được xem là phong trào đòi tự do dân chủ mạnh mẽ và có ảnh hưởng lớn nhất trong giới trí thức sống dưới sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bị dập tắt vào cuối thập niên 1950, phong trào này đến hôm nay vẫn tiếp tục được nghiên cứu và nhiều nhân vật có vai trò lớn trong giai đoạn đó vẫn để lại cảm hứng và ảnh hưởng cho văn nghệ sĩ người Việt trong ngoài nước.
Tuy vậy, một nghiên cứu công bố gần đây của chuyên gia nổi tiếng về lịch sử Việt Nam, Peter Zinoman, cho rằng danh tiếng của Nhân Văn - Giai Phẩm (NVGP) như một lực lượng đối kháng mạnh mẽ đã bị "thổi phồng".
Tác giả, một người rất quen thuộc với giới nghiên cứu ở Việt Nam, nhận định thời gian qua đã có thêm nhiều nghiên cứu mới "thành công khi thể hiện một hình ảnh đáng tin về NVGP như một phong trào mạnh của sự bất đồng quan điểm chính trị chống lại đảng-nhà nước".
Nhưng ông cho rằng các học giả đã không phân tích sâu sắc nội dung các bài viết đã đăng của NVGP, mà chỉ có xu hướng tập trung vào những tuyên bố chống đối kịch tính nhất.
Lấy ví dụ, sử gia Peter Zinoman, đang là Phó Giáo sư khoa Lịch sử của ĐH Berkeley, Hoa Kỳ, đề cập bài viết Bài học Ba lan và Hung-ga-ri của nhà thơ Lê Đạt, in ở Nhân văn số 5, ngay sau khi xảy ra các biến cố rung chuyển hai nước Đông Âu.
Theo đúng những gì người ta trông đợi từ một phong trào đối kháng, bài này bị chính quyền ở Hà Nội phê phán là "bào chữa cho bọn phản cách mạng".
Nhưng tiến sĩ Zinoman lưu ý người đọc rằng trong phần kết luận, Lê Đạt cho rằng phong trào đối lập ở hai nước Đông Âu bị "bọn đế quốc" kích động và lại còn tán thành với việc dùng bạo lực dập tắt sự nổi dậy ở Hungary.
Ví dụ này phải chăng cho thấy sự hạn chế trong nghị trình của NVGP. Ngoài ra, phong trào khi ấy không thể liên kết với công nhân, sinh viên và cộng đồng tôn giáo, và dường như người dân cũng không bày tỏ ủng hộ giới văn nghệ sĩ.
Tòa án Nhân dân Hà Nội xét xử vụ "Nhân văn - Giai phẩm" ngày 19-1-1960 (ảnh từ Talawas)
NGUỒN HÌNH ẢNH,TALAWAS
Chụp lại hình ảnh,
Tòa án Nhân dân Hà Nội xét xử vụ "Nhân văn - Giai phẩm" ngày 19-1-1960 (ảnh từ Talawas)
Bài nghiên cứu của tiến sĩ người Mỹ này muốn bác lại việc xem NVGP là phong trào "bất đồng chính kiến". Theo ông, khi so sánh với sự trỗi dậy của các phong trào cải cách trong thế giới cộng sản thập niên 1950, thì NVGP là "nỗ lực tương đối hạn chế nhằm 'cứu' chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam bằng cách chuyển hóa nó từ bên trong".
Thách thức mức nào?
Tiến sĩ Peter Zinoman nói "mặc dù NVGP nhắc đến nhiều sự lạm dụng độc đoán của giới chức bậc trung, nó hiếm khi thách thức ban lãnh đạo đảng hay sự chính danh của hệ thống Cộng sản".
"Thông thường NVGP tìm cách giảm nhẹ cường độ công kích bằng việc đi kèm các tuyên bố trung thành với chính thể và ý thức hệ cai trị."
Giọng điệu trung dung của NVGP "thật tương tự với dòng chảy chính trị Cộng sản cải cách hoặc xét lại tăng tốc trong thế giới Cộng sản sau cái chết của Stalin, lên đến đỉnh điểm đúng vào khi NVGP bắt đầu năm 1956".
Lập trường của các phong trào này, như Andras B. Hegedus đã nói về tình hình ở Hungary, là họ tin rằng "có thể cải thiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Marx có thể được tái sinh".
Tiến sĩ Peter Zinoman nhận thấy ở NVGP có sự trung thành chính trị với Đảng Cộng sản, khẳng định đi theo chủ nghĩa Marx, ngưỡng mộ Khrushchev, Lenin và tôn sùng nhà thơ Mayakovskii như biểu tượng chống sự sùng bái cá nhân.
Trong một khảo sát về bảy vấn đề lớn chi phối phong trào cải cách ở Hungary, Ba Lan, Đông Đức và Tiệp Khắc giữa thập niên 1950, Vladimir Kusin ghi nhận có sự gần gũi về quan điểm giữa các phong trào.
Bốn trong số bảy vấn đề này cũng xuất hiện nhiều trong các bài viết của NVGP: (1) dân chủ hóa đảng; (2) cải tổ hệ thống chính trị và pháp luật; (3) bảo vệ tự do trí thức; (4) nhân văn hóa chủ nghĩa Marx.
Có hai vấn đề không được nhóm quan tâm là giảm bớt kiểm soát của Liên Xô với các nước vệ tinh, và thực thi cải cách kinh tế.
Về vấn đề thứ bảy - thúc đẩy chung sống hòa bình với phương Tây - NVGP không tỏ ra có một lập trường mạnh mẽ hay thống nhất.
Sự quan tâm của NVGP đối với dân chủ trong đảng, cải cách hệ thống chính trị - pháp luật, và tự do trí thức đặt phong trào vào dòng chính của xu hướng cải tổ chủ nghĩa cộng sản trên thế giới cùng thời điểm.
NGUỒN HÌNH ẢNH,AP
Chụp lại hình ảnh,
Nhân Văn - Giai Phẩm vừa giống vừa khác các phong trào cải cách ở Đông Âu
Nhưng hai điểm khác của NVGP giúp giải thích vì sao phong trào không nhận được sự ủng hộ hay biết tới của dân chúng.
Thứ nhất là cải tổ kinh tế (kế hoạch hóa tập trung, tập thể hóa, giá lương tiền). Ngay cả các bài viết của NVGP về cải cách ruộng đất chỉ xem đây là vấn đề chính trị chứ không phải là một chính sách kinh tế thất bại.
Như chuyên gia Tường Vũ từng phân tích, chính các đơn thưa của người lao động liên quan lạm phát, điều kiện lao động...là chủ đề của phong trào lao động rộng lớn trong những năm đầu cai trị của Đảng Cộng sản ở miền Bắc.
Vấn đề thứ hai là NVGP hầu như không đề cập vấn đề tự chủ và bình đẳng trước Liên Xô, khác với giới đòi cải cách ở Đông Âu.
Dĩ nhiên, điều này có thể được giải thích vì khi ấy Liên Xô không có mặt nhiều ở miền Bắc, và Đảng Cộng sản, vừa chiến thắng quân Pháp, không bị công kích về tinh thần dân tộc.
Nhưng, theo tiến sĩ Peter Zinoman, việc thiếu vắng hai chủ đề này cũng đã làm giảm sức mạnh chính trị của phong trào khi so với ở Đông Âu.
Kết lại, tác giả xem NVGP là "sự biểu lộ tương đối nhẹ của một hiện tượng toàn cầu".
Theo ông, danh tiếng "bị thổi phồng" của NVGP một phần là nhờ sự kịch tính trong sự trỗi dậy và sụp đổ của phong trào. Những diễn giải sau này, nhấn mạnh sự táo bạo của NVGP, là phản ứng chống lại sự chỉ trích độc địa của báo chí nhà nước thời bấy giờ.
Truyền thống đối kháng nội bộ bên trong Việt Nam tương đối yếu ớt cũng giúp làm tăng sự quan trọng và sức mạnh của NVGP, phong trào chỉ trích đảng duy nhất trước 1986.
Tiến sĩ Peter Zinoman còn cho rằng một thế hệ văn nghệ sĩ, trí thức mới đối lập trong ngoài nước cũng đã phóng đại nội dung phê phán của NVGP nhằm thiết lập "mối dây phả hệ giữa nỗ lực của chính họ và một truyền thống phê phán Cộng sản trước đó".
Tiểu luận dài 40 trang của tác giả, đăng trên Journal of Cold War Studies số Mùa đông 2011, là nghiên cứu mới nhất bằng tiếng Anh về NVGP.
Sự diễn giải mà tác giả gọi là "xét lại" với NVGP hẳn sẽ nhận phản hồi khác nhau của giới trí thức người Việt trong ngoài nước, trong bối cảnh vấn đề trí thức và dân chủ đang được bàn đến nhiều thời gian gần đây.
Tiến sĩ Peter Zinoman nói nghiên cứu của ông không nhằm "phủ nhận sự dũng cảm của các lãnh đạo phong trào hay bi kịch của họ dưới bàn tay tàn nhẫn của đảng - nhà nước". Ông muốn bài viết tìm hiểu lại mục tiêu của NVGP và đánh
giá điềm tĩnh hơn về tiềm năng cũng như hạn chế của phong trào trong vai trò lực lượng chính trị.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Tại sao “mỗi khi cho vôi vào, người ta lại cũng dùng vôi đắp cái miệng nó cho cao lên”? Có ý nghĩa đặc biệt gì ở đấy chăng, hay chẳng qua đó là cách tiện nhất để thanh toán chỗ vôi dính tèm lem nơi miệng bình?
Dĩ nhiên Phan Khôi viết Ông Bình Vôi không phải chỉ để kể chuyện cái bình vôi... (Thu Tứ)
Phan Khôi, “Ông bình vôi”
Khắp nước Việt Nam có tục ăn trầu, cho nên ở đâu cũng có bình vôi.
Theo như tôi biết, ở vùng quê chúng tôi, có hai thứ bình vôi. Đều bằng đất nung cả, mà một thứ giống như cái hũ nhỏ, duy cổ eo, miệng loa, cho nhà trung thường dùng; một thứ bình tròn mà đít bằng, trên có quai xách, miệng ở về một bên, toàn thân tô màu lục hoặc màu vàng, cho nhà sang dùng. Cả hai đều để đựng vôi trong lòng nó. Nhưng mỗi khi cho vôi vào, người ta lại cũng dùng vôi đắp cái miệng nó cho cao lên.
Nhà tôi, hồi bà nội tôi còn sống; có cái bình vôi hạng sang ấy. Mỗi khi mua vôi ở chợ về, bà tôi ngồi tỉ mỉ lấy cái chìa quệt vôi nhét vào miệng nó, gọi là “cho Ông Bình ăn”. Và lâu lâu lại tắp thêm cái miệng nó một lần, hóa nên cái miệng càng ngày càng chêu vêu ra.
Thứ bình vôi thường, dùng chìa bằng tre, những thứ bình vôi sang, bao giờ cũng dùng chìa bằng sắt, ở thân cái chìa đôi khi lại có đeo một lưỡi dao để rọc trầu.
Nhà khác thế nào tôi không biết, còn nhà tôi, tối lại, bà tôi cứ rút cái chìa ra để ra một nơi khác. Làm như thế, bà tôi cắt nghĩa rằng “Ông”sẽ mách cho mình, mà nếu để cái chìa lấp cái miệng thì không mách được.
Tôi nói, “nhà tôi có một cái bình vôi” không đúng. Nói đúng là từ hồi nhỏ cho đến năm tôi hai mươi lăm tuổi, bà tôi chết, nhà tôi có ba bình vôi kế vị nhau. Bởi vì dùng lâu ngày, trong lòng nó đầy vôi khô cứng, miệng nó cứ đắp nên tum húm lại, không dùng được nữa, phải mua cái khác.
Lúc đó nhà tôi có một cái trang thờ Tam vị; ở giữa là Phúc đức chính thần, hai bên là Thổ công và Táo công. Hễ cái bình vôi nào bị thải ra thì bà tôi bảo đem đặt trên cái trang ấy, thờ nhân thể.
Sự thờ phượng như thế, không phải chỉ riêng một nhà tôi đâu. Cả làng, nhà nào có bình vôi thải ra, cũng đều đem đặt trên các tường thành đình hoặc chùa; như thế, người ta cho rằng thờ “Ông Bình”đó.
Cái bình vôi, tại sao lại gọi bằng “Ông”? Đọc từ đầu đến đây, bạn đọc đã biết. Ở vùng quê chúng tôi, mà có lẽ cả nước Việt Nam cũng vậy, vật gì nó có thể hại mình được thì gọi bằng “ông”, vật gì nó to hay sống lâu năm thì cũng gọi bằng “ông”.
Con cọp ăn thịt mình được, gọi bằng “Ông cọp”, con khỉ phá hoa màu mình được, gọi bằng “Ông trưởng”, con chuột, cắn quần áo của mình được, gọi bằng “Ông tí”. Cái đầu rau, dùng năm mười năm mới thay cái khác, gọi bằng “Ông núc”, cái che, đường kính của nó có khi gần đến một mét, gọi bằng “Ông che”. Người Việt Nam về sau thế nào chưa biết, chứ về trước, hễ vật gì làm hại được hoặc lớn hơn, hoặc nhỏ, vật gì sống lâu và to xác thì gọi bằng “Ông” để tỏ lòng tôn kính, sùng bái.
Tôi có phạm một cái tội hồi mười tám tuổi, bây giờ tôi xin kiểm thảo và thú nhận.
Năm tôi mười tám tuổi, tôi không tin nữa. Một đêm mùa hè, gió Nam như bão, sáng trăng mờ mờ, tôi rủ mấy thằng bạn cùng lứa tuổi với tôi đi chơi dọc đường cái làng, đi qua đình và chùa, bao nhiêu “Ông bình vôi” thờ trên tường thành chúng tôi đều hất một loạt xuống đất cả. Sao lại làm như thế? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lý luận. Nhưng, vài hôm sau, trở lại xem, không biết là do tay ai, thấy đều đặt lại tề chỉnh trên tường thành.
Tuy vậy, đó không phải cái tội riêng một mình tôi. Bấy giờ bọn thiếu niên chúng tôi hầu như đứa nào cũng có thể làm như thế được cả. Nếu ngày tôi phải tự kiểm thảo, thì lũ thiếu niên ấy, bạc đầu rồi, cũng phải tự kiểm thảo như tôi.
Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày, lòng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cú rũ trên trang hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng “Ông”.
Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ nầy cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại.
(Trích Giai phẩm mùa Thu, tập I)
Sưu tầm
Dĩ nhiên Phan Khôi viết Ông Bình Vôi không phải chỉ để kể chuyện cái bình vôi... (Thu Tứ)
Phan Khôi, “Ông bình vôi”
Khắp nước Việt Nam có tục ăn trầu, cho nên ở đâu cũng có bình vôi.
Theo như tôi biết, ở vùng quê chúng tôi, có hai thứ bình vôi. Đều bằng đất nung cả, mà một thứ giống như cái hũ nhỏ, duy cổ eo, miệng loa, cho nhà trung thường dùng; một thứ bình tròn mà đít bằng, trên có quai xách, miệng ở về một bên, toàn thân tô màu lục hoặc màu vàng, cho nhà sang dùng. Cả hai đều để đựng vôi trong lòng nó. Nhưng mỗi khi cho vôi vào, người ta lại cũng dùng vôi đắp cái miệng nó cho cao lên.
Nhà tôi, hồi bà nội tôi còn sống; có cái bình vôi hạng sang ấy. Mỗi khi mua vôi ở chợ về, bà tôi ngồi tỉ mỉ lấy cái chìa quệt vôi nhét vào miệng nó, gọi là “cho Ông Bình ăn”. Và lâu lâu lại tắp thêm cái miệng nó một lần, hóa nên cái miệng càng ngày càng chêu vêu ra.
Thứ bình vôi thường, dùng chìa bằng tre, những thứ bình vôi sang, bao giờ cũng dùng chìa bằng sắt, ở thân cái chìa đôi khi lại có đeo một lưỡi dao để rọc trầu.
Nhà khác thế nào tôi không biết, còn nhà tôi, tối lại, bà tôi cứ rút cái chìa ra để ra một nơi khác. Làm như thế, bà tôi cắt nghĩa rằng “Ông”sẽ mách cho mình, mà nếu để cái chìa lấp cái miệng thì không mách được.
Tôi nói, “nhà tôi có một cái bình vôi” không đúng. Nói đúng là từ hồi nhỏ cho đến năm tôi hai mươi lăm tuổi, bà tôi chết, nhà tôi có ba bình vôi kế vị nhau. Bởi vì dùng lâu ngày, trong lòng nó đầy vôi khô cứng, miệng nó cứ đắp nên tum húm lại, không dùng được nữa, phải mua cái khác.
Lúc đó nhà tôi có một cái trang thờ Tam vị; ở giữa là Phúc đức chính thần, hai bên là Thổ công và Táo công. Hễ cái bình vôi nào bị thải ra thì bà tôi bảo đem đặt trên cái trang ấy, thờ nhân thể.
Sự thờ phượng như thế, không phải chỉ riêng một nhà tôi đâu. Cả làng, nhà nào có bình vôi thải ra, cũng đều đem đặt trên các tường thành đình hoặc chùa; như thế, người ta cho rằng thờ “Ông Bình”đó.
Cái bình vôi, tại sao lại gọi bằng “Ông”? Đọc từ đầu đến đây, bạn đọc đã biết. Ở vùng quê chúng tôi, mà có lẽ cả nước Việt Nam cũng vậy, vật gì nó có thể hại mình được thì gọi bằng “ông”, vật gì nó to hay sống lâu năm thì cũng gọi bằng “ông”.
Con cọp ăn thịt mình được, gọi bằng “Ông cọp”, con khỉ phá hoa màu mình được, gọi bằng “Ông trưởng”, con chuột, cắn quần áo của mình được, gọi bằng “Ông tí”. Cái đầu rau, dùng năm mười năm mới thay cái khác, gọi bằng “Ông núc”, cái che, đường kính của nó có khi gần đến một mét, gọi bằng “Ông che”. Người Việt Nam về sau thế nào chưa biết, chứ về trước, hễ vật gì làm hại được hoặc lớn hơn, hoặc nhỏ, vật gì sống lâu và to xác thì gọi bằng “Ông” để tỏ lòng tôn kính, sùng bái.
Tôi có phạm một cái tội hồi mười tám tuổi, bây giờ tôi xin kiểm thảo và thú nhận.
Năm tôi mười tám tuổi, tôi không tin nữa. Một đêm mùa hè, gió Nam như bão, sáng trăng mờ mờ, tôi rủ mấy thằng bạn cùng lứa tuổi với tôi đi chơi dọc đường cái làng, đi qua đình và chùa, bao nhiêu “Ông bình vôi” thờ trên tường thành chúng tôi đều hất một loạt xuống đất cả. Sao lại làm như thế? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lý luận. Nhưng, vài hôm sau, trở lại xem, không biết là do tay ai, thấy đều đặt lại tề chỉnh trên tường thành.
Tuy vậy, đó không phải cái tội riêng một mình tôi. Bấy giờ bọn thiếu niên chúng tôi hầu như đứa nào cũng có thể làm như thế được cả. Nếu ngày tôi phải tự kiểm thảo, thì lũ thiếu niên ấy, bạc đầu rồi, cũng phải tự kiểm thảo như tôi.
Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày, lòng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cú rũ trên trang hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng “Ông”.
Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ nầy cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại.
(Trích Giai phẩm mùa Thu, tập I)
Sưu tầm
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Phùng Cung
Dạ ký
Thời tiết gì mà lạ vậy, trời đã vào thu mà đêm còn oi bức như nung, như thiêu. Thời tiết lạc hậu! Ðêm lạc hậu! Hay đây là điềm thiên thời ra tay ủng hộ để cái nóng nấn ná đòi đốt cháy giai đoạn? Mở mắt to hơn nhìn thấy cái lợi lớn thì nóng thế này chứ nóng nữa, nóng hơn cả giữa mùa hè cũng khắc phục được hết. Trong số nhà 135 Mai Hắc Ðế gồm bảy hộ - trong đó có gia đình tôi - thì sáu hộ có trẻ con ốm. Gia đình tôi chiếm một phòng trên gác, cả thẩy bốn nhân khẩu: hai vợ chồng tôi và hai thằng cháu nhỏ. Với mười hai mét vuông, so với sáu hộ khác còn xênh xang hơn nhiều - "Ăn hết nhiều ở hết bao nhiêu!" Câu đầu lưỡi được các cụ ta ngày xưa tổng kết đã, đang và sẽ còn giá trị!
Rủi ro thay! Gia đình tôi hai cháu ốm cả hai: Mẹ chúng bị đau lưng vào nằm viện đã được hơn hai tuần.
Dưới nhà, chẳng biết hộ nào vụng trộm nhang khói cầu khẩn cho người ốm; mùi hương thầm thoảng đầy mê tín. Lại có tiếng càu nhàu văng bậy từ số nhà bên cạnh chửi cái nóng, chửi lung tung! Phải khẳng định những người này chưa thấm nhuần tiến bộ văn minh còn phải học tập, còn phải được giáo dục nhiều. Những hành vi ấy dẫu là bán công khai cũng đều rất ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt. Tôi chẳng hương khói, chẳng văng bậy, chẳng chửi; khó khăn phải khắc phục mà! Khắc phục được hết; nó là khẩu hiệu tiên quyết thắng lợi mọi mặt - Có thể khẳng định một thủ đô pha lê; một thành phố pha lê đã nằm trong tầm tay hoạch định của trên. Ai ai cũng nức lòng lạc quan - không phải lạc quan tếu - lạc quan cách mạng!...
