Sách
Page 34 of 50 • Share
Page 34 of 50 • 1 ... 18 ... 33, 34, 35 ... 42 ... 50
Re: Sách
Tình yêu làm nên cái hồn, sự sống cho tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
Zingnews
Chính tình yêu đã làm nên tính cách nhân bản và khiến cho hàng tỉ người say mê các tác phẩm của Kim Dung.
Trích sách "Kim Dung giữa đời tôi"
Tình yêu là một nội dung lớn trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển đã có bài biên khảo về vấn đề này, in trong cuốn Kim Dung giữa đời tôi (NXB Trẻ phát hành). Được sự đồng ý của tác giả, Zing.vn trích đăng nội dung bài viết.
Tuy tên gọi là tiểu thuyết võ hiệp nhưng bản chất những tác phẩm của Kim Dung là tình yêu đôi lứa nồng thắm.
Một cách khái quát, Kim Dung đã xây dựng những cặp nhân vật hoặc những cụm nhân vật rồi tạo điều kiện cho họ gặp gỡ hiểu biết và yêu nhau. Ông đã rất tinh tế để cho các nhân vật chính phái yêu tà phái, bạch đạo yêu hắc đạo để tạo nên những mâu thuẫn chiều dọc xuyên suốt chiều dài của tác phẩm và những mâu thuẫn chiều sâu trong tâm hồn của từng nhân vật.
TÌNH YÊU LÃNG MẠN KIỂU VÕ LÂM
Điều đặc biệt là những nhân vật nữ của ông thường rất đẹp, rất thông minh, xuất thân từ Ma giáo hoặc ít nhất cũng mang “một chút tà khí trong người”.
Đó là những cặp và những cụm nhân vật Lệnh Hồ Xung - Nhậm Doanh Doanh (Tiếu ngạo giang hồ), Trương Thúy Sơn - Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ - Triệu Mẫn - Chu Chỉ Nhược - Ân Ly - Tiểu Chiêu (Ỷ thiên Đồ long ký); Tiêu Phong - A Châu, Đoàn Dự - Vương Ngữ Yên - Mộc Uyển Thanh - Chung Linh, Du Thản Chi - A Tử, Hư Trúc - Văn Nghi công chúa (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên - A Tú (Hiệp khách hành), Quách Tĩnh - Hoàng Dung - Hoa Tranh công chúa (Xạ điêu anh hùng truyện), Dương Quá - Tiểu Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ)...
Sách Kim Dung giữa đời tôi của Vũ Đức Sao Biển, NXB Trẻ phát hành.
Những mối tình được Kim Dung dựng lên là những mối tình thật trong sáng và do vậy, thật đẹp. Tác phẩm Kim Dung lấy bối cảnh lịch sử từ đầu đời Thanh trở về trước (trước thế kỷ XVII), khi mà tư duy phong kiến và nguyên tắc lễ giáo của đạo Nho đang giữ vai trò độc tôn chi phối toàn bộ những sinh hoạt xã hội.
Cho nên, những nhân vật của Kim Dung yêu trong sự cho phép của những tư duy và nguyên tắc ấy. Thế nhưng, tính chất lãng mạn - một thuộc tính không thể thiếu trong yêu đương - thì rất phong phú.
Những nhân vật của Kim Dung đã yêu theo phong cách của võ lâm. Trước hết, họ đánh nhau, sau đó hiểu nhau rồi mới yêu nhau. Ân Tố Tố, một nữ ma đầu, con gái Bạch Mi Ưng Vương, đã dùng Văn tu châm (kim râu muỗi) khống chế Trương Thuý Sơn phái Võ Đang, rồi sau đó mới yêu Trương.
Triệu Mẫn, con gái Như Nam vương triều Nguyên, lừa Trương Vô Kỵ lọt xuống hầm sâu rồi sau đó mới yêu Vô Kỵ (Ỷ thiên đồ long ký). Mộc Uyển Thanh đã đánh cho Đoàn Dự thừa sống thiếu chết, sau đó mới nhận Đoàn Dự làm lang quân (Thiên Long bát bộ).
Ở một chừng mực nào đó, các nhân vật này vượt qua hàng rào của nghi thức phong kiến và ràng buộc giáo điều của lễ giáo. Họ tự quyết định tình yêu của mình và cảm thấy hạnh phúc khi được lựa chọn như vậy.
TÌNH YÊU LÀ HY SINH VÀ NHỮNG CHÀNG SI TÌNH BẬC NHẤT
Tình yêu được mô tả trong tác phẩm võ hiệp Kim Dung mang tính phấn đấu rất cao. Các nhân vật vượt lên hoàn cảnh, vượt qua những sự chống đối để bảo vệ tình yêu của mình.
Trương Thúy Sơn cưới Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ bỏ hết sự nghiệp đi theo Triệu Mẫn, Nhậm Doanh Doanh lang thang qua ngàn trùng để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, A Châu vượt ngàn dặm ra Nhạn Môn Quan để chờ đợi Tiêu Phong... là những chuyện tình đẹp.
Tình yêu được mô tả trong tác phẩm Kim Dung luôn luôn kinh qua một quá trình hy sinh vô tận. Trương Thúy Sơn vì vợ mà tự tử khiến cho Tố Tố cũng tự vẫn để giữ gìn danh tiết, xứng đáng với chồng. Triệu Mẫn từ bỏ cha và anh ruột để ra đi cùng Trương Vô Kỵ.
Ân Tố Tố khống chế Trương Thúy Sơn rồi mới yêu Trương, và cuối cùng chết vì Trương.
Tiểu Chiêu về Ba Tư, lên ngôi Thánh nữ Minh giáo mà lòng đau như cắt, cảm thấy cuộc đời hoàn toàn vô vị vì cô chỉ muốn suốt đời hầu hạ cho Vô Kỵ thay áo, chải đầu. Doanh Doanh cõng tình lang Lệnh Hồ Xung lên núi Thiếu Thất, chịu để phái Thiếu Lâm cầm tù mình đổi lấy lời hứa của Phương Chứng đại sư nhận chữa thương cho Lệnh Hồ Xung.
Kim Dung đã thực sự biến tác phẩm võ hiệp của mình trở thành những bản tình ca tươi đẹp. Những bản tình ca ấy hoá giải được biên giới của chính - tà, hắc - bạch, hận - thù. Chúng bành trướng cảm xúc cho người đọc khi đọc tác phẩm.
Kim Dung đã tạo ra được những nhân vật si tình kinh điển, những “giáo chủ” của đạo tình, hoặc là yêu, hoặc là chết. Vương tử Đoàn Dự suốt đời lẽo đẽo đi theo Vương Ngữ Yên chỉ để cho lúc nàng nguy nan là ghé vai cõng nàng chạy trốn. Du Thản Chi chịu bịt chiếc lồng sắt vào đầu, làm một tên Thiết Sửu giúp vui cho A Tử chỉ để được ngắm khuôn mặt thiên kiều bá mị nhưng tràn đầy ác độc của cô.
Mỹ đao vương Hồ Dật Chi say mê Trân Viên Viên, hầu thiếp của Bình Tây vương Ngô Tam Quế đến nỗi chịu hóa thân thành một kẻ làm vườn, tưới rau trong mấy chục năm để được lén nhìn Trần.
Truyện võ hiệp của Kim Dung đã xây dựng thành công những chàng si tình bậc nhất thiên hạ, xứng đáng đoạt huy chương vàng trong lịch sử tiểu thuyết cổ kim.
Người ta còn tìm thấy trong tác phẩm tiểu thuyết của ông những tình yêu ngang trái, rất người, thoát ra khỏi khuôn mẫu cho phép của lễ giáo phong kiến Trung Quốc.
Đoàn Dự - một trong những gã si tình kinh điển trong tác phẩm Kim Dung.
Đó là Tiểu Long Nữ sư phụ, một cô gái trong sáng bị kẻ tà dâm cưỡng bức, yêu say mê đồ đệ Dương Quá. Đó là Kỷ Hiểu Phù, vợ chưa cưới của Ân Lê Đình phái Võ Đang, đã thất thân và đã yêu một ma đầu của Minh giáo là Dương Tiêu.
Sinh ra một đứa con gái, Hiểu Phù đã can đảm đặt tên cho con là Dương Bất Hối (không hối hận). Đó là Hồng phu nhân, vợ của giáo chủ Thần long giáo, trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo.
NHỮNG TRƯỜNG HỢP SA ĐỌA TÌNH DỤC
Tiểu thuyết của Kim Dung cũng đặt ra những trường hợp sa đọa tình dục hết sức quái dị. Đó là Kiến Ninh công chúa, em gái vua Khang Hy, đã sa ngã với Vi Tiểu Bảo, một gã thái giám giả mạo, từ năm 14 tuổi. Kiến Ninh chỉ muốn được Vi Tiểu Bảo trói cột, đánh đập cho vỡ da tóe máu mới được thấy lạc thú của trao thân.
Cá biệt, có trường hợp của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ Ma giáo, luyện Quỳ Hoa bảo điển phải “dẫn đao tự cung”, trở thành kẻ ái nam ái nữ, quan hệ “yêu đương” với gã bộ hạ là Dương Liên Đình. Khi xây dựng những nhân vật, những loại “tình yêu” này, ông đã nghiên cứu rất kỹ những biểu hiện của tính cuồng dâm và đồng tính luyến ái.
Tác phẩm của Kim Dung có những đoạn nói đến tình yêu thật đẹp. Những nhân vật của ông không bao giờ thốt ra miệng chữ yêu nhưng tình yêu của họ nồng nàn trong ánh mắt, trong hành động và trong trái tim.
Đó là A Châu trở về Nhạn Môn Quan chờ Kiều Phong để suốt đời “theo đại gia cùng đi săn chồn đuổi thỏ”. Đó là Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển “về Ba Tư, đừng nói lên ngôi thánh nữ, dẫu có làm đến nữ hoàng đi nữa mà xa công tử thì cuộc đời cũng rất vô vị”.
Đó là Nhậm Doanh Doanh bắn tin cho giới ma đầu trên giang hồ phải giết ngay Lệnh Hồ Xung vì “ta muốn ngươi ở mãi bên ta để ta chở che, bảo vệ”. Đó là Triệu Mẫn với Trương Vô Kỵ: “Lông mày thiếp đã nhạt màu rồi. Công tử kẻ lại giùm cho thiếp đi”. Những lời tỏ tình mang đầy tính ẩn dụ và biểu tượng như thế khiến tác phẩm vừa sâu, vừa không dung tục.
Hình ảnh Đông Phương Bất Bại và Dương Liên Đình trong phim Tiếu ngạo giang hồ.
Một điểm khác cũng đáng bàn đến là trong tác phẩm của Kim Dung vẫn có những tình yêu trá ngụy. Nhạc Linh San bỏ Lệnh Hồ Xung để làm vợ gã ái nam ái nữ Lâm Bình Chi bởi mưu đồ chiếm pho Tịch Tà kiếm phổ của Nhạc Bất Quần.
Chu Chỉ Nhược đánh lừa Trương Vô Kỵ để đánh cắp bộ Cửu Âm chân kinh theo di huấn của sư phụ là Duyệt Tuyệt sư thái. Nhưng tuổi trẻ của Nhạc Linh San, Chu Chỉ Nhược không nghĩ ra được sự trá ngụy ấy. Phần trá ngụy, âm mưu thuộc về sự sắp đặt của những người lớn, người thầy, người cha.
Đọc tác phẩm của Kim Dung, người ta khám phá ra cái đẹp của tình yêu. So với những tác giả cùng thời, tình yêu trong tiểu thuyết võ hiệp của ông trong sáng, lành mạnh. Thông qua tình yêu, ông giáo dục cho con người mỹ cảm về đạo đức.
Nói rằng tác phẩm võ hiệp, thật ra chỉ là một cách nói. Chính tình yêu đã làm nên cái hồn, sự sống cho tiểu thuyết võ hiệp. Mỗi tác phẩm của ông ra đời trở thành một bức thông điệp ngọt ngào cho tình yêu lứa đôi.
Zingnews
Chính tình yêu đã làm nên tính cách nhân bản và khiến cho hàng tỉ người say mê các tác phẩm của Kim Dung.
Trích sách "Kim Dung giữa đời tôi"
Tình yêu là một nội dung lớn trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển đã có bài biên khảo về vấn đề này, in trong cuốn Kim Dung giữa đời tôi (NXB Trẻ phát hành). Được sự đồng ý của tác giả, Zing.vn trích đăng nội dung bài viết.
Tuy tên gọi là tiểu thuyết võ hiệp nhưng bản chất những tác phẩm của Kim Dung là tình yêu đôi lứa nồng thắm.
Một cách khái quát, Kim Dung đã xây dựng những cặp nhân vật hoặc những cụm nhân vật rồi tạo điều kiện cho họ gặp gỡ hiểu biết và yêu nhau. Ông đã rất tinh tế để cho các nhân vật chính phái yêu tà phái, bạch đạo yêu hắc đạo để tạo nên những mâu thuẫn chiều dọc xuyên suốt chiều dài của tác phẩm và những mâu thuẫn chiều sâu trong tâm hồn của từng nhân vật.
TÌNH YÊU LÃNG MẠN KIỂU VÕ LÂM
Điều đặc biệt là những nhân vật nữ của ông thường rất đẹp, rất thông minh, xuất thân từ Ma giáo hoặc ít nhất cũng mang “một chút tà khí trong người”.
Đó là những cặp và những cụm nhân vật Lệnh Hồ Xung - Nhậm Doanh Doanh (Tiếu ngạo giang hồ), Trương Thúy Sơn - Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ - Triệu Mẫn - Chu Chỉ Nhược - Ân Ly - Tiểu Chiêu (Ỷ thiên Đồ long ký); Tiêu Phong - A Châu, Đoàn Dự - Vương Ngữ Yên - Mộc Uyển Thanh - Chung Linh, Du Thản Chi - A Tử, Hư Trúc - Văn Nghi công chúa (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên - A Tú (Hiệp khách hành), Quách Tĩnh - Hoàng Dung - Hoa Tranh công chúa (Xạ điêu anh hùng truyện), Dương Quá - Tiểu Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ)...
Sách Kim Dung giữa đời tôi của Vũ Đức Sao Biển, NXB Trẻ phát hành.
Những mối tình được Kim Dung dựng lên là những mối tình thật trong sáng và do vậy, thật đẹp. Tác phẩm Kim Dung lấy bối cảnh lịch sử từ đầu đời Thanh trở về trước (trước thế kỷ XVII), khi mà tư duy phong kiến và nguyên tắc lễ giáo của đạo Nho đang giữ vai trò độc tôn chi phối toàn bộ những sinh hoạt xã hội.
Cho nên, những nhân vật của Kim Dung yêu trong sự cho phép của những tư duy và nguyên tắc ấy. Thế nhưng, tính chất lãng mạn - một thuộc tính không thể thiếu trong yêu đương - thì rất phong phú.
Những nhân vật của Kim Dung đã yêu theo phong cách của võ lâm. Trước hết, họ đánh nhau, sau đó hiểu nhau rồi mới yêu nhau. Ân Tố Tố, một nữ ma đầu, con gái Bạch Mi Ưng Vương, đã dùng Văn tu châm (kim râu muỗi) khống chế Trương Thuý Sơn phái Võ Đang, rồi sau đó mới yêu Trương.
Triệu Mẫn, con gái Như Nam vương triều Nguyên, lừa Trương Vô Kỵ lọt xuống hầm sâu rồi sau đó mới yêu Vô Kỵ (Ỷ thiên đồ long ký). Mộc Uyển Thanh đã đánh cho Đoàn Dự thừa sống thiếu chết, sau đó mới nhận Đoàn Dự làm lang quân (Thiên Long bát bộ).
Ở một chừng mực nào đó, các nhân vật này vượt qua hàng rào của nghi thức phong kiến và ràng buộc giáo điều của lễ giáo. Họ tự quyết định tình yêu của mình và cảm thấy hạnh phúc khi được lựa chọn như vậy.
TÌNH YÊU LÀ HY SINH VÀ NHỮNG CHÀNG SI TÌNH BẬC NHẤT
Tình yêu được mô tả trong tác phẩm võ hiệp Kim Dung mang tính phấn đấu rất cao. Các nhân vật vượt lên hoàn cảnh, vượt qua những sự chống đối để bảo vệ tình yêu của mình.
Trương Thúy Sơn cưới Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ bỏ hết sự nghiệp đi theo Triệu Mẫn, Nhậm Doanh Doanh lang thang qua ngàn trùng để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, A Châu vượt ngàn dặm ra Nhạn Môn Quan để chờ đợi Tiêu Phong... là những chuyện tình đẹp.
Tình yêu được mô tả trong tác phẩm Kim Dung luôn luôn kinh qua một quá trình hy sinh vô tận. Trương Thúy Sơn vì vợ mà tự tử khiến cho Tố Tố cũng tự vẫn để giữ gìn danh tiết, xứng đáng với chồng. Triệu Mẫn từ bỏ cha và anh ruột để ra đi cùng Trương Vô Kỵ.
Ân Tố Tố khống chế Trương Thúy Sơn rồi mới yêu Trương, và cuối cùng chết vì Trương.
Tiểu Chiêu về Ba Tư, lên ngôi Thánh nữ Minh giáo mà lòng đau như cắt, cảm thấy cuộc đời hoàn toàn vô vị vì cô chỉ muốn suốt đời hầu hạ cho Vô Kỵ thay áo, chải đầu. Doanh Doanh cõng tình lang Lệnh Hồ Xung lên núi Thiếu Thất, chịu để phái Thiếu Lâm cầm tù mình đổi lấy lời hứa của Phương Chứng đại sư nhận chữa thương cho Lệnh Hồ Xung.
Kim Dung đã thực sự biến tác phẩm võ hiệp của mình trở thành những bản tình ca tươi đẹp. Những bản tình ca ấy hoá giải được biên giới của chính - tà, hắc - bạch, hận - thù. Chúng bành trướng cảm xúc cho người đọc khi đọc tác phẩm.
Kim Dung đã tạo ra được những nhân vật si tình kinh điển, những “giáo chủ” của đạo tình, hoặc là yêu, hoặc là chết. Vương tử Đoàn Dự suốt đời lẽo đẽo đi theo Vương Ngữ Yên chỉ để cho lúc nàng nguy nan là ghé vai cõng nàng chạy trốn. Du Thản Chi chịu bịt chiếc lồng sắt vào đầu, làm một tên Thiết Sửu giúp vui cho A Tử chỉ để được ngắm khuôn mặt thiên kiều bá mị nhưng tràn đầy ác độc của cô.
Mỹ đao vương Hồ Dật Chi say mê Trân Viên Viên, hầu thiếp của Bình Tây vương Ngô Tam Quế đến nỗi chịu hóa thân thành một kẻ làm vườn, tưới rau trong mấy chục năm để được lén nhìn Trần.
Truyện võ hiệp của Kim Dung đã xây dựng thành công những chàng si tình bậc nhất thiên hạ, xứng đáng đoạt huy chương vàng trong lịch sử tiểu thuyết cổ kim.
Người ta còn tìm thấy trong tác phẩm tiểu thuyết của ông những tình yêu ngang trái, rất người, thoát ra khỏi khuôn mẫu cho phép của lễ giáo phong kiến Trung Quốc.
Đoàn Dự - một trong những gã si tình kinh điển trong tác phẩm Kim Dung.
Đó là Tiểu Long Nữ sư phụ, một cô gái trong sáng bị kẻ tà dâm cưỡng bức, yêu say mê đồ đệ Dương Quá. Đó là Kỷ Hiểu Phù, vợ chưa cưới của Ân Lê Đình phái Võ Đang, đã thất thân và đã yêu một ma đầu của Minh giáo là Dương Tiêu.
Sinh ra một đứa con gái, Hiểu Phù đã can đảm đặt tên cho con là Dương Bất Hối (không hối hận). Đó là Hồng phu nhân, vợ của giáo chủ Thần long giáo, trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo.
NHỮNG TRƯỜNG HỢP SA ĐỌA TÌNH DỤC
Tiểu thuyết của Kim Dung cũng đặt ra những trường hợp sa đọa tình dục hết sức quái dị. Đó là Kiến Ninh công chúa, em gái vua Khang Hy, đã sa ngã với Vi Tiểu Bảo, một gã thái giám giả mạo, từ năm 14 tuổi. Kiến Ninh chỉ muốn được Vi Tiểu Bảo trói cột, đánh đập cho vỡ da tóe máu mới được thấy lạc thú của trao thân.
Cá biệt, có trường hợp của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ Ma giáo, luyện Quỳ Hoa bảo điển phải “dẫn đao tự cung”, trở thành kẻ ái nam ái nữ, quan hệ “yêu đương” với gã bộ hạ là Dương Liên Đình. Khi xây dựng những nhân vật, những loại “tình yêu” này, ông đã nghiên cứu rất kỹ những biểu hiện của tính cuồng dâm và đồng tính luyến ái.
Tác phẩm của Kim Dung có những đoạn nói đến tình yêu thật đẹp. Những nhân vật của ông không bao giờ thốt ra miệng chữ yêu nhưng tình yêu của họ nồng nàn trong ánh mắt, trong hành động và trong trái tim.
Đó là A Châu trở về Nhạn Môn Quan chờ Kiều Phong để suốt đời “theo đại gia cùng đi săn chồn đuổi thỏ”. Đó là Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển “về Ba Tư, đừng nói lên ngôi thánh nữ, dẫu có làm đến nữ hoàng đi nữa mà xa công tử thì cuộc đời cũng rất vô vị”.
Đó là Nhậm Doanh Doanh bắn tin cho giới ma đầu trên giang hồ phải giết ngay Lệnh Hồ Xung vì “ta muốn ngươi ở mãi bên ta để ta chở che, bảo vệ”. Đó là Triệu Mẫn với Trương Vô Kỵ: “Lông mày thiếp đã nhạt màu rồi. Công tử kẻ lại giùm cho thiếp đi”. Những lời tỏ tình mang đầy tính ẩn dụ và biểu tượng như thế khiến tác phẩm vừa sâu, vừa không dung tục.
Hình ảnh Đông Phương Bất Bại và Dương Liên Đình trong phim Tiếu ngạo giang hồ.
Một điểm khác cũng đáng bàn đến là trong tác phẩm của Kim Dung vẫn có những tình yêu trá ngụy. Nhạc Linh San bỏ Lệnh Hồ Xung để làm vợ gã ái nam ái nữ Lâm Bình Chi bởi mưu đồ chiếm pho Tịch Tà kiếm phổ của Nhạc Bất Quần.
Chu Chỉ Nhược đánh lừa Trương Vô Kỵ để đánh cắp bộ Cửu Âm chân kinh theo di huấn của sư phụ là Duyệt Tuyệt sư thái. Nhưng tuổi trẻ của Nhạc Linh San, Chu Chỉ Nhược không nghĩ ra được sự trá ngụy ấy. Phần trá ngụy, âm mưu thuộc về sự sắp đặt của những người lớn, người thầy, người cha.
Đọc tác phẩm của Kim Dung, người ta khám phá ra cái đẹp của tình yêu. So với những tác giả cùng thời, tình yêu trong tiểu thuyết võ hiệp của ông trong sáng, lành mạnh. Thông qua tình yêu, ông giáo dục cho con người mỹ cảm về đạo đức.
Nói rằng tác phẩm võ hiệp, thật ra chỉ là một cách nói. Chính tình yêu đã làm nên cái hồn, sự sống cho tiểu thuyết võ hiệp. Mỗi tác phẩm của ông ra đời trở thành một bức thông điệp ngọt ngào cho tình yêu lứa đôi.
Last edited by LDN on Sat Jan 14, 2023 3:17 pm; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Kim Dung đánh bại mọi võ lâm cao thủ, trở thành ‘đệ nhất’ như thế nào?
Hiếu Trung - zingnews
Kim Dung không phải là người mở đầu tiểu thuyết võ hiệp tân phái Trung Hoa, nhưng xuất sắc vượt qua mọi tác giả khác, trở thành đệ nhất cao thủ không ai sánh nổi.
Kim Dung là người đi sau Lương Vũ Sinh, bậc “khai sơn trưởng lão” của tiểu thuyết võ hiệp tân phái. Nhưng từ lúc viết Xạ điêu anh hùng truyện (1958) cho đến khi qua đời ngày 30/10/2018, Kim Dung luôn được đánh giá là “võ lâm minh chủ” của văn đàn võ hiệp Trung Quốc, đứng trên Cổ Long và Lương Vũ Sinh một bậc và vượt rất xa các nhà văn khác.
Tiểu thuyết Kim Dung tạo ra cơn sốt “Kim học” thời thập niên 1980, điều mà những danh gia như Cổ Long, Lương Vũ Sinh, Ngọa Long Sinh hay Ôn Thụy An có mơ cũng không được. Thậm chí năm 1994, các giáo sư khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Bắc Kinh đưa Kim Dung vào vị trí thứ tư trong Top 10 đại sư nghệ thuật tiểu thuyết Trung Quốc.
Theo danh sách này, Kim Dung chỉ xếp sau những tên tuổi lừng lẫy như Lỗ Tấn, Thẩm Tòng Văn và Ba Kim. Điều đó có nghĩa là Kim Dung không chỉ là “võ lâm minh chủ” thế giới tiểu thuyết võ hiệp, mà còn được công nhận là một bậc đại sư nghệ thuật tiểu thuyết nói chung.
Đây là sự kiện gây chấn động văn đàn Trung Quốc khi đó, dẫn đến nhiều tranh cãi. Bởi ở Trung Quốc, tiểu thuyết võ hiệp là “tục văn học” (văn học bình dân), chỉ để giải trí, không có giá trị như “nhã văn học” (văn học bác học). Vì sao một tác gia “tục văn học” lại có thể ngồi chung mâm với các bậc trưởng thượng “nhã văn học”?
Võ đầy sáng tạo
Theo nhà nghiên cứu văn học Trần Mặc, tác giả cuốn Võ hiệp ngũ đại gia (NXB Trẻ - 2003), điểm đặc sắc nhất của tiểu thuyết Kim Dung là “nhã tục cộng hưởng” (người cao nhã và bình dân đều say mê). Chúng vượt qua ranh giới phân chia “nhã” và “tục”, vượt ra ngoài biên giới của tiểu thuyết võ hiệp.
Tác phẩm Kim Dung cũng tả võ, chuyện hành hiệp trượng nghĩa và những biến ảo ly kỳ của giới giang hồ giống như bao cuốn “truyện chưởng khác”. Nhưng võ - hiệp - kỳ của Kim Dung lại hoàn toàn khác biệt so với phần còn lại.
Trước hết là chuyện “võ”. Kim Dung có lẽ là tác gia tiểu thuyết võ hiệp duy nhất không chỉ mô tả võ như cách đánh nhau, mà ông nghệ thuật hóa, cá tính hóa, thậm chí triết lý hóa võ công. Đơn cử, cuộc đấu nội lực của Âu Dương Phong, Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công trên đảo Đào Hoa trong Xạ điêu anh hùng truyện chẳng khác gì một màn biểu diễn nghệ thuật đặc sắc.
Cuộc đấu giữa Tiểu Long Nữ và Kim Luân pháp vương trong Thần điêu hiệp lữ cũng không khác gì một màn trình diễn âm nhạc.
Tương tự, trận chiến giữa Chu Tử Liễu và vương tử Mông Cổ Hoắc Đô (Thần điêu hiệp lữ) là cuộc biểu diễn thư pháp đầy thú vị. Ở Ỷ Thiên Đồ Long ký, Trương Tam Phong biến bộ thư pháp về đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên thành một môn võ tuyệt luân, khiến Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn cam bái hạ phong.
Hơn nữa, nhiều môn võ của Kim Dung ẩn chứa quan niệm sống sâu xa. Quách Tĩnh học võ của rất nhiều thầy để rồi trở thành đại cao thủ với hàm ý học mọi người để vượt lên họ.
Kiếm pháp của Độc Cô Cầu Bại mà Dương Quá lĩnh hội nói về những tầng bậc nhận thức của đời người, Thái Cực kiếm của Trương Tam Phong và Độc Cô cửu kiếm mà Lệnh Hồ Xung học đều chứa đựng triết lý thâm sâu. Còn võ học tối cao trong Hiệp khách hành phản ánh quan niệm “sở chi chướng” (sự giới hạn bởi nhận thức).
Sự cá tính hóa võ công trong truyện Kim Dung cũng là điều rất rõ. Quách Tĩnh tính tình thuần hậu, rất thích hợp với Hàng long thập bát chưởng, môn võ đơn giản nhưng cứng rắn. Hoàng Dung quá thông minh nên được Bắc Cái dạy Đả cẩu bổng pháp, môn võ biến hóa khôn lường. Còn Vi Tiểu Bảo là tên lưu manh nhát gan, nên chỉ biết môn khinh công lợi hại, chạy rất nhanh khi nguy hiểm ập tới.
Từ đại anh hùng tới tên lưu manh
Tiểu thuyết võ hiệp đương nhiên phải viết về hiệp khách, những người chuyên hành hiệp trượng nghĩa. Chính điểm này khiến loại hình văn học này dễ đi vào lối mòn, thiếu sự sáng tạo. Như Lương Vũ Sinh luôn bị chê là chỉ viết về “người tốt việc tốt”. Còn nhân vật của Cổ Long quanh đi quẩn lại chỉ có vài ba dạng người.
Ngược lại, các nhân vật của Kim Dung rất sinh động và đa dạng. Trần Gia Lạc của Thư kiếm ân cừu lục có vẻ là hiệp khách lý tưởng, nhưng bản chất yếu đuối tự ti, thậm chí là hèn. Quách Tĩnh có thể coi là đại hiệp 100% duy nhất trong truyện Kim Dung, tuy nhiên xuất thân thấp kém, chỉ là một cậu bé khù khờ.
Trong khi đó, Dương Quá xuất thân có vết nhơ, cha nuôi là đại ác nhân Âu Dương Phong, phản bội sư môn (Toàn Chân giáo), sau bao biến cố mới trở thành hiệp khách. Dương Quá sống đầy tình cảm, đậm chất con người, đậm chất hiện thực.
Trương Vô Kỵ xuất thân nửa chính nửa tà (cha là học trò phái Võ Đang, mẹ là đường chủ Thiên Ưng giáo). Chàng giáo chủ Minh giáo không thực sự có khí phách anh hùng, kiên cường dữ dội, ngược lại rất gần gũi, hiền lành giống như một thanh niên bình thường trong cuộc sống.
Vi Tiểu Bảo (trong ảnh do Huỳnh Hiểu Minh thể hiện trong bản phim truyền hình Lộc đỉnh ký 2008) được đánh giá là nhân vật thể hiện "quốc dân tính" của người Trung Quốc.
Địch Vân của Liên thành quyết chỉ là một gã nhà quê có số phận bi thảm, là nhân vật rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Lệnh Hồ Xung là lãng tử, đấu tranh vì tự do cá nhân, có nhiều khuyết điểm nhưng thông minh dễ thương, tình sâu nghĩa nặng.
Còn Vi Tiểu Bảo là một tên lưu manh mạt hạng, sinh ra và lớn lên trong lầu xanh, mang bản năng sinh tồn cực mạnh. Đối với Vi Tiểu Bảo, hoàng cung nhà Đại Thanh cũng chẳng khác nào một kỹ viện khổng lồ. Do đó, hắn dễ dàng sống sót và vươn lên nhờ những thủ đoạn học ở lầu xanh.
Vi Tiểu Bảo tham sống sợ chết, tự tư tự lợi, mượn gió bẻ măng. Trong cuốn Võ hiệp ngũ đại gia, nhà nghiên cứu Trần Mặc đánh giá Vi Tiểu Bảo là “đệ nhất kỳ nhân” kiêm “đệ nhất chân nhân” trong tiểu thuyết Kim Dung. Ông cho rằng nhân vật này thể hiện “quốc dân tính” của người Trung Quốc, không khác gì AQ của Lỗ Tấn.
Có thể nói các nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung có sự phát triển rõ ràng, chân thực và sinh động, không bị đóng vào khuôn khổ. Không chỉ nhân vật chính, các nhân vật phụ như Chu Chỉ Nhược, Quách Phù, Tạ Tốn, Nhậm Ngã Hành… đều được mô tả với những nét đặc sắc riêng, khó có thể tìm thấy trong truyện của các tác giả võ hiệp khác.
Hư hư thực thực
Nhìn chung, rất nhiều tác giả võ hiệp Trung Quốc mắc phải căn bệnh khuôn sáo, sử dụng quanh đi quẩn lại vài mô típ quen thuộc. Đó là chuyện nhà tan người mất, tìm thầy học võ để báo thù rửa hận. Hoặc may mắn có được bí kíp võ công vô địch rồi lại đi phục cừu. Hay trong võ lâm xuất hiện thế lực tà ác, hiệp khách đứng lên trừ kẻ bạo tàn…
Đọc đi đọc lại những cuốn truyện như vậy không khỏi gây ngán ngẩm. Thậm chí một danh gia như Cổ Long cũng không tránh khỏi lối mòn. Các tác phẩm của ông thường ít có không gian rộng lớn, chủ yếu là vài nhân vật tương tác qua lại, rất hấp dẫn nhưng không để lại ấn tượng mạnh. Những tác giả kém hơn thì còn tệ hơn nhiều.
Truyện Kim Dung không đi vào lối mòn đó, dù vẫn giữ nhiều yếu tố cổ điển của tiểu thuyết võ hiệp. Cái hay của ông là đúc câu chuyện truyền kỳ trong cái khung lịch sử, kết hợp khéo léo giữa hư và thực. Ví dụ như ở Thư kiếm ân cừu lục, Trần Gia Lạc và vua Càn Long là hai anh em có mối quan hệ phức tạp.
Xạ điêu anh hùng truyện (trong ảnh là bản phim truyền hình năm 2017) lấy bối cảnh nhà Tống suy vi, đế chế Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn trỗi dậy.
Xạ điêu tam bộ khúc lấy bối cảnh nhà Tống suy vi, đế quốc Mông Cổ bắt đầu trỗi dậy rồi diệt Tống, thống trị Trung Quốc. Trong câu chuyện của Quách Tĩnh, Dương Quá và Trương Vô Kỵ, chúng ta bắt gặp rất nhiều nhân vật lịch sử như Thành Cát Tư Hãn, Oa Khoát Đài, Hốt Tất Liệt, vua tôi nhà Tống, Chu Nguyên Chương (người sáng lập nhà Đại Minh)… Thậm chí Trường Xuân chân nhân Khưu Xử Cơ của Toàn Chân giáo cũng là nhân vật có thật.
Trong Lộc Đỉnh ký, bộ tiểu thuyết đỉnh cao của Kim Dung, hoàng đế Khang Hy của nhà Đại Thanh là nhân vật vô cùng quan trọng, được mô tả sinh động từ lúc nhỏ cho đến khi trưởng thành. Thi Lang cũng là bậc đại quan nổi tiếng thời Khang Hy, Ngô Tam Quế là đại Hán gian, mỹ nhân “hồng nhan họa thủy” Trần Viên Viên cũng được nhắc đến.
Sự kết hợp giữa lịch sử và truyền kỳ giúp tiểu thuyết Kim Dung có quy mô rộng lớn, sinh động và phong phú. Chúng kết hợp với câu chuyện con người trở thành thế giới ba chiều (lịch sử - truyền kỳ - nhân sinh) vừa kỳ lạ, vừa chân thực. Đây là điểm đặc biệt mà trong số hàng nghìn tác giả tiểu thuyết võ hiệp, chỉ Kim Dung có được.
Thành tựu vượt khỏi biên giới tiểu thuyết võ hiệp
Thực tế là kết hợp giữa lịch sử và truyền kỳ không phải là độc môn công phu của Kim Dung. Lương Vũ Sinh cũng làm được điều đó. Theo nhà nghiên cứu Trần Mặc, cái hay của Kim Dung là sự kết hợp khéo léo giữa lịch sử - truyền kỳ - nhân sinh. Nghĩa là chuyện giang hồ và bối cảnh lịch sử chỉ là cái nền để ông kể câu chuyện con người.
Ở Xạ điêu anh hùng truyện, trong xã hội đầy biến loạn, Quách Tĩnh từ một đứa trẻ thật thà, ngu ngơ dần trưởng thành, trở thành bậc đại hiệp cứu quốc. Trong Thần điêu hiệp lữ, giữa lúc đế chế Mông Cổ đe dọa Trung Quốc, các môn phái lo đối đầu với đại cao thủ Mông Cổ, Dương Quá mất mẹ, tình cờ nhận Âu Dương Phong làm cha nuôi, nếm đủ mọi cay đắng của cuộc đời.
Lộc đỉnh ký là câu chuyện đồ sộ về thời vua Khang Hy của nhà Đại Thanh. Khi đó, Khang Hy còn chưa trưởng thành, ngai vàng chưa vững, bên trong Ngao Bái lộng quyền, bên ngoài Ngô Tam Quế rắp tâm làm phản. Trong giang hồ, Thiên Địa hội của tổng đà chủ Trần Cận Nam quyết “phản Thanh Phục Minh”.
Giữa mớ hỗn độn đó, gã tiểu lưu manh Vi Tiểu Bảo tình cờ rời Lệ Xuân viện ở Dương Châu, lưu lạc đến Bắc Kinh, bị đưa vào Tử Cấm Thành rồi làm quen với Khang Hy, thăng quan tiến chức, trở thành đại quan. Không chỉ vậy, hắn hai chân đung đưa trên hai con thuyền giang sơn và giang hồ, vừa là thân tín của Khang Hy, vừa là hương chủ Thiên Địa hội.
Các tác phẩm của Kim Dung đã vượt ra bên ngoài biên giới của tiểu thuyết võ hiệp.
Ở tiểu thuyết Kim Dung, con người là trung tâm, không hề bị công thức hóa như trong truyện của các tác giả võ hiệp khác, do đó đáp ứng đúng tiêu chuẩn “văn học là nhân học”. Nhờ đó, truyện Kim Dung thoát khỏi biên giới của tiểu thuyết võ hiệp, của "tục văn học", để trở thành văn học chân chính.
Nhưng theo nhà nghiên cứu Trần Mặc, Kim Dung còn có một kỳ chiêu khác nữa, giúp ông khẳng định vị thế tông sư nghệ thuật tiểu thuyết. Đó là chất ngụ ngôn trong mỗi tác phẩm.
Như Liên thành quyết phê phán dữ dội một xã hội nơi mà đại hiệp háo danh, tà đồ háo sắc, quan phủ và dân chúng điên cuồng vì đồng tiền, khiến những người trung hậu như Địch Vân trở nên không chốn nương thân. Tiếu ngạo giang hồ, như chính Kim Dung khẳng định, là ngụ ngôn về những cuộc tranh giành quyền lực chính trị tàn khốc trong lịch sử Trung Quốc.
Còn Lộc đỉnh ký với gã lưu manh Vi Tiểu Bảo là nhân vật chính được đánh giá là cuốn tiểu thuyết phản võ hiệp, phơi bày đặc tính của người Trung Quốc và những mặt trái của nền văn hóa nước này. Đó cũng là tác phẩm đỉnh cao của Kim Dung.
Ngoài ra, chất ngụ ngôn còn đến từ từng nhân vật, từng câu chuyện nhỏ trong tiểu thuyết Kim Dung. Đằng sau cuộc đời bi thảm của Tạ Tốn, sự tàn độc của Công Tôn Chỉ, bước ngoặt từ chính thành tà của Hoa Thiết Cán, câu chuyện áo hoa của Khang Mẫn… đều chứa đựng những quan niệm sâu sắc về con người, về cuộc sống.
Chắc chắn Kim Dung mãi mãi là đỉnh cao của tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa.
Hiếu Trung - zingnews
Kim Dung không phải là người mở đầu tiểu thuyết võ hiệp tân phái Trung Hoa, nhưng xuất sắc vượt qua mọi tác giả khác, trở thành đệ nhất cao thủ không ai sánh nổi.
Kim Dung là người đi sau Lương Vũ Sinh, bậc “khai sơn trưởng lão” của tiểu thuyết võ hiệp tân phái. Nhưng từ lúc viết Xạ điêu anh hùng truyện (1958) cho đến khi qua đời ngày 30/10/2018, Kim Dung luôn được đánh giá là “võ lâm minh chủ” của văn đàn võ hiệp Trung Quốc, đứng trên Cổ Long và Lương Vũ Sinh một bậc và vượt rất xa các nhà văn khác.
Tiểu thuyết Kim Dung tạo ra cơn sốt “Kim học” thời thập niên 1980, điều mà những danh gia như Cổ Long, Lương Vũ Sinh, Ngọa Long Sinh hay Ôn Thụy An có mơ cũng không được. Thậm chí năm 1994, các giáo sư khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Bắc Kinh đưa Kim Dung vào vị trí thứ tư trong Top 10 đại sư nghệ thuật tiểu thuyết Trung Quốc.
Theo danh sách này, Kim Dung chỉ xếp sau những tên tuổi lừng lẫy như Lỗ Tấn, Thẩm Tòng Văn và Ba Kim. Điều đó có nghĩa là Kim Dung không chỉ là “võ lâm minh chủ” thế giới tiểu thuyết võ hiệp, mà còn được công nhận là một bậc đại sư nghệ thuật tiểu thuyết nói chung.
Đây là sự kiện gây chấn động văn đàn Trung Quốc khi đó, dẫn đến nhiều tranh cãi. Bởi ở Trung Quốc, tiểu thuyết võ hiệp là “tục văn học” (văn học bình dân), chỉ để giải trí, không có giá trị như “nhã văn học” (văn học bác học). Vì sao một tác gia “tục văn học” lại có thể ngồi chung mâm với các bậc trưởng thượng “nhã văn học”?
Võ đầy sáng tạo
Theo nhà nghiên cứu văn học Trần Mặc, tác giả cuốn Võ hiệp ngũ đại gia (NXB Trẻ - 2003), điểm đặc sắc nhất của tiểu thuyết Kim Dung là “nhã tục cộng hưởng” (người cao nhã và bình dân đều say mê). Chúng vượt qua ranh giới phân chia “nhã” và “tục”, vượt ra ngoài biên giới của tiểu thuyết võ hiệp.
Tác phẩm Kim Dung cũng tả võ, chuyện hành hiệp trượng nghĩa và những biến ảo ly kỳ của giới giang hồ giống như bao cuốn “truyện chưởng khác”. Nhưng võ - hiệp - kỳ của Kim Dung lại hoàn toàn khác biệt so với phần còn lại.
Trước hết là chuyện “võ”. Kim Dung có lẽ là tác gia tiểu thuyết võ hiệp duy nhất không chỉ mô tả võ như cách đánh nhau, mà ông nghệ thuật hóa, cá tính hóa, thậm chí triết lý hóa võ công. Đơn cử, cuộc đấu nội lực của Âu Dương Phong, Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công trên đảo Đào Hoa trong Xạ điêu anh hùng truyện chẳng khác gì một màn biểu diễn nghệ thuật đặc sắc.
Cuộc đấu giữa Tiểu Long Nữ và Kim Luân pháp vương trong Thần điêu hiệp lữ cũng không khác gì một màn trình diễn âm nhạc.
Tương tự, trận chiến giữa Chu Tử Liễu và vương tử Mông Cổ Hoắc Đô (Thần điêu hiệp lữ) là cuộc biểu diễn thư pháp đầy thú vị. Ở Ỷ Thiên Đồ Long ký, Trương Tam Phong biến bộ thư pháp về đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên thành một môn võ tuyệt luân, khiến Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn cam bái hạ phong.