Thỉnh thoảng tôi vèo xe đạp vào viện thăm vợ; vẫn phải nói với vợ bằng lời: "Yên trí! Tất cả đều tốt!" Cái lối động viên quen tai rất thời thượng - xuất xứ từ đâu? - Cửa miệng quái nào cũng có thể thốt ra được, ở bất luận trường hợp nào xét thấy cần thiết - nó khoanh trong cái vòng "người tốt, việc tốt". Ðơn giản mà nghĩ, tôi thấy lời của mình nói với vợ là láo toét! Là nói điêu, là dối trá nhưng được hơn là thành thật. Trong cõi hệ lụy thiên định, nhân định này, chỉ có những phù thủy giấu mặt, cao tay màu nhiệm "úm ba la" đổi trắng thành đen, đổi đen ra đỏ mà, văn hóa mới, văn minh mới chưa lùng chụp được - khiến số ít người còn bán tín, bán nghi, sợ sệt và coi khinh - Phù thủy thì khiếp lắm! Nó pháp thuật, người thành ma, ma thành người. Dân thường làm gì mà biết được.
Mình là người dân, là công dân, chỉ nên nói đến chuyện trong phạm vi công dân - Vinh dự cầm chặt trong tay thẻ cử tri, phiếu bầu cử là đủ tự hào quyền làm chủ! Nhất thiết phải có nghĩa vụ vinh quang! Sự đãi ngộ, hưởng thụ cũng rất khoa học, phải có tiêu chuẩn rõ ràng, không có lộn xộn như xa xưa; cái gì cũng "... giai do tiền định" - đừng hòng! - Phải thời đại hóa "Nhất ẩm nhất trác giai do tiêu chuẩn." - Bản thân tôi, một mình phải đương đầu, đánh vật với miếng ăn, miếng uống; đánh vật với bệnh tật của vợ con; đánh vật với đủ thứ rủi ro: nhòm ngó, nghe ngóng - mình đâu phải là Quan Âm Phật bà ngàn mắt ngàn tay mà lường hết được; - đánh vật với chính mình! thâu ngày, thâu đêm còn đâu hơi sức để tỉnh táo, để định thần, để khôn ngoan, để phớt cẳng vượt lên tiêu chuẩn cao hơn - không ai cấm đoán; còn khuyến khích động viên nữa là khác.
Hai cháu, thằng anh bốn tuổi, hơn thằng em hai tuổi; cộng cả hai là sáu tuồi - đang trong vòng "tuổi mụ" - nói như thời xưa là chúng đang được bàn tay bà mụ che chở cho đến tuổi mười hai. Bây giờ thì chẳng có mụ mẫm gì, ai dám cả gan tin; lên tiếng thử xem? Tất nhiên tôi cũng chẳng dám tin, dại gì chuốc vạ vào thân! Hai đứa cứ như thi đua lên cơn sốt, đã bốn ngày, năm đêm, kể cả đêm nay.
Từ đêm chúng vắng mẹ, đêm nào tôi cũng phải nằm dang hai tay ra hai bên như một cây thánh giá; mỗi cánh tay làm gối đầu cho một đứa. Chúng đều nóng hầm hập; ngày sốt ít, đêm sốt nhiều; chừng như chúng lên sởi. Cả hai đều rên khe khẽ, nghe rất tội nghiệp! Hai cháu ngoan, biết nằm im, rồi ngủ thiếp đi khiến tôi đỡ bối rối. Nằm giữa chúng, tôi lơ mơ ngủ, lơ mơ thức; có thể nói là ngủ trong thức, thức trong ngủ. Tôi cứ nằm trong cái thế "chịu tử nạn!", ê ẩm hai cánh tay, không dám cựa, chỉ mong chút im lặng để chợp mắt.
Ðêm lặng, hơi có gió nhưng là gió nóng; có lẽ gió từ dưới đất lên. Tôi cảm thấy hai mắt đang được băng lại bằng lụa mỏng - một thứ lụa chuyên dùng của thần ru ngủ? Tai tôi vẫn còn thức, nhờ gió đón nhận được những âm thanh của đêm thu. Âm thanh cũng đứt, nối, nổi, chìm, to, nhỏ, gió ý thức điều chỉnh?... "Thề phanh thây, uống máu... cùng tiến lên!..." Thì ra trong tôi cơ hồ bị thất thoát khái niệm thời gian. Những bài ca cách mạng hùng tráng; xa, gần, các giới, đoàn thể đang tập luyện để long trọng đón kỷ niệm ngày đại lễ của đất nước - Cách mạng Tháng Tám, ngàn thu ghi nhớ! Âm thanh ấy đang dẫn dắt tôi, hoặc tôi níu lấy nó để đưa mình vào cõi chập chờn...
... Một không gian đỏ, xanh, vàng, tím bao la quay cuồng biến ảo; bóng tối bưng lấy mắt, rồi lại thay bằng một thứ ánh sáng dìu dịu của đêm trăng, rồi ngả sang màu ánh sáng của bình minh ảo - không gian phù thịnh. Tôi đang thông thả bước trên một đường phố - trước kia rải nhựa nay đầy những vết xe tăng để lại nham nhở. Tôi mất phương hướng, mất cả lập trường, lại không phải nhà quân sự nên không nhìn nhận rõ đây là dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược. Tôi tiếc con đường nên nghĩ dông dài thô thiển: Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương quỷ dữ!... Bỗng một bàn tay đập vào vai tôi, tôi giật mình. Tôi chỉ nghĩ chứ đâu đã nói ra, nên tôi lại định thần quay lại. Ai nhỉ? Một người mà tôi thường hàng ngày chạm mặt. Vẻ mặt dễ mến này hẳn tôi đã lưu giữ trong tiềm thức nhưng vẫn không sao nhớ được tên - Nói theo tiếng xưng hô - hóm hỉnh - mỡ nạc - vui tính - hàng ngày của nhà văn Kim Lân, là "người anh em". Tôi hỏi "Người anh em đi đâu?" Người này chỉ cười, không trả lời; càng cười càng tỏ vẻ dễ dãi. Trong chuỗi cười, nói lên cả một lời khuyên nhủ "Ðồng hành!" Tôi vốn có thói quen trực giác cảm thấy đáng tin, là tôi sẵn sàng thả lã sự giao tiếp ngay; không chút đắn đo, ngần ngại. Anh ta đi trước, giữa tôi và anh ta có mấy thứ khoảng cách; khoảng cách tuổi tác, tôi kém anh ta ít cũng ba trăm sáu lăm ngày nhân bốn hoặc năm; khoảng cách chức vị xã hội thì dài lắm, bởi tôi chẳng là cái gì; khoảng cách bước đi vừa bằng chiều dài một con chó. Kẻ trước, người sau đều bước, tôi vẫn băn khoăn, không sao nhớ được tên. Ði là đi, tôi cũng chưa kịp hỏi là đi đâu, bởi tôi tin theo sau anh là vô hại, nếu chưa nghĩ đến là lợi lộc. Ði được một quãng, anh ta nói với tôi bằng cái giọng quyến rũ, tiếng to, tiếng nhỏ, tôi nghe câu được câu chăng: "đường vinh quang" hay "đài vinh quang!"... gì đó. Tôi bụng bảo dạ: "hay rồi!" Anh ta cứ nói, tôi cứ nghe. Xem chừng đã mỏi chân, khát nước, muốn tìm chỗ nghỉ để rồi lại đi. Thình lình tôi quay lại, không thấy anh ta đâu, rõ ràng tiếng nói của anh ta còn bám trên vành tai tôi. Tôi lấy làm lạ, nhìn đông, nhìn tây không thấy. Anh ta đi đâu nhỉ? - rẽ lối nào? - để làm gì? - Tại sao mình lại không biết? Tất nhiên tôi chẳng mất mát gì; chẳng có gì để mất mát. Ẩn hiện kiểu này chỉ là thần hoặc ma, tôi đâm ra lo sợ. Giữa thanh thiên bạch nhật lại xảy ra chuyện kỳ lạ nhường này! Tôi vừa đi vừa nghĩ, cố rà lại trong kho lưu trữ của mình để ghép dựng lại con người anh ta. Tôi tiến hành theo cái kiểu làm dồi lợn, được đoạn nào buộc đoạn đó - biết mình đầu óc kém khoa học, kém tổng kết, hay để sổng ý nghĩ - dễ xáo trộn lung tung. Trước hết tôi lần nhớ dáng đi của anh ta, lon ton, lon ton - lối vận hành của quan hoạn - À! nhớ ra rồi! Kho nhớ của tôi về anh ta như ổ khoá mở đúng chìa; thậm chí tôi có thể biết cả sơ yếu lý lịch của anh ta - Con trai thứ của một viên chức loại thường ở thành phố cảng, nhà lại có cửa hàng cửa hiệu; học vấn đã qua tú tài, và đã qua vài năm trường luật - nhờ tham gia cách mạng từ thời Nhật thuộc - trình độ văn hóa - giữa lúc mà Bác mình đang kêu gọi diệt giặc dốt - thì anh ta thuộc loại có hạng. Bởi vậy anh ta được giao công tác "tuổi trẻ chức cao". Hình hài xếp loại đẹp giai, trông rất đàn ông, da ngăm ngăm, mũi cao, mày rậm, mắt sáng, râu quai nón - lúc nào cũng cạo nhẵn - khi chưa kịp cạo, râu hơi lờm sờm càng đẹp vẻ mày râu.
Anh ta được trên sủng ái; cái giọng nói to nhỏ từ miệng khuôn ra toàn đạo đức; mới nghe ngọt sớt nhưng ngẫm nghĩ thì nó lộ nguyên hình mỹ ký. Chả biết anh ta học ai mà nhuần nhuyễn bài bản mỹ ký đến thế; chẳng lẽ bẩm sinh? - Hẹp hòi, ích kỷ, thù vặt, đầy người - kể cũng được việc lắm! Văn, thơ, kịch cọt, nhạc nhiếc, triết trủng, anh ta tự hào "thập bát ban võ nghệ tinh thông!" Nhờ tài hoa ấy mà đời anh ta thông bén luồng lạch! ngóc ngách công tác cũng như riêng tư. Tôi được biết nhiều phụ nữ từ quan hệ công tác - môi trường tạo gần gụi, ngụy trang - chị em phái yếu nhà mình không ít nhẹ dạ, nhẹ như xăng - như thùng xăng. Anh ta rất nhạy bén đánh hơi khi thùng xăng hở nút, hoặc rò rỉ, quẹt diêm đúng lúc - Dẫu đội quân cứu hoả nhà trời cũng đừng hòng tắt ngay được! Hậu quả chị em đã bị anh ta làm cho khốn khổ; chị em đã có chồng con không xiêu nhà nát cửa, cũng mang hận suốt đời! Kiêng nể cách mạng nên phụ nữ không dám lên án anh ta là tên "Sở Khanh cách mạng" mà chỉ nhổ hơi nặng bãi nước bọt! Anh em trong ngành văn nghệ đã phong tặng anh ta danh hiệu "con chó dái đầu bảng!"
Con người như thế phải là như thế. Khi vợ anh ta bị bệnh lao phổi, chết tại Việt Bắc, biến đau thương thành hành động; anh ta lao vào công tác vừa phần rảnh thân kiếm bạn đời, rảnh cẳng lông nhông...
Chẳng hay, cấp trên trực tiếp, gián tiếp có biết đầy đủ về con người anh ta không? - Sáng suốt nhường ấy thì chắc chắn phải biết. Có phải vì văn thơ kịch cọt của anh ta hợp khẩu vị - mà trên làm ngơ, hoặc đang có tác dụng này nọ; cân nhắc thấy những "nhược điểm nhỏ" của anh ta không ảnh hưởng gì đến nền đạo đức cách mạng, chỉ là cá tính vô hại. - Anh ta cũng đã mấy lần lầm lữa - giở quẻ - hợm mình - nâng giá! lên voi xuống chó, những lúc ấy trông anh ta thiểu não, ai cũng động lòng - người trong ngành nhận định chỉ là sự "giơ cao đánh khẽ" để vào khuôn phép, kỷ cương! - Nhận định như vậy hình như đúng - Trên đường hoạn lộ anh ta vẫn được đàn anh dấm dúi thập toàn đại bổ. "Nhược điểm nhỏ" anh ta cũng có phải trả giá - giá chợ chiều.
Tóm lại đâu vẫn hoàn đấy; vẫn lông nhông leo thang; công tác vẫn ngon lành. Thế mới biết con người ta đều có số phận cả!
Biết rõ anh ta là ai rồi nhưng tôi vẫn thắc mắc về sự ẩn hiện của anh. Theo truyền ngôn, nước ta chỉ có "Tứ bất tử", các vị này đều dày công tu luyện đạo gì, đạo gì đó. Vậy chẳng lẽ anh ta đã bổ sung vào hàng ngũ đó sao? Chẳng lẽ học thuyết Mác Lê Nin cũng là đạo sao? Vô thần cơ mà! - Ừ thì cứ cho là đạo vô thần đi - Ðạo vô thần mà lại lắm phép lạ đến thế thì khiếp thật! Và đương nhiên anh ta phải là bực chân tu chính đạo! Tôi tự thấy mình hoá thành kẻ đa sự nên vội trụt ý nghĩ lại. Từ lúc trong đầu bận tập trung suy nghĩ về anh ta, quen chân, đều bước cũng chẳng biết mình đã đi bao xa và đi đến đâu. Chỉ thấy chân mỏi nhừ, khát nước bỏng cổ họng. Tôi trở lại cái thói quen thiển cận, những điều gì không tự giải đáp nổi cho quên béng đi, là thượng sách...
Trời đã ngả chiều, từ trên cao chợt có tiếng "quạ nổ pháp miệng" - Tiếng của làng quê tôi như thế - Tôi nhìn lên ngọn cây chòi mòi kề bên cổng một ngôi đền cổ kính. Không am tường ngôn ngữ chim muông nhưng tôi đoán đó là một dạo khúc bản Sê-rê-nát quạ. Con quạ khoang vươn cổ réo lên đủ bảy tiếng chiều - vấp nhịp - bốc cánh bay đi; vừa bay vừa ỉa thản nhiên. Tôi muốn ghé nơi cảnh vắng này để độ chân, luôn thể ăn mày ngụm nước. Tôi vừa bước khỏi cổng, bỗng thấy khác lạ: rõ ràng vừa rồi là một cổng đền, nay lại biến thành một tam quan đẹp - Chùa hay đền? - Tôi chẳng hiểu gì về kiến trúc, chẳng phải tín đồ, con hương, đệ tử. Tôi chẳng có cương vị quan tâm. Tôi bước thêm dăm bước. Chợt tiếng "đậu phụ chùa" sủa dữ dằn. Tôi để mắt tìm chẳng biết con vật ấy đâu. Tiếng sủa từ bốn phía giáp công giòn giã đan vây. Tôi biết làm gì đây để thanh minh mình không phải là kẻ gian phi. Tôi cố gắng nhìn ngó muốn tìm đến chủ của chúng dù là nhà sư hay là ông từ để nói lên cái yêu cầu không nhỏ của mình. Rất tiếc, tôi chẳng thấy bóng một ai! Chẳng biết sức gì lôi cuốn, khiến tôi tò mò ngoan bước. Vào đến thềm đại bái, tôi chợt nghe tiếng lịch kịch bên trong như tiếng thu dọn đồ đạc. Tôi bước hẳn vào bên trong, nhìn lên tam bảo uy nghi. Cái mắt tò mò chuộng lạ của tôi dè dặt tôn kính từ ba vị tam thế, đến hai bên hành lang, đủ loạt: tượng Phật, tượng thánh gỗ hay đất chẳng biết, đều sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Trời! Tôi bỗng rủn cả người! Các tượng tĩnh toạ ở cái thế thiên thu bất biến, nhất loạt chăm chắm nhìn tôi. Tôi rẽ sang hành lang bên tả, các vị cũng nhất loạt đánh mắt sang tả lườm tôi! Tôi rẽ sang hành lang bên hữu, các vị cũng nhất loạt đánh mắt sang hữu - Còn nhanh hơn - lườm tôi! Sự hoạt động của nhãn tượng nhạy bén tựa cái vô lăng ô tô quành trái, quành phải trên con đường chữ chi, ổ gà, do một tay lái tột bậc, điều khiển. Tôi cảm thấy lạnh toát người; tôi cố trấn tĩnh làm nhanh bản tự thuật trong đầu. Tôi vẫn biết đã là tự thuật là thành khẩn tự nhận tội lỗi là cốt lõi của vấn đề. Tôi tự nhủ có lẽ con mắt của thần, Phật; chỉ con mắt thần Phật mới nhìn thấu hết. Hẳn kiếp trước mình là kẻ bất lương, bất hảo!...
Tôi khép nép đi lùi theo lối cận thần sau khi vào bệ kiến đức vua mà tôi đã có nhiều dịp chứng kiến trên các chiếu hát chèo. Lùi đến khi gót chân va vào bậc cửa tôi mới dám cúi đầu quay ngang và bước hẳn xuống thềm.
Khát quá! Nhìn thấy một bể nước kề sát tường, tôi vội nghĩ: thôi thì dẫu sao mình cũng đã bị kiềm kim ấn ba kiếp thì liều thành tâm ăn mày trộm ngụm thanh thủy! Rủi thay! tôi nhìn vào bể chẳng còn lấy một giọt nước, đáy bể đã chớm rêu. Góc bể phía trong, một con cá đã chết từ bao giờ trong môi trường thiên định, chỉ còn nguyên bộ xương trắng màu gạo hẩm! Chờ ăn vạ, hay đợi thời gian mài giũa để siêu thoát, hay chờ bàn tay mầu nhiệm cho tái sinh? Duyên kiếp người cũng như ngư, điểu đều may ít, rủi nhiều, cứ nằm đấy mà chờ đợi! Tôi trộm nghĩ lõm bõm lời Phật tổ: "Nước bốn đại dương dồn chứa chưa bằng nước mắt chúng sinh trong thế giới ba ngàn!" Nếu được xét tái sinh hẳn con cá này sẽ được thung thăng ưu ái trong nước mắt mênh mông vô tận - Coi chừng, kẻo uổng phí kiếp tái sinh!
Bộ xương cá đòi bằng được chỗ đứng trong kho lưu trữ đầu tôi, làm tôi nao nao; cá đã chết rũ xương trong môi trường thì còn biết thế nào mà lường được! Môi trường đang là cái lò sát sinh được ngụy trang chăng?
Tôi vừa đi vừa nghĩ bỗng cơn mưa ập đến, nghe tiếng mưa rào rào, tôi nhìn xa gần để tìm nơi trú. Nhưng lạ thay, mưa mà quần áo tôi không ướt. Mới ở chùa ra, có lẽ mưa tưởng tôi là người nhà Phật, hay ít cũng vương mùi Phật nên kiêng nể chăng? Lại thình lình một mũi giày đá vào mông tôi. Ðá khá mạnh nhưng không đau. Tôi lại giật mình quay lại. Chẳng phải ai xa lạ, ông bạn cao tuổi, nhà thơ giả thiểu số - Tôi hơi bất bằng cái lối mở đầu sự gặp gỡ kiểu này, nhưng không tiện tỏ thái độ, chưa hẳn sợ anh mà là ngại anh thì đúng hơn. Anh đá tôi bằng giày vải quân đội nước bạn Trung Hoa viện trợ - Trong giày nó có sức điều tiết lúc êm, lúc đau - phát đá hữu nghị giao hảo thì nghe êm; ngược lại thì gấp ngàn vạn lần giày săng đá của lính Lê dương. Anh hất hàm hỏi tôi: "Ðã thật thành khẩn chưa?" Tôi chưa kịp trả lời mà nghĩ nhanh: sao anh ta lại hỏi đột ngột thế nhỉ? Anh ta có ở trong đầu mình đâu mà biết được bản tự thuật lúc nãy mình chỉ mới nghĩ, chứ có viết hoặc nói ra đâu. Lạ thật! Chẳng lẽ tiếng lịch kịch khi tôi nghe thấy lúc còn đứng ở thềm đại bái lại là tiếng do anh ta tạo nên. Có lẽ anh ta nấp đâu ở trong chùa mà tôi không biết. Cái khoa "Phật vận" của anh làm tôi phục anh sát đất. Cũng có thể do anh ta quen tin lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay chăng? - Như người bị bắt quả tang, tôi cứ ngớ ra: Chút bình tĩnh dần dần được hồi phục, vì mình không khuất tất, không trộm cắp gì. Vả lại nhà tôi cũng có nuôi chó. Người lạ đến nhà là nó sủa; bất kể là ai. Nhiều con khôn còn biết sủa lập công phò chủ. Tôi ít nhiều bị chúng hiểu lầm nhưng chẳng đáng để ý. Anh nhà thơ lên mặt giáo dục tôi: "Chưa được thành khẩn, phải đào sâu suy nghĩ, còn phải, bộc lộ!..." Tôi nghĩ đây đâu phải là đang cuộc chỉnh huấn. Nếu là chỉnh huấn tôi cũng chẳng tiếc gì vài cái gãi đầu đấm ngực, lên án mình - dù thật hay vờ miễn học ủy gật đầu chấp nhận... Anh nhà thơ lại hạ giọng: "Cũng tạm được, cũng đã có ít nhiều chuyển biến!...". Nói xong anh quay đi, đi rảo bước cho kịp một người bạn đồng hành của anh. Tôi được giải thoát, tôi thở phào nhìn theo hai người. Quái lạ! Anh nhà thơ, lúc nãy tôi có thấy anh ta cầm cái gì đâu. Bây giờ lại thấy tay phải cầm ngang một chiếc côn gỗ đầu đen, đầu đỏ - Nếu là côn đầu trắng đầu đỏ thì tôi đã biết nó là côn công sai - côn thủy hoả! Nhưng loại côn này thì tôi chịu. Người cùng đi với anh, không nhìn mặt tôi cũng biết. Vóc dáng cao lớn, gầy, đen, tứ thời đầu húi móng lừa, tứ thời bận đồ nâu - kể cả khi bận com-plê cũng nâu - na ná một ông sư Cao Miên - đó là một nhà văn, nhà lý luận - lối lập luận thời thượng nhất - vừa mũi nhất - Anh em trong ngành văn học nghệ thuật nói vụng với nhau là "Tên đầu bếp vụng, nhưng được kẻ ăn khen ngon!"...