Hơn nữa, nhiều môn võ của Kim Dung ẩn chứa quan niệm sống sâu xa. Quách Tĩnh học võ của rất nhiều thầy để rồi trở thành đại cao thủ với hàm ý học mọi người để vượt lên họ.
Kiếm pháp của Độc Cô Cầu Bại mà Dương Quá lĩnh hội nói về những tầng bậc nhận thức của đời người, Thái Cực kiếm của Trương Tam Phong và Độc Cô cửu kiếm mà Lệnh Hồ Xung học đều chứa đựng triết lý thâm sâu. Còn võ học tối cao trong Hiệp khách hành phản ánh quan niệm “sở chi chướng” (sự giới hạn bởi nhận thức).
Sự cá tính hóa võ công trong truyện Kim Dung cũng là điều rất rõ. Quách Tĩnh tính tình thuần hậu, rất thích hợp với Hàng long thập bát chưởng, môn võ đơn giản nhưng cứng rắn. Hoàng Dung quá thông minh nên được Bắc Cái dạy Đả cẩu bổng pháp, môn võ biến hóa khôn lường. Còn Vi Tiểu Bảo là tên lưu manh nhát gan, nên chỉ biết môn khinh công lợi hại, chạy rất nhanh khi nguy hiểm ập tới.
Từ đại anh hùng tới tên lưu manh
Tiểu thuyết võ hiệp đương nhiên phải viết về hiệp khách, những người chuyên hành hiệp trượng nghĩa. Chính điểm này khiến loại hình văn học này dễ đi vào lối mòn, thiếu sự sáng tạo. Như Lương Vũ Sinh luôn bị chê là chỉ viết về “người tốt việc tốt”. Còn nhân vật của Cổ Long quanh đi quẩn lại chỉ có vài ba dạng người.
Ngược lại, các nhân vật của Kim Dung rất sinh động và đa dạng. Trần Gia Lạc của Thư kiếm ân cừu lục có vẻ là hiệp khách lý tưởng, nhưng bản chất yếu đuối tự ti, thậm chí là hèn. Quách Tĩnh có thể coi là đại hiệp 100% duy nhất trong truyện Kim Dung, tuy nhiên xuất thân thấp kém, chỉ là một cậu bé khù khờ.
Trong khi đó, Dương Quá xuất thân có vết nhơ, cha nuôi là đại ác nhân Âu Dương Phong, phản bội sư môn (Toàn Chân giáo), sau bao biến cố mới trở thành hiệp khách. Dương Quá sống đầy tình cảm, đậm chất con người, đậm chất hiện thực.
Trương Vô Kỵ xuất thân nửa chính nửa tà (cha là học trò phái Võ Đang, mẹ là đường chủ Thiên Ưng giáo). Chàng giáo chủ Minh giáo không thực sự có khí phách anh hùng, kiên cường dữ dội, ngược lại rất gần gũi, hiền lành giống như một thanh niên bình thường trong cuộc sống.
Vi Tiểu Bảo (trong ảnh do Huỳnh Hiểu Minh thể hiện trong bản phim truyền hình Lộc đỉnh ký 2008) được đánh giá là nhân vật thể hiện "quốc dân tính" của người Trung Quốc.
Địch Vân của Liên thành quyết chỉ là một gã nhà quê có số phận bi thảm, là nhân vật rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Lệnh Hồ Xung là lãng tử, đấu tranh vì tự do cá nhân, có nhiều khuyết điểm nhưng thông minh dễ thương, tình sâu nghĩa nặng.
Còn Vi Tiểu Bảo là một tên lưu manh mạt hạng, sinh ra và lớn lên trong lầu xanh, mang bản năng sinh tồn cực mạnh. Đối với Vi Tiểu Bảo, hoàng cung nhà Đại Thanh cũng chẳng khác nào một kỹ viện khổng lồ. Do đó, hắn dễ dàng sống sót và vươn lên nhờ những thủ đoạn học ở lầu xanh.
Vi Tiểu Bảo tham sống sợ chết, tự tư tự lợi, mượn gió bẻ măng. Trong cuốn Võ hiệp ngũ đại gia, nhà nghiên cứu Trần Mặc đánh giá Vi Tiểu Bảo là “đệ nhất kỳ nhân” kiêm “đệ nhất chân nhân” trong tiểu thuyết Kim Dung. Ông cho rằng nhân vật này thể hiện “quốc dân tính” của người Trung Quốc, không khác gì AQ của Lỗ Tấn.
Có thể nói các nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung có sự phát triển rõ ràng, chân thực và sinh động, không bị đóng vào khuôn khổ. Không chỉ nhân vật chính, các nhân vật phụ như Chu Chỉ Nhược, Quách Phù, Tạ Tốn, Nhậm Ngã Hành… đều được mô tả với những nét đặc sắc riêng, khó có thể tìm thấy trong truyện của các tác giả võ hiệp khác.
Hư hư thực thực
Nhìn chung, rất nhiều tác giả võ hiệp Trung Quốc mắc phải căn bệnh khuôn sáo, sử dụng quanh đi quẩn lại vài mô típ quen thuộc. Đó là chuyện nhà tan người mất, tìm thầy học võ để báo thù rửa hận. Hoặc may mắn có được bí kíp võ công vô địch rồi lại đi phục cừu. Hay trong võ lâm xuất hiện thế lực tà ác, hiệp khách đứng lên trừ kẻ bạo tàn…
Đọc đi đọc lại những cuốn truyện như vậy không khỏi gây ngán ngẩm. Thậm chí một danh gia như Cổ Long cũng không tránh khỏi lối mòn. Các tác phẩm của ông thường ít có không gian rộng lớn, chủ yếu là vài nhân vật tương tác qua lại, rất hấp dẫn nhưng không để lại ấn tượng mạnh. Những tác giả kém hơn thì còn tệ hơn nhiều.
Truyện Kim Dung không đi vào lối mòn đó, dù vẫn giữ nhiều yếu tố cổ điển của tiểu thuyết võ hiệp. Cái hay của ông là đúc câu chuyện truyền kỳ trong cái khung lịch sử, kết hợp khéo léo giữa hư và thực. Ví dụ như ở Thư kiếm ân cừu lục, Trần Gia Lạc và vua Càn Long là hai anh em có mối quan hệ phức tạp.
Xạ điêu anh hùng truyện (trong ảnh là bản phim truyền hình năm 2017) lấy bối cảnh nhà Tống suy vi, đế chế Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn trỗi dậy.
Xạ điêu tam bộ khúc lấy bối cảnh nhà Tống suy vi, đế quốc Mông Cổ bắt đầu trỗi dậy rồi diệt Tống, thống trị Trung Quốc. Trong câu chuyện của Quách Tĩnh, Dương Quá và Trương Vô Kỵ, chúng ta bắt gặp rất nhiều nhân vật lịch sử như Thành Cát Tư Hãn, Oa Khoát Đài, Hốt Tất Liệt, vua tôi nhà Tống, Chu Nguyên Chương (người sáng lập nhà Đại Minh)… Thậm chí Trường Xuân chân nhân Khưu Xử Cơ của Toàn Chân giáo cũng là nhân vật có thật.
Trong Lộc Đỉnh ký, bộ tiểu thuyết đỉnh cao của Kim Dung, hoàng đế Khang Hy của nhà Đại Thanh là nhân vật vô cùng quan trọng, được mô tả sinh động từ lúc nhỏ cho đến khi trưởng thành. Thi Lang cũng là bậc đại quan nổi tiếng thời Khang Hy, Ngô Tam Quế là đại Hán gian, mỹ nhân “hồng nhan họa thủy” Trần Viên Viên cũng được nhắc đến.
Sự kết hợp giữa lịch sử và truyền kỳ giúp tiểu thuyết Kim Dung có quy mô rộng lớn, sinh động và phong phú. Chúng kết hợp với câu chuyện con người trở thành thế giới ba chiều (lịch sử - truyền kỳ - nhân sinh) vừa kỳ lạ, vừa chân thực. Đây là điểm đặc biệt mà trong số hàng nghìn tác giả tiểu thuyết võ hiệp, chỉ Kim Dung có được.
Thành tựu vượt khỏi biên giới tiểu thuyết võ hiệp
Thực tế là kết hợp giữa lịch sử và truyền kỳ không phải là độc môn công phu của Kim Dung. Lương Vũ Sinh cũng làm được điều đó. Theo nhà nghiên cứu Trần Mặc, cái hay của Kim Dung là sự kết hợp khéo léo giữa lịch sử - truyền kỳ - nhân sinh. Nghĩa là chuyện giang hồ và bối cảnh lịch sử chỉ là cái nền để ông kể câu chuyện con người.
Ở Xạ điêu anh hùng truyện, trong xã hội đầy biến loạn, Quách Tĩnh từ một đứa trẻ thật thà, ngu ngơ dần trưởng thành, trở thành bậc đại hiệp cứu quốc. Trong Thần điêu hiệp lữ, giữa lúc đế chế Mông Cổ đe dọa Trung Quốc, các môn phái lo đối đầu với đại cao thủ Mông Cổ, Dương Quá mất mẹ, tình cờ nhận Âu Dương Phong làm cha nuôi, nếm đủ mọi cay đắng của cuộc đời.
Lộc đỉnh ký là câu chuyện đồ sộ về thời vua Khang Hy của nhà Đại Thanh. Khi đó, Khang Hy còn chưa trưởng thành, ngai vàng chưa vững, bên trong Ngao Bái lộng quyền, bên ngoài Ngô Tam Quế rắp tâm làm phản. Trong giang hồ, Thiên Địa hội của tổng đà chủ Trần Cận Nam quyết “phản Thanh Phục Minh”.
Giữa mớ hỗn độn đó, gã tiểu lưu manh Vi Tiểu Bảo tình cờ rời Lệ Xuân viện ở Dương Châu, lưu lạc đến Bắc Kinh, bị đưa vào Tử Cấm Thành rồi làm quen với Khang Hy, thăng quan tiến chức, trở thành đại quan. Không chỉ vậy, hắn hai chân đung đưa trên hai con thuyền giang sơn và giang hồ, vừa là thân tín của Khang Hy, vừa là hương chủ Thiên Địa hội.
Các tác phẩm của Kim Dung đã vượt ra bên ngoài biên giới của tiểu thuyết võ hiệp.
Ở tiểu thuyết Kim Dung, con người là trung tâm, không hề bị công thức hóa như trong truyện của các tác giả võ hiệp khác, do đó đáp ứng đúng tiêu chuẩn “văn học là nhân học”. Nhờ đó, truyện Kim Dung thoát khỏi biên giới của tiểu thuyết võ hiệp, của "tục văn học", để trở thành văn học chân chính.
Nhưng theo nhà nghiên cứu Trần Mặc, Kim Dung còn có một kỳ chiêu khác nữa, giúp ông khẳng định vị thế tông sư nghệ thuật tiểu thuyết. Đó là chất ngụ ngôn trong mỗi tác phẩm.
Như Liên thành quyết phê phán dữ dội một xã hội nơi mà đại hiệp háo danh, tà đồ háo sắc, quan phủ và dân chúng điên cuồng vì đồng tiền, khiến những người trung hậu như Địch Vân trở nên không chốn nương thân. Tiếu ngạo giang hồ, như chính Kim Dung khẳng định, là ngụ ngôn về những cuộc tranh giành quyền lực chính trị tàn khốc trong lịch sử Trung Quốc.
Còn Lộc đỉnh ký với gã lưu manh Vi Tiểu Bảo là nhân vật chính được đánh giá là cuốn tiểu thuyết phản võ hiệp, phơi bày đặc tính của người Trung Quốc và những mặt trái của nền văn hóa nước này. Đó cũng là tác phẩm đỉnh cao của Kim Dung.
Ngoài ra, chất ngụ ngôn còn đến từ từng nhân vật, từng câu chuyện nhỏ trong tiểu thuyết Kim Dung. Đằng sau cuộc đời bi thảm của Tạ Tốn, sự tàn độc của Công Tôn Chỉ, bước ngoặt từ chính thành tà của Hoa Thiết Cán, câu chuyện áo hoa của Khang Mẫn… đều chứa đựng những quan niệm sâu sắc về con người, về cuộc sống.
Chắc chắn Kim Dung mãi mãi là đỉnh cao của tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Thiên Long Bát Bộ: Ai đã làm mù mắt A Tử cô nương?
Trần Nghi Hoàng
15 tháng 1, 2023 - Sài Gòn nhỏ
Trên thế giới, người đọc Kim Dung ngày càng nhiều. Người từng đọc Kim Dung, thỉnh thoảng gặp dịp, vẫn mang nhân vật của Kim Dung ra bàn luận hăng say, rồi về nhà lại lôi Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký v.v… đọc lần nữa. Đặc biệt, với người Việt, giới mê Kim Dung đa số là thành phần học sinh, sinh viên và trí thức. Trước 1975, người Việt đã mê Kim Dung. Hôm nay, người Việt vẫn mê Kim Dung.
Người Việt hải ngoại mê Kim Dung, lưu lạc nước người mà vẫn cạy cục cố công tìm lại những sách Kim Dung từng được dịch trước đây. Nhưng bây giờ thì tác phẩm Kim Dung đã được nhiều thức giả trong lẫn ngoài nước dịch lại, theo các nguyên tác đã được tu bổ của Kim Dung.
Ở hải ngoại, chúng ta có Như Hạnh dịch Thư Kiếm Ân Cừu Lục. Trong nước, hàng ngũ dịch giả đông đảo hơn: Cao Tự Thanh, Nguyễn Duy Chính v.v… tuần tự dịch lại toàn bộ 15 tác phẩm của Kim Dung. Thậm chí, còn có những cây viết chuyên khảo cứu về Kim Dung như Vũ Đức Sao Biển, và ngành Kim Dung học ở Việt Nam ra đời.
Thực ra, nhiều tác giả Việt Nam đã viết về Kim Dung trước đây: Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Long Vân v.v… Cá nhân tôi, Trần Nghi Hoàng, cũng viết một cuốn sách về Kim Dung: “Những Mối Tình Trong Tiểu Thuyết Kim Dung”.
Bạn là người đọc Kim Dung? Bạn nghiền, bạn mê Kim Dung? Vậy hẳn nhiên bạn đã đọc Thiên Long Bát Bộ, tác phẩm Kim Dung viết đăng trên Minh Báo và Nam Dương Thương Báo (tờ báo này cũng của Kim Dung, xuất bản tại Singapore) từ năm 1963 và kết thúc năm 1966.
Tôi có trong tay bản Việt dịch Thiên Long Bát Bộ của Hàn Giang Nhạn tiên sinh xuất bản tại Việt Nam năm 1973. Không biết vì lý do gì, hai cuốn đầu, Hàn Giang Nhạn giữ nguyên tên tác phẩm của Kim Dung là Thiên Long Bát Bộ; đến cuốn ba ông lại cho đổi thành Lục Mạch Thần Kiếm, tên gọi môn kiếm khí độc bộ thiên hạ của họ Đoàn nước Đại Lý mà các đại biểu quan trọng trong tác phẩm là Đoàn Dự, Đoàn Chính Thuần và Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.
Tôi muốn cùng bạn đọc tìm hiểu xem ai là chân hung thủ đã làm mù đôi mắt đẹp của nàng A Tử? A Tử, một cô nương bé bỏng vừa ác độc, vừa yêu kiều dễ thương trong Thiên Long Bát Bộ mà thoạt kỳ thủy, Kim Dung đã dàn xếp để cho chúng ta, những người đọc Thiên Long Bát Bộ cứ đinh ninh là em gái một cha khác mẹ của Đoàn Dự…
Giữa khi Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu đang quyết đấu với Cô Tô Mộ Dung Phục, xin mời đọc tiếp:
“… Bên đệ tử phái Tinh Tú cứ mất đi một người là bản thân Mộ Dung Phục tăng thêm một phần nguy hiểm. Tuy đứng trước một nguy cơ cấp bách, song y vẫn ung dung trấn tỉnh.
A Tử vừa hoàn hồn, nàng biết Mộ Dung Phục không có ý hại mình, bất giác nhìn y mỉm cười.
Đinh Xuân Thu ngó thấy lửa giận lại bốc lên đùng đùng lớn tiếng quát hỏi:
-A Tử! Sao thằng lỏi Mộ Dung lại không hại mi?
A Tử run lên, biết rằng Đinh Xuân Thu đã có ý nghi kỵ mình. Nàng cố gắng nghĩ ra một câu để nói lấy lòng Đinh Xuân Thu mà nghĩ mãi không ra. Dù tâm cơ nàng linh mẫn đến đâu, trong lúc hốt hoảng cũng không biết đáp thế nào cho phải.
Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:
-Mi còn ở bên mình ta thì ta còn thấy vui lòng, ta không giết mi đâu!
A Tử vội nói:
-Xin đa tạ sư phụ.
Đinh Xuân Thu lạnh lùng nói:
-Mi chớ mừng vội. Ta…
Lão chưa dứt lời đã phất tay áo một cái, đầu tay áo khác nào lưỡi kiếm nhằm trước mặt A Tử vung lại. Lão ra tay rất mau, A Tử chỉ thấy một luồng gió mát lạnh qua mắt, đã thấy đau đớn đến ruột gan và mắt tối sầm lại. Hai bên má có hai dòng nước trong giống như nước mắt mà không phải nhỏ xuống. Đinh Xuân Thu phóng nội kình ra đầu tay áo và trong thời gian chớp nhoáng này đã đâm vào mắt A Tử.
Mộ Dung Phục thấy Đinh Xuân Thu giơ tay áo lên quét vào mặt A Tử, y biết ngay lão dùng thủ đoạn thâm độc. Tuy y biết A Tử là môn hạ phái Tinh Tú, nhưng nàng dong nhan thoát tục, khác hẳn người thường nên trong lòng y đối với nàng rất thương xót. Y toan ra tay giải cứu, nhưng Đinh Xuân Thu động thủ mau quá, không sao cứu kịp.
Lúc này A Tử đang đứng tựa vào tường. Mắt nàng vẫn tuôn ra hai dòng lệ như máu tươi.
Mộ Dung Phục tuy lăn lộn giang hồ, thấy nhiều hiểu rộng, nhưng y chưa từng thấy ai lại nhẫn tâm coi tánh mạng đệ tử không vào đâu như Đinh Xuân Thu. Trong lòng y kinh hãi vô cùng, chàng đứng ngẩn người một lát liền cảm thấy chân lực trong mình lại thoát ra ngoài.
Đinh Xuân Thu ra tay làm mù mắt A Tử rồi nói:
-Ta để mi sống nhưng không cho mi thấy sự vật gì nữa để mi khỏi thay lòng đổi dạ với sư môn, mi đã biết chưa?
A Tử sắc mặt lợt lạt, người run lẩy bẩy không thốt ra lời.
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch hần Kiếm, quyển 4, trang 87, 88.)
Như vậy, rõ ràng kẻ làm mù mắt A Tử chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Hóa ra câu hỏi của tôi vừa trên là vô lý sao? Có bạn sẽ cười thầm rằng chả có Đinh Xuân Thu nào làm mù mắt A Tử hết! Người làm mù mắt A Tử tất nhiên là Kim Dung, là tác giả!
Xin mượn lời của Bao Bất Đồng, một trong những tay chân thân tín của Mộ Dung Cô Tô mà thưa rằng: “Không phải đâu là không phải đâu!”
Trăm lần ngàn lần không phải Kim Dung là người đã nhẫn tâm làm mù mắt cô nương A Tử! Vậy thì chân hung thủ là ai. Xin mời đọc:
“Ngày 13 tháng 9 năm 1964, “Thiên Long Bát Bộ” bắt đầu được liên tục đăng trên “Minh Báo” (ở Hong Kong) và “Nam Dương thương báo” ở Singapore, thời gian kéo dài 4 năm… Thời kỳ đó, Kim Dung vì công việc phải đi nước ngoài và đã mời Nghê Khuông viết thay mình hơn 4 vạn chữ…
……
Khi Kim Dung từ châu Âu trở về, hai người gặp nhau, câu đầu tiên Nghê Khuông nói là:
-Xin lỗi, tôi làm A Tử mù mắt rồi!
A Tử là một nhân vật khá quan trọng trong “Thiên Long Bát Bộ”, liên quan trực tiếp đến sự phát triển tình tiết của toàn sách. Nhưng Nghê Khuông nói là rất ghét A Tử, cho nên phải làm mù mắt của cô ta. Kim Dung nghe vậy đành cười cay đắng, trách ai bây giờ? Chẳng phài là mình đã nhờ Nghê Khuông viết sao?
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 202 và 204).
_________
Vậy, thủ phạm chính làm mù mắt A Tử là Nghê Khuông. Nhưng Nghê Khuông là ai?
Nghê Khuông viết tiểu thuyết võ hiệp trước Kim Dung, chỉ sau Lương Vũ Sinh. Đã có thời Kim Dung, Nghê Khuông, Lương Vũ Sinh được tôn xưng là Tam Đại Gia của Tiểu Thuyết Tân Kiếm Hiệp (trước khi Cổ Long xuất hiện…). Lương Vũ Sinh từng gây sóng gió với tác phẩm võ hiệp đầu tay trên Tân Vãn Báo: Long Hổ Đấu Kinh Hoa.
Lúc về sau, từng có thời Nghê Khuông và Cổ Long của Đài Loan cùng được gọi là “Khoái Thương Thủ”, vì hai nhà văn này cùng có tài viết nhanh như nhau. Nghê Khuông vốn là bạn rất thân của Kim Dung. Chẳng phải chỉ có một lần Nghê Khuông được Kim Dung mời “chấp bút” viết hộ tiểu thuyết võ hiệp cho Kim Dung, khi Kim Dung bị bận.
Khi Ỷ Thiên Đồ Long Ký sắp chấm dứt, Kim Dung đã bắt đầu viết Thiên Long Bát Bộ được khoảng chục ngàn chữ. Tại Singapore, Ỷ Thiên Đồ Long Ký đang được độc giả điên cuồng say mê. Khi biết Ỷ Thiên Đồ Long Ký sắp chấm dứt, một ông chủ báo ở Singapore vội vàng bay từ Singapore đến Hong Kong để yêu cầu Kim Dung đừng kết thúc Ỷ Thiên Đồ Long Ký,… Nhưng toàn bộ tâm trí của Kim Dung đã chuyển sang Thiên Long Bát Bộ.
Ông chủ báo ở Singapore lại đi cầu Nghê Khuông, với sự hiện diện của Kim Dung.
“Kim Dung hỏi Nghê Khuông có chịu chấp bút viết tiếp Ỷ Thiên Đồ Long Ký không. Nghê Khuông mới nghe nói, cảm thấy như “choeng” một tiếng trong óc, lâng lâng như được lên tiên.
Ba người họ tiến hành một cuộc đối thoại như sau:
Kim Dung:
-Độc giả Singapore rất thích Ỷ Thiên Đồ Long Ký, hy vọng có tục biên. Tôi không có thời gian, có hẹn ông chủ tòa báo tới đây, hết sức tiến cử, xin Nghê Khuông đại huynh tiếp tục viết, huynh nhất định phải nhận lời đấy.
Ông chủ tòa báo ở Singapore:
-Sự tiến cử của Kim Dung tiên sinh, tôi tuyệt đối tin tưởng. Xin Nghê Khuông tiên sinh giúp đỡ.
Nghê Khuông chỉ nốc rượu, không nói nửa lời. Rồi, rất nghiêm túc, rất đàng hoàng nói một tràng. Có lẽ đây là lần duy nhất trong đời Nghê Khuông nói một cách nghiêm túc đàng hoàng như thế.
Nghê Khuông nói:
-Hôm nay là ngày vui sướng nhất đời tôi, bởi vì Kim Dung cho rằng tôi có thể viết tiếp tiểu thuyết của anh ấy. Thật là đáng mừng. Nỗi vui mừng này có lẽ suốt đời tôi không quên được. Nhưng con người tôi có một ưu điểm, đó là rất sáng suốt tự biết mình. Tôi có thể cả gan nói rằng, trên thế giới này không ai có thể viết tiếp được tiểu thuyết của Kim Dung. Nếu như có ai dám nhận lời, nói rằng có thể viết tiếp của Kim Dung thì người đó chắc là ngủ quá nhiều sinh mộng mị. Tôi đương nhiên là không viết tiếp “Ỷ Thiên Đồ Long Ký” vì tôi tuy ngủ không ít nhưng may mắn là vẫn còn tỉnh táo…”
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 174 & 175)
_________
Nghê Khuông nói như thế tất nhiên là không nhận lời viết tiếp Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tuy không nhận lời nhưng Nghê Khuông rất cao hứng và xem như một vinh dự lớn khi được Kim Dung “trao quyền” cho viết tiếp tác phẩm của Kim Dung.
Tôi chưa thực sự đọc tác phẩm nào của Nghê Khuông, nhưng có thể đoan chắc là tài nghệ Nghê Khuông cũng phải thuộc hàng nhất lưu cao thủ, một đại hành gia của kiếm hiệp tân phái… trong hàng ngũ Kim Dung, Lương Vũ Sinh… Các đại hành gia khác như Cổ Long hay Liễu Tàn Dương là lớp sau, lớp hậu sinh so với Nghê Khuông, Lương Vũ Sinh và Kim Dung.
Đúng vậy, phải tài nghệ như thế nào Nghê Khuông mới lọt vào mắt xanh của Kim Dung trong chuyện nhờ viết Thiên Long Bát Bộ khi Kim Dung bận việc ở Âu Châu. Nhưng Kim Dung tuy có tin tưởng vào khả năng của Nghê Khuông, lại vừa vô cùng lo lắng.
“Kim Dung lo lắng cũng có lý. Bởi vì ông biết Nghê Khuông là một tay “Siêu Quậy”, khi còn nhỏ được người ta gọi là “Tiểu Siêu Quậy”, đến khi lớn lên lại được gọi là “Đại Siêu Quậy”, lại rất hay làm chuyện “tào lao”.
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 204)
_________
Và một trong những chuyện “tào lao” đó là Nghê Khuông chỉ vì không thích nhân vật A Tử của Kim Dung, bèn cho Đinh Xuân Thu thay mình, hạ thủ làm A Tử mù mắt. Tuy nhiên, đọc đoạn Nghê Khuông viết thay Kim Dung, tả trận quyết đấu giữa Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu với Cô Tô Mộ Dung Phục, chúng ta chẳng thể không công nhận tài hoa nội lực của Nghê Khuông quả nhiên là cao cường.
Cô Tô Mộ Dung Phục dùng võ công “Đẩu Chuyển Tinh Di” mà người giang hồ không biết, cứ gán cho cái tên là “Gậy Ông Đập Lưng Ông” của họ Mộ Dung Cô Tô, để đấu với “Hóa Công Đại Pháp”, thứ võ công cùng một dòng với “Hấp Tinh Đại Pháp” của Nhậm Ngã Hành Triêu Dương Thần Giáo.
Nhưng “Đẩu Chuyển Tinh Di” là võ công như thế nào mà Mộ Dung Phục toan đem đương đầu với “Hóa Công Đại Pháp” chuyên hút công lực của đối phương?
“Người nào giỏi về “Đoạn Tí Đao” đao phóng ra lại đi đến kết quả là tự chém đứt chính tay mình. Cũng binh khí ấy cũng chiêu thức ấy, nhưng mắt không thấy nhà Mộ Dung dùng thuật “Đẩu Chuyển Tinh Di” nên không ai đoán được là chính người đó lại mất mạng về chiêu thức của mình, mà thực ra là họ đã tự sát.
Người ra tay võ công càng cao thâm thì chết càng ly kỳ.
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch Thần Kiếm, quyển 4, trang 81)
Và Nghê Khuông đã tả trận đấu giữa Mộ Dung Phục và Đinh Xuân Thu một cách tài tình như sau:
“Quyền chưởng hai bên vừa rời nhau trong chớp mắt. Bàn tay Đinh Xuân Thu vừa bị hất ra, lại nắm ngay được đầu quyền đối phương.
Mộ Dung Phục “hứ” lên một tiếng lại vận nội kình. Nhưng lần này nội kình vừa vận ra đã cảm thấy như chìm xuống đáy biển, không hiểu tiêu tán đi đâu mất hết.
Mộ Dung Phục ngấm ngầm kêu lên một tiếng ‘Úi chào.’
Trước khi y đến gây sự với Đinh Xuân Thu đã định bụng phải làm cách nào không để cho “Hóa Công Đại Pháp” của lão chạm vào mình được. Nhưng lúc lâm sự lại không tránh khỏi.
Lúc này Mộ Dung Phục ở vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục vận nội kình để kháng cự, thì dù nội lực có mạnh đến đâu đi nữa cũng bị hóa tán đi và như thế chỉ trong khoảnh khắc, bao nhiêu công lực mất hết thành ra phế nhân.
Nếu dùng phép Bảo Nguyên Thủ Nhất thu nội lực về thì Đinh Xuân Thu lại là một tay dùng độc ghê gớm. Thuốc độc của lão không ai biết đâu mà lường được, nó vẫn có thể theo đường chân khí rút về mà luồn vào người rồi xâm nhập đến tạng phủ. Rút cục vẫn không chống cự lại được.
Mộ Dung Phục đang ở vào tình thế nguy ngập, vô kế khả thi. Bỗng sau lưng y có người lớn tiếng nói:
-Sư phụ khéo xếp đặt cơ mưu khiến cho thằng lỏi này đã bị hãm vào tuyệt địa.
Mộ Dung Phục vừa xoay tay trái vừa lùi về phía sau hai bước. Chàng không quay đầu lại chỉ nghe tiếng nói, mà thò tay ra nắm trúng ngực tên đệ tử phái Tinh Tú.
……….
Mộ Dung Phục tuy đã luyện thuật này lâu năm mà vẫn chưa đạt được mức cao siêu tột độ. Y gặp phải Đinh Xuân Thu là tay cao thủ vào bậc nhất, tự biết mình không thể dùng phép “Đẩu Chuyển Tinh Di” để quay lại hại chính đối phương được. Nên bao lần chàng đã thi triển “Đẩu Chuyển Tinh Di” mà kẻ chịu đả kích lại là những đệ tử phái Tinh Tú. Cách di chuyển của chàng chỉ sang được người thứ ba.
Đinh Xuân Thu ngấm ngầm dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, quăng chén để tung hơi độc và phóng tia rượu độc, lần nào Mộ Dung Phục cũng đổi được kẻ chết thay cho mình một cách dễ dàng. Bây giờ Đinh Xuân Thu dùng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục không còn cách nào di chuyển được thì vừa gặp lúc một tên đệ tử phái Tinh Tú muốn tâng công sư phụ há miệng đứng hô ở ngay bên y.
Mộ Dung Phục trong lúc cấp bách, liền nắm ngay tên này để thay thế cho mình. Cuộc mạo hiểm này chàng không ngờ cũng phát sinh hiệu lực.
Bản ý Tinh Tú Lão Quái là hóa giải công lực Mộ Dung Phục nhưng ngờ đâu lại hóa giải công lực tên đệ tử của mình.
Mộ Dung Phục khác nào người được cải tử hoàn sinh. Y thấy cuộc thử thách của mình thành công, dĩ nhiên nắm lấy cơ hội quyết không để Đinh Xuân Thu kịp suy nghĩ. Y liền đẩy tên đệ tử này cho người gã chạm vào mình một tên đệ tử khác.
Tên đệ tử thứ hai công lực cũng bị hóa giải vì phép Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu thấy mình nắm được đầu quyền của Mộ Dung Phục mà lại thấy y dùng lối mượn sức người làm hại đệ tử của mình lão căm hận vô cùng.”
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch Thần Kiếm, quyển 4, trang 82)
Nghĩ ra được cách để cho Mộ Dung Phục dùng “Đẩu Chuyển Tinh Di” đương đầu với “Hóa Công Đại Pháp” của Đinh Xuân Thu, thiên bẩm và ngộ tánh của Nghê Khuông quả nhiên hơn người!
Điểm đáng lưu ý là Nghê Khuông với bản chất phóng ngạo như thế, lại rất ái mộ Kim Dung. Trong khi, con người Kim Dung lại như có nhiều điểm rất trái ngược với con người Nghê Khuông.
“Nhìn bề ngoài, Kim Dung có vẻ ung dung đường bệ có vẻ như khó gần, nhưng chỉ cần quen biết ông, người ta đều nhận thấy Kim Dung là con người rất giàu tình cảm. Đối với Nghê Khuông cũng vậy mà đối với những người bạn khác cũng vậy.”
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 320).
Và hãy nghe Nghê Khuông nói về Kim Dung:
“Người ta đồn đại rằng có không ít tiểu thuyết của Kim Dung là do Nghê Khuông tôi viết thay… Nghe những lời đồn đại ấy Nghê Khuông tôi sướng mê người, nhận thấy họ quá đề cao Nghê Khuông này. Giá mà tôi có thể viết được một phần mười của Kim Dung thì có chết cũng không phải hối tiếc gì nữa. Những lời đồn đại đó chỉ là lời đồn đại, chẳng phải là sự thật. Trừ một lần do Kim Dung phải đi nước ngoài một thời gian nên tôi có viết giúp anh một đoạn trong “Thiên Long Bát Bộ” còn thì chẳng bao giờ dám viết thay Kim Dung. Vậy mà trong một lần “đại bút” ấy tôi lại làm mù mắt A Tử, khiến Kim Dung phải vất vả “điều trị” cho nàng…”
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 319).
Và Kim Dung đã điều trị cho A Tử như thế nào? Do Du Thản Chi tình nguyện móc cặp mắt của mình tặng A Tử, và để nhà sư Hư Trúc dùng y thuật thông thần của cung Linh Thứu, thay cặp mắt của Du Thản Chi vào cho A Tử. Qua sự điều trị của Kim Dung vào đôi mắt A Tử, mối tình của Du Thản Chi và A Tử càng thêm sắc nét và bi thảm kinh hồn… Bởi cuối cùng, A Tử đã vì yêu Kiều Phong, móc đôi mắt trả lại cho Du Thản Chi rồi nhảy xuống vực thẳm ở Nhan Môn Quan theo người đại anh hùng Kiều Phong…
Thủ phạm làm mù mắt A Tử là Nghê Khuông. Kim Dung là vị lương y đã chữa cho nàng sáng mắt lại bằng đôi mắt của Du Thản Chi… Một đôi mắt u tình buồn bã… Vì Du Thản Chi chẳng bao giờ lọt vào đôi mắt trên khuôn mặt A Tử… Dù là đôi mắt của chính A Tử hay đôi mắt của Du Thản Chi đã tặng cho nàng…
Vấn nhân gian
Tình thị hà vật,
Trực giao sinh tử tương hứa?
Thiên Nam địa Bắc song phi khách,
Lão xí kỷ hồi hàn thử…
…
Hỏi thế gian
Tình là chi vậy
Mà gắn bó chẳng nề sinh tử?
Chấp cánh bay trời Nam đất Bắc,
Ấm lạnh bao phen cánh rũ
(Mô Ngư Nhi của Nguyễn Hiếu Vấn)
Viết tiểu thuyết võ hiệp như Kim Dung, từ bạn đọc đến đồng nghiệp đều đã khâm phục. Dựng và tả chuyện tình được như Kim Dung trong tiểu thuyết võ hiệp của ông, quả là tuyệt bút. Và ngông ngạo được như Nghê Khuông, cũng đáng được cho người ta nghiêng mình ngưỡng mộ…
Trần Nghi Hoàng
15 tháng 1, 2023 - Sài Gòn nhỏ
Trên thế giới, người đọc Kim Dung ngày càng nhiều. Người từng đọc Kim Dung, thỉnh thoảng gặp dịp, vẫn mang nhân vật của Kim Dung ra bàn luận hăng say, rồi về nhà lại lôi Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký v.v… đọc lần nữa. Đặc biệt, với người Việt, giới mê Kim Dung đa số là thành phần học sinh, sinh viên và trí thức. Trước 1975, người Việt đã mê Kim Dung. Hôm nay, người Việt vẫn mê Kim Dung.
Người Việt hải ngoại mê Kim Dung, lưu lạc nước người mà vẫn cạy cục cố công tìm lại những sách Kim Dung từng được dịch trước đây. Nhưng bây giờ thì tác phẩm Kim Dung đã được nhiều thức giả trong lẫn ngoài nước dịch lại, theo các nguyên tác đã được tu bổ của Kim Dung.
Ở hải ngoại, chúng ta có Như Hạnh dịch Thư Kiếm Ân Cừu Lục. Trong nước, hàng ngũ dịch giả đông đảo hơn: Cao Tự Thanh, Nguyễn Duy Chính v.v… tuần tự dịch lại toàn bộ 15 tác phẩm của Kim Dung. Thậm chí, còn có những cây viết chuyên khảo cứu về Kim Dung như Vũ Đức Sao Biển, và ngành Kim Dung học ở Việt Nam ra đời.
Thực ra, nhiều tác giả Việt Nam đã viết về Kim Dung trước đây: Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Long Vân v.v… Cá nhân tôi, Trần Nghi Hoàng, cũng viết một cuốn sách về Kim Dung: “Những Mối Tình Trong Tiểu Thuyết Kim Dung”.
Bạn là người đọc Kim Dung? Bạn nghiền, bạn mê Kim Dung? Vậy hẳn nhiên bạn đã đọc Thiên Long Bát Bộ, tác phẩm Kim Dung viết đăng trên Minh Báo và Nam Dương Thương Báo (tờ báo này cũng của Kim Dung, xuất bản tại Singapore) từ năm 1963 và kết thúc năm 1966.
Tôi có trong tay bản Việt dịch Thiên Long Bát Bộ của Hàn Giang Nhạn tiên sinh xuất bản tại Việt Nam năm 1973. Không biết vì lý do gì, hai cuốn đầu, Hàn Giang Nhạn giữ nguyên tên tác phẩm của Kim Dung là Thiên Long Bát Bộ; đến cuốn ba ông lại cho đổi thành Lục Mạch Thần Kiếm, tên gọi môn kiếm khí độc bộ thiên hạ của họ Đoàn nước Đại Lý mà các đại biểu quan trọng trong tác phẩm là Đoàn Dự, Đoàn Chính Thuần và Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.
Tôi muốn cùng bạn đọc tìm hiểu xem ai là chân hung thủ đã làm mù đôi mắt đẹp của nàng A Tử? A Tử, một cô nương bé bỏng vừa ác độc, vừa yêu kiều dễ thương trong Thiên Long Bát Bộ mà thoạt kỳ thủy, Kim Dung đã dàn xếp để cho chúng ta, những người đọc Thiên Long Bát Bộ cứ đinh ninh là em gái một cha khác mẹ của Đoàn Dự…
Giữa khi Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu đang quyết đấu với Cô Tô Mộ Dung Phục, xin mời đọc tiếp:
“… Bên đệ tử phái Tinh Tú cứ mất đi một người là bản thân Mộ Dung Phục tăng thêm một phần nguy hiểm. Tuy đứng trước một nguy cơ cấp bách, song y vẫn ung dung trấn tỉnh.
A Tử vừa hoàn hồn, nàng biết Mộ Dung Phục không có ý hại mình, bất giác nhìn y mỉm cười.
Đinh Xuân Thu ngó thấy lửa giận lại bốc lên đùng đùng lớn tiếng quát hỏi:
-A Tử! Sao thằng lỏi Mộ Dung lại không hại mi?
A Tử run lên, biết rằng Đinh Xuân Thu đã có ý nghi kỵ mình. Nàng cố gắng nghĩ ra một câu để nói lấy lòng Đinh Xuân Thu mà nghĩ mãi không ra. Dù tâm cơ nàng linh mẫn đến đâu, trong lúc hốt hoảng cũng không biết đáp thế nào cho phải.
Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:
-Mi còn ở bên mình ta thì ta còn thấy vui lòng, ta không giết mi đâu!
A Tử vội nói:
-Xin đa tạ sư phụ.
Đinh Xuân Thu lạnh lùng nói:
-Mi chớ mừng vội. Ta…
Lão chưa dứt lời đã phất tay áo một cái, đầu tay áo khác nào lưỡi kiếm nhằm trước mặt A Tử vung lại. Lão ra tay rất mau, A Tử chỉ thấy một luồng gió mát lạnh qua mắt, đã thấy đau đớn đến ruột gan và mắt tối sầm lại. Hai bên má có hai dòng nước trong giống như nước mắt mà không phải nhỏ xuống. Đinh Xuân Thu phóng nội kình ra đầu tay áo và trong thời gian chớp nhoáng này đã đâm vào mắt A Tử.
Mộ Dung Phục thấy Đinh Xuân Thu giơ tay áo lên quét vào mặt A Tử, y biết ngay lão dùng thủ đoạn thâm độc. Tuy y biết A Tử là môn hạ phái Tinh Tú, nhưng nàng dong nhan thoát tục, khác hẳn người thường nên trong lòng y đối với nàng rất thương xót. Y toan ra tay giải cứu, nhưng Đinh Xuân Thu động thủ mau quá, không sao cứu kịp.
Lúc này A Tử đang đứng tựa vào tường. Mắt nàng vẫn tuôn ra hai dòng lệ như máu tươi.
Mộ Dung Phục tuy lăn lộn giang hồ, thấy nhiều hiểu rộng, nhưng y chưa từng thấy ai lại nhẫn tâm coi tánh mạng đệ tử không vào đâu như Đinh Xuân Thu. Trong lòng y kinh hãi vô cùng, chàng đứng ngẩn người một lát liền cảm thấy chân lực trong mình lại thoát ra ngoài.
Đinh Xuân Thu ra tay làm mù mắt A Tử rồi nói:
-Ta để mi sống nhưng không cho mi thấy sự vật gì nữa để mi khỏi thay lòng đổi dạ với sư môn, mi đã biết chưa?
A Tử sắc mặt lợt lạt, người run lẩy bẩy không thốt ra lời.
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch hần Kiếm, quyển 4, trang 87, 88.)
Như vậy, rõ ràng kẻ làm mù mắt A Tử chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Hóa ra câu hỏi của tôi vừa trên là vô lý sao? Có bạn sẽ cười thầm rằng chả có Đinh Xuân Thu nào làm mù mắt A Tử hết! Người làm mù mắt A Tử tất nhiên là Kim Dung, là tác giả!
Xin mượn lời của Bao Bất Đồng, một trong những tay chân thân tín của Mộ Dung Cô Tô mà thưa rằng: “Không phải đâu là không phải đâu!”
Trăm lần ngàn lần không phải Kim Dung là người đã nhẫn tâm làm mù mắt cô nương A Tử! Vậy thì chân hung thủ là ai. Xin mời đọc:
“Ngày 13 tháng 9 năm 1964, “Thiên Long Bát Bộ” bắt đầu được liên tục đăng trên “Minh Báo” (ở Hong Kong) và “Nam Dương thương báo” ở Singapore, thời gian kéo dài 4 năm… Thời kỳ đó, Kim Dung vì công việc phải đi nước ngoài và đã mời Nghê Khuông viết thay mình hơn 4 vạn chữ…
……
Khi Kim Dung từ châu Âu trở về, hai người gặp nhau, câu đầu tiên Nghê Khuông nói là:
-Xin lỗi, tôi làm A Tử mù mắt rồi!