Nhà lý luận một tay bá cổ nhà thơ, một tay cũng một cái côn, giữa sơn vàng, hai đầu đỏ, màu sắc tất nhiên khác hẳn côn của nhà thơ - Nó tượng trưng cho cái gì thì tôi cũng xin chịu - Côn nào cũng có tính năng của nó, không phải chuyện trang trí, tạo dáng.
Một lúc sau, không biết hai người đã rẽ lối nào, tôi chẳng quan tâm, ngả ba, ngả tư thiếu gì. Ðến một ngả ba, thấy lối rẽ bên phải đường nhẵn cát pha, tôi liền rẽ theo ngả này. Ôi! Vô phúc thế nào lại dẫn thân vào nơi cấm địa; lầu son, gác tía dựng ngay trước mặt. Tại sao mắt tôi không nhìn thấy từ xa nhỉ. Tôi dừng chân nhìn một ngôi hoá hai, hai hoá ba, ba hoá bốn, hoá năm, liên khu lâu đài, biệt thự - như trời hoá phép vậy! Tôi tưởng đây chỉ là ảo giác. Tôi xoa mắt, định thần. Tôi đứng bên ngoài hàng rào cấm, nhìn lên thấy một tấm biển màu đỏ, chữ vàng, chữ loà nhoà tôi không đọc rõ - treo ngay ngắn trước một biệt thự chính giữa. Hai hàng người quần áo đồng màu cắp côn đỏ, xếp thứ tự nghiêm chỉnh từ dưới chín cấp lên tận cửa son. Ðứng đầu hàng bên tả là người nào tôi không biết; đầu hàng bên hữu là ông anh đẹp trai tôi gặp lần đầu - ông anh rất chững chạc, rất điệu có vẻ điêu luyện nhất: Hẳn ông anh đang giữ chức chỉ huy, bên cửa son. Cặp mắt hau háu, trai lơ, sung mãn! Lúc này tôi mới chợt nghĩ lại mấy tiếng "vinh quang" mà tôi đã được nghe anh nói; hẳn là chốn này đây! Chả có công việc gì mà cứ luẫn quẫn nhìn ngó dễ bị xơi đòn nên tôi liền lảng nhanh. Tôi đang nghĩ tiếng "vinh quang", hẳn là anh đó khoe mình đang vinh quang, hoặc chỉ nhủ tôi đi xem "vinh quang" mà thôi. Như vậy là tôi đã được biết cái vỏ vinh quang, còn tất cả bên trong là như thế nào, ngữ tôi làm gì được biết. Tôi nghĩ: "đi một ngày đàng học một sàng khôn". Học cái gì, khôn cái gì? toàn là những điều không thực dụng, vô bổ.
Khát cứ khát, đói cứ đói, chân cứ đòi bước như thể tự mình dẫn độ mình trong vô định. Ðang đi trong lối đi của thành phố, trong đầu cứ bẵng đi một cái lại gặp một sự lạ. Ðường phố rõ ràng thoắt biến thành lối đi đèo dốc miền thượng du. Hai bên rừng rậm rập, tiếng chim hót đủ loại, nhiều nhất là vẹt và khướu bách thanh, hai loại này tay có nghề mà kiếm được vài cặp nuôi dạy làm mồi thì tuyệt vời!
Tôi chợt nghe giọng âm ấm ngâm câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp côi..." Tôi nghĩ ai đó đang ngâm nga câu thơ của Quang Dũng thì thấy đúng Quang Dũng xuất hiện. Tôi cảm thấy may mắn, gặp anh. Tôi vội hỏi anh đi đâu đến chốn này. Anh cười vẻ buồn buồn: "Ở Tây tiến về! Hôm nay sinh nhật mình, mình đang muốn tìm bạn dự sinh nhật!" Tôi nghĩ bụng: Thế thì đúng lúc, mình đang đói, khát, lại có bạn rủ đi sinh nhật thì còn gì bằng. Tôi ngỏ lời chấp thuận. Thế là anh ta kéo tôi ngồi xuống gốc cây bên cạnh giở trong bọc ra mấy củ khoai lang luộc, và tháo từ nách ra một bi đông - bi đông nhôm hơi méo đựng nước chè xanh. Hai thằng cùng ăn khoai, cùng uống nước - Anh ta giới thiệu khoai quê mình đấy, chè thì ở Gốt cũng gần quê mình - Ta lấy khoai làm bánh kẹo, lấy nước chè làm rượu - Anh vừa nói vừa cười hỏi tôi: "Cậu chúc gì mình nào?" Tôi đáp: "Chúc ông làm nhiều thơ hay!" - Anh ta lắc đầu, im lặng. Tôi thấy sinh nhật một nhà thơ sơ sài quá! đơn giản quá! Nhưng tôi lấy nội dung làm chính. Anh ta lại nói: "Khoai lang ăn nó dễ đi ỉa, nhuận tràng; chè xanh mát ruột!" Tôi cũng miễn cưỡng cho là phải - và đang nhìn mơ hồ lên bầu trời cao xanh. Bỗng tôi thấy anh lấy từ trong túi đựng khoai ra một con dao dài chừng một gang tay, chuôi đồng, lưỡi dao sáng loáng, anh ta vừa nhổ nước bọt vào gan bàn chân, vừa liếc dao, vừa khóc! Nước mắt lăn rơi đầy mặt! Liếc dao xong, anh ta đứng phắt dậy, mắt gườm gườm nhìn tôi. Tôi sửng sốt không hiểu nổi cái gì sẽ xẩy ra đây? Tôi cũng đứng dậy. Anh ta cầm lăm lăm con dao sắc trong tay: "Tao thiến mày!" Tôi hoảng sợ nhưng vẫn nghĩ là anh đùa: "Ðừng đùa dại thế anh!" - Anh nhảy bước tới tôi. Tôi lùi nhanh. Anh nói: "Ðùa à! Tao thương mày, mày có muốn làm quan hoạn không?" Tôi nghĩ: Thằng này phát điên hay sao đây mà lại quái gở thế này? - Anh ta nói liền liền: "Tao thương mày! Tao thương mày! Cùng quê nhau cả, tao giành cho mày mọi sự ưu ái!" Nhấp nhỏm có ý rình miếng chụp gọn lấy tôi. Tôi vừa sợ, vừa nghĩ: anh ta phát điên hẳn rồi! Ưu ái - quan hoạn - lộn xộn chẳng còn biết ra thế nào! Tôi lùi một bước, anh ta tiến một bước, tôi lùi hai bước, anh ta tiến hai bước. Anh ta một tay múa dao, một tay chuẩn bị chụp bộ hạ tôi. Chạy là thượng sách! Tôi phá chạy, anh ta huỳnh huỵch đuổi theo sau. Rõ ràng tôi cắm cổ gắng sức mà vẫn như chạy tại chỗ. Anh ta cũng không đuổi kịp được tôi. Chạy được một lúc, tôi ngoái nhanh cổ nhìn lại, không phải Quang Dũng mà là một nữ du kích; đầu chít khăn đen kiểu mỏ quạ, áo cánh nâu, quần đen có chít ống, trông cũng xinh xinh. Tôi vừa chạy vừa nghĩ chẳng lẽ Quang Dũng tàng hình hay cô du kích tàng hình. Tôi cứ chạy lối chữ chi như để tránh luồng đạn. Chạy mệt quá! đứt hơi rồi. Tôi đành nhắm mắt gửi thân cho số phận. Ngồi thụp xuống thở. Và cũng chẳng thấy ai đuổi mình. Người ấy biến đâu? Thế là thoát! Tôi ngồi nghỉ lấy lại sức, nhờ có vài củ khoai và vài ngụm chè xanh sinh nhật, cái đói khát cũng đã tạm ổn.
Trên đường toàn những khách văn chương, thời thịnh văn chương! Cũng như người ta nói: "Ra ngõ gặp anh hùng", là rất có cơ sở, rất có lý. Ngay nơi gia đình tôi đang ở, cũng hàng chục Hùng - Hùng Sơn, Hùng Việt, Hùng Anh, anh Hùng, thậm chí có cả Hùng Nhèm, Hùng Giẻ Rách v.v... Cũng là thời thịnh anh Hùng nên người ta ngưỡng mộ cái danh hiệu cao sang ấy mà đặt tên không ngoài sự khuyến khích "hướng hùng". Nhà thơ tôi may mắn gặp đây - sau một phen hết hồn bị thiến trượt - là Hoàng Cầm: Một người bạn vong niên kể tuổi đời tuổi văn thơ cũng xứng đáng là bậc "liền anh" của tôi. Anh có dáng thư sinh nho nhã - nghe nói cũng có đôi người phái đẹp chê anh là ẽo uột! - Với tư thế một sĩ quan văn học trong đoàn quân bách chiến, trời phú trong cổ họng có cái còi mạ vàng; nhờ đó anh sổng giọng vàng mười sang sảng khi ngâm thơ - Có người đố kị bảo thơ anh đầy vẻ lấp lánh trang kim hàng mã - Cũng vẫn lối đố kị có vẻ khen anh nổi tiếng nhờ ngâm thơ chứ không phải vì thơ hay. Cứ cho là đúng; cứ cho là không đúng đi - Tất cả đều là phù phiếm có giới hạn - Nhờ tài hoa, duyên phận, anh đã "cuỗm" được một phụ nữ nạ dòng "đờ luých" - đó là lời đùa quá trớn của bạn anh - chẳng thấy cần phải nêu tên; nhưng thôi, tôi cứ nêu béng tên ra để khỏi mập mờ - đó là Tử Phác. Tôi biết Tử Phác với Hoàng Cầm có thể nói là đôi bạn nối khố nhưng, cũng không ít lời cay độc ngay trong lúc trò chuyện với nhau. Hình như Tử Phác ta cũng ít nhiều có sự ghen tị với Hoàng Cầm về đường phu thê? Tử Phác độc quyền châm chọc Hoàng Cầm, ai khác cũng nói lời của Tử Phác như vậy; tức thì Tử Phác bênh bạn chầm chập: "Ôi chà! nạ dòng loại chúa như thế còn gấp triệu lần loại váy đụp lên ngôi - loại váy đụp đã lên ngôi thì khiếp lắm!... - được thôi mà!..." Ðương nhiên cái lối nói này lạc hậu tầm cỡ quốc tế! Nên chỉ là nói vụng.
Thật là đẹp đôi! Thật là trai tài gái sắc! Cái đất Hà Thành này, cái đất quanh vùng Hoàn Kiếm này, - theo tôi - nếu không muốn nói là hiếm thì cũng không nhiều - trong mâm ăn hàng ngày chắc có cơm tám chả chim.
Hoàng Cầm nắm vai tôi hổn hển: "Mình đang nghỉ giải lao, đang bận tập, nếu không thì mời cậu về nhà chơi". Tôi vội hỏi, "Tập tành gì?" Hoàng Cầm quay sau lưng, lấy tay chỉ chỏ. Tôi nhìn theo tay anh, thấy một bãi tập rộng, cỏ mọc xanh rờn xung quanh đều có hàng rào thép gai cao chừng hai tầm đầu người lớn. Hai bên phía bãi tập là mấy ngôi biệt thự mới: cái thì mái cong như mái chùa; cái thì mái vòm, trên nóc có hình củ tỏi. Bỗng một hồi chuông vang lên, Hoàng Cầm định bắt tay tôi để vào bãi. Nhưng anh lại dừng ngay và nói với tôi: "chưa đến đợt bọn mình!" Tôi lại hỏi anh: "Tập tành gì vậy - và nơi đây là gì?" Anh trả lời: "Cứ đứng đây nhìn sẽ biết".
Tôi nhìn vào trong đã thấy sáu bảy hàng người, mỗi hàng chừng vài chục. Có hai người đang đứng trước những hàng người, nói gì tôi không nghe rõ. Một người cao đen, mà trong anh em văn nghệ mệnh danh là đầu bếp vụng; người kia là nhà thơ giả thiểu số. - Theo Hoàng Cầm cho biết người cao đen là giáo sư viện trưởng qua đào luyện theo hệ Nam Hải. Người nhà thơ là giáo sư viện phó, qua đào luyện theo hệ Ðông Phương. Cả hai tôi đều biết, nhưng tôi thắc mắc: Nam Hải là gì? Ðông Phương gì? sao anh lại nói mập mờ khó hiểu vậy - tôi không tiện hỏi. Sau mấy tiếng hò hét của hai vị giáo sư - Giáo sư viện trưởng, vươn ra một cái lưỡi đỏ, dài hàng trượng và hơn thế nữa. Cái lưỡi cứ ngoằn ngoèo lượn như xiếc Trung Hoa múa lụa vậy. Mấy hàng học viên do giáo sư này chỉ huy cũng phóng lưỡi đỏ, cũng ngoằn ngoèo nhưng còn ngắn hơn giáo sư nhiều - Còn vị phó giáo sư thì phóng một loại lưỡi khác thẳng đơ như dùi cao su, bề dài cũng hàng trượng, có kém cũng không đáng kể - Cái lưỡi của vị phó giáo sư không múa liệng mà cứ đập lên đập xuống, cái lối dẻo cứng. Theo tôi đúng là một trăm phần trăm cao su nhân tạo hay thiên nhiên thì không biết - Mấy hàng học viên dưới sự huấn luyện của vị này cũng phóng lưỡi ra cũng đập lên đập xuống, tất nhiên so với phó giáo sư còn kém nhiều! Tôi nhìn thấy cũng ngoạn mục, cũng lại sờ sợ. Tôi chưa được nghe ai nói về sự việc này - Nay đột nhiên được thấy tận mắt mới biết mình còn ngờ nghệch nhiều trong cuộc sống! Ðột nhiên tôi thấy một người nhỏ thó, mắt hơi lé, nói giọng kim từ đâu vừa đến. Viện trưởng, viện phó cung kính cúi nửa người - Hẳn có lắp bản lề trong lưng. Rồi lại thẳng người, vươn lưỡi lăng qua, lăng lại - nghi thức lễ tân của học viên chào thượng cấp. Tôi hỏi Hoàng Cầm xem ai đó. Hoàng Cầm nói nhỏ: "Thi hào, viện trưởng danh dự của viện!". Tôi cố hỏi Hoàng Cầm: "Học viện gì và làm sao anh lại được vào theo học?" Hoàng Cầm khẽ trả lời: "Học viện múa lưỡi đấy!" Anh còn thố lộ với tôi, trong viện có nhiều giáo sư và tuy cùng một viện nhưng hai ngành múa khác nhau. Thỉnh thoảng hai ngành có thi đấu. Lưỡi nọ quấn lưỡi kia vẫn chưa phân thắng bại: Về lý thuyết thì hai bên đều đầy sức thuyết phục. Cũng theo anh kết luận thì hình như lưỡi lụa đang có đà thắng thế. Anh cũng thè lưỡi cho tôi xem. Tuy đã được nhận vào viện nhưng lưỡi anh cũng mới dài gấp hai lưỡi người thường. Anh tâm sự: có lẽ phải bỏ dở, vì vốn anh không có sở trường: bỏ thì cũng tiếc, nếu theo hết khóa, ra viện thì cũng có chỗ đứng vững vàng - Tôi muốn ngỏ ý được xem trận đấu lưỡi, chỉ một lần thôi. Hoàng Cầm huơ tay ra hiệu: "Không được! không được! Ðây là việc cơ mật của quốc gia!" Tôi thấy anh nói vậy, cũng không dám vật nài. Anh còn cẩn thận vỗ vai tôi khuyên: "Chớ có bép xép - oan gia đấy!" Tôi cũng khuyên lại anh, nếu như cảm thấy không hợp sở trường thì xin thôi mà làm thơ, ngâm thơ, tội gì mà lao vào, cho mệt. Hoàng Cầm suỵt! một tiếng khẽ, vừa đủ tôi nghe: "Lúc vào viện, viện thấy không đủ khả năng thì viện sẽ loại, chứ tự mình xin ra thì trước hết mất lưỡi; lưỡi mất, còn ngâm ngợi cái gì. Ðến kẻ hành khất cũng phải nhờ cái lưỡi, mới sống nổi. Cậu khuyên dại dột thế!" Tôi câm miệng, cảm thấy hãi hùng! Tôi lại tò mò hỏi anh với điều kiện nào mà được tuyển vào viện? Hoàng Cầm cười: "Trải qua một quá trình thử thách; trời phú cho mình cái bản chất co giãn, lúc nào cần thì cứng cũng xương đồng da sắt, lúc nào cần mềm thì cũng nhũn nhùn nhùn như bánh đa nhúng nước; nhờ vậy đấy!" Nói vừa dứt lời. Hoàng Cầm liền biểu diễn sức co giãn; anh gồng người lên, tôi sờ vào quả cứng thật; anh làm mềm, tôi sờ vào người anh chẳng thấy có xương cốt gì hết toàn thịt và gân nhẽo nhèo. Anh còn cho tôi biết đây mới chỉ là hình thể nhìn thấy bằng mắt, còn cái phần vô hình - tâm hồn, tư tưởng - sức co giãn còn gấp ba bốn lần là ít. Tôi phục anh, bằng lời nói vui "Chịu ông anh!" Hoàng Cầm hắt nhanh lời vào mặt tôi đầy vẻ tự phụ: "Chứ sao!"
Gặp nhau đã được một lúc, tôi sợ anh quên lỡ giờ tập, tôi nhắc anh. Anh nói cho biết, anh là học viên dự bị, ít giờ tập chỉ bằng một phần tư chính khoá. Anh liền phàn nàn với tôi lẽ ra anh không phải qua dự bị lâu đến thế, tất cả chỉ vì thằng em kết nghĩa nó làm hại. Tôi hỏi anh xem thằng nào? Anh tỏ vẻ bực mình "Cái thằng cùng họ với cậu chứ thằng nào!" Tôi gật đầu biết đó là Phùng Quán, nhưng tôi muốn biết Phùng Quán đã làm việc gì mà gọi là làm hại? Anh vẫn bực nhưng giọng nói đã có phần mềm mại: Nó mua, trồng cho tôi cây ổi. Khi ổi chín phóng ra toàn mùi "nàng tiên nâu" mới chết người chứ! Tôi vội hỏi: "Sao lại có cái mùi tên lạ vậy?" Anh cười khẩy: "Sao tối dạ thế! Nó là mùi thuốc phiện!" Tôi trách: "Sao anh không nói toạc ra mà còn dùng lời bóng bẩy để làm gì?" Anh chặc lưỡi: "Thì mình có nghề văn thơ thấy chữ đẹp thì dùng - chữ của đàn anh mình đấy!" Tôi đang mót nghe cái việc lạ lùng mà tôi khó tin này. Anh như đoán biết được ý nghĩ của tôi, nên nắm vai tôi đẩy nhìn đàng sau: "Ðây! Ðây!" Tôi quay lại như là thần thông biến hoá - tôi đã đứng tại sân nhà anh, cạnh gốc cây ổi. Nhà đi vắng không có ai ngoài tôi và anh. Tôi nhìn lên cây ổi, quả không sai mấy, quả nào cũng bằng nhau, quả nào cũng đỏ da chu; quả nào cũng giống hệt cái tẩu Thổ Hà. Anh lấy cái móc giật xuống vài quả. Tôi bửa ra thấy đúng là ổi nghệ, nhưng sực mùi thuốc phiện. Anh hỏi tôi: "Thấy chưa?" Tôi lấy làm lạ quá! tôi không sao tưởng tượng nổi. Tôi khuyên anh: "Sao không phong nó đi?" Anh bĩu môi: "Sao dễ thế!" Tôi hỏi: "làm sao?" Anh lắc đầu liền mấy cái: "Cây bản mệnh đấy! Nó chết thì mình cũng đi Văn Điển chứ còn sao!" Tôi quay hỏi anh, Phùng Quán có hay qua đây không; anh nói: "Mất mặt gần một năm rồi!" Cái quan hệ kết nghĩa và cây ổi khiến tôi càng ngổn ngang; thậm chí hơi hoang mang; không có đầu không có cuối. Chẳng hay Phùng Quán có biết việc này không? Tôi cũng muốn tìm Phùng Quán để hỏi xem, nhưng tìm Phùng Quán lúc này thì khó lắm. Theo chỗ tôi biết thì anh ta - mang thói xứ sở - như bản đơn ca được ông anh kết nghĩa Thanh Tịnh phối âm, phong phú - chỉ ẩn hiện quanh Hồ Tây vào ban đêm. Gặp được anh ta vào lúc ấy, chỗ ấy có khi mình có số lại mang thân vào cho muỗi đồn công an nó mở đại tiệc chưa biết chừng - Thôi cứ để thư thả - Tôi nghĩ vậy. Tôi đang cần đi tiểu tiện, Hoàng Cầm biết ý, chỉ cho tôi cái chỗ cố định. Tôi ra tới nơi - xin lỗi! - đang mới cởi khuy quần; quay lại xem có ai theo quán tính trước khi "khởi sự". Ôi! chẳng thấy Hoàng Cầm đâu? Chẳng thấy cây ổi đâu? Chẳng thấy nhà Hoàng Cầm đâu? Trước mặt tôi lại có cái biển cấm: "Cấm đái ở đây!" Chữ viết bằng vôi trắng, dễ đọc - Hoá ra tôi đang đứng trên một con đường quang quẻ sạch sẽ - ánh sáng như pha lê đang tới tấp từ đâu dội đến - Tôi nghĩ bỗ bã: có lẽ từ ý nghĩ dội đến!