A Tử là một nhân vật khá quan trọng trong “Thiên Long Bát Bộ”, liên quan trực tiếp đến sự phát triển tình tiết của toàn sách. Nhưng Nghê Khuông nói là rất ghét A Tử, cho nên phải làm mù mắt của cô ta. Kim Dung nghe vậy đành cười cay đắng, trách ai bây giờ? Chẳng phài là mình đã nhờ Nghê Khuông viết sao?
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 202 và 204).
_________
Vậy, thủ phạm chính làm mù mắt A Tử là Nghê Khuông. Nhưng Nghê Khuông là ai?
Nghê Khuông viết tiểu thuyết võ hiệp trước Kim Dung, chỉ sau Lương Vũ Sinh. Đã có thời Kim Dung, Nghê Khuông, Lương Vũ Sinh được tôn xưng là Tam Đại Gia của Tiểu Thuyết Tân Kiếm Hiệp (trước khi Cổ Long xuất hiện…). Lương Vũ Sinh từng gây sóng gió với tác phẩm võ hiệp đầu tay trên Tân Vãn Báo: Long Hổ Đấu Kinh Hoa.
Lúc về sau, từng có thời Nghê Khuông và Cổ Long của Đài Loan cùng được gọi là “Khoái Thương Thủ”, vì hai nhà văn này cùng có tài viết nhanh như nhau. Nghê Khuông vốn là bạn rất thân của Kim Dung. Chẳng phải chỉ có một lần Nghê Khuông được Kim Dung mời “chấp bút” viết hộ tiểu thuyết võ hiệp cho Kim Dung, khi Kim Dung bị bận.
Khi Ỷ Thiên Đồ Long Ký sắp chấm dứt, Kim Dung đã bắt đầu viết Thiên Long Bát Bộ được khoảng chục ngàn chữ. Tại Singapore, Ỷ Thiên Đồ Long Ký đang được độc giả điên cuồng say mê. Khi biết Ỷ Thiên Đồ Long Ký sắp chấm dứt, một ông chủ báo ở Singapore vội vàng bay từ Singapore đến Hong Kong để yêu cầu Kim Dung đừng kết thúc Ỷ Thiên Đồ Long Ký,… Nhưng toàn bộ tâm trí của Kim Dung đã chuyển sang Thiên Long Bát Bộ.
Ông chủ báo ở Singapore lại đi cầu Nghê Khuông, với sự hiện diện của Kim Dung.
“Kim Dung hỏi Nghê Khuông có chịu chấp bút viết tiếp Ỷ Thiên Đồ Long Ký không. Nghê Khuông mới nghe nói, cảm thấy như “choeng” một tiếng trong óc, lâng lâng như được lên tiên.
Ba người họ tiến hành một cuộc đối thoại như sau:
Kim Dung:
-Độc giả Singapore rất thích Ỷ Thiên Đồ Long Ký, hy vọng có tục biên. Tôi không có thời gian, có hẹn ông chủ tòa báo tới đây, hết sức tiến cử, xin Nghê Khuông đại huynh tiếp tục viết, huynh nhất định phải nhận lời đấy.
Ông chủ tòa báo ở Singapore:
-Sự tiến cử của Kim Dung tiên sinh, tôi tuyệt đối tin tưởng. Xin Nghê Khuông tiên sinh giúp đỡ.
Nghê Khuông chỉ nốc rượu, không nói nửa lời. Rồi, rất nghiêm túc, rất đàng hoàng nói một tràng. Có lẽ đây là lần duy nhất trong đời Nghê Khuông nói một cách nghiêm túc đàng hoàng như thế.
Nghê Khuông nói:
-Hôm nay là ngày vui sướng nhất đời tôi, bởi vì Kim Dung cho rằng tôi có thể viết tiếp tiểu thuyết của anh ấy. Thật là đáng mừng. Nỗi vui mừng này có lẽ suốt đời tôi không quên được. Nhưng con người tôi có một ưu điểm, đó là rất sáng suốt tự biết mình. Tôi có thể cả gan nói rằng, trên thế giới này không ai có thể viết tiếp được tiểu thuyết của Kim Dung. Nếu như có ai dám nhận lời, nói rằng có thể viết tiếp của Kim Dung thì người đó chắc là ngủ quá nhiều sinh mộng mị. Tôi đương nhiên là không viết tiếp “Ỷ Thiên Đồ Long Ký” vì tôi tuy ngủ không ít nhưng may mắn là vẫn còn tỉnh táo…”
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 174 & 175)
_________
Nghê Khuông nói như thế tất nhiên là không nhận lời viết tiếp Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tuy không nhận lời nhưng Nghê Khuông rất cao hứng và xem như một vinh dự lớn khi được Kim Dung “trao quyền” cho viết tiếp tác phẩm của Kim Dung.
Tôi chưa thực sự đọc tác phẩm nào của Nghê Khuông, nhưng có thể đoan chắc là tài nghệ Nghê Khuông cũng phải thuộc hàng nhất lưu cao thủ, một đại hành gia của kiếm hiệp tân phái… trong hàng ngũ Kim Dung, Lương Vũ Sinh… Các đại hành gia khác như Cổ Long hay Liễu Tàn Dương là lớp sau, lớp hậu sinh so với Nghê Khuông, Lương Vũ Sinh và Kim Dung.
Đúng vậy, phải tài nghệ như thế nào Nghê Khuông mới lọt vào mắt xanh của Kim Dung trong chuyện nhờ viết Thiên Long Bát Bộ khi Kim Dung bận việc ở Âu Châu. Nhưng Kim Dung tuy có tin tưởng vào khả năng của Nghê Khuông, lại vừa vô cùng lo lắng.
“Kim Dung lo lắng cũng có lý. Bởi vì ông biết Nghê Khuông là một tay “Siêu Quậy”, khi còn nhỏ được người ta gọi là “Tiểu Siêu Quậy”, đến khi lớn lên lại được gọi là “Đại Siêu Quậy”, lại rất hay làm chuyện “tào lao”.
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 204)
_________
Và một trong những chuyện “tào lao” đó là Nghê Khuông chỉ vì không thích nhân vật A Tử của Kim Dung, bèn cho Đinh Xuân Thu thay mình, hạ thủ làm A Tử mù mắt. Tuy nhiên, đọc đoạn Nghê Khuông viết thay Kim Dung, tả trận quyết đấu giữa Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu với Cô Tô Mộ Dung Phục, chúng ta chẳng thể không công nhận tài hoa nội lực của Nghê Khuông quả nhiên là cao cường.
Cô Tô Mộ Dung Phục dùng võ công “Đẩu Chuyển Tinh Di” mà người giang hồ không biết, cứ gán cho cái tên là “Gậy Ông Đập Lưng Ông” của họ Mộ Dung Cô Tô, để đấu với “Hóa Công Đại Pháp”, thứ võ công cùng một dòng với “Hấp Tinh Đại Pháp” của Nhậm Ngã Hành Triêu Dương Thần Giáo.
Nhưng “Đẩu Chuyển Tinh Di” là võ công như thế nào mà Mộ Dung Phục toan đem đương đầu với “Hóa Công Đại Pháp” chuyên hút công lực của đối phương?
“Người nào giỏi về “Đoạn Tí Đao” đao phóng ra lại đi đến kết quả là tự chém đứt chính tay mình. Cũng binh khí ấy cũng chiêu thức ấy, nhưng mắt không thấy nhà Mộ Dung dùng thuật “Đẩu Chuyển Tinh Di” nên không ai đoán được là chính người đó lại mất mạng về chiêu thức của mình, mà thực ra là họ đã tự sát.
Người ra tay võ công càng cao thâm thì chết càng ly kỳ.
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch Thần Kiếm, quyển 4, trang 81)
Và Nghê Khuông đã tả trận đấu giữa Mộ Dung Phục và Đinh Xuân Thu một cách tài tình như sau:
“Quyền chưởng hai bên vừa rời nhau trong chớp mắt. Bàn tay Đinh Xuân Thu vừa bị hất ra, lại nắm ngay được đầu quyền đối phương.
Mộ Dung Phục “hứ” lên một tiếng lại vận nội kình. Nhưng lần này nội kình vừa vận ra đã cảm thấy như chìm xuống đáy biển, không hiểu tiêu tán đi đâu mất hết.
Mộ Dung Phục ngấm ngầm kêu lên một tiếng ‘Úi chào.’
Trước khi y đến gây sự với Đinh Xuân Thu đã định bụng phải làm cách nào không để cho “Hóa Công Đại Pháp” của lão chạm vào mình được. Nhưng lúc lâm sự lại không tránh khỏi.
Lúc này Mộ Dung Phục ở vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục vận nội kình để kháng cự, thì dù nội lực có mạnh đến đâu đi nữa cũng bị hóa tán đi và như thế chỉ trong khoảnh khắc, bao nhiêu công lực mất hết thành ra phế nhân.
Nếu dùng phép Bảo Nguyên Thủ Nhất thu nội lực về thì Đinh Xuân Thu lại là một tay dùng độc ghê gớm. Thuốc độc của lão không ai biết đâu mà lường được, nó vẫn có thể theo đường chân khí rút về mà luồn vào người rồi xâm nhập đến tạng phủ. Rút cục vẫn không chống cự lại được.
Mộ Dung Phục đang ở vào tình thế nguy ngập, vô kế khả thi. Bỗng sau lưng y có người lớn tiếng nói:
-Sư phụ khéo xếp đặt cơ mưu khiến cho thằng lỏi này đã bị hãm vào tuyệt địa.
Mộ Dung Phục vừa xoay tay trái vừa lùi về phía sau hai bước. Chàng không quay đầu lại chỉ nghe tiếng nói, mà thò tay ra nắm trúng ngực tên đệ tử phái Tinh Tú.
……….
Mộ Dung Phục tuy đã luyện thuật này lâu năm mà vẫn chưa đạt được mức cao siêu tột độ. Y gặp phải Đinh Xuân Thu là tay cao thủ vào bậc nhất, tự biết mình không thể dùng phép “Đẩu Chuyển Tinh Di” để quay lại hại chính đối phương được. Nên bao lần chàng đã thi triển “Đẩu Chuyển Tinh Di” mà kẻ chịu đả kích lại là những đệ tử phái Tinh Tú. Cách di chuyển của chàng chỉ sang được người thứ ba.
Đinh Xuân Thu ngấm ngầm dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, quăng chén để tung hơi độc và phóng tia rượu độc, lần nào Mộ Dung Phục cũng đổi được kẻ chết thay cho mình một cách dễ dàng. Bây giờ Đinh Xuân Thu dùng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục không còn cách nào di chuyển được thì vừa gặp lúc một tên đệ tử phái Tinh Tú muốn tâng công sư phụ há miệng đứng hô ở ngay bên y.
Mộ Dung Phục trong lúc cấp bách, liền nắm ngay tên này để thay thế cho mình. Cuộc mạo hiểm này chàng không ngờ cũng phát sinh hiệu lực.
Bản ý Tinh Tú Lão Quái là hóa giải công lực Mộ Dung Phục nhưng ngờ đâu lại hóa giải công lực tên đệ tử của mình.
Mộ Dung Phục khác nào người được cải tử hoàn sinh. Y thấy cuộc thử thách của mình thành công, dĩ nhiên nắm lấy cơ hội quyết không để Đinh Xuân Thu kịp suy nghĩ. Y liền đẩy tên đệ tử này cho người gã chạm vào mình một tên đệ tử khác.
Tên đệ tử thứ hai công lực cũng bị hóa giải vì phép Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu thấy mình nắm được đầu quyền của Mộ Dung Phục mà lại thấy y dùng lối mượn sức người làm hại đệ tử của mình lão căm hận vô cùng.”
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch Thần Kiếm, quyển 4, trang 82)
Nghĩ ra được cách để cho Mộ Dung Phục dùng “Đẩu Chuyển Tinh Di” đương đầu với “Hóa Công Đại Pháp” của Đinh Xuân Thu, thiên bẩm và ngộ tánh của Nghê Khuông quả nhiên hơn người!
Điểm đáng lưu ý là Nghê Khuông với bản chất phóng ngạo như thế, lại rất ái mộ Kim Dung. Trong khi, con người Kim Dung lại như có nhiều điểm rất trái ngược với con người Nghê Khuông.
“Nhìn bề ngoài, Kim Dung có vẻ ung dung đường bệ có vẻ như khó gần, nhưng chỉ cần quen biết ông, người ta đều nhận thấy Kim Dung là con người rất giàu tình cảm. Đối với Nghê Khuông cũng vậy mà đối với những người bạn khác cũng vậy.”
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 320).
Và hãy nghe Nghê Khuông nói về Kim Dung:
“Người ta đồn đại rằng có không ít tiểu thuyết của Kim Dung là do Nghê Khuông tôi viết thay… Nghe những lời đồn đại ấy Nghê Khuông tôi sướng mê người, nhận thấy họ quá đề cao Nghê Khuông này. Giá mà tôi có thể viết được một phần mười của Kim Dung thì có chết cũng không phải hối tiếc gì nữa. Những lời đồn đại đó chỉ là lời đồn đại, chẳng phải là sự thật. Trừ một lần do Kim Dung phải đi nước ngoài một thời gian nên tôi có viết giúp anh một đoạn trong “Thiên Long Bát Bộ” còn thì chẳng bao giờ dám viết thay Kim Dung. Vậy mà trong một lần “đại bút” ấy tôi lại làm mù mắt A Tử, khiến Kim Dung phải vất vả “điều trị” cho nàng…”
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; “Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm”, trang 319).
Và Kim Dung đã điều trị cho A Tử như thế nào? Do Du Thản Chi tình nguyện móc cặp mắt của mình tặng A Tử, và để nhà sư Hư Trúc dùng y thuật thông thần của cung Linh Thứu, thay cặp mắt của Du Thản Chi vào cho A Tử. Qua sự điều trị của Kim Dung vào đôi mắt A Tử, mối tình của Du Thản Chi và A Tử càng thêm sắc nét và bi thảm kinh hồn… Bởi cuối cùng, A Tử đã vì yêu Kiều Phong, móc đôi mắt trả lại cho Du Thản Chi rồi nhảy xuống vực thẳm ở Nhan Môn Quan theo người đại anh hùng Kiều Phong…
Thủ phạm làm mù mắt A Tử là Nghê Khuông. Kim Dung là vị lương y đã chữa cho nàng sáng mắt lại bằng đôi mắt của Du Thản Chi… Một đôi mắt u tình buồn bã… Vì Du Thản Chi chẳng bao giờ lọt vào đôi mắt trên khuôn mặt A Tử… Dù là đôi mắt của chính A Tử hay đôi mắt của Du Thản Chi đã tặng cho nàng…
Vấn nhân gian
Tình thị hà vật,
Trực giao sinh tử tương hứa?
Thiên Nam địa Bắc song phi khách,
Lão xí kỷ hồi hàn thử…
…
Hỏi thế gian
Tình là chi vậy
Mà gắn bó chẳng nề sinh tử?
Chấp cánh bay trời Nam đất Bắc,
Ấm lạnh bao phen cánh rũ
(Mô Ngư Nhi của Nguyễn Hiếu Vấn)
Viết tiểu thuyết võ hiệp như Kim Dung, từ bạn đọc đến đồng nghiệp đều đã khâm phục. Dựng và tả chuyện tình được như Kim Dung trong tiểu thuyết võ hiệp của ông, quả là tuyệt bút. Và ngông ngạo được như Nghê Khuông, cũng đáng được cho người ta nghiêng mình ngưỡng mộ…
Last edited by LDN on Sun Jan 15, 2023 12:21 pm; edited 3 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Danviet.vn
Những môn kiếm pháp nào khiến giang hồ tranh đoạt trong Kim Dung?
Bối cảnh võ lâm trong truyện kiếm hiệp của cố nhà văn Kim Dung luôn luôn có những môn võ công tuyệt thế. Trong đó không thể không kể đến những bộ kiếm pháp có uy lực khuynh đảo thiên hạ dưới đây.
Trong bộ tiểu thuyết Bích huyết kiếm, trên núi Hoa Sơn, Viên Thừa Chí tình cờ phát hiện ra Kim xà kiếm và Kim xà bí kíp - di vật của Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi và học được Kim xà kiếm pháp - kiếm thuật vô địch thiên hạ.
Kim xà kiếm pháp có nguồn gốc từ Ngũ Độc Giáo nó bao gồm thanh Kim xà kiếm và Kim xà bí kíp. Kim xà kiếm là thanh kiếm này khác với những thanh kiếm ở Trung Nguyên, nó không thẳng mà uốn lượn như hình con rắn, mỗi khi người dùng vận nội công, thanh kiếm sẽ chuyển sắc vàng, đồng thời đầu kiếm tõe ra như lưỡi rắn.
Tiểu thuyết Kim Dung: Những môn kiếm pháp nào khiến cả giang hồ tranh đoạt? - Ảnh 1.
Kim xà kiếm là đệ nhất thần binh trong tác phẩm Bích huyết kiếm.
Nhờ có nó mà Kim Xà Lang Quân mới danh chấn giang hồ trong quá khứ, cũng như giúp cho truyền nhân của ông là Viên Thừa Chí từ người có võ công tầm trung trở thành hàng cao thủ trong truyện.
Tịch tà kiếm pháp
Đây là bí kíp kiếm thuật thượng thặng trong truyện Tiếu ngạo giang hồ. Tịch tà kiếm pháp có cùng nguồn gốc với Quỳ hoa bảo điển, và là nguồn gốc của những tranh chấp trên giang hồ.
Tịch tà kiếm pháp được xem là bộ kiếm pháp “độc ác” nhất trong truyện Kim Dung. Bởi muốn luyện được kiếm pháp này đầu tiên phải “dẫn đao tự cung” (tự thiến đi bộ phận sinh dục của mình) vì nếu không thiến, khi luyện nội công Tịch tà kiếm pháp, lửa dục sẽ thiêu đốt ruột gan thành tẩu hỏa nhập ma mà chết.
Nhạc Bất Quần bất chấp mọi thủ đoạn để lấy được Tịch tà kiếm pháp.
Kiếm pháp này lấy tốc độ làm trọng, các chiêu thức nhanh đến vô hình khiến kẻ địch khó mà nắm bắt nổi. Lâm Viễn Đồ trước đây cũng là nhờ có Tịch tà kiếm pháp mà vang danh thiên hạ, trở thành vô địch.
Đáng tiếc, các hậu bối sau này như Lâm Bình Chi, Nhạc Bất Quần đều luyện được Tịch tà kiếm pháp nhưng chưa đến mức xuất thần nhập quỷ, thành ra dù có trong tay bộ kiếm pháp mạnh mẽ nhất, nhưng bọn họ cũng không thể chiến thắng được Lệnh Hồ Xung với Độc cô cửu kiếm.
Độc cô cửu kiếm
Độc cô cửu kiếm gắn liền với tên tuổi của Độc Cô Cầu Bại, ông là một nhân vật huyền thoại, từ thuở võ lâm sơ khai, ông đã được người trên giang hồ tôn là đệ nhất cao thủ bởi bộ kiếm pháp tuyệt học này, đặc tính dùng vô chiêu chiến thắng hữu chiêu.
Uy lực của nó cũng gần như bao trùm mọi loại võ công khác trên thiên hạ, khi có thể khắc chế mọi môn binh khí, chưởng pháp, nội công.
Thậm chí, cả một người không có nội lực cũng có thể nhờ Độc cô cửu kiếm đả thương một võ lâm cao thủ khác.
Tên gọi Độc cô cửu kiếm của môn kiếm pháp này bắt nguồn từ việc nó có 9 chiêu thức chính: Tổng quát thức, phá kiếm thức, phá đao thức, phá chưởng thức, phá thương thức, phá tiên thức, phá sách thức, phá tiễn thức, phá khí thức.
Đúng như tên gọi, mỗi thức của Độc cô cửu kiếm chính là khắc tinh của một loại binh khí, chưởng pháp cũng như ám khí.
Chính nhờ uy lực bá đạo của mình, Độc cô cửu kiếm đã giúp cho các chủ nhân của mình trở thành đại cao thủ bất bại, hùng bá võ lâm.
Độc Cô Cầu Bại trước kia tung hoành thiên hạ không đối thủ, ôm nỗi sầu muộn không có kẻ tri kỷ trong võ học xuống cửu tuyền.
Phong Thanh Dương đệ nhất kiếm khách phái Hoa Sơn luyện Độc cô cửu kiếm tới mức thượng thừa, chỉ cần chỉ điểm chút vỏ ngoài cho Lệnh Hồ Xung cũng có thể giúp chàng đánh bại gã đao khách khét tiếng Điền Bá Quang.
Lệnh Hồ Xung sau khi học thành công Độc cô cửu kiếm cũng lần lượt đả bại hàng loạt tay hảo thủ tiếng tăm trên thiên hạ, bất chấp người mang trọng bệnh và mất đi hoàn toàn nội lực.
Việt nữ kiếm pháp
Tiểu thuyết Việt nữ kiếm pháp kể về câu chuyện thời cổ, Ngô-Việt đánh nhau, Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật nghĩ cách diệt nước Ngô, nhưng thủ hạ của Ngô vương có đại tướng Ngũ Tử Tư học được binh pháp của Tôn Tử, huấn luyện sĩ tốt vô cùng tinh nhuệ.
Câu Tiễn thấy quân mình võ nghệ không bằng đối phương, phiền muộn không vui. Một hôm Phạm Sai tiến cử một thiếu nữ xinh đẹp tên là A Thanh có kiếm thuật vô cùng tinh diệu chỉ với một cành trúc nhỏ, nàng ta đã nhẹ nhàng hạ gục các cao thủ của nước Ngô.
Câu Tiễn cả mừng, mời nàng về dạy kiếm pháp cho quân Việt, cuối cùng dùng đó diệt nước Ngô.
Việt nữ kiếm pháp vô cùng lợi hại
Tuy nhiên, bản chất của người con gái này vốn dĩ lại chẳng biết chút võ công nào. Trong một lần đi chăn cừu, A Thanh gặp được con Bạch Lang biết sử dụng gậy trúc. Cả 2 thường xuyên giao đấu, dần dần A Thanh ngộ ra một bộ Việt nữ kiếm pháp và vang danh khắp thiên hạ với những kiếm chiêu thượng thừa.
Đến cuối thời Đường, ở Gia Hưng xuất hiện một danh gia kiếm thuật, y dựa vào yếu chỉ của Việt nữ kiếm pháp mà đổi mới, trong chỗ lợi hại lại ẩn giấu thêm nhiều biến hóa phức tạp.
Đến truyện Anh hùng xạ điêu, Hàn Tiểu Oanh, một trong Giang Nam thất quái, theo sư phụ học được bộ kiếm pháp ấy, tuy chưa thật tinh thông nhưng kiếm chiêu cũng đã cao cường, cái ngoại hiệu Việt nữ kiếm của nàng là nhờ kiếm pháp này mà được.
Lục mạch thần kiếm
Xuất hiện trong bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ. Lục mạch thần kiếm là tuyệt kỹ sử dụng chân khí chạy qua kinh mạch và các huyệt đạo để biến thành kiếm khí, đả thương đối thủ vô hình vô ảnh, Lục mạch thần kiếm từng được coi là thứ võ công đáng sợ nhất trong Thiên long bát bộ được người trên giang hồ gọi là Thiên hạ đệ nhất kiếm khí.
Tiểu thuyết Kim Dung: Những môn kiếm pháp nào khiến cả giang hồ tranh đoạt? - Ảnh 5.
Lục mạch thần kiếm đả thương đối thủ vô hình vô ảnh.
Ngoại trừ người sáng tạo là vua khai quốc của Đại Lý Đoàn Tư Bình, nó được xem là môn võ công tối thượng rất khó để luyện được (kể cả sáu cao tăng đắc đạo Thiên Long Tự) cho đến khi Đoàn Dự vô tình luyện được nhưng chưa thực sự phát huy được hết sức mạnh của Lục mạch thần kiếm.
Trong Thiên long bát bộ, cố nhà văn Kim Dung mô tả, Lục mạch thần kiếm được tu luyện dựa trên cách vận hành khí tâm pháp yếu chỉ riêng rồi dùng Nhất Dương chỉ phát triển thành kiếm khí. Sáu mạch của bộ kiếm pháp này bao gồm: Thiếu trạch kiếm, Thiếu xung kiếm, Quan xung kiếm, Trung xung kiếm, Thương dương kiếm và Thiếu thương kiếm.
Lục mạch thần kiếm còn có thể dùng như một trận pháp gọi là Lục mạch kiếm trận, sáu người chia nhau học sáu mạch kiếm như sáu vị cao tăng của Thiên Long Tự. Tuy nhiên Lục mạch kiếm trận uy lực không cao bằng Lục mạch thần kiếm.
PV (Giáo Dục Thời Đại)
Những môn kiếm pháp nào khiến giang hồ tranh đoạt trong Kim Dung?
Bối cảnh võ lâm trong truyện kiếm hiệp của cố nhà văn Kim Dung luôn luôn có những môn võ công tuyệt thế. Trong đó không thể không kể đến những bộ kiếm pháp có uy lực khuynh đảo thiên hạ dưới đây.
Trong bộ tiểu thuyết Bích huyết kiếm, trên núi Hoa Sơn, Viên Thừa Chí tình cờ phát hiện ra Kim xà kiếm và Kim xà bí kíp - di vật của Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi và học được Kim xà kiếm pháp - kiếm thuật vô địch thiên hạ.
Kim xà kiếm pháp có nguồn gốc từ Ngũ Độc Giáo nó bao gồm thanh Kim xà kiếm và Kim xà bí kíp. Kim xà kiếm là thanh kiếm này khác với những thanh kiếm ở Trung Nguyên, nó không thẳng mà uốn lượn như hình con rắn, mỗi khi người dùng vận nội công, thanh kiếm sẽ chuyển sắc vàng, đồng thời đầu kiếm tõe ra như lưỡi rắn.
Tiểu thuyết Kim Dung: Những môn kiếm pháp nào khiến cả giang hồ tranh đoạt? - Ảnh 1.
Kim xà kiếm là đệ nhất thần binh trong tác phẩm Bích huyết kiếm.
Nhờ có nó mà Kim Xà Lang Quân mới danh chấn giang hồ trong quá khứ, cũng như giúp cho truyền nhân của ông là Viên Thừa Chí từ người có võ công tầm trung trở thành hàng cao thủ trong truyện.
Tịch tà kiếm pháp
Đây là bí kíp kiếm thuật thượng thặng trong truyện Tiếu ngạo giang hồ. Tịch tà kiếm pháp có cùng nguồn gốc với Quỳ hoa bảo điển, và là nguồn gốc của những tranh chấp trên giang hồ.
Tịch tà kiếm pháp được xem là bộ kiếm pháp “độc ác” nhất trong truyện Kim Dung. Bởi muốn luyện được kiếm pháp này đầu tiên phải “dẫn đao tự cung” (tự thiến đi bộ phận sinh dục của mình) vì nếu không thiến, khi luyện nội công Tịch tà kiếm pháp, lửa dục sẽ thiêu đốt ruột gan thành tẩu hỏa nhập ma mà chết.
Nhạc Bất Quần bất chấp mọi thủ đoạn để lấy được Tịch tà kiếm pháp.
Kiếm pháp này lấy tốc độ làm trọng, các chiêu thức nhanh đến vô hình khiến kẻ địch khó mà nắm bắt nổi. Lâm Viễn Đồ trước đây cũng là nhờ có Tịch tà kiếm pháp mà vang danh thiên hạ, trở thành vô địch.
Đáng tiếc, các hậu bối sau này như Lâm Bình Chi, Nhạc Bất Quần đều luyện được Tịch tà kiếm pháp nhưng chưa đến mức xuất thần nhập quỷ, thành ra dù có trong tay bộ kiếm pháp mạnh mẽ nhất, nhưng bọn họ cũng không thể chiến thắng được Lệnh Hồ Xung với Độc cô cửu kiếm.
Độc cô cửu kiếm
Độc cô cửu kiếm gắn liền với tên tuổi của Độc Cô Cầu Bại, ông là một nhân vật huyền thoại, từ thuở võ lâm sơ khai, ông đã được người trên giang hồ tôn là đệ nhất cao thủ bởi bộ kiếm pháp tuyệt học này, đặc tính dùng vô chiêu chiến thắng hữu chiêu.
Uy lực của nó cũng gần như bao trùm mọi loại võ công khác trên thiên hạ, khi có thể khắc chế mọi môn binh khí, chưởng pháp, nội công.
Thậm chí, cả một người không có nội lực cũng có thể nhờ Độc cô cửu kiếm đả thương một võ lâm cao thủ khác.
Tên gọi Độc cô cửu kiếm của môn kiếm pháp này bắt nguồn từ việc nó có 9 chiêu thức chính: Tổng quát thức, phá kiếm thức, phá đao thức, phá chưởng thức, phá thương thức, phá tiên thức, phá sách thức, phá tiễn thức, phá khí thức.
Đúng như tên gọi, mỗi thức của Độc cô cửu kiếm chính là khắc tinh của một loại binh khí, chưởng pháp cũng như ám khí.
Chính nhờ uy lực bá đạo của mình, Độc cô cửu kiếm đã giúp cho các chủ nhân của mình trở thành đại cao thủ bất bại, hùng bá võ lâm.
Độc Cô Cầu Bại trước kia tung hoành thiên hạ không đối thủ, ôm nỗi sầu muộn không có kẻ tri kỷ trong võ học xuống cửu tuyền.
Phong Thanh Dương đệ nhất kiếm khách phái Hoa Sơn luyện Độc cô cửu kiếm tới mức thượng thừa, chỉ cần chỉ điểm chút vỏ ngoài cho Lệnh Hồ Xung cũng có thể giúp chàng đánh bại gã đao khách khét tiếng Điền Bá Quang.
Lệnh Hồ Xung sau khi học thành công Độc cô cửu kiếm cũng lần lượt đả bại hàng loạt tay hảo thủ tiếng tăm trên thiên hạ, bất chấp người mang trọng bệnh và mất đi hoàn toàn nội lực.
Việt nữ kiếm pháp
Tiểu thuyết Việt nữ kiếm pháp kể về câu chuyện thời cổ, Ngô-Việt đánh nhau, Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật nghĩ cách diệt nước Ngô, nhưng thủ hạ của Ngô vương có đại tướng Ngũ Tử Tư học được binh pháp của Tôn Tử, huấn luyện sĩ tốt vô cùng tinh nhuệ.
Câu Tiễn thấy quân mình võ nghệ không bằng đối phương, phiền muộn không vui. Một hôm Phạm Sai tiến cử một thiếu nữ xinh đẹp tên là A Thanh có kiếm thuật vô cùng tinh diệu chỉ với một cành trúc nhỏ, nàng ta đã nhẹ nhàng hạ gục các cao thủ của nước Ngô.
Câu Tiễn cả mừng, mời nàng về dạy kiếm pháp cho quân Việt, cuối cùng dùng đó diệt nước Ngô.
Việt nữ kiếm pháp vô cùng lợi hại
Tuy nhiên, bản chất của người con gái này vốn dĩ lại chẳng biết chút võ công nào. Trong một lần đi chăn cừu, A Thanh gặp được con Bạch Lang biết sử dụng gậy trúc. Cả 2 thường xuyên giao đấu, dần dần A Thanh ngộ ra một bộ Việt nữ kiếm pháp và vang danh khắp thiên hạ với những kiếm chiêu thượng thừa.
Đến cuối thời Đường, ở Gia Hưng xuất hiện một danh gia kiếm thuật, y dựa vào yếu chỉ của Việt nữ kiếm pháp mà đổi mới, trong chỗ lợi hại lại ẩn giấu thêm nhiều biến hóa phức tạp.
Đến truyện Anh hùng xạ điêu, Hàn Tiểu Oanh, một trong Giang Nam thất quái, theo sư phụ học được bộ kiếm pháp ấy, tuy chưa thật tinh thông nhưng kiếm chiêu cũng đã cao cường, cái ngoại hiệu Việt nữ kiếm của nàng là nhờ kiếm pháp này mà được.
Lục mạch thần kiếm
Xuất hiện trong bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ. Lục mạch thần kiếm là tuyệt kỹ sử dụng chân khí chạy qua kinh mạch và các huyệt đạo để biến thành kiếm khí, đả thương đối thủ vô hình vô ảnh, Lục mạch thần kiếm từng được coi là thứ võ công đáng sợ nhất trong Thiên long bát bộ được người trên giang hồ gọi là Thiên hạ đệ nhất kiếm khí.
Tiểu thuyết Kim Dung: Những môn kiếm pháp nào khiến cả giang hồ tranh đoạt? - Ảnh 5.
Lục mạch thần kiếm đả thương đối thủ vô hình vô ảnh.
Ngoại trừ người sáng tạo là vua khai quốc của Đại Lý Đoàn Tư Bình, nó được xem là môn võ công tối thượng rất khó để luyện được (kể cả sáu cao tăng đắc đạo Thiên Long Tự) cho đến khi Đoàn Dự vô tình luyện được nhưng chưa thực sự phát huy được hết sức mạnh của Lục mạch thần kiếm.
Trong Thiên long bát bộ, cố nhà văn Kim Dung mô tả, Lục mạch thần kiếm được tu luyện dựa trên cách vận hành khí tâm pháp yếu chỉ riêng rồi dùng Nhất Dương chỉ phát triển thành kiếm khí. Sáu mạch của bộ kiếm pháp này bao gồm: Thiếu trạch kiếm, Thiếu xung kiếm, Quan xung kiếm, Trung xung kiếm, Thương dương kiếm và Thiếu thương kiếm.
Lục mạch thần kiếm còn có thể dùng như một trận pháp gọi là Lục mạch kiếm trận, sáu người chia nhau học sáu mạch kiếm như sáu vị cao tăng của Thiên Long Tự. Tuy nhiên Lục mạch kiếm trận uy lực không cao bằng Lục mạch thần kiếm.
PV (Giáo Dục Thời Đại)
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Truyện Kim Dung (phần 1): phàm đại hiệp đều phải mồ côi cha
Anh Nguyễn - soi.today
Các tiểu thuyết của Kim Dung bày bán tại hiệu sách ở Hongkong
Kim Dung đã viết tổng cộng 15 tác phẩm, bao gồm 14 tiểu thuyết và 1 truyện ngắn (Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc. Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên.) Ngoại trừ Thiên Long Bát Bộ với tam tuyến nhân vật (Kiều Phong-Hư Trúc-Đoàn Dự,) mỗi tác phẩm của ông thường xoay quanh những cuộc phiêu lưu của một cá thể riêng biệt.
Gần như tất cả những đại hiệp trong tiểu thuyết Kim Dung đều là những người đàn ông mồ côi cha. Đây là một khía cạnh thú vị, xứng đáng được người đọc phân tích và giải đáp.
Có thể hệ thống hoá thân phận mồ côi cha của những nhân vật nam chính trong tiểu thuyết Kim Dung thành ba nhóm chính:
1. Những người mồ côi cha từ nhỏ, không bao giờ biết được cha mình là ai:
Số này gồm có Địch Vân (Liên Thành Quyết), Lệnh Hồ Xung (Tiếu Ngạo Giang Hồ), và Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh Ký).
Lệnh Hồ Xung và Điền Bá Quang đánh nhau trong tửu lâu
Địch Vân và Lệnh Hồ Xung là hai đứa trẻ cù bơ cù bất từ nhỏ được sư phụ thu nhận, trong lòng họ coi thầy chính là cha. Tâm lý tin cậy và ngưỡng mộ tuyệt đối của Địch Vân và Lệnh Hồ Xung đeo đuổi họ tới khi trưởng thành, đến nỗi bị sư phụ lừa dối, lợi dụng, tàn hại vẫn một mực trung thành. Phải nói rõ, Địch Vân và Lệnh Hồ Xung ngây thơ nhưng hoàn toàn không hề ngu ngốc, song họ vẫn mù quáng đặt niềm tin vào sư phụ. Điều này có ý nghĩa gì? Trong văn hóa phương Tây có nhân vật thằng gù Quasimodo là ví dụ điển hình của mẫu hình này: y là một đứa trẻ mồ côi được cứu vớt, rồi lại bị chính ân nhân phản bội.
“Tiếu ngạo giang hồ “khi đăng trên Minh Báo
Vi Tiểu Bảo thì ngược lại. Trần Cận Nam tổng đà chủ Thiên Địa Hội là sư phụ của hắn, cũng là một nam nhân trọng nghĩa, nhưng hắn không những không tôn thờ sư phụ mà còn lừa gạt Trần Cận Hoa không biết bao nhiêu lần. Tới tận khi sư phụ qua đời, Vi Tiểu Bảo mới nhận ra trong lòng sớm đã coi Trần Cận Nam là cha, chỉ là kim chỉ nam đạo đức của Vi Tiểu Bảo quá dễ lung lay nên với sư phụ hắn có thừa yêu thương mà thiếu phần kính trọng. Lộc Đỉnh Ký không giống bất kỳ một bộ tiểu thuyết nào khác của Kim Dung; Vi Tiểu Bảo cũng xứng đáng có một mục riêng. Vì vậy, trường hợp của Vi Tiểu Bảo cần được đánh giá độc lập.
2. Những người có cha là dũng sĩ hào hiệp nhưng chẳng may mất sớm
Số này bao gồm Quách Tĩnh (Anh Hùng Xạ Điêu), Viên Thừa Chí (Bích Huyết Kiếm), Hồ Phỉ (Tuyết Sơn Phi Hồ và Phi Hồ ngoại truyện), Trương Vô Kỵ (Ỷ Thiên Đồ Long Ký).
Quách Tĩnh khi còn là đứa trẻ sống ở thảo nguyên Mông Cổ
Cha họ là điển hình của archetype hiệp khách lai với nhà nho: họ hành tẩu giang hồ nhưng vẫn bị ràng buộc bởi những quy tắc Khổng giáo “nhân lễ nghĩa trí tín.” Sự hy sinh anh hùng của bốn người cha này có ảnh hưởng sâu sắc không thể xem thường đối với cá tính và số phận của các nhân vật trên: họ tôn sùng cha, nung nấu khát vọng trả thù cho cha, lấy cha làm hình mẫu học theo. Ở một chừng mực nào đó, Quách Tĩnh, Viên Thừa Chí, Hồ Phỉ, Vô Kỵ là sự tiếp nối cuộc đời cha họ: sự nghiệp của họ hiển hách hơn, vinh quang đạt được lẫy lừng hơn, nhưng về cơ bản Quách Tĩnh hiệp nghĩa giống Quách Khiếu Thiên, Vô Kỵ trung hậu như Trương Thuý Sơn, Hồ Phỉ hào sảng giống Hồ Nhất Đao, Viên Thừa Chí kế thừa lý tưởng vì nước vì dân của Viên Sùng Hoán. Dòng máu anh hùng của người cha không hề cạn, nó chỉ truyền vào con trai và tiếp tục chảy mãi. Trong văn hoá đại chúng phương Tây mẫu hình này rất phổ biến: kịch thì có Hamlet, truyện thì có Harry Potter, comic có Batman, phim có Lion King.
Một tạp chí Hồng Kông thuở ấy đăng bài về phim truyền hình dựa theo tiểu thuyết Kim Dung (lấy từ Bảo tàng di sản Hồng Kông)
3. Những người “tưởng là cha mà không phải là cha”
Số này là những vị anh hùng lớn lên có cha hoặc không, nhưng điểm chung là tới tận khi trưởng thành họ mới biết sự thực về cha mình (thường là trái ngược hoàn toàn với tưởng tượng, nếu không nói là tệ hại hơn.) Ta có:
-Kiều Phong: tưởng rằng cha là lão nông họ Kiều hiền lành, hoá ra cha chàng là Tiêu Viễn Sơn – một kẻ giết người vô tội như ngoé.
-Đoàn Dự: được vương gia Đoàn Chính Thuần nuôi lớn, nhưng thực ra chàng là con trai của Đệ nhất đại ác nhân Đoàn Diên Khánh.
-Hư Trúc: sống trong cửa Phật từ tấm bé, bản thân lại là kết quả nghiệp chướng tình ái giữa Sư trụ trì chùa Thiếu Lâm Huyền Từ và Diệp Nhị Nương.
-Dương Quá: từ bé đến lớn nghĩ cha là một dũng sĩ anh hùng, nào ngờ Dương Khang là tên bán nước, tham sống sợ chết.
-Thạch Phá Thiên: bị Mai Phương Cô bắt cóc từ nhỏ, gọi là Cẩu Tạp Chủng, ai ngờ chính là con trai của Huyền Tố trang chủ Thạch Thanh.
Dương Quá và Điêu huynh
Số phận của các anh hùng này có thể so sánh với Luke Skywalker trong loạt phim Star Wars.
Qua hệ thống trên có thể thấy, tuy những nhân vật nam trong tiểu thuyết Kim Dung lớn lên không có sự hiện diện của cha ruột, song vai trò của người cha trong cốt truyện là không hề nhỏ. Câu hỏi lớn đặt ra ở đây là: Tại sao “mồ côi cha” lại là một trong những chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm Kim Dung? Ta có thể trả lời câu hỏi này bằng hai bước, trong bài tiếp theo.
(Còn tiếp)
Anh Nguyễn - soi.today
Các tiểu thuyết của Kim Dung bày bán tại hiệu sách ở Hongkong
Kim Dung đã viết tổng cộng 15 tác phẩm, bao gồm 14 tiểu thuyết và 1 truyện ngắn (Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc. Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên.) Ngoại trừ Thiên Long Bát Bộ với tam tuyến nhân vật (Kiều Phong-Hư Trúc-Đoàn Dự,) mỗi tác phẩm của ông thường xoay quanh những cuộc phiêu lưu của một cá thể riêng biệt.
Gần như tất cả những đại hiệp trong tiểu thuyết Kim Dung đều là những người đàn ông mồ côi cha. Đây là một khía cạnh thú vị, xứng đáng được người đọc phân tích và giải đáp.
Có thể hệ thống hoá thân phận mồ côi cha của những nhân vật nam chính trong tiểu thuyết Kim Dung thành ba nhóm chính:
1. Những người mồ côi cha từ nhỏ, không bao giờ biết được cha mình là ai:
Số này gồm có Địch Vân (Liên Thành Quyết), Lệnh Hồ Xung (Tiếu Ngạo Giang Hồ), và Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh Ký).
Lệnh Hồ Xung và Điền Bá Quang đánh nhau trong tửu lâu
Địch Vân và Lệnh Hồ Xung là hai đứa trẻ cù bơ cù bất từ nhỏ được sư phụ thu nhận, trong lòng họ coi thầy chính là cha. Tâm lý tin cậy và ngưỡng mộ tuyệt đối của Địch Vân và Lệnh Hồ Xung đeo đuổi họ tới khi trưởng thành, đến nỗi bị sư phụ lừa dối, lợi dụng, tàn hại vẫn một mực trung thành. Phải nói rõ, Địch Vân và Lệnh Hồ Xung ngây thơ nhưng hoàn toàn không hề ngu ngốc, song họ vẫn mù quáng đặt niềm tin vào sư phụ. Điều này có ý nghĩa gì? Trong văn hóa phương Tây có nhân vật thằng gù Quasimodo là ví dụ điển hình của mẫu hình này: y là một đứa trẻ mồ côi được cứu vớt, rồi lại bị chính ân nhân phản bội.