Tôi cứ theo con đường đầy ánh sáng pha lê mà đi. Phía trước tôi không xa là mấy bà đồng nát lông vịt, vừa đi vừa rao mua; tiếng rao cất lên như đồng ca hai bè của bản hành khúc "Ðồng nát - lông vịt". Tôi nghe cũng được, giá như tiếng ca nhỏ bớt chút nữa thì đỡ chối tai hơn. Mỗi lúc họ càng tấu to hơn, ra điều ta đây đang làm chủ mặt đường, làm chủ ít nhất cũng một khoảng không gian tương đối rộng lớn. Tôi đành dừng lại chờ cho họ đi khuất. Dư âm bản đồng ca cũng không còn lảng vảng bên tai. Thính giác tôi đã trở lại bình thường; nó đón nhận tiếng ồn ào, ồn ào từ phía xa xôi bên trái. Tôi biết đó là tiếng họp chợ. Tôi liền rẽ bước theo hướng đó, đi chừng hơn một dặm thì đến một cái chợ. Chẳng để mua bán gì, nhưng phởn dạ bước chân muốn học đòi du khách rẽ vào chơi chơi. Chỉ nhìn thoáng cũng đủ nhận biết đây là một cái chợ pha tỉnh, pha quê, gần giống như chợ Mơ; gần giống chợ Chi Đông, Phúc Yên; gần giống chợ Nghệ Sơn Tây; gần giống chợ Rồng Nam Định. Bụng bảo dạ: Cả đến cái mặt chợ búa trên trần gian - cũng cứ na ná giống nhau, huống hồ trăm, ngàn, vạn mớ những cái khác khiến người ta dễ nhầm lẫn là phải. Khi tôi để ý nhìn lên đầu tường của một quán gạch lợp ngói - chìa bày mấy chữ đắp bằng vôi, xung quanh chữ cũng đóng khung vôi vuông vắn như một bức phù điêu - tất cả đều cùng một màu vôi vàng đã cũ. Mấy chữ Pháp lộn chữ Việt "Marché de Yên Thái". Thôi đúng là chợ Bưởi! Hẳn là từ thời vong quốc "đề huề" mà bàn tay của hôm nay hoặc bỏ quên chưa xoá; hoặc để làm lưu niệm; hoặc để làm một cáo trạng ngắn gọn của dấu chân đô hộ; hoặc để làm gì khác? Thắc mắc trong đầu là quyền mình; nếu như muốn chất vấn, muốn được giải đáp thì chất vấn cái mặt tường vôi ư?...
Chợ họp chính phiên. Ba bốn quán ngói, còn xung quanh là quán lá, lợp rơm rạ, hoặc trải lên tấm lá cót sơ sài - bao giờ cũng như bao giờ; tiếng thế nó cũng đầy vẻ vĩnh cửu - Chợ đông, đủ các loại hàng bán. Cái chợ Bưởi được "cưới" từ ngày nào, thời nào, ai biết? Tôi thiết nghĩ: có lẽ người vùng này cũng đã quên gốc tích nó. Qua cái giọng đặc thù kẻ Bưởi của mấy làng thì quả là trộn không lẫn. Chợ Bưởi còn là nơi đảm nhiệm gây giống gia súc và cây trồng; nhất là cây hoa, cảnh cho nhiều vùng. Chợ còn nổi tiếng: tháng năm cũng gọi khách kinh kỳ; những quý miệng sành ăn, lui tới đặt lưỡi vào của "trái chua"; đó là bò thui đặc chủng. Nói theo lối nói của một nhà văn thì chợ Bưởi đây cũng đã một thời "vang bóng bò thui". Nhưng vì hy sinh cho một nền công nghiệp phát triển, bò bê cũng đã được đổi mới từ thui sang lột!...
Bỗng có tiếng huyên náo khác thường nhưng êm dịu vì không pha chút thét gào. Tôi lét mắt phía ồn ào thấy lối dãy hàng tôm, hàng cá nối liền dãy hàng chó mèo có một giai nhân xuất hiện. Quần lĩnh nhóng nhánh; áo cũng lĩnh nhóng nhánh; khăn cũng lĩnh nhóng nhánh - đội rất điệu đàng - Trên cõi mặt da hoa phấn duyên dáng, răng cũng đen nhóng nhánh - tất nhiên không phải răng lĩnh - chẳng qua để cho nó "uy ni" mềm mại. Giai nhân bước đi nhẹ nhàng tha thướt uốn éo nhún nhẩy, nhún nhẩy nhịp "đánh bồng". Miệng tủm tỉm, mắt liếc qua, liếc lại - Khi giai nhân đi đến cách tôi quãng một tầm nước bọt, tôi sững cả người: "Anh Tô Hoài!", tôi thốt ngầm trong bụng. Một người anh về tuổi đời cũng như về văn chương. Từ rừng Việt Bắc trong các khuôn mặt đàn anh quắc thước, sành sứ thì tôi chọn mặt anh để "gửi vàng". Anh Xuân Diệu lại nhìn anh bằng con mắt xanh khen "Toujours aimable!" - Tôi không lầm. Anh đã giúp đỡ tôi nhiều về mọi mặt. Quá khứ ân tình ấy tôi có muốn quên cũng không sao quên được. Nhưng liệu có phải anh thật không? Cái valy cũng đen bóng màu lĩnh, bên tay trái người đẹp. Tôi níu vào cái nghề cổ truyền lĩnh Bưởi quê anh để đỡ ngộ nhận. Nhìn cho rõ thì hoàn toàn là một "com-ra-đe " hãng dệt lĩnh. Nếu tôi khẳng định như vậy thì nảy ra một thắc mắc làm sao anh phải đổi nghề? Tôi thiết tưởng sự kiếm sống bằng nghề nghiệp tầm cỡ, có bề dày rất đáng kể về thời gian, tôi chưa nói đến bề dày quyền lực cũng như mọi bề dày khác. Cái gì đã thôi thức đổi nghề? Nếu không muốn nói đến số phận. Cái mũi thèm văn cố hữu của tôi; tôi đánh hơi thấy mùi sách trong chiếc valy căng phồng. Nếu có tiền, nếu cá cược, tôi xin đặt giá mười ăn một; trong valy không có vải lĩnh! Ðầu tôi đang muốn được giải toả cái tiếng "com-ra-đe"! Song tôi vẫn nghi hoặc, vẫn rất băn khoăn. Một thứ băn khoăn rối lộn, nó chao qua, chao lại như đánh võng trong đầu, khiến tôi phải nhắm mắt lại. Khi mở mắt không thấy bóng giai nhân đâu cả. Chẳng biết cái gì đã đẩy tôi đến một không gian khác. Anh Tô Hoài hoàn toàn Tô Hoài, nhà văn Tô Hoài. Tầm vóc anh không thay đổi, chỉ có con dế mèn bên cạnh anh là to lớn khác thường, nó xấp xỉ một con ngựa - loại ngựa gié - đang tuổi phát nha. Anh đã dắt nó, hay nó dắt anh không rõ - tranh thủ đại diện ruổi rong đất lạ, ê hề! Nay đang cùng nhau nghỉ dưới một gốc cây đa cổ thụ rợp bóng mát. Con dế đang lóm lém ăn cỏ, còn anh cũng đang ngồi đọc bản thảo, tay phải cầm bút máy thỉnh thoảng có ghi thêm hay sửa chữa gì đó. Cả người và vật toát lên đầy vẻ hả hê, sung túc. Trước mặt anh là một quan lộ, một dãy người gánh toàn sách là sách. Họ gánh đi bán rong hay chuyển đi phân phối cho đại lý. Họ nhìn anh, anh nhìn họ gật gù cười cười, rõ ràng là quen thuộc nhau cả. Có người nói văn anh đang hợp thời vận! Quyển nào anh viết ra cũng có tẩm ít mùi dế mèn nhưng chẳng thấm tháp mấy. Có thể ví như người bán trà ấm, vảy vài giọt ét-te sen, nhài vậy. Anh đã đạt tới mức quán quân thực hiện khẩu hiệu "nhanh, nhiều, tốt, rẻ". Sách anh được phát hành số lượng không hạn định, bầy tại quầy sách quốc doanh; cứ như gạo cửa hàng mậu dịch vậy. - Làm gì có chuyện đong gạo ngoài cửa hàng! Lòng nhân ái, sợ người người đói văn khát sách nên anh trổ tài đáp ứng. Ngồi chỗ nào anh cũng viết được. Ðứng chỗ nào anh cũng viết được, tay cứ thoăn thoắt tài nhả đều đều. Có người nói anh viết như đan len! Và anh đã chiếm lĩnh một góc trong cái tam giác thơm Tô Hoài - Lê Văn Trương - Hồ Biểu Chánh.
Ngồi nghỉ đã lâu lâu, anh đúng dậy, kéo theo con dế, anh vỗ vào lưng dế như vỗ vào lưng ngựa! Hẳn anh đang lấy lưng dế làm chuẩn, tập thể dục, thể thao. Anh cứ nhấp nhổm nhảy mãi vẫn không qua lưng con dế mèn! Anh bị ngã! Chống tay nhổm dậy; nhìn trước, nhìn sau, xem có ai nhìn thấy không? Anh đứng hẳn dậy, lắc đầu ngán ngẩm...
Tại sao anh lại lắc đầu ngán ngẩm nhỉ? Ngã thì lại dậy. Phải chăng anh đã nghĩ xa xôi sợ "sinh nghề, tử nghệ". Theo thiển nghĩ của tôi thì anh lầm rồi! Nghệ của anh chỉ có sinh làm gì có tử!
Tôi đang bận tâm suy nghĩ; tôi vừa chớp mắt một cái bỗng lại thấy mình đang ở giữa chợ. Trong đầu tôi lại nối vào cái mạch cũ, từ khi gặp giai nhân. Mối nghi ngờ dâng lên mỗi lúc một cao - không sao tự mình giải đáp được. Tôi định rẽ hẳn vào dãy hàng chó xem người ta bán, mua, người ta khen, chê tướng mạo lũ chó má. Chợt cùi tay ai đó huých nhẹ vào sườn tôi. Qua cái kiểu huých ấy, tôi đoán ngay là cùi tay của bạn thân. Tôi quay cổ lại, đúng là Ðào Công Ðạt - Lê Ðạt - cái tên do anh Nguyễn Huy Tưởng đặt cho từ rừng Việc Bắc. Lê Ðạt, tôi rất có cảm tình với anh, phục anh, mặc dù anh ra đời sau tôi tám tháng. Anh thông minh, anh có tú tài Tây và còn học cao hơn nữa. Dầu toàn quốc kháng chiến anh còn theo học trường pháp lý - Ðỗ Xuân Sảng. Còn tôi không dám giấu giếm, chỉ có cái trung học - phải thi lại lần hai. Anh hay lắp bắp, lắp bắp vui miệng như tép nhảy. Tôi chỉ hơi khó chịu với anh một chút vì bất cứ với ai anh hay giở giọng "lãnh tụ non". Tôi cũng đại khái biết anh, có giai đoạn anh đã nhậm chức secrétaire particulier cho một vị cỡ nào đó - anh nói chuyện hay chen tiếng Pháp - khi đang nói, anh ngừng lại, đấm nhẹ lên trán, để tìm từ Việt cho thích hợp - na ná như người ở Pháp lâu năm mới trở về nước - bất đắc dĩ có kinh nghiệm - phụt tiếng Pháp. Theo tôi không chắc chắn lắm - phần nào để tạo dáng kẻ nhiều chữ?
Lê Ðạt là người sòng phẳng, ngay thẳng, đôn hậu, chỉ phải nỗi: tính đôi khi tắt mắt; hoặc hay cầm nhầm - có kinh nghiệm chữ của người khác khảm sâu trong sáng tác văn thơ của mình - dẫu có vết, thì ngọc vẫn là ngọc! Tôi còn quý anh ở một điểm nữa là anh hay cho tôi đi ăn phở. Có lần tôi vui miệng hỏi anh: "Tiền đâu mà cậu cứ cho mình ăn phở mãi thế?" Anh nói nhỏ vừa đủ tôi nghe: "Bà cụ mình vẫn có chút buôn bán nhỏ kiếm thêm!..." Tôi cười, không phải chê bai gì. Nhưng anh hiểu lầm như là tôi có ý chê việc buôn bán - Vào cái thời mà gia đình cán bộ vẫn phần nào dựa vào buôn bán để cải thiện đời sống đều bị coi là thiếu trong sáng - Anh liền cười văng tục: "Chả thế lấy đéo đâu ra cho mày ăn!.." Tôi chẳng phật ý về câu nói. Tóm lại tôi vẫn thấy có bổn phận đối với anh như bát nước đầy.
Hôm nay, gặp nhau đây, anh lại hỏi tôi: "Ðã ăn gì chưa? Phở chứ?" Tôi đón lòng thảo của anh: "Gì cũng được!" Nhân dịp gặp anh, tôi khẳng định sự nhìn nhận của mình về anh Tô Hoài, về giai nhân. Tôi đưa mắt hỏi anh, không chần chừ Lê Ðạt khẳng định: "Đúng lúy!" Tôi hỏi lại: "Có chắc không?" Lê Ðạt nói: "Chắc!" Tôi lại hỏi tiếp: "Sao lại như vậy nhỉ?" Lê Ðạt cười: "Ai mà biết được, ông anh lắm mưu nhiều mẹo; có thể nói là đương kim vô địch đấy!" Tôi ngỡ ngàng hỏi: "Về cái gì?" Lê Ðạt đập mạnh bàn tay vào vai tôi: "Thôi đừng vờ! Mày mà không biết à?" Tôi nói: "Không biết thật mà!" Bây giờ Lê Ðạt mới nói toạc ra: "Về cái khôn chứ cái gì!" Tôi công nhận lời nói của Lê Ðạt; chẳng những Lê Ðạt mà anh em trong văn nghệ thường cũng nói như vậy. Lê Ðạt lúc nào cũng lại đưa tay vỗ vỗ lên trán nói: "Tao nghĩ, về văn ông anh đã bội thu, còn muốn gì nữa cho nhọc xác!" Tôi chưa kịp đáp lời, Lê Ðạt mau miệng tiếp: "Bọn mình nhặt được vài hạt khôn của ông anh rơi vãi thì cũng lấy làm mãn nguyện phải không mày?"
Tôi bần thần cả người, tâm trạng tôi ngổn ngang, không vui, cũng chẳng buồn, chẳng ước ao hay nuối tiếc gì cái hạt khôn của anh Tô Hoài để rơi vãi.
Tiếc thay! Nếu anh không ủ một mưu mẹo gì cao hơn; đến bây giờ mới ngoặt bước sang một đường mới khác thì hơi muộn. Dẫu sao thì cũng là giả. Có lẽ anh nhạy bén trong lúc thật giả lộn sòng nên mới quyết tâm như vậy chăng? Tôi nghĩ trách ông Xanh kia vẫn còn õng ẹo, đã cho người ta cái ngoại hình hấp dẫn thế này, sao không phóng tay mà còn bủn xỉn đắn đo tiếc rẻ không cho nốt cái chút nhỏ bé cần thiết; để người ta được trở thành một giai nhân hoàn mỹ; để người ta mang cái thân hình ngà ngọc ngay từ tuổi mâng mâng bẻ gẫy sừng trâu, hành hương trên đường tìm Chân Mỹ. Tôi chẳng dại dột gì mà dính Mỹ với Thiện ở đây. Nếu người ta không đem được cái Chân Mỹ dáng hoa ban phát nơi nơi thì ít nhất cũng cho một vùng không nhỏ. Mặt này thiết tưởng người ta còn gặt hái gấp bao nhiêu lần gặt hái văn chương. Cái tháp ngà Chân Mỹ hẳn mở rộng cửa đón chờ. Người ta khỏi phải khéo khôn, loay hoay; khỏi bị ngộ nhận, rất tội nghiệp!
Lê Ðạt kéo vai tôi lên trên đường, tìm ăn phở, vừa để hóng mát, quanh quẩn dưới chợ, thế đã đủ rồi. Tôi và Lê Ðạt vừa lên khỏi dốc, đến đầu hàng cây cảnh. Lê Ðạt đang bận để mắt tìm hàng phở. Tôi đứng xem cây cảnh. Bỗng từ trong chậu cảnh hoa giấy phơi phới màu đỏ, một người bước ra, dáng vẻ mãn nguyện đàng hoàng như từ Pô-đê-ga bước ra. Lẽ ra tôi phải kinh hãi cái lối tàng hình hoá phép. Nhưng không hiểu sao tôi lại coi là chuyện bình thường; chuyện tầm thường! Tóc rẽ cánh phượng, trên khuôn mặt chim, trộn không lẫn. Nách trái cặp một tập nhạc. Tôi biết ngay là ai rồi. Hình như anh ta đã nhìn thấy hai chúng tôi; anh ta đưa bàn tay lên che miệng cười - cái thói quen cố hữu. Lê Ðạt quay đầu lại lắp bắp lên tiếng trước: "Chào cụ Tiên". Chỉ mấy tiếng của Lê Ðạt, tôi có cảm tưởng như anh đang giỡn, đang yêu cầu con tầu lịch sử dân tộc cài số lùi hàng vài thập kỷ - cái thời Tiên thứ chỉ, đầu gà má lợn - cái thứ bông phèng thiếu ý thức ấy mà lọt đến tai trên thì kiểm điểm mệt! Cụ Tiên hỏi: "Tụi mày đi đâu đến đây?" Lê Ðạt trả lời gặn: "Chơi!" Cụ Tiên ta lại che miệng cười: "Có thể dẫn tao đi Văn Phú hàng Lạng được chứ?" Lê Ðạt hơi ngần ngừ, đưa mắt cho tôi. Cụ Tiên kịp thời theo mắt Lê Ðạt hỏi tôi: "Khá không? Nghe Phùng Quán nói dạo này sáng nào mày cũng luyện thái cực quyền à?" Tôi chưa hiểu hai tiếng "khá không" là khá về mặt nào, khá cái gì? Tôi trả lời: "Múa may vài cái cho nó qua giờ ăn sáng chứ côn quyền gì đâu!" Tôi cũng tin rằng anh ta hỏi là hỏi chứ cũng biết thừa hoàn cảnh tôi nghèo lõ ra chứ có gì. Lê Ðạt đầu cứ gật gật khẽ - gật đầu kiểu này không phải là đồng ý. Cụ Tiên chép miệng: "Bấy lâu nay tao chưa xem lại cái tiết mục Náo long cung!" Thật ra lúc này tôi mới hiểu rõ ý muốn của cụ Tiên. Cách đây mấy năm, đoàn xiếc Tề Tề Cáp Nhĩ Trung Hoa có sang biểu diễn tại nhà hát nhân dân; trong đó có tiết mục "náo long cung" gồm đủ loại thủy tộc, ba ba, lươn, ếch nhào lộn. Từ đấy cửa hàng ăn Văn Phú mới đặt tên cho một thực đơn là "náo long cung". Tôi cũng đã có một vài lần được các ông anh Hoàng Cầm, Tử Phác, Ðặng Đình Hưng, Cụ Tiên và cả Lê Ðạt, cho đến dự tiết mục đó - ai trả tiền thì không nhớ.
Trước mặt nhau đây, thấy "Cụ Tiên" vui vẻ tôi cũng mới dám chuyện trò cởi mở. Với "Cụ Tiên" tôi vốn ngại, sợ thì đúng hơn. Bởi tôi biết cụ Tiên có kèm một công tác đặc nhiệm; và đã vài lần lập chiến công tuy thầm lặng nhưng hiển hách. Tôi có lần được Tử Phác nói cho biết chơi với cụ Tiên là vẫn phải cảnh giác. Vui vẻ đấy nhưng lỡ miệng chuyện nọ xọ chuyện kia, cụ Tiên cho là phạm vào "tín điều", "đẹt" cho một cái, mình toi mạng! Bởi vậy, cũng như hôm nay, mỗi lần gặp cụ Tiên,tôi chỉ giao tiếp lấy lệ để cụ Tiên khỏi mếch lòng. Tôi vẫn tính bài lảng.
Phở chưa ăn, Văn Phú chưa quyết, chưa đi. Bỗng một loạt đại bác, chẳng biết từ đâu, chẳng biết vì sao, ầm ầm rung chuyển cả một không gian. Dưới chợ, trên đường huyên náo, người người đổ xô chen lấn, la hét, gà lợn chó má cũng kêu lên thất thanh. Kẻ chạy xuôi, người chạy ngược, xéo lên nhau mà chạy - đều chạy người không - bỏ của chạy lấy người - Cụ Tiên và Lê Ðạt đã biến nẻo nào rồi?
Trong cơn kinh hoàng, hoảng loạn, một mình tôi bơ vơ, không biết nên chạy đi đâu? Tiếng nổ mỗi lúc một dữ dội tưởng như vỡ trái đất; tưởng như phụt núi lửa, tưởng như trời sập; tưởng như Trân Châu cảng hay Hi-rô-si-ma. Cuồng phong, bảo tố nổi lên tiếp tay cho tiếng nổ. Cây cối ngả nghiêng, đất, trời chao đảo. Trên không trung, mây ngũ sắc xanh vàng tím đỏ vun vút như cờ thiên lôi từ bắc phương tràn xuống, từ tây phương đổ về. Vừa bay vừa đổi màu biến sắc. Tất cả gặp nhau, tụm lại, tạo một vòm trời đỏ như máu. Tôi đứng dưới vòm trời, ba hồn bảy vía chỉ may ra còn lại một hai.
Tôi tự hỏi thế này là thế nào? Ðời tôi chưa được nghe ai kể; chỉ khi còn thơ ấu được nghe ông lão hàng xóm nói chuyện đổi đời; nghe xong ngày đêm sợ hãi. Lần ấy chị gái tôi cũng còn bé, chị cóp được mấy hào, nghe nói sắp đổi đời đến nơi, hai chị em rủ nhau đem tiền mua kẹo bánh ăn bằng hết, kẻo bỏ phí. Câu chuyện đó tôi lớn lên vẫn còn bán tín, bán nghi; khi trưởng thành thì quên mất...
Câu chuyện ông lão hàng xóm kể có lẽ là lúc này đây! Ðã bơ vơ vì bạn, lại bơ vơ vì thiếu mặt gia đình! Lúc này thì tiếng nổ không còn, chỉ còn tiếng gầm rú của bão tố như ngàn vạn tiếng hổ gầm, voi rống, nghe càng hãi hùng! Dưới vòm trời tất cả đều nhuộm nhanh màu đỏ. Tôi bỗng choáng váng, đầu nhức, mắt hoa lên! Tôi phải đưa hai bàn tay đậy lên mặt, vì cảm thấy mặt đất quá cheo leo! Tôi sợ ngã!
Tôi vừa mở hai bàn tay không biết từ lúc nào và từ trên trời lao xuống, hay từ dưới đất trồi lên, một trái núi - trái núi hình nón - có lẽ là ngọn tháp, tôi chưa kịp phân biệt. Thì cứ gọi là một ngọn tháp khổng lồ. Ngọn tháp rung rinh lay động. Trên đỉnh tháp là một tàn vàng chóe lóe, hơi giống mặt trời chiều lúc gần xuống núi; có phần sáng hơn mặt trời. Bên cạnh tàn vàng là một lá cờ đại; xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực. Từ cờ đại đến cờ nhỏ đều quay tròn. Diềm cờ không đính tua kim tuyến mà là lưỡi câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió nhân thành bão, thì ra do cờ bay mà tiếng gầm rú hãi hùng như vậy. Tôi lạnh cả người, cầm sẵn trong tay một cái chết móc hàm!
Dạ ký
Thời tiết gì mà lạ vậy, trời đã vào thu mà đêm còn oi bức như nung, như thiêu. Thời tiết lạc hậu! Ðêm lạc hậu! Hay đây là điềm thiên thời ra tay ủng hộ để cái nóng nấn ná đòi đốt cháy giai đoạn? Mở mắt to hơn nhìn thấy cái lợi lớn thì nóng thế này chứ nóng nữa, nóng hơn cả giữa mùa hè cũng khắc phục được hết. Trong số nhà 135 Mai Hắc Ðế gồm bảy hộ - trong đó có gia đình tôi - thì sáu hộ có trẻ con ốm. Gia đình tôi chiếm một phòng trên gác, cả thẩy bốn nhân khẩu: hai vợ chồng tôi và hai thằng cháu nhỏ. Với mười hai mét vuông, so với sáu hộ khác còn xênh xang hơn nhiều - "Ăn hết nhiều ở hết bao nhiêu!" Câu đầu lưỡi được các cụ ta ngày xưa tổng kết đã, đang và sẽ còn giá trị!
Rủi ro thay! Gia đình tôi hai cháu ốm cả hai: Mẹ chúng bị đau lưng vào nằm viện đã được hơn hai tuần.
Dưới nhà, chẳng biết hộ nào vụng trộm nhang khói cầu khẩn cho người ốm; mùi hương thầm thoảng đầy mê tín. Lại có tiếng càu nhàu văng bậy từ số nhà bên cạnh chửi cái nóng, chửi lung tung! Phải khẳng định những người này chưa thấm nhuần tiến bộ văn minh còn phải học tập, còn phải được giáo dục nhiều. Những hành vi ấy dẫu là bán công khai cũng đều rất ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt. Tôi chẳng hương khói, chẳng văng bậy, chẳng chửi; khó khăn phải khắc phục mà! Khắc phục được hết; nó là khẩu hiệu tiên quyết thắng lợi mọi mặt - Có thể khẳng định một thủ đô pha lê; một thành phố pha lê đã nằm trong tầm tay hoạch định của trên. Ai ai cũng nức lòng lạc quan - không phải lạc quan tếu - lạc quan cách mạng!...
Thỉnh thoảng tôi vèo xe đạp vào viện thăm vợ; vẫn phải nói với vợ bằng lời: "Yên trí! Tất cả đều tốt!" Cái lối động viên quen tai rất thời thượng - xuất xứ từ đâu? - Cửa miệng quái nào cũng có thể thốt ra được, ở bất luận trường hợp nào xét thấy cần thiết - nó khoanh trong cái vòng "người tốt, việc tốt". Ðơn giản mà nghĩ, tôi thấy lời của mình nói với vợ là láo toét! Là nói điêu, là dối trá nhưng được hơn là thành thật. Trong cõi hệ lụy thiên định, nhân định này, chỉ có những phù thủy giấu mặt, cao tay màu nhiệm "úm ba la" đổi trắng thành đen, đổi đen ra đỏ mà, văn hóa mới, văn minh mới chưa lùng chụp được - khiến số ít người còn bán tín, bán nghi, sợ sệt và coi khinh - Phù thủy thì khiếp lắm! Nó pháp thuật, người thành ma, ma thành người. Dân thường làm gì mà biết được.
Mình là người dân, là công dân, chỉ nên nói đến chuyện trong phạm vi công dân - Vinh dự cầm chặt trong tay thẻ cử tri, phiếu bầu cử là đủ tự hào quyền làm chủ! Nhất thiết phải có nghĩa vụ vinh quang! Sự đãi ngộ, hưởng thụ cũng rất khoa học, phải có tiêu chuẩn rõ ràng, không có lộn xộn như xa xưa; cái gì cũng "... giai do tiền định" - đừng hòng! - Phải thời đại hóa "Nhất ẩm nhất trác giai do tiêu chuẩn." - Bản thân tôi, một mình phải đương đầu, đánh vật với miếng ăn, miếng uống; đánh vật với bệnh tật của vợ con; đánh vật với đủ thứ rủi ro: nhòm ngó, nghe ngóng - mình đâu phải là Quan Âm Phật bà ngàn mắt ngàn tay mà lường hết được; - đánh vật với chính mình! thâu ngày, thâu đêm còn đâu hơi sức để tỉnh táo, để định thần, để khôn ngoan, để phớt cẳng vượt lên tiêu chuẩn cao hơn - không ai cấm đoán; còn khuyến khích động viên nữa là khác.
Hai cháu, thằng anh bốn tuổi, hơn thằng em hai tuổi; cộng cả hai là sáu tuồi - đang trong vòng "tuổi mụ" - nói như thời xưa là chúng đang được bàn tay bà mụ che chở cho đến tuổi mười hai. Bây giờ thì chẳng có mụ mẫm gì, ai dám cả gan tin; lên tiếng thử xem? Tất nhiên tôi cũng chẳng dám tin, dại gì chuốc vạ vào thân! Hai đứa cứ như thi đua lên cơn sốt, đã bốn ngày, năm đêm, kể cả đêm nay.
Từ đêm chúng vắng mẹ, đêm nào tôi cũng phải nằm dang hai tay ra hai bên như một cây thánh giá; mỗi cánh tay làm gối đầu cho một đứa. Chúng đều nóng hầm hập; ngày sốt ít, đêm sốt nhiều; chừng như chúng lên sởi. Cả hai đều rên khe khẽ, nghe rất tội nghiệp! Hai cháu ngoan, biết nằm im, rồi ngủ thiếp đi khiến tôi đỡ bối rối. Nằm giữa chúng, tôi lơ mơ ngủ, lơ mơ thức; có thể nói là ngủ trong thức, thức trong ngủ. Tôi cứ nằm trong cái thế "chịu tử nạn!", ê ẩm hai cánh tay, không dám cựa, chỉ mong chút im lặng để chợp mắt.
Ðêm lặng, hơi có gió nhưng là gió nóng; có lẽ gió từ dưới đất lên. Tôi cảm thấy hai mắt đang được băng lại bằng lụa mỏng - một thứ lụa chuyên dùng của thần ru ngủ? Tai tôi vẫn còn thức, nhờ gió đón nhận được những âm thanh của đêm thu. Âm thanh cũng đứt, nối, nổi, chìm, to, nhỏ, gió ý thức điều chỉnh?... "Thề phanh thây, uống máu... cùng tiến lên!..." Thì ra trong tôi cơ hồ bị thất thoát khái niệm thời gian. Những bài ca cách mạng hùng tráng; xa, gần, các giới, đoàn thể đang tập luyện để long trọng đón kỷ niệm ngày đại lễ của đất nước - Cách mạng Tháng Tám, ngàn thu ghi nhớ! Âm thanh ấy đang dẫn dắt tôi, hoặc tôi níu lấy nó để đưa mình vào cõi chập chờn...
... Một không gian đỏ, xanh, vàng, tím bao la quay cuồng biến ảo; bóng tối bưng lấy mắt, rồi lại thay bằng một thứ ánh sáng dìu dịu của đêm trăng, rồi ngả sang màu ánh sáng của bình minh ảo - không gian phù thịnh. Tôi đang thông thả bước trên một đường phố - trước kia rải nhựa nay đầy những vết xe tăng để lại nham nhở. Tôi mất phương hướng, mất cả lập trường, lại không phải nhà quân sự nên không nhìn nhận rõ đây là dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược. Tôi tiếc con đường nên nghĩ dông dài thô thiển: Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương quỷ dữ!... Bỗng một bàn tay đập vào vai tôi, tôi giật mình. Tôi chỉ nghĩ chứ đâu đã nói ra, nên tôi lại định thần quay lại. Ai nhỉ? Một người mà tôi thường hàng ngày chạm mặt. Vẻ mặt dễ mến này hẳn tôi đã lưu giữ trong tiềm thức nhưng vẫn không sao nhớ được tên - Nói theo tiếng xưng hô - hóm hỉnh - mỡ nạc - vui tính - hàng ngày của nhà văn Kim Lân, là "người anh em". Tôi hỏi "Người anh em đi đâu?" Người này chỉ cười, không trả lời; càng cười càng tỏ vẻ dễ dãi. Trong chuỗi cười, nói lên cả một lời khuyên nhủ "Ðồng hành!" Tôi vốn có thói quen trực giác cảm thấy đáng tin, là tôi sẵn sàng thả lã sự giao tiếp ngay; không chút đắn đo, ngần ngại. Anh ta đi trước, giữa tôi và anh ta có mấy thứ khoảng cách; khoảng cách tuổi tác, tôi kém anh ta ít cũng ba trăm sáu lăm ngày nhân bốn hoặc năm; khoảng cách chức vị xã hội thì dài lắm, bởi tôi chẳng là cái gì; khoảng cách bước đi vừa bằng chiều dài một con chó. Kẻ trước, người sau đều bước, tôi vẫn băn khoăn, không sao nhớ được tên. Ði là đi, tôi cũng chưa kịp hỏi là đi đâu, bởi tôi tin theo sau anh là vô hại, nếu chưa nghĩ đến là lợi lộc. Ði được một quãng, anh ta nói với tôi bằng cái giọng quyến rũ, tiếng to, tiếng nhỏ, tôi nghe câu được câu chăng: "đường vinh quang" hay "đài vinh quang!"... gì đó. Tôi bụng bảo dạ: "hay rồi!" Anh ta cứ nói, tôi cứ nghe. Xem chừng đã mỏi chân, khát nước, muốn tìm chỗ nghỉ để rồi lại đi. Thình lình tôi quay lại, không thấy anh ta đâu, rõ ràng tiếng nói của anh ta còn bám trên vành tai tôi. Tôi lấy làm lạ, nhìn đông, nhìn tây không thấy. Anh ta đi đâu nhỉ? - rẽ lối nào? - để làm gì? - Tại sao mình lại không biết? Tất nhiên tôi chẳng mất mát gì; chẳng có gì để mất mát. Ẩn hiện kiểu này chỉ là thần hoặc ma, tôi đâm ra lo sợ. Giữa thanh thiên bạch nhật lại xảy ra chuyện kỳ lạ nhường này! Tôi vừa đi vừa nghĩ, cố rà lại trong kho lưu trữ của mình để ghép dựng lại con người anh ta. Tôi tiến hành theo cái kiểu làm dồi lợn, được đoạn nào buộc đoạn đó - biết mình đầu óc kém khoa học, kém tổng kết, hay để sổng ý nghĩ - dễ xáo trộn lung tung. Trước hết tôi lần nhớ dáng đi của anh ta, lon ton, lon ton - lối vận hành của quan hoạn - À! nhớ ra rồi! Kho nhớ của tôi về anh ta như ổ khoá mở đúng chìa; thậm chí tôi có thể biết cả sơ yếu lý lịch của anh ta - Con trai thứ của một viên chức loại thường ở thành phố cảng, nhà lại có cửa hàng cửa hiệu; học vấn đã qua tú tài, và đã qua vài năm trường luật - nhờ tham gia cách mạng từ thời Nhật thuộc - trình độ văn hóa - giữa lúc mà Bác mình đang kêu gọi diệt giặc dốt - thì anh ta thuộc loại có hạng. Bởi vậy anh ta được giao công tác "tuổi trẻ chức cao". Hình hài xếp loại đẹp giai, trông rất đàn ông, da ngăm ngăm, mũi cao, mày rậm, mắt sáng, râu quai nón - lúc nào cũng cạo nhẵn - khi chưa kịp cạo, râu hơi lờm sờm càng đẹp vẻ mày râu.
Anh ta được trên sủng ái; cái giọng nói to nhỏ từ miệng khuôn ra toàn đạo đức; mới nghe ngọt sớt nhưng ngẫm nghĩ thì nó lộ nguyên hình mỹ ký. Chả biết anh ta học ai mà nhuần nhuyễn bài bản mỹ ký đến thế; chẳng lẽ bẩm sinh? - Hẹp hòi, ích kỷ, thù vặt, đầy người - kể cũng được việc lắm! Văn, thơ, kịch cọt, nhạc nhiếc, triết trủng, anh ta tự hào "thập bát ban võ nghệ tinh thông!" Nhờ tài hoa ấy mà đời anh ta thông bén luồng lạch! ngóc ngách công tác cũng như riêng tư. Tôi được biết nhiều phụ nữ từ quan hệ công tác - môi trường tạo gần gụi, ngụy trang - chị em phái yếu nhà mình không ít nhẹ dạ, nhẹ như xăng - như thùng xăng. Anh ta rất nhạy bén đánh hơi khi thùng xăng hở nút, hoặc rò rỉ, quẹt diêm đúng lúc - Dẫu đội quân cứu hoả nhà trời cũng đừng hòng tắt ngay được! Hậu quả chị em đã bị anh ta làm cho khốn khổ; chị em đã có chồng con không xiêu nhà nát cửa, cũng mang hận suốt đời! Kiêng nể cách mạng nên phụ nữ không dám lên án anh ta là tên "Sở Khanh cách mạng" mà chỉ nhổ hơi nặng bãi nước bọt! Anh em trong ngành văn nghệ đã phong tặng anh ta danh hiệu "con chó dái đầu bảng!"
Con người như thế phải là như thế. Khi vợ anh ta bị bệnh lao phổi, chết tại Việt Bắc, biến đau thương thành hành động; anh ta lao vào công tác vừa phần rảnh thân kiếm bạn đời, rảnh cẳng lông nhông...
Chẳng hay, cấp trên trực tiếp, gián tiếp có biết đầy đủ về con người anh ta không? - Sáng suốt nhường ấy thì chắc chắn phải biết. Có phải vì văn thơ kịch cọt của anh ta hợp khẩu vị - mà trên làm ngơ, hoặc đang có tác dụng này nọ; cân nhắc thấy những "nhược điểm nhỏ" của anh ta không ảnh hưởng gì đến nền đạo đức cách mạng, chỉ là cá tính vô hại. - Anh ta cũng đã mấy lần lầm lữa - giở quẻ - hợm mình - nâng giá! lên voi xuống chó, những lúc ấy trông anh ta thiểu não, ai cũng động lòng - người trong ngành nhận định chỉ là sự "giơ cao đánh khẽ" để vào khuôn phép, kỷ cương! - Nhận định như vậy hình như đúng - Trên đường hoạn lộ anh ta vẫn được đàn anh dấm dúi thập toàn đại bổ. "Nhược điểm nhỏ" anh ta cũng có phải trả giá - giá chợ chiều.
Tóm lại đâu vẫn hoàn đấy; vẫn lông nhông leo thang; công tác vẫn ngon lành. Thế mới biết con người ta đều có số phận cả!
Biết rõ anh ta là ai rồi nhưng tôi vẫn thắc mắc về sự ẩn hiện của anh. Theo truyền ngôn, nước ta chỉ có "Tứ bất tử", các vị này đều dày công tu luyện đạo gì, đạo gì đó. Vậy chẳng lẽ anh ta đã bổ sung vào hàng ngũ đó sao? Chẳng lẽ học thuyết Mác Lê Nin cũng là đạo sao? Vô thần cơ mà! - Ừ thì cứ cho là đạo vô thần đi - Ðạo vô thần mà lại lắm phép lạ đến thế thì khiếp thật! Và đương nhiên anh ta phải là bực chân tu chính đạo! Tôi tự thấy mình hoá thành kẻ đa sự nên vội trụt ý nghĩ lại. Từ lúc trong đầu bận tập trung suy nghĩ về anh ta, quen chân, đều bước cũng chẳng biết mình đã đi bao xa và đi đến đâu. Chỉ thấy chân mỏi nhừ, khát nước bỏng cổ họng. Tôi trở lại cái thói quen thiển cận, những điều gì không tự giải đáp nổi cho quên béng đi, là thượng sách...
Trời đã ngả chiều, từ trên cao chợt có tiếng "quạ nổ pháp miệng" - Tiếng của làng quê tôi như thế - Tôi nhìn lên ngọn cây chòi mòi kề bên cổng một ngôi đền cổ kính. Không am tường ngôn ngữ chim muông nhưng tôi đoán đó là một dạo khúc bản Sê-rê-nát quạ. Con quạ khoang vươn cổ réo lên đủ bảy tiếng chiều - vấp nhịp - bốc cánh bay đi; vừa bay vừa ỉa thản nhiên. Tôi muốn ghé nơi cảnh vắng này để độ chân, luôn thể ăn mày ngụm nước. Tôi vừa bước khỏi cổng, bỗng thấy khác lạ: rõ ràng vừa rồi là một cổng đền, nay lại biến thành một tam quan đẹp - Chùa hay đền? - Tôi chẳng hiểu gì về kiến trúc, chẳng phải tín đồ, con hương, đệ tử. Tôi chẳng có cương vị quan tâm. Tôi bước thêm dăm bước. Chợt tiếng "đậu phụ chùa" sủa dữ dằn. Tôi để mắt tìm chẳng biết con vật ấy đâu. Tiếng sủa từ bốn phía giáp công giòn giã đan vây. Tôi biết làm gì đây để thanh minh mình không phải là kẻ gian phi. Tôi cố gắng nhìn ngó muốn tìm đến chủ của chúng dù là nhà sư hay là ông từ để nói lên cái yêu cầu không nhỏ của mình. Rất tiếc, tôi chẳng thấy bóng một ai! Chẳng biết sức gì lôi cuốn, khiến tôi tò mò ngoan bước. Vào đến thềm đại bái, tôi chợt nghe tiếng lịch kịch bên trong như tiếng thu dọn đồ đạc. Tôi bước hẳn vào bên trong, nhìn lên tam bảo uy nghi. Cái mắt tò mò chuộng lạ của tôi dè dặt tôn kính từ ba vị tam thế, đến hai bên hành lang, đủ loạt: tượng Phật, tượng thánh gỗ hay đất chẳng biết, đều sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Trời! Tôi bỗng rủn cả người! Các tượng tĩnh toạ ở cái thế thiên thu bất biến, nhất loạt chăm chắm nhìn tôi. Tôi rẽ sang hành lang bên tả, các vị cũng nhất loạt đánh mắt sang tả lườm tôi! Tôi rẽ sang hành lang bên hữu, các vị cũng nhất loạt đánh mắt sang hữu - Còn nhanh hơn - lườm tôi! Sự hoạt động của nhãn tượng nhạy bén tựa cái vô lăng ô tô quành trái, quành phải trên con đường chữ chi, ổ gà, do một tay lái tột bậc, điều khiển. Tôi cảm thấy lạnh toát người; tôi cố trấn tĩnh làm nhanh bản tự thuật trong đầu. Tôi vẫn biết đã là tự thuật là thành khẩn tự nhận tội lỗi là cốt lõi của vấn đề. Tôi tự nhủ có lẽ con mắt của thần, Phật; chỉ con mắt thần Phật mới nhìn thấu hết. Hẳn kiếp trước mình là kẻ bất lương, bất hảo!...
Tôi khép nép đi lùi theo lối cận thần sau khi vào bệ kiến đức vua mà tôi đã có nhiều dịp chứng kiến trên các chiếu hát chèo. Lùi đến khi gót chân va vào bậc cửa tôi mới dám cúi đầu quay ngang và bước hẳn xuống thềm.