“Tiếu ngạo giang hồ “khi đăng trên Minh Báo
Vi Tiểu Bảo thì ngược lại. Trần Cận Nam tổng đà chủ Thiên Địa Hội là sư phụ của hắn, cũng là một nam nhân trọng nghĩa, nhưng hắn không những không tôn thờ sư phụ mà còn lừa gạt Trần Cận Hoa không biết bao nhiêu lần. Tới tận khi sư phụ qua đời, Vi Tiểu Bảo mới nhận ra trong lòng sớm đã coi Trần Cận Nam là cha, chỉ là kim chỉ nam đạo đức của Vi Tiểu Bảo quá dễ lung lay nên với sư phụ hắn có thừa yêu thương mà thiếu phần kính trọng. Lộc Đỉnh Ký không giống bất kỳ một bộ tiểu thuyết nào khác của Kim Dung; Vi Tiểu Bảo cũng xứng đáng có một mục riêng. Vì vậy, trường hợp của Vi Tiểu Bảo cần được đánh giá độc lập.
2. Những người có cha là dũng sĩ hào hiệp nhưng chẳng may mất sớm
Số này bao gồm Quách Tĩnh (Anh Hùng Xạ Điêu), Viên Thừa Chí (Bích Huyết Kiếm), Hồ Phỉ (Tuyết Sơn Phi Hồ và Phi Hồ ngoại truyện), Trương Vô Kỵ (Ỷ Thiên Đồ Long Ký).
Quách Tĩnh khi còn là đứa trẻ sống ở thảo nguyên Mông Cổ
Cha họ là điển hình của archetype hiệp khách lai với nhà nho: họ hành tẩu giang hồ nhưng vẫn bị ràng buộc bởi những quy tắc Khổng giáo “nhân lễ nghĩa trí tín.” Sự hy sinh anh hùng của bốn người cha này có ảnh hưởng sâu sắc không thể xem thường đối với cá tính và số phận của các nhân vật trên: họ tôn sùng cha, nung nấu khát vọng trả thù cho cha, lấy cha làm hình mẫu học theo. Ở một chừng mực nào đó, Quách Tĩnh, Viên Thừa Chí, Hồ Phỉ, Vô Kỵ là sự tiếp nối cuộc đời cha họ: sự nghiệp của họ hiển hách hơn, vinh quang đạt được lẫy lừng hơn, nhưng về cơ bản Quách Tĩnh hiệp nghĩa giống Quách Khiếu Thiên, Vô Kỵ trung hậu như Trương Thuý Sơn, Hồ Phỉ hào sảng giống Hồ Nhất Đao, Viên Thừa Chí kế thừa lý tưởng vì nước vì dân của Viên Sùng Hoán. Dòng máu anh hùng của người cha không hề cạn, nó chỉ truyền vào con trai và tiếp tục chảy mãi. Trong văn hoá đại chúng phương Tây mẫu hình này rất phổ biến: kịch thì có Hamlet, truyện thì có Harry Potter, comic có Batman, phim có Lion King.
Một tạp chí Hồng Kông thuở ấy đăng bài về phim truyền hình dựa theo tiểu thuyết Kim Dung (lấy từ Bảo tàng di sản Hồng Kông)
3. Những người “tưởng là cha mà không phải là cha”
Số này là những vị anh hùng lớn lên có cha hoặc không, nhưng điểm chung là tới tận khi trưởng thành họ mới biết sự thực về cha mình (thường là trái ngược hoàn toàn với tưởng tượng, nếu không nói là tệ hại hơn.) Ta có:
-Kiều Phong: tưởng rằng cha là lão nông họ Kiều hiền lành, hoá ra cha chàng là Tiêu Viễn Sơn – một kẻ giết người vô tội như ngoé.
-Đoàn Dự: được vương gia Đoàn Chính Thuần nuôi lớn, nhưng thực ra chàng là con trai của Đệ nhất đại ác nhân Đoàn Diên Khánh.
-Hư Trúc: sống trong cửa Phật từ tấm bé, bản thân lại là kết quả nghiệp chướng tình ái giữa Sư trụ trì chùa Thiếu Lâm Huyền Từ và Diệp Nhị Nương.
-Dương Quá: từ bé đến lớn nghĩ cha là một dũng sĩ anh hùng, nào ngờ Dương Khang là tên bán nước, tham sống sợ chết.
-Thạch Phá Thiên: bị Mai Phương Cô bắt cóc từ nhỏ, gọi là Cẩu Tạp Chủng, ai ngờ chính là con trai của Huyền Tố trang chủ Thạch Thanh.
Dương Quá và Điêu huynh
Số phận của các anh hùng này có thể so sánh với Luke Skywalker trong loạt phim Star Wars.
Qua hệ thống trên có thể thấy, tuy những nhân vật nam trong tiểu thuyết Kim Dung lớn lên không có sự hiện diện của cha ruột, song vai trò của người cha trong cốt truyện là không hề nhỏ. Câu hỏi lớn đặt ra ở đây là: Tại sao “mồ côi cha” lại là một trong những chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm Kim Dung? Ta có thể trả lời câu hỏi này bằng hai bước, trong bài tiếp theo.
(Còn tiếp)
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Truyện Kim Dung (phần 2): bildungsroman muốn li kỳ thì phải thiếu nơi nương tựa
Anh Nguyễn - soi.today
(Tiếp theo phần 1)
Như đã nói ở bài trước, “Câu hỏi lớn đặt ra ở đây là: Tại sao “mồ côi cha” lại là một trong những chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm Kim Dung?”. Ta có thể trả lời câu hỏi này bằng hai bước sau:
Bước một: làm mất một chỗ dựa trong bildungsroman
Dài dòng một chút, nhưng đã viết về Kim Dung thì phải hiểu Kim Dung có gì khác thường.
Nói đến tác gia võ hiệp thì Kim Dung dứt khoát chiếm vị trí đầu bảng, về danh vọng và được ưa chuộng thì ông hơn hẳn những tay viết cùng thời như Cổ Long, Lương Vũ Sinh,… Trước Kim Dung và sau Kim Dung đều có truyện chưởng, nhưng chỉ Kim Dung mới đưa tiểu thuyết võ hiệp lên một tầm cao mới, nếu không vì giá trị nghệ thuật thì cũng vì độ cuốn hút có một không hai. Những tiểu thuyết chương hồi của Kim Dung có sức hấp dẫn mãnh liệt đủ để giúp Minh Báo của ông tồn tại, tạo ra hiện tượng “Kim mê,” trong quá trình đó biến những nhân vật của ông thành một phần không thể thiếu của văn hoá đại chúng. Sở dĩ người ta say đắm Kim Dung không phải vì những thế võ siêu phàm hay bí kíp kỳ ảo, mà vì qua cuộc hành trình văn học cùng Kim Dung ta thấy được con người. Những tác phẩm võ hiệp trước Kim Dung chú trọng mô tả những thế võ chính xác, sống động, nhưng các nhân vật lại cứng đờ vô vị. Chính Kim Dung đã từng nói rằng võ thuật có thể bịa đặt, nhưng tình cảm, cảm xúc, tâm lý của các nhân vật thì phải thật, vô cùng thật. Đó là sự đột phá trong tư tưởng sáng tác của Kim Dung.
Một bản in thời kỳ đầu của “Thần Điêu Hiệp Lữ” do nhà in Sam Yuk thực hiện
Tác phẩm của Kim Dung đa phần đều rơi vào thể loại bildungsroman, nôm na là “cuốn tiểu thuyết nói về sự phát triển đầu đời của một nhân vật.” Các trường thiên tiểu thuyết của ông đều theo sát bước chân của các anh hùng từ khi là đứa trẻ cho tới thiếu niên và trưởng thành. Phương pháp này có nhiều lợi ích: giúp người đọc làm quen và “thân” với nhân vật, từ thân thiết dẫn tới gắn bó, từ gắn bó dẫn đến quan tâm, yêu quý. Chúng ta hồi hộp khi các nhân vật đánh nhau một mất một còn, sung sướng khi họ chiến thắng, cùng khóc cùng cười với từng nấc thang cảm xúc của họ. Đó là lý do vì sao tiểu thuyết Kim Dung có thể đăng báo nhiều năm liền mà độ say mê của người đọc không hề sụt giảm, chỉ có ngày càng tăng tiến.
Trong thể loại bildungsroman, các nhân vật nam chính luôn có ít nhất một cuộc hành trình quan trọng mà họ phải trải qua. Trong cuộc hành trình ấy họ có thể có mỹ nhân kề cận, có bạn đồng hành sát vai, nhưng ở những bước tối quan trọng họ đều phải đương đầu thử thách một mình. Vào năm 1949, cuốn sách Vị anh hùng muôn mặt (The Hero with a Thousand Faces) của nhà văn Joseph Campbell đề xuất khái niệm monomyth – mô hình chung về cuộc hành trình của các vị anh hùng xuyên suốt lịch sử văn hóa, thần thoại của con người. Khi khảo cứu từ quá trình giác ngộ của Phật Tổ đến sự hồi sinh của thần Orisis, từ cuộc đời chúa Jesus đến Oliver Twist, từ thần thoại về Odyssey đến chú bé chăn cừu trong The Alchemist, ta có thể nhận thấy mọi câu chuyện đều chứa đựng không ít thì nhiều các yếu tố của monomyth. Những cuộc phiêu lưu của các nhân vật dù hư cấu hay có thật thường bao gồm ba giai đoạn chính: bỏ lại quá khứ, đón nhận thử thách, và quay trở về.
Bìa sách “Vị anh hùng muôn mặt”
Những vị anh hùng của Kim Dung trở thành những hình tượng tuyệt vời, sống mãi trong lòng người đọc bởi họ được tôi luyện bởi vô vàn thử thách. Nếu phân tích các tác phẩm thật kỹ, ta có thể thấy một điểm chung: những trở ngại võ thuật, rừng đao núi gươm mà các anh hùng trải qua đều không đau đớn và khó khăn bằng chướng ngại tinh thần. Quách Tĩnh luyện Cửu âm chân kinh không khổ sở bằng quyết định đi ám sát nghĩa huynh Đà Lôi, Dương Quá bị cụt tay không đau đớn bằng khi Tiểu Long Nữ bỏ chàng đi mất, Trương Vô Kỵ đánh bại quần hùng làm Giáo chủ Minh Giáo không hao tổn tâm lực bằng việc minh oan cho nghĩa phụ, Lệnh Hồ Xung bị phế hết võ công cũng không khiến chàng tuyệt vọng như khi bị tiểu sư muội phụ bạc,… Chúng ta cổ vũ những vị anh hùng khi họ luyện được bí kíp cao siêu, oai trấn võ lâm, nhưng chỉ thực sự đồng cảm với họ vì những cảm xúc rất nhân văn như vậy. Mấy người trong chúng ta thực sự có những chuyến phiêu lưu “tiếu ngạo giang hồ,” nhưng những cung bậc cảm xúc yêu, buồn, giận, ghét,… thì ai ai cũng đều trải qua cả.
Quách Tĩnh tuổi thiếu niên
Đây chính là lời giải đáp cho câu hỏi lớn của chúng ta. Sự vắng mặt của người cha là một xúc tác quan trọng trong quá trình trưởng thành của các anh hùng. Một mặt, nó thúc đẩy sự độc lập của các nhân vật, khiến họ phải lớn sớm hơn, va vấp với cuộc đời nhiều hơn. Các nhân vật nam từ 17, 18 tuổi đã được tác giả mô tả như những người đàn ông trưởng thành, đơn giản bởi họ đơn độc giữa cuộc đời. Mặt khác, một vị anh hùng không cha dễ khiến nảy sinh cảm giác thương mến, cảm thông trong lòng người đọc. Nếu chúng ta biết vị anh hùng của mình đã có sẵn một chỗ dựa vững chãi, chúng ta vẫn mãi coi họ chỉ là những thiếu niên không bao giờ lớn. Ngoài ra sự vắng mặt của người cha có tác dụng thúc đẩy câu chuyện hợp lý và hiệu quả. Như đã nói, cốt truyện trong các tiểu thuyết Kim Dung phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ của các nhân vật đối với cha hoặc sư phụ của họ: hoặc sùng kính hoặc căm hận, hoặc báo oán hoặc báo ân, mối quan hệ đó quan trọng hơn cả những môn võ công họ học được.
Bước hai: từ thân phận một con người tới thân phận một mảnh đất
Ở bước này, chúng ta cần làm một chút công tác “do thám” và suy luận.
Kim Dung là ai? Tên thật Tra Lương Dung, ông sinh ra trong một gia tộc khoa bảng lâu đời và danh giá. Ông cố tổ của Kim Dung là Tra Thận Hành, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh. Dòng họ ông có một thư viện khổng lồ chứa đầy những cuốn sách cổ, gọi là “Tra thị tàng thư”. Bởi thế Kim Dung được nuôi lớn trong một môi trường tri thức với hàm lượng văn hóa đậm đặc. Ông thông thạo các di sản văn học Trung Hoa, đặc biệt say mê Hồng Lâu Mộng. Lớn lên, Kim Dung vẫn theo nghiệp viết.
Năm 1948, Kim Dung sang Hồng Kông công tác, đây là một bước ngoặt có tính chất quyết định cả sự nghiệp và cuộc đời của ông. Bởi chỉ hai năm sau thôi, gia đình ông bị rơi vào vòng đấu tố trong cuộc Cải cách ruộng đất tàn khốc, cha ông bị quy làm địa chủ, Kim Dung cũng từ đó mất liên lạc với gia đình. Có thể nói, ông đã thoát nạn trong gang tấc. Từ đó Kim Dung ở lại Hồng Kông và bắt tay vào việc viết tiểu thuyết võ hiệp. Khi bắt đầu, Kim Dung không hề có ý định tạo tiếng tăm, càng không có tham vọng trở thành đệ nhất danh gia ở Hồng Kông, ông chỉ muốn dựa vào ngòi bút kiếm đủ tiền trang trải cuộc sống. Thật là một ví dụ tiêu biểu của hiện tượng “Vô tâm trồng liễu liễu xanh rờn.”
Kim Dung thời trẻ và vợ (ông kết hôn tất cả ba lần)
Trạng thái cảm xúc của Kim Dung ra sao khi lâm vào cảnh xa quê nhà? Thật khó nói rõ. Hồng Kông là mảnh đất hứa hẹn đầy cơ hội, nhưng cũng là chốn giang hồ phong ba bão táp. Hội Tam Hoàng, tiền thân của mafia Hồng Kông, vốn xuất phát từ các tổ chức Thiếu Lâm, Thiên Địa Hội… mà Kim Dung hay nhắc tới trong truyện. Sau năm 1949, vì bị chính quyền Mao Trạch Đông trấn áp nên Hội Tam Hoàng di tản sang Hồng Kông, từ đó nơi này biến thành căn cứ địa của xã hội đen. Những mạch truyện trong tiểu thuyết Kim Dung nhuốm không ít màu sắc bang hội, giang hồ, trả thù, ám sát,… một phần không nhỏ bởi đó chính là thực tế mà Kim Dung trải qua. Quả là thời thế tạo anh hùng, Kim Dung tiên sinh ở Hương Cảng không cần Đồ Long đao hay Ỷ Thiên kiếm, chỉ bằng một ngòi bút mà vang danh thiên hạ. Nhưng cảm hứng mà việc sống ở Hồng Kông đem lại cho Kim Dung còn sâu sắc hơn thế.
Trong khảo luận “Gender Politics in Jin Yong’s Martial Art Novels”, nhà phê bình Jianmei Liu cho rằng cảnh thiếu cha của những anh hùng trong tiểu thuyết Kim Dung là sự phản chiếu tình hình địa chính trị của Hồng Kông. Nếu coi Trung Hoa là người cha thì Hồng Kông chính là đứa con trai luân lạc xa quê. Hồng Kông kế thừa di sản tinh thần của Trung Hoa, nhưng mối dây liên kết đã bị đứt. Một mặt, đứa con trai này ngưỡng vọng cha mình, một mặt đứng riêng độc lập, tự tạo nên bản sắc. Về quyền lực kinh tế, Hồng Kông phát triển vượt hẳn so với đất tổ, hóa mình thành con rồng châu Á, không khác gì những anh hùng làm nên nghiệp lớn. Về văn hóa, Hồng Kông vẫn giữ gần như trọn vẹn những kho báu nghệ thuật của Trung Hoa từ tiếng nói, ẩm thực, văn chương,…
Bộ sưu tập các tiểu thuyết Kim Dung tại Bảo tàng Di sản Hong Kong
Thế nhưng trong cái riêng rẽ của Hồng Kông có đầy sự ngang tàng ngạo nghễ và nổi loạn chống lại truyền thống. Như nhiều anh hùng của Kim Dung ngậm ngùi nhận ra, hình tượng “người cha Trung Hoa” cũng có đầy những mảng đen tối. Những nhân vật như Nguỵ quân tử Nhạc Bất Quần, Dương Khang xảo trá, Đoàn Diên Khánh tàn ác, Trần Cận Nam thủ cựu, Huyền Từ mồm tụng kinh Phật nhưng làm chuyện bại hoại,… chính là những khía cạnh mà Kim Dung đã sớm nghi ngờ về cái gọi là tư tưởng Khổng giáo cao quý. Khi ông miêu tả lòng trung thành tuyệt đối của Lệnh Hồ Xung hay Địch Vân với sư phụ, ông đưa cả vào đó những yếu tố không thể chối cãi của sự tẩy não (brainwashing) và hội chứng Stockholm. Chính cái tư tưởng hiếu thuận, tận trung, báo quốc của đạo Khổng là một thứ xiềng xích trói buộc, bắt con người ta phải tuyệt đối trung thành với cha, với vua bất chấp lý trí và lẽ phải. Bản thân Kim Dung từ thuở thiếu thời đã cảm thấy gò bó chật chội trong khuôn mẫu nhà nho, ông từng bị đuổi học vì dám viết truyện trào phúng giễu nhại thầy hiệu trưởng. Khi chính ông trở thành vị anh hùng mất cha, lang thang vô định bên xứ Cảng thơm, ông đã nhập tâm lý cá nhân của bản thân mình và cái tâm thế chung của Hồng Kông làm một, rồi lại thổi nó vào những nhân vật trong truyện. Khi ông mô tả sự tôn thờ, thương mến vô điều kiện của các hiệp khách đối với hình tượng người cha, khi ông viết về “identity crisis” (khủng hoảng nhân thân) của họ khi không biết cha mình thật sự là ai, hay khi ông thông qua các nhân vật để phản kháng lại chế độ độc tài phụ hệ của chính quyền Bắc Kinh, đó đều là những mảnh ghép thật trong cái psyche (trạng thái tâm lý) của Kim Dung nói riêng và Hồng Kông nói chung. Hồng Kông vẫn chưa bao giờ hoàn toàn chịu sự quản lý của Trung Hoa, cuộc Cách mạng ô dù năm 2014 là một ví dụ điển hình. Người đọc có thể không nhìn ra mối liên kết này, nhưng việc tác phẩm của Kim Dung bị cấm tại Đài Loan và Đại lục trong suốt một thời gian dài là minh chứng rõ ràng: có một thông điệp chính trị không thể chối cãi ẩn dưới những cuộc xung sát võ lâm.
Tại hội chợ sách Hồng Kông Kim Dung uỷ quyền cho nghệ sĩ Lee Chi Ching khắc hoạ một số nhân vật (đố các bạn đọc đây là ai?)
Ngày nay, lệnh cấm tác phẩm Kim Dung đã không còn hiệu lực. Bất chấp khoảng cách về chính trị và địa lý, các tiểu thuyết Kim Dung vẫn được tái bản đều đặn khắp châu Á, hàng năm lại có thêm những tác phẩm truyền hình mới dựa theo tác phẩm được sản xuất khiến người xem hào hứng bàn tán không dứt. Ở hai bờ đối lập có Tưởng Kinh Quốc và Đặng Tiểu Bình đều tự nhận là người say mê Kim Dung. Bản thân Kim Dung cũng đảm nhiệm vai trò thành viên Uỷ ban giám sát sự chuyển giao Hồng Kông về với chính phủ Trung Quốc. Khi viết tới chương cuối của Lộc Đỉnh Ký (cũng là cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong sự nghiệp của mình,) Kim Dung để thân phận Vi Tiểu Bảo mãi là một dấu hỏi lớn: y là ai? Vi Tiểu Bảo không mang một thân phận rõ rệt, chính mẹ y cũng không biết ai là cha y. “Thằng con con đĩ” Vi Tiểu Bảo chính là sự tổng hòa của năm dân tộc Mãn Hán Tạng Hồi Mông. Tư tưởng đại đồng, hoà hợp dân tộc ấy chính là niềm hy vọng “điều anh thầm mơ, biết đến bao giờ,…” của Kim Dung dành cho cố quốc, và cũng là nốt nhạc kết của 15 bộ truyện.
Anh Nguyễn - soi.today
(Tiếp theo phần 1)
Như đã nói ở bài trước, “Câu hỏi lớn đặt ra ở đây là: Tại sao “mồ côi cha” lại là một trong những chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm Kim Dung?”. Ta có thể trả lời câu hỏi này bằng hai bước sau:
Bước một: làm mất một chỗ dựa trong bildungsroman
Dài dòng một chút, nhưng đã viết về Kim Dung thì phải hiểu Kim Dung có gì khác thường.
Nói đến tác gia võ hiệp thì Kim Dung dứt khoát chiếm vị trí đầu bảng, về danh vọng và được ưa chuộng thì ông hơn hẳn những tay viết cùng thời như Cổ Long, Lương Vũ Sinh,… Trước Kim Dung và sau Kim Dung đều có truyện chưởng, nhưng chỉ Kim Dung mới đưa tiểu thuyết võ hiệp lên một tầm cao mới, nếu không vì giá trị nghệ thuật thì cũng vì độ cuốn hút có một không hai. Những tiểu thuyết chương hồi của Kim Dung có sức hấp dẫn mãnh liệt đủ để giúp Minh Báo của ông tồn tại, tạo ra hiện tượng “Kim mê,” trong quá trình đó biến những nhân vật của ông thành một phần không thể thiếu của văn hoá đại chúng. Sở dĩ người ta say đắm Kim Dung không phải vì những thế võ siêu phàm hay bí kíp kỳ ảo, mà vì qua cuộc hành trình văn học cùng Kim Dung ta thấy được con người. Những tác phẩm võ hiệp trước Kim Dung chú trọng mô tả những thế võ chính xác, sống động, nhưng các nhân vật lại cứng đờ vô vị. Chính Kim Dung đã từng nói rằng võ thuật có thể bịa đặt, nhưng tình cảm, cảm xúc, tâm lý của các nhân vật thì phải thật, vô cùng thật. Đó là sự đột phá trong tư tưởng sáng tác của Kim Dung.