Khát quá! Nhìn thấy một bể nước kề sát tường, tôi vội nghĩ: thôi thì dẫu sao mình cũng đã bị kiềm kim ấn ba kiếp thì liều thành tâm ăn mày trộm ngụm thanh thủy! Rủi thay! tôi nhìn vào bể chẳng còn lấy một giọt nước, đáy bể đã chớm rêu. Góc bể phía trong, một con cá đã chết từ bao giờ trong môi trường thiên định, chỉ còn nguyên bộ xương trắng màu gạo hẩm! Chờ ăn vạ, hay đợi thời gian mài giũa để siêu thoát, hay chờ bàn tay mầu nhiệm cho tái sinh? Duyên kiếp người cũng như ngư, điểu đều may ít, rủi nhiều, cứ nằm đấy mà chờ đợi! Tôi trộm nghĩ lõm bõm lời Phật tổ: "Nước bốn đại dương dồn chứa chưa bằng nước mắt chúng sinh trong thế giới ba ngàn!" Nếu được xét tái sinh hẳn con cá này sẽ được thung thăng ưu ái trong nước mắt mênh mông vô tận - Coi chừng, kẻo uổng phí kiếp tái sinh!
Bộ xương cá đòi bằng được chỗ đứng trong kho lưu trữ đầu tôi, làm tôi nao nao; cá đã chết rũ xương trong môi trường thì còn biết thế nào mà lường được! Môi trường đang là cái lò sát sinh được ngụy trang chăng?
Tôi vừa đi vừa nghĩ bỗng cơn mưa ập đến, nghe tiếng mưa rào rào, tôi nhìn xa gần để tìm nơi trú. Nhưng lạ thay, mưa mà quần áo tôi không ướt. Mới ở chùa ra, có lẽ mưa tưởng tôi là người nhà Phật, hay ít cũng vương mùi Phật nên kiêng nể chăng? Lại thình lình một mũi giày đá vào mông tôi. Ðá khá mạnh nhưng không đau. Tôi lại giật mình quay lại. Chẳng phải ai xa lạ, ông bạn cao tuổi, nhà thơ giả thiểu số - Tôi hơi bất bằng cái lối mở đầu sự gặp gỡ kiểu này, nhưng không tiện tỏ thái độ, chưa hẳn sợ anh mà là ngại anh thì đúng hơn. Anh đá tôi bằng giày vải quân đội nước bạn Trung Hoa viện trợ - Trong giày nó có sức điều tiết lúc êm, lúc đau - phát đá hữu nghị giao hảo thì nghe êm; ngược lại thì gấp ngàn vạn lần giày săng đá của lính Lê dương. Anh hất hàm hỏi tôi: "Ðã thật thành khẩn chưa?" Tôi chưa kịp trả lời mà nghĩ nhanh: sao anh ta lại hỏi đột ngột thế nhỉ? Anh ta có ở trong đầu mình đâu mà biết được bản tự thuật lúc nãy mình chỉ mới nghĩ, chứ có viết hoặc nói ra đâu. Lạ thật! Chẳng lẽ tiếng lịch kịch khi tôi nghe thấy lúc còn đứng ở thềm đại bái lại là tiếng do anh ta tạo nên. Có lẽ anh ta nấp đâu ở trong chùa mà tôi không biết. Cái khoa "Phật vận" của anh làm tôi phục anh sát đất. Cũng có thể do anh ta quen tin lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay chăng? - Như người bị bắt quả tang, tôi cứ ngớ ra: Chút bình tĩnh dần dần được hồi phục, vì mình không khuất tất, không trộm cắp gì. Vả lại nhà tôi cũng có nuôi chó. Người lạ đến nhà là nó sủa; bất kể là ai. Nhiều con khôn còn biết sủa lập công phò chủ. Tôi ít nhiều bị chúng hiểu lầm nhưng chẳng đáng để ý. Anh nhà thơ lên mặt giáo dục tôi: "Chưa được thành khẩn, phải đào sâu suy nghĩ, còn phải, bộc lộ!..." Tôi nghĩ đây đâu phải là đang cuộc chỉnh huấn. Nếu là chỉnh huấn tôi cũng chẳng tiếc gì vài cái gãi đầu đấm ngực, lên án mình - dù thật hay vờ miễn học ủy gật đầu chấp nhận... Anh nhà thơ lại hạ giọng: "Cũng tạm được, cũng đã có ít nhiều chuyển biến!...". Nói xong anh quay đi, đi rảo bước cho kịp một người bạn đồng hành của anh. Tôi được giải thoát, tôi thở phào nhìn theo hai người. Quái lạ! Anh nhà thơ, lúc nãy tôi có thấy anh ta cầm cái gì đâu. Bây giờ lại thấy tay phải cầm ngang một chiếc côn gỗ đầu đen, đầu đỏ - Nếu là côn đầu trắng đầu đỏ thì tôi đã biết nó là côn công sai - côn thủy hoả! Nhưng loại côn này thì tôi chịu. Người cùng đi với anh, không nhìn mặt tôi cũng biết. Vóc dáng cao lớn, gầy, đen, tứ thời đầu húi móng lừa, tứ thời bận đồ nâu - kể cả khi bận com-plê cũng nâu - na ná một ông sư Cao Miên - đó là một nhà văn, nhà lý luận - lối lập luận thời thượng nhất - vừa mũi nhất - Anh em trong ngành văn học nghệ thuật nói vụng với nhau là "Tên đầu bếp vụng, nhưng được kẻ ăn khen ngon!"...
Nhà lý luận một tay bá cổ nhà thơ, một tay cũng một cái côn, giữa sơn vàng, hai đầu đỏ, màu sắc tất nhiên khác hẳn côn của nhà thơ - Nó tượng trưng cho cái gì thì tôi cũng xin chịu - Côn nào cũng có tính năng của nó, không phải chuyện trang trí, tạo dáng.
Một lúc sau, không biết hai người đã rẽ lối nào, tôi chẳng quan tâm, ngả ba, ngả tư thiếu gì. Ðến một ngả ba, thấy lối rẽ bên phải đường nhẵn cát pha, tôi liền rẽ theo ngả này. Ôi! Vô phúc thế nào lại dẫn thân vào nơi cấm địa; lầu son, gác tía dựng ngay trước mặt. Tại sao mắt tôi không nhìn thấy từ xa nhỉ. Tôi dừng chân nhìn một ngôi hoá hai, hai hoá ba, ba hoá bốn, hoá năm, liên khu lâu đài, biệt thự - như trời hoá phép vậy! Tôi tưởng đây chỉ là ảo giác. Tôi xoa mắt, định thần. Tôi đứng bên ngoài hàng rào cấm, nhìn lên thấy một tấm biển màu đỏ, chữ vàng, chữ loà nhoà tôi không đọc rõ - treo ngay ngắn trước một biệt thự chính giữa. Hai hàng người quần áo đồng màu cắp côn đỏ, xếp thứ tự nghiêm chỉnh từ dưới chín cấp lên tận cửa son. Ðứng đầu hàng bên tả là người nào tôi không biết; đầu hàng bên hữu là ông anh đẹp trai tôi gặp lần đầu - ông anh rất chững chạc, rất điệu có vẻ điêu luyện nhất: Hẳn ông anh đang giữ chức chỉ huy, bên cửa son. Cặp mắt hau háu, trai lơ, sung mãn! Lúc này tôi mới chợt nghĩ lại mấy tiếng "vinh quang" mà tôi đã được nghe anh nói; hẳn là chốn này đây! Chả có công việc gì mà cứ luẫn quẫn nhìn ngó dễ bị xơi đòn nên tôi liền lảng nhanh. Tôi đang nghĩ tiếng "vinh quang", hẳn là anh đó khoe mình đang vinh quang, hoặc chỉ nhủ tôi đi xem "vinh quang" mà thôi. Như vậy là tôi đã được biết cái vỏ vinh quang, còn tất cả bên trong là như thế nào, ngữ tôi làm gì được biết. Tôi nghĩ: "đi một ngày đàng học một sàng khôn". Học cái gì, khôn cái gì? toàn là những điều không thực dụng, vô bổ.
Khát cứ khát, đói cứ đói, chân cứ đòi bước như thể tự mình dẫn độ mình trong vô định. Ðang đi trong lối đi của thành phố, trong đầu cứ bẵng đi một cái lại gặp một sự lạ. Ðường phố rõ ràng thoắt biến thành lối đi đèo dốc miền thượng du. Hai bên rừng rậm rập, tiếng chim hót đủ loại, nhiều nhất là vẹt và khướu bách thanh, hai loại này tay có nghề mà kiếm được vài cặp nuôi dạy làm mồi thì tuyệt vời!
Tôi chợt nghe giọng âm ấm ngâm câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp côi..." Tôi nghĩ ai đó đang ngâm nga câu thơ của Quang Dũng thì thấy đúng Quang Dũng xuất hiện. Tôi cảm thấy may mắn, gặp anh. Tôi vội hỏi anh đi đâu đến chốn này. Anh cười vẻ buồn buồn: "Ở Tây tiến về! Hôm nay sinh nhật mình, mình đang muốn tìm bạn dự sinh nhật!" Tôi nghĩ bụng: Thế thì đúng lúc, mình đang đói, khát, lại có bạn rủ đi sinh nhật thì còn gì bằng. Tôi ngỏ lời chấp thuận. Thế là anh ta kéo tôi ngồi xuống gốc cây bên cạnh giở trong bọc ra mấy củ khoai lang luộc, và tháo từ nách ra một bi đông - bi đông nhôm hơi méo đựng nước chè xanh. Hai thằng cùng ăn khoai, cùng uống nước - Anh ta giới thiệu khoai quê mình đấy, chè thì ở Gốt cũng gần quê mình - Ta lấy khoai làm bánh kẹo, lấy nước chè làm rượu - Anh vừa nói vừa cười hỏi tôi: "Cậu chúc gì mình nào?" Tôi đáp: "Chúc ông làm nhiều thơ hay!" - Anh ta lắc đầu, im lặng. Tôi thấy sinh nhật một nhà thơ sơ sài quá! đơn giản quá! Nhưng tôi lấy nội dung làm chính. Anh ta lại nói: "Khoai lang ăn nó dễ đi ỉa, nhuận tràng; chè xanh mát ruột!" Tôi cũng miễn cưỡng cho là phải - và đang nhìn mơ hồ lên bầu trời cao xanh. Bỗng tôi thấy anh lấy từ trong túi đựng khoai ra một con dao dài chừng một gang tay, chuôi đồng, lưỡi dao sáng loáng, anh ta vừa nhổ nước bọt vào gan bàn chân, vừa liếc dao, vừa khóc! Nước mắt lăn rơi đầy mặt! Liếc dao xong, anh ta đứng phắt dậy, mắt gườm gườm nhìn tôi. Tôi sửng sốt không hiểu nổi cái gì sẽ xẩy ra đây? Tôi cũng đứng dậy. Anh ta cầm lăm lăm con dao sắc trong tay: "Tao thiến mày!" Tôi hoảng sợ nhưng vẫn nghĩ là anh đùa: "Ðừng đùa dại thế anh!" - Anh nhảy bước tới tôi. Tôi lùi nhanh. Anh nói: "Ðùa à! Tao thương mày, mày có muốn làm quan hoạn không?" Tôi nghĩ: Thằng này phát điên hay sao đây mà lại quái gở thế này? - Anh ta nói liền liền: "Tao thương mày! Tao thương mày! Cùng quê nhau cả, tao giành cho mày mọi sự ưu ái!" Nhấp nhỏm có ý rình miếng chụp gọn lấy tôi. Tôi vừa sợ, vừa nghĩ: anh ta phát điên hẳn rồi! Ưu ái - quan hoạn - lộn xộn chẳng còn biết ra thế nào! Tôi lùi một bước, anh ta tiến một bước, tôi lùi hai bước, anh ta tiến hai bước. Anh ta một tay múa dao, một tay chuẩn bị chụp bộ hạ tôi. Chạy là thượng sách! Tôi phá chạy, anh ta huỳnh huỵch đuổi theo sau. Rõ ràng tôi cắm cổ gắng sức mà vẫn như chạy tại chỗ. Anh ta cũng không đuổi kịp được tôi. Chạy được một lúc, tôi ngoái nhanh cổ nhìn lại, không phải Quang Dũng mà là một nữ du kích; đầu chít khăn đen kiểu mỏ quạ, áo cánh nâu, quần đen có chít ống, trông cũng xinh xinh. Tôi vừa chạy vừa nghĩ chẳng lẽ Quang Dũng tàng hình hay cô du kích tàng hình. Tôi cứ chạy lối chữ chi như để tránh luồng đạn. Chạy mệt quá! đứt hơi rồi. Tôi đành nhắm mắt gửi thân cho số phận. Ngồi thụp xuống thở. Và cũng chẳng thấy ai đuổi mình. Người ấy biến đâu? Thế là thoát! Tôi ngồi nghỉ lấy lại sức, nhờ có vài củ khoai và vài ngụm chè xanh sinh nhật, cái đói khát cũng đã tạm ổn.
Trên đường toàn những khách văn chương, thời thịnh văn chương! Cũng như người ta nói: "Ra ngõ gặp anh hùng", là rất có cơ sở, rất có lý. Ngay nơi gia đình tôi đang ở, cũng hàng chục Hùng - Hùng Sơn, Hùng Việt, Hùng Anh, anh Hùng, thậm chí có cả Hùng Nhèm, Hùng Giẻ Rách v.v... Cũng là thời thịnh anh Hùng nên người ta ngưỡng mộ cái danh hiệu cao sang ấy mà đặt tên không ngoài sự khuyến khích "hướng hùng". Nhà thơ tôi may mắn gặp đây - sau một phen hết hồn bị thiến trượt - là Hoàng Cầm: Một người bạn vong niên kể tuổi đời tuổi văn thơ cũng xứng đáng là bậc "liền anh" của tôi. Anh có dáng thư sinh nho nhã - nghe nói cũng có đôi người phái đẹp chê anh là ẽo uột! - Với tư thế một sĩ quan văn học trong đoàn quân bách chiến, trời phú trong cổ họng có cái còi mạ vàng; nhờ đó anh sổng giọng vàng mười sang sảng khi ngâm thơ - Có người đố kị bảo thơ anh đầy vẻ lấp lánh trang kim hàng mã - Cũng vẫn lối đố kị có vẻ khen anh nổi tiếng nhờ ngâm thơ chứ không phải vì thơ hay. Cứ cho là đúng; cứ cho là không đúng đi - Tất cả đều là phù phiếm có giới hạn - Nhờ tài hoa, duyên phận, anh đã "cuỗm" được một phụ nữ nạ dòng "đờ luých" - đó là lời đùa quá trớn của bạn anh - chẳng thấy cần phải nêu tên; nhưng thôi, tôi cứ nêu béng tên ra để khỏi mập mờ - đó là Tử Phác. Tôi biết Tử Phác với Hoàng Cầm có thể nói là đôi bạn nối khố nhưng, cũng không ít lời cay độc ngay trong lúc trò chuyện với nhau. Hình như Tử Phác ta cũng ít nhiều có sự ghen tị với Hoàng Cầm về đường phu thê? Tử Phác độc quyền châm chọc Hoàng Cầm, ai khác cũng nói lời của Tử Phác như vậy; tức thì Tử Phác bênh bạn chầm chập: "Ôi chà! nạ dòng loại chúa như thế còn gấp triệu lần loại váy đụp lên ngôi - loại váy đụp đã lên ngôi thì khiếp lắm!... - được thôi mà!..." Ðương nhiên cái lối nói này lạc hậu tầm cỡ quốc tế! Nên chỉ là nói vụng.
Thật là đẹp đôi! Thật là trai tài gái sắc! Cái đất Hà Thành này, cái đất quanh vùng Hoàn Kiếm này, - theo tôi - nếu không muốn nói là hiếm thì cũng không nhiều - trong mâm ăn hàng ngày chắc có cơm tám chả chim.
Hoàng Cầm nắm vai tôi hổn hển: "Mình đang nghỉ giải lao, đang bận tập, nếu không thì mời cậu về nhà chơi". Tôi vội hỏi, "Tập tành gì?" Hoàng Cầm quay sau lưng, lấy tay chỉ chỏ. Tôi nhìn theo tay anh, thấy một bãi tập rộng, cỏ mọc xanh rờn xung quanh đều có hàng rào thép gai cao chừng hai tầm đầu người lớn. Hai bên phía bãi tập là mấy ngôi biệt thự mới: cái thì mái cong như mái chùa; cái thì mái vòm, trên nóc có hình củ tỏi. Bỗng một hồi chuông vang lên, Hoàng Cầm định bắt tay tôi để vào bãi. Nhưng anh lại dừng ngay và nói với tôi: "chưa đến đợt bọn mình!" Tôi lại hỏi anh: "Tập tành gì vậy - và nơi đây là gì?" Anh trả lời: "Cứ đứng đây nhìn sẽ biết".
Tôi nhìn vào trong đã thấy sáu bảy hàng người, mỗi hàng chừng vài chục. Có hai người đang đứng trước những hàng người, nói gì tôi không nghe rõ. Một người cao đen, mà trong anh em văn nghệ mệnh danh là đầu bếp vụng; người kia là nhà thơ giả thiểu số. - Theo Hoàng Cầm cho biết người cao đen là giáo sư viện trưởng qua đào luyện theo hệ Nam Hải. Người nhà thơ là giáo sư viện phó, qua đào luyện theo hệ Ðông Phương. Cả hai tôi đều biết, nhưng tôi thắc mắc: Nam Hải là gì? Ðông Phương gì? sao anh lại nói mập mờ khó hiểu vậy - tôi không tiện hỏi. Sau mấy tiếng hò hét của hai vị giáo sư - Giáo sư viện trưởng, vươn ra một cái lưỡi đỏ, dài hàng trượng và hơn thế nữa. Cái lưỡi cứ ngoằn ngoèo lượn như xiếc Trung Hoa múa lụa vậy. Mấy hàng học viên do giáo sư này chỉ huy cũng phóng lưỡi đỏ, cũng ngoằn ngoèo nhưng còn ngắn hơn giáo sư nhiều - Còn vị phó giáo sư thì phóng một loại lưỡi khác thẳng đơ như dùi cao su, bề dài cũng hàng trượng, có kém cũng không đáng kể - Cái lưỡi của vị phó giáo sư không múa liệng mà cứ đập lên đập xuống, cái lối dẻo cứng. Theo tôi đúng là một trăm phần trăm cao su nhân tạo hay thiên nhiên thì không biết - Mấy hàng học viên dưới sự huấn luyện của vị này cũng phóng lưỡi ra cũng đập lên đập xuống, tất nhiên so với phó giáo sư còn kém nhiều! Tôi nhìn thấy cũng ngoạn mục, cũng lại sờ sợ. Tôi chưa được nghe ai nói về sự việc này - Nay đột nhiên được thấy tận mắt mới biết mình còn ngờ nghệch nhiều trong cuộc sống! Ðột nhiên tôi thấy một người nhỏ thó, mắt hơi lé, nói giọng kim từ đâu vừa đến. Viện trưởng, viện phó cung kính cúi nửa người - Hẳn có lắp bản lề trong lưng. Rồi lại thẳng người, vươn lưỡi lăng qua, lăng lại - nghi thức lễ tân của học viên chào thượng cấp. Tôi hỏi Hoàng Cầm xem ai đó. Hoàng Cầm nói nhỏ: "Thi hào, viện trưởng danh dự của viện!". Tôi cố hỏi Hoàng Cầm: "Học viện gì và làm sao anh lại được vào theo học?" Hoàng Cầm khẽ trả lời: "Học viện múa lưỡi đấy!" Anh còn thố lộ với tôi, trong viện có nhiều giáo sư và tuy cùng một viện nhưng hai ngành múa khác nhau. Thỉnh thoảng hai ngành có thi đấu. Lưỡi nọ quấn lưỡi kia vẫn chưa phân thắng bại: Về lý thuyết thì hai bên đều đầy sức thuyết phục. Cũng theo anh kết luận thì hình như lưỡi lụa đang có đà thắng thế. Anh cũng thè lưỡi cho tôi xem. Tuy đã được nhận vào viện nhưng lưỡi anh cũng mới dài gấp hai lưỡi người thường. Anh tâm sự: có lẽ phải bỏ dở, vì vốn anh không có sở trường: bỏ thì cũng tiếc, nếu theo hết khóa, ra viện thì cũng có chỗ đứng vững vàng - Tôi muốn ngỏ ý được xem trận đấu lưỡi, chỉ một lần thôi. Hoàng Cầm huơ tay ra hiệu: "Không được! không được! Ðây là việc cơ mật của quốc gia!" Tôi thấy anh nói vậy, cũng không dám vật nài. Anh còn cẩn thận vỗ vai tôi khuyên: "Chớ có bép xép - oan gia đấy!" Tôi cũng khuyên lại anh, nếu như cảm thấy không hợp sở trường thì xin thôi mà làm thơ, ngâm thơ, tội gì mà lao vào, cho mệt. Hoàng Cầm suỵt! một tiếng khẽ, vừa đủ tôi nghe: "Lúc vào viện, viện thấy không đủ khả năng thì viện sẽ loại, chứ tự mình xin ra thì trước hết mất lưỡi; lưỡi mất, còn ngâm ngợi cái gì. Ðến kẻ hành khất cũng phải nhờ cái lưỡi, mới sống nổi. Cậu khuyên dại dột thế!" Tôi câm miệng, cảm thấy hãi hùng! Tôi lại tò mò hỏi anh với điều kiện nào mà được tuyển vào viện? Hoàng Cầm cười: "Trải qua một quá trình thử thách; trời phú cho mình cái bản chất co giãn, lúc nào cần thì cứng cũng xương đồng da sắt, lúc nào cần mềm thì cũng nhũn nhùn nhùn như bánh đa nhúng nước; nhờ vậy đấy!" Nói vừa dứt lời. Hoàng Cầm liền biểu diễn sức co giãn; anh gồng người lên, tôi sờ vào quả cứng thật; anh làm mềm, tôi sờ vào người anh chẳng thấy có xương cốt gì hết toàn thịt và gân nhẽo nhèo. Anh còn cho tôi biết đây mới chỉ là hình thể nhìn thấy bằng mắt, còn cái phần vô hình - tâm hồn, tư tưởng - sức co giãn còn gấp ba bốn lần là ít. Tôi phục anh, bằng lời nói vui "Chịu ông anh!" Hoàng Cầm hắt nhanh lời vào mặt tôi đầy vẻ tự phụ: "Chứ sao!"
Gặp nhau đã được một lúc, tôi sợ anh quên lỡ giờ tập, tôi nhắc anh. Anh nói cho biết, anh là học viên dự bị, ít giờ tập chỉ bằng một phần tư chính khoá. Anh liền phàn nàn với tôi lẽ ra anh không phải qua dự bị lâu đến thế, tất cả chỉ vì thằng em kết nghĩa nó làm hại. Tôi hỏi anh xem thằng nào? Anh tỏ vẻ bực mình "Cái thằng cùng họ với cậu chứ thằng nào!" Tôi gật đầu biết đó là Phùng Quán, nhưng tôi muốn biết Phùng Quán đã làm việc gì mà gọi là làm hại? Anh vẫn bực nhưng giọng nói đã có phần mềm mại: Nó mua, trồng cho tôi cây ổi. Khi ổi chín phóng ra toàn mùi "nàng tiên nâu" mới chết người chứ! Tôi vội hỏi: "Sao lại có cái mùi tên lạ vậy?" Anh cười khẩy: "Sao tối dạ thế! Nó là mùi thuốc phiện!" Tôi trách: "Sao anh không nói toạc ra mà còn dùng lời bóng bẩy để làm gì?" Anh chặc lưỡi: "Thì mình có nghề văn thơ thấy chữ đẹp thì dùng - chữ của đàn anh mình đấy!" Tôi đang mót nghe cái việc lạ lùng mà tôi khó tin này. Anh như đoán biết được ý nghĩ của tôi, nên nắm vai tôi đẩy nhìn đàng sau: "Ðây! Ðây!" Tôi quay lại như là thần thông biến hoá - tôi đã đứng tại sân nhà anh, cạnh gốc cây ổi. Nhà đi vắng không có ai ngoài tôi và anh. Tôi nhìn lên cây ổi, quả không sai mấy, quả nào cũng bằng nhau, quả nào cũng đỏ da chu; quả nào cũng giống hệt cái tẩu Thổ Hà. Anh lấy cái móc giật xuống vài quả. Tôi bửa ra thấy đúng là ổi nghệ, nhưng sực mùi thuốc phiện. Anh hỏi tôi: "Thấy chưa?" Tôi lấy làm lạ quá! tôi không sao tưởng tượng nổi. Tôi khuyên anh: "Sao không phong nó đi?" Anh bĩu môi: "Sao dễ thế!" Tôi hỏi: "làm sao?" Anh lắc đầu liền mấy cái: "Cây bản mệnh đấy! Nó chết thì mình cũng đi Văn Điển chứ còn sao!" Tôi quay hỏi anh, Phùng Quán có hay qua đây không; anh nói: "Mất mặt gần một năm rồi!" Cái quan hệ kết nghĩa và cây ổi khiến tôi càng ngổn ngang; thậm chí hơi hoang mang; không có đầu không có cuối. Chẳng hay Phùng Quán có biết việc này không? Tôi cũng muốn tìm Phùng Quán để hỏi xem, nhưng tìm Phùng Quán lúc này thì khó lắm. Theo chỗ tôi biết thì anh ta - mang thói xứ sở - như bản đơn ca được ông anh kết nghĩa Thanh Tịnh phối âm, phong phú - chỉ ẩn hiện quanh Hồ Tây vào ban đêm. Gặp được anh ta vào lúc ấy, chỗ ấy có khi mình có số lại mang thân vào cho muỗi đồn công an nó mở đại tiệc chưa biết chừng - Thôi cứ để thư thả - Tôi nghĩ vậy. Tôi đang cần đi tiểu tiện, Hoàng Cầm biết ý, chỉ cho tôi cái chỗ cố định. Tôi ra tới nơi - xin lỗi! - đang mới cởi khuy quần; quay lại xem có ai theo quán tính trước khi "khởi sự". Ôi! chẳng thấy Hoàng Cầm đâu? Chẳng thấy cây ổi đâu? Chẳng thấy nhà Hoàng Cầm đâu? Trước mặt tôi lại có cái biển cấm: "Cấm đái ở đây!" Chữ viết bằng vôi trắng, dễ đọc - Hoá ra tôi đang đứng trên một con đường quang quẻ sạch sẽ - ánh sáng như pha lê đang tới tấp từ đâu dội đến - Tôi nghĩ bỗ bã: có lẽ từ ý nghĩ dội đến!
Tôi cứ theo con đường đầy ánh sáng pha lê mà đi. Phía trước tôi không xa là mấy bà đồng nát lông vịt, vừa đi vừa rao mua; tiếng rao cất lên như đồng ca hai bè của bản hành khúc "Ðồng nát - lông vịt". Tôi nghe cũng được, giá như tiếng ca nhỏ bớt chút nữa thì đỡ chối tai hơn. Mỗi lúc họ càng tấu to hơn, ra điều ta đây đang làm chủ mặt đường, làm chủ ít nhất cũng một khoảng không gian tương đối rộng lớn. Tôi đành dừng lại chờ cho họ đi khuất. Dư âm bản đồng ca cũng không còn lảng vảng bên tai. Thính giác tôi đã trở lại bình thường; nó đón nhận tiếng ồn ào, ồn ào từ phía xa xôi bên trái. Tôi biết đó là tiếng họp chợ. Tôi liền rẽ bước theo hướng đó, đi chừng hơn một dặm thì đến một cái chợ. Chẳng để mua bán gì, nhưng phởn dạ bước chân muốn học đòi du khách rẽ vào chơi chơi. Chỉ nhìn thoáng cũng đủ nhận biết đây là một cái chợ pha tỉnh, pha quê, gần giống như chợ Mơ; gần giống chợ Chi Đông, Phúc Yên; gần giống chợ Nghệ Sơn Tây; gần giống chợ Rồng Nam Định. Bụng bảo dạ: Cả đến cái mặt chợ búa trên trần gian - cũng cứ na ná giống nhau, huống hồ trăm, ngàn, vạn mớ những cái khác khiến người ta dễ nhầm lẫn là phải. Khi tôi để ý nhìn lên đầu tường của một quán gạch lợp ngói - chìa bày mấy chữ đắp bằng vôi, xung quanh chữ cũng đóng khung vôi vuông vắn như một bức phù điêu - tất cả đều cùng một màu vôi vàng đã cũ. Mấy chữ Pháp lộn chữ Việt "Marché de Yên Thái". Thôi đúng là chợ Bưởi! Hẳn là từ thời vong quốc "đề huề" mà bàn tay của hôm nay hoặc bỏ quên chưa xoá; hoặc để làm lưu niệm; hoặc để làm một cáo trạng ngắn gọn của dấu chân đô hộ; hoặc để làm gì khác? Thắc mắc trong đầu là quyền mình; nếu như muốn chất vấn, muốn được giải đáp thì chất vấn cái mặt tường vôi ư?...
Chợ họp chính phiên. Ba bốn quán ngói, còn xung quanh là quán lá, lợp rơm rạ, hoặc trải lên tấm lá cót sơ sài - bao giờ cũng như bao giờ; tiếng thế nó cũng đầy vẻ vĩnh cửu - Chợ đông, đủ các loại hàng bán. Cái chợ Bưởi được "cưới" từ ngày nào, thời nào, ai biết? Tôi thiết nghĩ: có lẽ người vùng này cũng đã quên gốc tích nó. Qua cái giọng đặc thù kẻ Bưởi của mấy làng thì quả là trộn không lẫn. Chợ Bưởi còn là nơi đảm nhiệm gây giống gia súc và cây trồng; nhất là cây hoa, cảnh cho nhiều vùng. Chợ còn nổi tiếng: tháng năm cũng gọi khách kinh kỳ; những quý miệng sành ăn, lui tới đặt lưỡi vào của "trái chua"; đó là bò thui đặc chủng. Nói theo lối nói của một nhà văn thì chợ Bưởi đây cũng đã một thời "vang bóng bò thui". Nhưng vì hy sinh cho một nền công nghiệp phát triển, bò bê cũng đã được đổi mới từ thui sang lột!...
Bỗng có tiếng huyên náo khác thường nhưng êm dịu vì không pha chút thét gào. Tôi lét mắt phía ồn ào thấy lối dãy hàng tôm, hàng cá nối liền dãy hàng chó mèo có một giai nhân xuất hiện. Quần lĩnh nhóng nhánh; áo cũng lĩnh nhóng nhánh; khăn cũng lĩnh nhóng nhánh - đội rất điệu đàng - Trên cõi mặt da hoa phấn duyên dáng, răng cũng đen nhóng nhánh - tất nhiên không phải răng lĩnh - chẳng qua để cho nó "uy ni" mềm mại. Giai nhân bước đi nhẹ nhàng tha thướt uốn éo nhún nhẩy, nhún nhẩy nhịp "đánh bồng". Miệng tủm tỉm, mắt liếc qua, liếc lại - Khi giai nhân đi đến cách tôi quãng một tầm nước bọt, tôi sững cả người: "Anh Tô Hoài!", tôi thốt ngầm trong bụng. Một người anh về tuổi đời cũng như về văn chương. Từ rừng Việt Bắc trong các khuôn mặt đàn anh quắc thước, sành sứ thì tôi chọn mặt anh để "gửi vàng". Anh Xuân Diệu lại nhìn anh bằng con mắt xanh khen "Toujours aimable!" - Tôi không lầm. Anh đã giúp đỡ tôi nhiều về mọi mặt. Quá khứ ân tình ấy tôi có muốn quên cũng không sao quên được. Nhưng liệu có phải anh thật không? Cái valy cũng đen bóng màu lĩnh, bên tay trái người đẹp. Tôi níu vào cái nghề cổ truyền lĩnh Bưởi quê anh để đỡ ngộ nhận. Nhìn cho rõ thì hoàn toàn là một "com-ra-đe " hãng dệt lĩnh. Nếu tôi khẳng định như vậy thì nảy ra một thắc mắc làm sao anh phải đổi nghề? Tôi thiết tưởng sự kiếm sống bằng nghề nghiệp tầm cỡ, có bề dày rất đáng kể về thời gian, tôi chưa nói đến bề dày quyền lực cũng như mọi bề dày khác. Cái gì đã thôi thức đổi nghề? Nếu không muốn nói đến số phận. Cái mũi thèm văn cố hữu của tôi; tôi đánh hơi thấy mùi sách trong chiếc valy căng phồng. Nếu có tiền, nếu cá cược, tôi xin đặt giá mười ăn một; trong valy không có vải lĩnh! Ðầu tôi đang muốn được giải toả cái tiếng "com-ra-đe"! Song tôi vẫn nghi hoặc, vẫn rất băn khoăn. Một thứ băn khoăn rối lộn, nó chao qua, chao lại như đánh võng trong đầu, khiến tôi phải nhắm mắt lại. Khi mở mắt không thấy bóng giai nhân đâu cả. Chẳng biết cái gì đã đẩy tôi đến một không gian khác. Anh Tô Hoài hoàn toàn Tô Hoài, nhà văn Tô Hoài. Tầm vóc anh không thay đổi, chỉ có con dế mèn bên cạnh anh là to lớn khác thường, nó xấp xỉ một con ngựa - loại ngựa gié - đang tuổi phát nha. Anh đã dắt nó, hay nó dắt anh không rõ - tranh thủ đại diện ruổi rong đất lạ, ê hề! Nay đang cùng nhau nghỉ dưới một gốc cây đa cổ thụ rợp bóng mát. Con dế đang lóm lém ăn cỏ, còn anh cũng đang ngồi đọc bản thảo, tay phải cầm bút máy thỉnh thoảng có ghi thêm hay sửa chữa gì đó. Cả người và vật toát lên đầy vẻ hả hê, sung túc. Trước mặt anh là một quan lộ, một dãy người gánh toàn sách là sách. Họ gánh đi bán rong hay chuyển đi phân phối cho đại lý. Họ nhìn anh, anh nhìn họ gật gù cười cười, rõ ràng là quen thuộc nhau cả. Có người nói văn anh đang hợp thời vận! Quyển nào anh viết ra cũng có tẩm ít mùi dế mèn nhưng chẳng thấm tháp mấy. Có thể ví như người bán trà ấm, vảy vài giọt ét-te sen, nhài vậy. Anh đã đạt tới mức quán quân thực hiện khẩu hiệu "nhanh, nhiều, tốt, rẻ". Sách anh được phát hành số lượng không hạn định, bầy tại quầy sách quốc doanh; cứ như gạo cửa hàng mậu dịch vậy. - Làm gì có chuyện đong gạo ngoài cửa hàng! Lòng nhân ái, sợ người người đói văn khát sách nên anh trổ tài đáp ứng. Ngồi chỗ nào anh cũng viết được. Ðứng chỗ nào anh cũng viết được, tay cứ thoăn thoắt tài nhả đều đều. Có người nói anh viết như đan len! Và anh đã chiếm lĩnh một góc trong cái tam giác thơm Tô Hoài - Lê Văn Trương - Hồ Biểu Chánh.
Ngồi nghỉ đã lâu lâu, anh đúng dậy, kéo theo con dế, anh vỗ vào lưng dế như vỗ vào lưng ngựa! Hẳn anh đang lấy lưng dế làm chuẩn, tập thể dục, thể thao. Anh cứ nhấp nhổm nhảy mãi vẫn không qua lưng con dế mèn! Anh bị ngã! Chống tay nhổm dậy; nhìn trước, nhìn sau, xem có ai nhìn thấy không? Anh đứng hẳn dậy, lắc đầu ngán ngẩm...
Tại sao anh lại lắc đầu ngán ngẩm nhỉ? Ngã thì lại dậy. Phải chăng anh đã nghĩ xa xôi sợ "sinh nghề, tử nghệ". Theo thiển nghĩ của tôi thì anh lầm rồi! Nghệ của anh chỉ có sinh làm gì có tử!
Tôi đang bận tâm suy nghĩ; tôi vừa chớp mắt một cái bỗng lại thấy mình đang ở giữa chợ. Trong đầu tôi lại nối vào cái mạch cũ, từ khi gặp giai nhân. Mối nghi ngờ dâng lên mỗi lúc một cao - không sao tự mình giải đáp được. Tôi định rẽ hẳn vào dãy hàng chó xem người ta bán, mua, người ta khen, chê tướng mạo lũ chó má. Chợt cùi tay ai đó huých nhẹ vào sườn tôi. Qua cái kiểu huých ấy, tôi đoán ngay là cùi tay của bạn thân. Tôi quay cổ lại, đúng là Ðào Công Ðạt - Lê Ðạt - cái tên do anh Nguyễn Huy Tưởng đặt cho từ rừng Việc Bắc. Lê Ðạt, tôi rất có cảm tình với anh, phục anh, mặc dù anh ra đời sau tôi tám tháng. Anh thông minh, anh có tú tài Tây và còn học cao hơn nữa. Dầu toàn quốc kháng chiến anh còn theo học trường pháp lý - Ðỗ Xuân Sảng. Còn tôi không dám giấu giếm, chỉ có cái trung học - phải thi lại lần hai. Anh hay lắp bắp, lắp bắp vui miệng như tép nhảy. Tôi chỉ hơi khó chịu với anh một chút vì bất cứ với ai anh hay giở giọng "lãnh tụ non". Tôi cũng đại khái biết anh, có giai đoạn anh đã nhậm chức secrétaire particulier cho một vị cỡ nào đó - anh nói chuyện hay chen tiếng Pháp - khi đang nói, anh ngừng lại, đấm nhẹ lên trán, để tìm từ Việt cho thích hợp - na ná như người ở Pháp lâu năm mới trở về nước - bất đắc dĩ có kinh nghiệm - phụt tiếng Pháp. Theo tôi không chắc chắn lắm - phần nào để tạo dáng kẻ nhiều chữ?
Lê Ðạt là người sòng phẳng, ngay thẳng, đôn hậu, chỉ phải nỗi: tính đôi khi tắt mắt; hoặc hay cầm nhầm - có kinh nghiệm chữ của người khác khảm sâu trong sáng tác văn thơ của mình - dẫu có vết, thì ngọc vẫn là ngọc! Tôi còn quý anh ở một điểm nữa là anh hay cho tôi đi ăn phở. Có lần tôi vui miệng hỏi anh: "Tiền đâu mà cậu cứ cho mình ăn phở mãi thế?" Anh nói nhỏ vừa đủ tôi nghe: "Bà cụ mình vẫn có chút buôn bán nhỏ kiếm thêm!..." Tôi cười, không phải chê bai gì. Nhưng anh hiểu lầm như là tôi có ý chê việc buôn bán - Vào cái thời mà gia đình cán bộ vẫn phần nào dựa vào buôn bán để cải thiện đời sống đều bị coi là thiếu trong sáng - Anh liền cười văng tục: "Chả thế lấy đéo đâu ra cho mày ăn!.." Tôi chẳng phật ý về câu nói. Tóm lại tôi vẫn thấy có bổn phận đối với anh như bát nước đầy.
Hôm nay, gặp nhau đây, anh lại hỏi tôi: "Ðã ăn gì chưa? Phở chứ?" Tôi đón lòng thảo của anh: "Gì cũng được!" Nhân dịp gặp anh, tôi khẳng định sự nhìn nhận của mình về anh Tô Hoài, về giai nhân. Tôi đưa mắt hỏi anh, không chần chừ Lê Ðạt khẳng định: "Đúng lúy!" Tôi hỏi lại: "Có chắc không?" Lê Ðạt nói: "Chắc!" Tôi lại hỏi tiếp: "Sao lại như vậy nhỉ?" Lê Ðạt cười: "Ai mà biết được, ông anh lắm mưu nhiều mẹo; có thể nói là đương kim vô địch đấy!" Tôi ngỡ ngàng hỏi: "Về cái gì?" Lê Ðạt đập mạnh bàn tay vào vai tôi: "Thôi đừng vờ! Mày mà không biết à?" Tôi nói: "Không biết thật mà!" Bây giờ Lê Ðạt mới nói toạc ra: "Về cái khôn chứ cái gì!" Tôi công nhận lời nói của Lê Ðạt; chẳng những Lê Ðạt mà anh em trong văn nghệ thường cũng nói như vậy. Lê Ðạt lúc nào cũng lại đưa tay vỗ vỗ lên trán nói: "Tao nghĩ, về văn ông anh đã bội thu, còn muốn gì nữa cho nhọc xác!" Tôi chưa kịp đáp lời, Lê Ðạt mau miệng tiếp: "Bọn mình nhặt được vài hạt khôn của ông anh rơi vãi thì cũng lấy làm mãn nguyện phải không mày?"
Tôi bần thần cả người, tâm trạng tôi ngổn ngang, không vui, cũng chẳng buồn, chẳng ước ao hay nuối tiếc gì cái hạt khôn của anh Tô Hoài để rơi vãi.
Tiếc thay! Nếu anh không ủ một mưu mẹo gì cao hơn; đến bây giờ mới ngoặt bước sang một đường mới khác thì hơi muộn. Dẫu sao thì cũng là giả. Có lẽ anh nhạy bén trong lúc thật giả lộn sòng nên mới quyết tâm như vậy chăng? Tôi nghĩ trách ông Xanh kia vẫn còn õng ẹo, đã cho người ta cái ngoại hình hấp dẫn thế này, sao không phóng tay mà còn bủn xỉn đắn đo tiếc rẻ không cho nốt cái chút nhỏ bé cần thiết; để người ta được trở thành một giai nhân hoàn mỹ; để người ta mang cái thân hình ngà ngọc ngay từ tuổi mâng mâng bẻ gẫy sừng trâu, hành hương trên đường tìm Chân Mỹ. Tôi chẳng dại dột gì mà dính Mỹ với Thiện ở đây. Nếu người ta không đem được cái Chân Mỹ dáng hoa ban phát nơi nơi thì ít nhất cũng cho một vùng không nhỏ. Mặt này thiết tưởng người ta còn gặt hái gấp bao nhiêu lần gặt hái văn chương. Cái tháp ngà Chân Mỹ hẳn mở rộng cửa đón chờ. Người ta khỏi phải khéo khôn, loay hoay; khỏi bị ngộ nhận, rất tội nghiệp!
Lê Ðạt kéo vai tôi lên trên đường, tìm ăn phở, vừa để hóng mát, quanh quẩn dưới chợ, thế đã đủ rồi. Tôi và Lê Ðạt vừa lên khỏi dốc, đến đầu hàng cây cảnh. Lê Ðạt đang bận để mắt tìm hàng phở. Tôi đứng xem cây cảnh. Bỗng từ trong chậu cảnh hoa giấy phơi phới màu đỏ, một người bước ra, dáng vẻ mãn nguyện đàng hoàng như từ Pô-đê-ga bước ra. Lẽ ra tôi phải kinh hãi cái lối tàng hình hoá phép. Nhưng không hiểu sao tôi lại coi là chuyện bình thường; chuyện tầm thường! Tóc rẽ cánh phượng, trên khuôn mặt chim, trộn không lẫn. Nách trái cặp một tập nhạc. Tôi biết ngay là ai rồi. Hình như anh ta đã nhìn thấy hai chúng tôi; anh ta đưa bàn tay lên che miệng cười - cái thói quen cố hữu. Lê Ðạt quay đầu lại lắp bắp lên tiếng trước: "Chào cụ Tiên". Chỉ mấy tiếng của Lê Ðạt, tôi có cảm tưởng như anh đang giỡn, đang yêu cầu con tầu lịch sử dân tộc cài số lùi hàng vài thập kỷ - cái thời Tiên thứ chỉ, đầu gà má lợn - cái thứ bông phèng thiếu ý thức ấy mà lọt đến tai trên thì kiểm điểm mệt! Cụ Tiên hỏi: "Tụi mày đi đâu đến đây?" Lê Ðạt trả lời gặn: "Chơi!" Cụ Tiên ta lại che miệng cười: "Có thể dẫn tao đi Văn Phú hàng Lạng được chứ?" Lê Ðạt hơi ngần ngừ, đưa mắt cho tôi. Cụ Tiên kịp thời theo mắt Lê Ðạt hỏi tôi: "Khá không? Nghe Phùng Quán nói dạo này sáng nào mày cũng luyện thái cực quyền à?" Tôi chưa hiểu hai tiếng "khá không" là khá về mặt nào, khá cái gì? Tôi trả lời: "Múa may vài cái cho nó qua giờ ăn sáng chứ côn quyền gì đâu!" Tôi cũng tin rằng anh ta hỏi là hỏi chứ cũng biết thừa hoàn cảnh tôi nghèo lõ ra chứ có gì. Lê Ðạt đầu cứ gật gật khẽ - gật đầu kiểu này không phải là đồng ý. Cụ Tiên chép miệng: "Bấy lâu nay tao chưa xem lại cái tiết mục Náo long cung!" Thật ra lúc này tôi mới hiểu rõ ý muốn của cụ Tiên. Cách đây mấy năm, đoàn xiếc Tề Tề Cáp Nhĩ Trung Hoa có sang biểu diễn tại nhà hát nhân dân; trong đó có tiết mục "náo long cung" gồm đủ loại thủy tộc, ba ba, lươn, ếch nhào lộn. Từ đấy cửa hàng ăn Văn Phú mới đặt tên cho một thực đơn là "náo long cung". Tôi cũng đã có một vài lần được các ông anh Hoàng Cầm, Tử Phác, Ðặng Đình Hưng, Cụ Tiên và cả Lê Ðạt, cho đến dự tiết mục đó - ai trả tiền thì không nhớ.
Trước mặt nhau đây, thấy "Cụ Tiên" vui vẻ tôi cũng mới dám chuyện trò cởi mở. Với "Cụ Tiên" tôi vốn ngại, sợ thì đúng hơn. Bởi tôi biết cụ Tiên có kèm một công tác đặc nhiệm; và đã vài lần lập chiến công tuy thầm lặng nhưng hiển hách. Tôi có lần được Tử Phác nói cho biết chơi với cụ Tiên là vẫn phải cảnh giác. Vui vẻ đấy nhưng lỡ miệng chuyện nọ xọ chuyện kia, cụ Tiên cho là phạm vào "tín điều", "đẹt" cho một cái, mình toi mạng! Bởi vậy, cũng như hôm nay, mỗi lần gặp cụ Tiên,tôi chỉ giao tiếp lấy lệ để cụ Tiên khỏi mếch lòng. Tôi vẫn tính bài lảng.
Phở chưa ăn, Văn Phú chưa quyết, chưa đi. Bỗng một loạt đại bác, chẳng biết từ đâu, chẳng biết vì sao, ầm ầm rung chuyển cả một không gian. Dưới chợ, trên đường huyên náo, người người đổ xô chen lấn, la hét, gà lợn chó má cũng kêu lên thất thanh. Kẻ chạy xuôi, người chạy ngược, xéo lên nhau mà chạy - đều chạy người không - bỏ của chạy lấy người - Cụ Tiên và Lê Ðạt đã biến nẻo nào rồi?
Trong cơn kinh hoàng, hoảng loạn, một mình tôi bơ vơ, không biết nên chạy đi đâu? Tiếng nổ mỗi lúc một dữ dội tưởng như vỡ trái đất; tưởng như phụt núi lửa, tưởng như trời sập; tưởng như Trân Châu cảng hay Hi-rô-si-ma. Cuồng phong, bảo tố nổi lên tiếp tay cho tiếng nổ. Cây cối ngả nghiêng, đất, trời chao đảo. Trên không trung, mây ngũ sắc xanh vàng tím đỏ vun vút như cờ thiên lôi từ bắc phương tràn xuống, từ tây phương đổ về. Vừa bay vừa đổi màu biến sắc. Tất cả gặp nhau, tụm lại, tạo một vòm trời đỏ như máu. Tôi đứng dưới vòm trời, ba hồn bảy vía chỉ may ra còn lại một hai.
Tôi tự hỏi thế này là thế nào? Ðời tôi chưa được nghe ai kể; chỉ khi còn thơ ấu được nghe ông lão hàng xóm nói chuyện đổi đời; nghe xong ngày đêm sợ hãi. Lần ấy chị gái tôi cũng còn bé, chị cóp được mấy hào, nghe nói sắp đổi đời đến nơi, hai chị em rủ nhau đem tiền mua kẹo bánh ăn bằng hết, kẻo bỏ phí. Câu chuyện đó tôi lớn lên vẫn còn bán tín, bán nghi; khi trưởng thành thì quên mất...
Câu chuyện ông lão hàng xóm kể có lẽ là lúc này đây! Ðã bơ vơ vì bạn, lại bơ vơ vì thiếu mặt gia đình! Lúc này thì tiếng nổ không còn, chỉ còn tiếng gầm rú của bão tố như ngàn vạn tiếng hổ gầm, voi rống, nghe càng hãi hùng! Dưới vòm trời tất cả đều nhuộm nhanh màu đỏ. Tôi bỗng choáng váng, đầu nhức, mắt hoa lên! Tôi phải đưa hai bàn tay đậy lên mặt, vì cảm thấy mặt đất quá cheo leo! Tôi sợ ngã!
Tôi vừa mở hai bàn tay không biết từ lúc nào và từ trên trời lao xuống, hay từ dưới đất trồi lên, một trái núi - trái núi hình nón - có lẽ là ngọn tháp, tôi chưa kịp phân biệt. Thì cứ gọi là một ngọn tháp khổng lồ. Ngọn tháp rung rinh lay động. Trên đỉnh tháp là một tàn vàng chóe lóe, hơi giống mặt trời chiều lúc gần xuống núi; có phần sáng hơn mặt trời. Bên cạnh tàn vàng là một lá cờ đại; xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực. Từ cờ đại đến cờ nhỏ đều quay tròn. Diềm cờ không đính tua kim tuyến mà là lưỡi câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió nhân thành bão, thì ra do cờ bay mà tiếng gầm rú hãi hùng như vậy. Tôi lạnh cả người, cầm sẵn trong tay một cái chết móc hàm!
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Vụ án Nhân văn Giai phẩm hay câu chuyện Thiên An Môn Việt Nam
Dạ ký - t.t.
Ngọn tháp mỗi lúc một to ra, cao lên, cờ cũng nhiều gấp bội. Có thể nói: đây mới đúng là rừng cờ, là nguồn sinh của cờ - cũng đều diềm lưỡi câu, cũng quay tít. Tôi đưa mắt nhìn kỹ thêm ngọn tháp từ chân tới đỉnh toàn người là người lớp nọ cưỡi lên cổ lớp kia ngất ngứ. Cái tháp người này sẽ là kỳ quan thứ mấy của thế giới đây? - Tôi nghĩ vậy - Thật là một sự kỳ lạ! Tạo được ngọn tháp này phải là các nghệ sĩ xiếc có hạng. Ai ở trên đỉnh chót nhỉ? - Tôi tự hỏi?
Thoắt một cái, chẳng biết từ đâu, người người lớp lớp đang chạy vòng quanh tháp - như đèn kéo quân. Chạy theo hướng cờ bay, chạy dưới bóng cờ. Từ chân tháp đổ ra không sao đếm xuể được số vòng trong, vòng ngoài là bao nhiêu. Tôi cũng là kẻ đang chạy vòng ngoài cùng. Tôi ngỡ ngàng không hiểu do sự xắp xếp nào mà tôi có mặt trong vòng chạy này? Làm sao tôi không biết? Vòng nào cũng đủ các loại người già, trẻ, đàn bà, đàn ông - bách tính tứ dân: sĩ, nông, công, cổ - Nhiều nhất vẫn là dân áo vải, chân lấm tay bùn - Hình như có cả Tây lai. Người nào cũng cầm vũ khí từ tối tân đến thô sơ: Tối tân đây là súng; nào là Rơ-manh-tông, Mút-cơ-tông, Anh-đô-si-noa, cả súng hỏa mai; nào là cuốc, xẻng, mai, thuổng, đòn càn, đòn gánh, nào là tay thước, dao quắm, mã tấu. Có cả mấy vị Trư Bát Giới cũng vác cào lệch ệch, hoặc xích trượng; cả mấy vị áo chùng thâm vác thánh giá chạy vòng gần chân tháp. Trong đế của đại tháp, tôi thấy đủ mặt: ông anh đẹp giai tay cầm một côn đỏ, Viện trưởng, Viện phó viện múa lưỡi. Cụ Tiên hai tay hai súng lục. Ông anh Tô Hoài, cả Hoàng Cầm, Lê Ðạt cùng bao nhiêu người khác tôi đã từng gặp mặt ở chiến khu Việt Bắc; điều kết thành một khối tháp vững chắc sống động. Các dòng người đều nhất loạt hướng tai lên đỉnh tháp nghe lệnh sang sảng "Kẻ thù phía trước! Kẻ thù phía trước!" Giữa người nọ với người kia nhất tề giữ đúng khoảng cách một tầm lê đâm trộm!
Ðêm xuống lúc nào không biết. Ðỏ pha đen, không gian là một màu huyết dụ; một thứ mùi rờn rợn, tanh tanh như mùi thép rỉ vây quanh. Tay tôi, chẳng biết ai đã trao cho một dùi gỗ, và tôi đã nhận làm vũ khí từ lúc nào? Dùi gỗ dài chừng nửa thước tây - bết máu. Chắc là chiến lợi phẩm thu được của kẻ thù tử trận. Ôi chao! Tôi nhìn gáy người phía trước tôi. Chẳng phải ai, chính là ông thầy học của mình. Trông vóc dáng của thầy; nhất là sau gáy có hai nút ruồi đen, to, liền nhau. Tôi khẽ lên tiếng: "Phải thầy Ðoàn đây không?" Thầy Ðoàn giật mình, không dám ngoái đầu, không dám lên tiếng. Nước mắt tôi trào ra, cổ tôi nghẹn lại, tôi lại hỏi tiếp: "Cung đây! Thầy còn nhận ra con không?" Thầy Ðoàn giật mình, co cổ lại. Thầy Ðoàn biết mình đang ở vị trí kẻ thù của tôi!!! Tôi bàng hoàng! Tôi đang là kẻ thù của ai phía sau tôi?
Tôi rùng mình kinh hãi, hai chân lảo đảo, loạng choạng, xéo phứa lên một bãi cứt. Tôi bị trượt chân văng ra khỏi vòng hiểm hoạ, ngã sấp mặt, nhờ một "bãi cứt cứu sinh". Tôi đau ê ẩm, nhưng vô cùng sung sướng. Tôi định thần, để ghi nhớ công cứu sống tôi. Tôi nghĩ sau này tôi phải viết một bài "Cứt tụng". Dù ai có chê bai cũng đành chịu vậy thôi. Trong đầu tôi mới xuất được một tứ: "Cứt không thèm với tay vịn gió đổi mùi; nguyện hôi thối hết mình để người đời khỏi ngộ nhận!..."
Tôi nằm ngơi; lúc này tôi mới nhận biết mình đang nằm trên đống máu - máu chiến thắng kẻ thù đồng loại! Gió mặt đất va vào tai tôi những tiếng khóc thê thảm tập thể từ đâu vọng lại. Tội nghiệp thầy Ðoàn bây giờ ở đâu? Thầy Ðoàn đang là kẻ thù của ai? - Tôi cầu khẩn đất trời ra tay cứu vớt để những đau thương tràn ngập được giải thoát. Lòng tha thiết bằng an của tôi có lừa dối tôi không? Chiêm bao trong chiêm bao - Vậy hẳn là tụi trẻ con mất dạy tinh nghịch bày trò chơi dại dột!
Chợt có tiếng từ đỉnh tháp đài sang sảng lói tai: "Bắt lấy nó! Băm nát thằng đào ngũ!" Tôi sợ quá, cứt máu đầy người vùng dậy chạy trốn. Tiếng súng ưu binh "chíu chíu" cùng tiếng chân huỳnh huỵch đuổi phía sau tôi. Nghe mỗi lúc một gần, tôi không dám quay đầu nhìn lại. Tôi cắm cổ chạy, hờm đá cheo leo, vực thẳm ngay trước mặt. Hàng ngàn vạn con rắn đỏ, rắn vàng, to bằng thân cây cau, dựng đầu, giương bành, múa đuôi ầm ầm như bão tố dưới vực. Cùng đường, trước mặt, sau lưng, hai cái chết rùng rợn! Vừa lúc lại một loạt đạn rít lên sát vành tai bên trái, tôi nghiêng đầu tránh đạn, sẩy chân đâm vút xuống vực, chỉ kịp rú lên một tiếng "Trời!" Tôi giật mình choàng tỉnh! Một cơn ác mộng khủng khiếp!
Cánh tay tôi làm bật cả hai thằng con ốm xô vào nhau trên ngực tôi. Chúng hoảng hốt, ngơ ngác. Dưới ánh sáng của bóng đèn bốn mươi nến, trống ngực tôi rộn rã liên hồi. Từ vô thức tôi buột miệng: "Dẫu sao thì thằng anh vẫn là anh thằng em!"
Hà Nội 9-1959
Ngọn tháp mỗi lúc một to ra, cao lên, cờ cũng nhiều gấp bội. Có thể nói: đây mới đúng là rừng cờ, là nguồn sinh của cờ - cũng đều diềm lưỡi câu, cũng quay tít. Tôi đưa mắt nhìn kỹ thêm ngọn tháp từ chân tới đỉnh toàn người là người lớp nọ cưỡi lên cổ lớp kia ngất ngứ. Cái tháp người này sẽ là kỳ quan thứ mấy của thế giới đây? - Tôi nghĩ vậy - Thật là một sự kỳ lạ! Tạo được ngọn tháp này phải là các nghệ sĩ xiếc có hạng. Ai ở trên đỉnh chót nhỉ? - Tôi tự hỏi?
Thoắt một cái, chẳng biết từ đâu, người người lớp lớp đang chạy vòng quanh tháp - như đèn kéo quân. Chạy theo hướng cờ bay, chạy dưới bóng cờ. Từ chân tháp đổ ra không sao đếm xuể được số vòng trong, vòng ngoài là bao nhiêu. Tôi cũng là kẻ đang chạy vòng ngoài cùng. Tôi ngỡ ngàng không hiểu do sự xắp xếp nào mà tôi có mặt trong vòng chạy này? Làm sao tôi không biết? Vòng nào cũng đủ các loại người già, trẻ, đàn bà, đàn ông - bách tính tứ dân: sĩ, nông, công, cổ - Nhiều nhất vẫn là dân áo vải, chân lấm tay bùn - Hình như có cả Tây lai. Người nào cũng cầm vũ khí từ tối tân đến thô sơ: Tối tân đây là súng; nào là Rơ-manh-tông, Mút-cơ-tông, Anh-đô-si-noa, cả súng hỏa mai; nào là cuốc, xẻng, mai, thuổng, đòn càn, đòn gánh, nào là tay thước, dao quắm, mã tấu. Có cả mấy vị Trư Bát Giới cũng vác cào lệch ệch, hoặc xích trượng; cả mấy vị áo chùng thâm vác thánh giá chạy vòng gần chân tháp. Trong đế của đại tháp, tôi thấy đủ mặt: ông anh đẹp giai tay cầm một côn đỏ, Viện trưởng, Viện phó viện múa lưỡi. Cụ Tiên hai tay hai súng lục. Ông anh Tô Hoài, cả Hoàng Cầm, Lê Ðạt cùng bao nhiêu người khác tôi đã từng gặp mặt ở chiến khu Việt Bắc; điều kết thành một khối tháp vững chắc sống động. Các dòng người đều nhất loạt hướng tai lên đỉnh tháp nghe lệnh sang sảng "Kẻ thù phía trước! Kẻ thù phía trước!" Giữa người nọ với người kia nhất tề giữ đúng khoảng cách một tầm lê đâm trộm!
Ðêm xuống lúc nào không biết. Ðỏ pha đen, không gian là một màu huyết dụ; một thứ mùi rờn rợn, tanh tanh như mùi thép rỉ vây quanh. Tay tôi, chẳng biết ai đã trao cho một dùi gỗ, và tôi đã nhận làm vũ khí từ lúc nào? Dùi gỗ dài chừng nửa thước tây - bết máu. Chắc là chiến lợi phẩm thu được của kẻ thù tử trận. Ôi chao! Tôi nhìn gáy người phía trước tôi. Chẳng phải ai, chính là ông thầy học của mình. Trông vóc dáng của thầy; nhất là sau gáy có hai nút ruồi đen, to, liền nhau. Tôi khẽ lên tiếng: "Phải thầy Ðoàn đây không?" Thầy Ðoàn giật mình, không dám ngoái đầu, không dám lên tiếng. Nước mắt tôi trào ra, cổ tôi nghẹn lại, tôi lại hỏi tiếp: "Cung đây! Thầy còn nhận ra con không?" Thầy Ðoàn giật mình, co cổ lại. Thầy Ðoàn biết mình đang ở vị trí kẻ thù của tôi!!! Tôi bàng hoàng! Tôi đang là kẻ thù của ai phía sau tôi?
Tôi rùng mình kinh hãi, hai chân lảo đảo, loạng choạng, xéo phứa lên một bãi cứt. Tôi bị trượt chân văng ra khỏi vòng hiểm hoạ, ngã sấp mặt, nhờ một "bãi cứt cứu sinh". Tôi đau ê ẩm, nhưng vô cùng sung sướng. Tôi định thần, để ghi nhớ công cứu sống tôi. Tôi nghĩ sau này tôi phải viết một bài "Cứt tụng". Dù ai có chê bai cũng đành chịu vậy thôi. Trong đầu tôi mới xuất được một tứ: "Cứt không thèm với tay vịn gió đổi mùi; nguyện hôi thối hết mình để người đời khỏi ngộ nhận!..."
Tôi nằm ngơi; lúc này tôi mới nhận biết mình đang nằm trên đống máu - máu chiến thắng kẻ thù đồng loại! Gió mặt đất va vào tai tôi những tiếng khóc thê thảm tập thể từ đâu vọng lại. Tội nghiệp thầy Ðoàn bây giờ ở đâu? Thầy Ðoàn đang là kẻ thù của ai? - Tôi cầu khẩn đất trời ra tay cứu vớt để những đau thương tràn ngập được giải thoát. Lòng tha thiết bằng an của tôi có lừa dối tôi không? Chiêm bao trong chiêm bao - Vậy hẳn là tụi trẻ con mất dạy tinh nghịch bày trò chơi dại dột!
Chợt có tiếng từ đỉnh tháp đài sang sảng lói tai: "Bắt lấy nó! Băm nát thằng đào ngũ!" Tôi sợ quá, cứt máu đầy người vùng dậy chạy trốn. Tiếng súng ưu binh "chíu chíu" cùng tiếng chân huỳnh huỵch đuổi phía sau tôi. Nghe mỗi lúc một gần, tôi không dám quay đầu nhìn lại. Tôi cắm cổ chạy, hờm đá cheo leo, vực thẳm ngay trước mặt. Hàng ngàn vạn con rắn đỏ, rắn vàng, to bằng thân cây cau, dựng đầu, giương bành, múa đuôi ầm ầm như bão tố dưới vực. Cùng đường, trước mặt, sau lưng, hai cái chết rùng rợn! Vừa lúc lại một loạt đạn rít lên sát vành tai bên trái, tôi nghiêng đầu tránh đạn, sẩy chân đâm vút xuống vực, chỉ kịp rú lên một tiếng "Trời!" Tôi giật mình choàng tỉnh! Một cơn ác mộng khủng khiếp!
Cánh tay tôi làm bật cả hai thằng con ốm xô vào nhau trên ngực tôi. Chúng hoảng hốt, ngơ ngác. Dưới ánh sáng của bóng đèn bốn mươi nến, trống ngực tôi rộn rã liên hồi. Từ vô thức tôi buột miệng: "Dẫu sao thì thằng anh vẫn là anh thằng em!"
Hà Nội 9-1959
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Similar topics
» Tiếp tục câu chuyện về 39 nạn nhân người Việt chết trên đường đến Anh
» Sáu nhà hàng Việt vùng DC vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm
» Giải mã sức hút của nhẫn kim cương Halo - Gợi ý các mẫu nhẫn hot 2022
» Tại sao trí thức Việt kiều không về giúp Việt Nam? (Phạm Trần)
» Hội luận trên RFA: ~ chuyến bay giải cứu alias ~ chuyến bay chặt chém
» Sáu nhà hàng Việt vùng DC vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm
» Giải mã sức hút của nhẫn kim cương Halo - Gợi ý các mẫu nhẫn hot 2022
» Tại sao trí thức Việt kiều không về giúp Việt Nam? (Phạm Trần)
» Hội luận trên RFA: ~ chuyến bay giải cứu alias ~ chuyến bay chặt chém
Page 1 of 1
Permissions in this forum:
You can reply to topics in this forum