Một bản in thời kỳ đầu của “Thần Điêu Hiệp Lữ” do nhà in Sam Yuk thực hiện
Tác phẩm của Kim Dung đa phần đều rơi vào thể loại bildungsroman, nôm na là “cuốn tiểu thuyết nói về sự phát triển đầu đời của một nhân vật.” Các trường thiên tiểu thuyết của ông đều theo sát bước chân của các anh hùng từ khi là đứa trẻ cho tới thiếu niên và trưởng thành. Phương pháp này có nhiều lợi ích: giúp người đọc làm quen và “thân” với nhân vật, từ thân thiết dẫn tới gắn bó, từ gắn bó dẫn đến quan tâm, yêu quý. Chúng ta hồi hộp khi các nhân vật đánh nhau một mất một còn, sung sướng khi họ chiến thắng, cùng khóc cùng cười với từng nấc thang cảm xúc của họ. Đó là lý do vì sao tiểu thuyết Kim Dung có thể đăng báo nhiều năm liền mà độ say mê của người đọc không hề sụt giảm, chỉ có ngày càng tăng tiến.
Trong thể loại bildungsroman, các nhân vật nam chính luôn có ít nhất một cuộc hành trình quan trọng mà họ phải trải qua. Trong cuộc hành trình ấy họ có thể có mỹ nhân kề cận, có bạn đồng hành sát vai, nhưng ở những bước tối quan trọng họ đều phải đương đầu thử thách một mình. Vào năm 1949, cuốn sách Vị anh hùng muôn mặt (The Hero with a Thousand Faces) của nhà văn Joseph Campbell đề xuất khái niệm monomyth – mô hình chung về cuộc hành trình của các vị anh hùng xuyên suốt lịch sử văn hóa, thần thoại của con người. Khi khảo cứu từ quá trình giác ngộ của Phật Tổ đến sự hồi sinh của thần Orisis, từ cuộc đời chúa Jesus đến Oliver Twist, từ thần thoại về Odyssey đến chú bé chăn cừu trong The Alchemist, ta có thể nhận thấy mọi câu chuyện đều chứa đựng không ít thì nhiều các yếu tố của monomyth. Những cuộc phiêu lưu của các nhân vật dù hư cấu hay có thật thường bao gồm ba giai đoạn chính: bỏ lại quá khứ, đón nhận thử thách, và quay trở về.
Bìa sách “Vị anh hùng muôn mặt”
Những vị anh hùng của Kim Dung trở thành những hình tượng tuyệt vời, sống mãi trong lòng người đọc bởi họ được tôi luyện bởi vô vàn thử thách. Nếu phân tích các tác phẩm thật kỹ, ta có thể thấy một điểm chung: những trở ngại võ thuật, rừng đao núi gươm mà các anh hùng trải qua đều không đau đớn và khó khăn bằng chướng ngại tinh thần. Quách Tĩnh luyện Cửu âm chân kinh không khổ sở bằng quyết định đi ám sát nghĩa huynh Đà Lôi, Dương Quá bị cụt tay không đau đớn bằng khi Tiểu Long Nữ bỏ chàng đi mất, Trương Vô Kỵ đánh bại quần hùng làm Giáo chủ Minh Giáo không hao tổn tâm lực bằng việc minh oan cho nghĩa phụ, Lệnh Hồ Xung bị phế hết võ công cũng không khiến chàng tuyệt vọng như khi bị tiểu sư muội phụ bạc,… Chúng ta cổ vũ những vị anh hùng khi họ luyện được bí kíp cao siêu, oai trấn võ lâm, nhưng chỉ thực sự đồng cảm với họ vì những cảm xúc rất nhân văn như vậy. Mấy người trong chúng ta thực sự có những chuyến phiêu lưu “tiếu ngạo giang hồ,” nhưng những cung bậc cảm xúc yêu, buồn, giận, ghét,… thì ai ai cũng đều trải qua cả.
Quách Tĩnh tuổi thiếu niên
Đây chính là lời giải đáp cho câu hỏi lớn của chúng ta. Sự vắng mặt của người cha là một xúc tác quan trọng trong quá trình trưởng thành của các anh hùng. Một mặt, nó thúc đẩy sự độc lập của các nhân vật, khiến họ phải lớn sớm hơn, va vấp với cuộc đời nhiều hơn. Các nhân vật nam từ 17, 18 tuổi đã được tác giả mô tả như những người đàn ông trưởng thành, đơn giản bởi họ đơn độc giữa cuộc đời. Mặt khác, một vị anh hùng không cha dễ khiến nảy sinh cảm giác thương mến, cảm thông trong lòng người đọc. Nếu chúng ta biết vị anh hùng của mình đã có sẵn một chỗ dựa vững chãi, chúng ta vẫn mãi coi họ chỉ là những thiếu niên không bao giờ lớn. Ngoài ra sự vắng mặt của người cha có tác dụng thúc đẩy câu chuyện hợp lý và hiệu quả. Như đã nói, cốt truyện trong các tiểu thuyết Kim Dung phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ của các nhân vật đối với cha hoặc sư phụ của họ: hoặc sùng kính hoặc căm hận, hoặc báo oán hoặc báo ân, mối quan hệ đó quan trọng hơn cả những môn võ công họ học được.
Bước hai: từ thân phận một con người tới thân phận một mảnh đất
Ở bước này, chúng ta cần làm một chút công tác “do thám” và suy luận.
Kim Dung là ai? Tên thật Tra Lương Dung, ông sinh ra trong một gia tộc khoa bảng lâu đời và danh giá. Ông cố tổ của Kim Dung là Tra Thận Hành, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh. Dòng họ ông có một thư viện khổng lồ chứa đầy những cuốn sách cổ, gọi là “Tra thị tàng thư”. Bởi thế Kim Dung được nuôi lớn trong một môi trường tri thức với hàm lượng văn hóa đậm đặc. Ông thông thạo các di sản văn học Trung Hoa, đặc biệt say mê Hồng Lâu Mộng. Lớn lên, Kim Dung vẫn theo nghiệp viết.
Năm 1948, Kim Dung sang Hồng Kông công tác, đây là một bước ngoặt có tính chất quyết định cả sự nghiệp và cuộc đời của ông. Bởi chỉ hai năm sau thôi, gia đình ông bị rơi vào vòng đấu tố trong cuộc Cải cách ruộng đất tàn khốc, cha ông bị quy làm địa chủ, Kim Dung cũng từ đó mất liên lạc với gia đình. Có thể nói, ông đã thoát nạn trong gang tấc. Từ đó Kim Dung ở lại Hồng Kông và bắt tay vào việc viết tiểu thuyết võ hiệp. Khi bắt đầu, Kim Dung không hề có ý định tạo tiếng tăm, càng không có tham vọng trở thành đệ nhất danh gia ở Hồng Kông, ông chỉ muốn dựa vào ngòi bút kiếm đủ tiền trang trải cuộc sống. Thật là một ví dụ tiêu biểu của hiện tượng “Vô tâm trồng liễu liễu xanh rờn.”
Kim Dung thời trẻ và vợ (ông kết hôn tất cả ba lần)
Trạng thái cảm xúc của Kim Dung ra sao khi lâm vào cảnh xa quê nhà? Thật khó nói rõ. Hồng Kông là mảnh đất hứa hẹn đầy cơ hội, nhưng cũng là chốn giang hồ phong ba bão táp. Hội Tam Hoàng, tiền thân của mafia Hồng Kông, vốn xuất phát từ các tổ chức Thiếu Lâm, Thiên Địa Hội… mà Kim Dung hay nhắc tới trong truyện. Sau năm 1949, vì bị chính quyền Mao Trạch Đông trấn áp nên Hội Tam Hoàng di tản sang Hồng Kông, từ đó nơi này biến thành căn cứ địa của xã hội đen. Những mạch truyện trong tiểu thuyết Kim Dung nhuốm không ít màu sắc bang hội, giang hồ, trả thù, ám sát,… một phần không nhỏ bởi đó chính là thực tế mà Kim Dung trải qua. Quả là thời thế tạo anh hùng, Kim Dung tiên sinh ở Hương Cảng không cần Đồ Long đao hay Ỷ Thiên kiếm, chỉ bằng một ngòi bút mà vang danh thiên hạ. Nhưng cảm hứng mà việc sống ở Hồng Kông đem lại cho Kim Dung còn sâu sắc hơn thế.
Trong khảo luận “Gender Politics in Jin Yong’s Martial Art Novels”, nhà phê bình Jianmei Liu cho rằng cảnh thiếu cha của những anh hùng trong tiểu thuyết Kim Dung là sự phản chiếu tình hình địa chính trị của Hồng Kông. Nếu coi Trung Hoa là người cha thì Hồng Kông chính là đứa con trai luân lạc xa quê. Hồng Kông kế thừa di sản tinh thần của Trung Hoa, nhưng mối dây liên kết đã bị đứt. Một mặt, đứa con trai này ngưỡng vọng cha mình, một mặt đứng riêng độc lập, tự tạo nên bản sắc. Về quyền lực kinh tế, Hồng Kông phát triển vượt hẳn so với đất tổ, hóa mình thành con rồng châu Á, không khác gì những anh hùng làm nên nghiệp lớn. Về văn hóa, Hồng Kông vẫn giữ gần như trọn vẹn những kho báu nghệ thuật của Trung Hoa từ tiếng nói, ẩm thực, văn chương,…
Bộ sưu tập các tiểu thuyết Kim Dung tại Bảo tàng Di sản Hong Kong
Thế nhưng trong cái riêng rẽ của Hồng Kông có đầy sự ngang tàng ngạo nghễ và nổi loạn chống lại truyền thống. Như nhiều anh hùng của Kim Dung ngậm ngùi nhận ra, hình tượng “người cha Trung Hoa” cũng có đầy những mảng đen tối. Những nhân vật như Nguỵ quân tử Nhạc Bất Quần, Dương Khang xảo trá, Đoàn Diên Khánh tàn ác, Trần Cận Nam thủ cựu, Huyền Từ mồm tụng kinh Phật nhưng làm chuyện bại hoại,… chính là những khía cạnh mà Kim Dung đã sớm nghi ngờ về cái gọi là tư tưởng Khổng giáo cao quý. Khi ông miêu tả lòng trung thành tuyệt đối của Lệnh Hồ Xung hay Địch Vân với sư phụ, ông đưa cả vào đó những yếu tố không thể chối cãi của sự tẩy não (brainwashing) và hội chứng Stockholm. Chính cái tư tưởng hiếu thuận, tận trung, báo quốc của đạo Khổng là một thứ xiềng xích trói buộc, bắt con người ta phải tuyệt đối trung thành với cha, với vua bất chấp lý trí và lẽ phải. Bản thân Kim Dung từ thuở thiếu thời đã cảm thấy gò bó chật chội trong khuôn mẫu nhà nho, ông từng bị đuổi học vì dám viết truyện trào phúng giễu nhại thầy hiệu trưởng. Khi chính ông trở thành vị anh hùng mất cha, lang thang vô định bên xứ Cảng thơm, ông đã nhập tâm lý cá nhân của bản thân mình và cái tâm thế chung của Hồng Kông làm một, rồi lại thổi nó vào những nhân vật trong truyện. Khi ông mô tả sự tôn thờ, thương mến vô điều kiện của các hiệp khách đối với hình tượng người cha, khi ông viết về “identity crisis” (khủng hoảng nhân thân) của họ khi không biết cha mình thật sự là ai, hay khi ông thông qua các nhân vật để phản kháng lại chế độ độc tài phụ hệ của chính quyền Bắc Kinh, đó đều là những mảnh ghép thật trong cái psyche (trạng thái tâm lý) của Kim Dung nói riêng và Hồng Kông nói chung. Hồng Kông vẫn chưa bao giờ hoàn toàn chịu sự quản lý của Trung Hoa, cuộc Cách mạng ô dù năm 2014 là một ví dụ điển hình. Người đọc có thể không nhìn ra mối liên kết này, nhưng việc tác phẩm của Kim Dung bị cấm tại Đài Loan và Đại lục trong suốt một thời gian dài là minh chứng rõ ràng: có một thông điệp chính trị không thể chối cãi ẩn dưới những cuộc xung sát võ lâm.
Tại hội chợ sách Hồng Kông Kim Dung uỷ quyền cho nghệ sĩ Lee Chi Ching khắc hoạ một số nhân vật (đố các bạn đọc đây là ai?)
Ngày nay, lệnh cấm tác phẩm Kim Dung đã không còn hiệu lực. Bất chấp khoảng cách về chính trị và địa lý, các tiểu thuyết Kim Dung vẫn được tái bản đều đặn khắp châu Á, hàng năm lại có thêm những tác phẩm truyền hình mới dựa theo tác phẩm được sản xuất khiến người xem hào hứng bàn tán không dứt. Ở hai bờ đối lập có Tưởng Kinh Quốc và Đặng Tiểu Bình đều tự nhận là người say mê Kim Dung. Bản thân Kim Dung cũng đảm nhiệm vai trò thành viên Uỷ ban giám sát sự chuyển giao Hồng Kông về với chính phủ Trung Quốc. Khi viết tới chương cuối của Lộc Đỉnh Ký (cũng là cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong sự nghiệp của mình,) Kim Dung để thân phận Vi Tiểu Bảo mãi là một dấu hỏi lớn: y là ai? Vi Tiểu Bảo không mang một thân phận rõ rệt, chính mẹ y cũng không biết ai là cha y. “Thằng con con đĩ” Vi Tiểu Bảo chính là sự tổng hòa của năm dân tộc Mãn Hán Tạng Hồi Mông. Tư tưởng đại đồng, hoà hợp dân tộc ấy chính là niềm hy vọng “điều anh thầm mơ, biết đến bao giờ,…” của Kim Dung dành cho cố quốc, và cũng là nốt nhạc kết của 15 bộ truyện.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
“Tiếu Ngạo Giang Hồ” và Cách mạng Văn hóa (phần 1): từ màu đỏ của mặt trời 8, 9 giờ sáng
Anh Nguyễn - soi.today
Trần Mặc từng nhận xét tiểu thuyết Kim Dung có tính “nhã tục cộng hưởng,” nghĩa là ai cũng có thể đón nhận và say mê nó bất chấp khoảng cách về kiến thức. ”Kẻ hời hợt thì xem náo nhiệt, người sâu sắc thì tìm thấy đạo lý.” Bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ là một ví dụ xác đáng về vấn đề này.
Nói về sức cuốn hút thì Tiếu Ngạo Giang Hồ ăn khách chẳng hề thua kém Anh Hùng Xạ Điêu, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, và hơn hẳn Uyên Ương Đao hay Việt Nữ kiếm (trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung luôn được lòng đông đảo độc giả hơn những tác phẩm ngắn.) Trong cuốn Phế Đô của Giả Bình Ao, nhân vật Hồng Giang tính kế nhập một lô sách kiếm hiệp hạng hai về thay bìa, giả làm truyện Kim Dung để kiếm tiền (“Sách của Kim Dung bán chạy lắm, quyển sách ấy đương nhiên chẳng thể bằng Kim Dung, mình lấy tên Toàn Dung, viết thật láu, chợt nhìn một cái cũng là Kim Dung, nếu họ tra ra, thì cãi tôi viết là Toàn Dung cơ mà”). Nhưng Tiếu Ngạo Giang Hồ còn là một sản phẩm sinh ra từ cảm xúc nội tại của Kim Dung, và rộng hơn, của thời đại. Nếu không có những khía cạnh sâu sắc như vậy thì tác phẩm Kim Dung đã chẳng xứng đáng được lập riêng một ngành nghiên cứu gọi là Kim học (Jinology.)
Tiếu Ngạo Giang Hồ bắt đầu được Kim Dung viết vào năm 1967. Cách mạng Văn hóa được Mao Trạch Đông khởi xướng từ năm 1966. Đây đâu phải là sự trùng hợp. Các học giả cho rằng Tiếu Ngạo Giang Hồ ra đời chẳng những không ngẫu nhiên mà còn rất cố ý cố tình. Theo kết luận chung của giới Kim học, Tiếu Ngạo Giang Hồ không phải phản xạ nghệ thuật vô thức của Kim Dung mà chính là một vở kịch giễu nhại Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hóa. Có bốn luận cứ như sau:
Thứ nhất, tất cả các trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung đều có bối cảnh rõ ràng – Thiên Long Bát Bộ diễn ra đời Bắc Tống, Thần Điêu Hiệp Lữ xảy ra vào cuối thời Nam Tống, Lộc Đỉnh Ký thời nhà Thanh, v.v,… Riêng Tiếu Ngạo Giang Hồ là một ngoại lệ. Theo Li Yijian, sự mơ hồ về thời gian thậm chí “phi thời gian” khiến Tiếu Ngạo Giang Hồ có thể đại diện cho bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ta thấy giới võ lâm tưởng chừng không chịu sự quản chế của triều đình song thực ra vẫn vận hành đúng như một xã hội thu nhỏ với đầy đủ tôn ti trật tự và thủ đoạn chính trị. Những sự kiện diễn ra từng giờ từng phút tại Trung Hoa đại lục chính là cảm hứng trực tiếp để Kim Dung viết Tiếu Ngạo Giang Hồ.
Thứ hai là những yếu tố ám chỉ đến hình ảnh mặt trời. Mặt trời là biểu tượng của Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hoá. Khắp nơi là những khẩu hiệu tuyên truyền ví lớp trẻ “đang độ thăng hoa cuộc đời giống như mặt trời lúc tám, chín giờ sáng”. Mặt trời mang màu đỏ của dòng máu cuộn trào trong huyết quản quần chúng cách mạng. Mặt trời xuất hiện trên pano áp phích, trong những vở kịch, bài hát ca tụng công lao chủ tịch. Cuốn sách Mao Chủ tịch Ngữ lục có màu đỏ rực còn được gọi là Hồng bào thư. Hồng vệ binh đeo băng đỏ, cầm sách đỏ, miệng hát bài Đông phương hồng.
Bích chương cổ động Hồng vệ binh và sách đỏ của Mao
Lời bài hát Đông phương hồng:
Đông phương hồng, mặt trời lên
Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch Đông
Với nhân dân Người là vị cứu tinh
Tính tang tình
Người hằng luôn quan tâm chỉ lối mọi dặm đường
Đảng cộng sản như vầng dương
Ánh tươi chiếu rọi sáng ngời muôn phương
Khắp nơi nơi luôn có Đảng tiên phong
Cuốn sách “Mao Chủ tịch Ngữ lục”
Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ thay vì Chủ nghĩa Mao Trạch Đông ta có Nhật Nguyệt thần giáo. Lúc đầu Kim Dung đặt tên cho giáo phái này là Triều Dương thần giáo (Triều Dương nghĩa là chầu mặt trời) nhưng sau vì e ngại động chạm nên ông đổi thành Nhật Nguyệt (mặt trăng và mặt trời). Vì điều này mà ông bị Nghê Khuông phê bình là thiếu chính kiến và “làm Tiếu Ngạo Giang Hồ kém hẳn đi”. Thế chỗ cho Mao chủ tịch ngữ lục là cuốn sách nhỏ quyền lực Quỳ hoa bảo điển (Quỳ hoa nghĩa là hoa hướng dương.) Và vị giáo chủ võ nghệ siêu phàm mà tất cả mọi người sợ sệt xen lẫn ngưỡng mộ chính là Đông Phương Bất Bại (kẻ bất bại ở phía Đông, hướng mặt trời mọc)
Luận cứ thứ ba không còn dừng lại ở những ẩn ý kín đáo. Khi nghĩ tới Cách mạng Văn hóa, thường ta nghĩ ngay tới hai điều: cảnh đấu tố và sự sùng bái cá nhân (ở đây là tôn thờ Mao Trạch Đông.) Cả hai sắc thái đó xuất hiện trong Tiếu Ngạo Giang Hồ và đều là những cảnh tượng gây chấn động.
Trước tiên là đấu tố ở danh môn chính phái. Khi Lưu Chính Phong mở tiệc rửa tay gác kiếm, toàn thể võ lâm đều tới tham dự. Nhưng bọn đệ tử Tung Sơn kiên quyết không cho ông hoàn thành ý nguyện. Chúng dùng vũ lực bức bách thê tử của ông, bắt ông phải khai ra có quan hệ với trưởng lão của Ma giáo là Khúc Dương, rồi lại ép ông đi ám sát người bạn tri kỷ của mình. Xin mời đọc đoạn sau từ hồi 38 “Bọn Tung Sơn uy hiếp Lưu gia:”
Giữa lúc ấy mười mấy người từ trong hậu đường đi ra. Ðây là Lưu Chính Phong Lưu phu nhân cùng hai đứa nhỏ và đệ tử họ, tất cả bảy người. Sau mỗi người đều có một tên đệ tử phái Tung Sơn, tay cầm đao trủy thủ dí vào sau lưng bọn Lưu phu nhân.
…
Phí Bân đón lấy cây ngũ sắc lệnh kỳ trong tay gã, giơ cao lên tuyên bố:
– Lưu Chính Phong hãy nghe đây! Tả minh chủ có lệnh truyền trong vòng một tháng mà ngươi không chịu giết Khúc Dương thì lập tức Ngũ nhạc kiếm phái phải thanh toán nội bộ để khỏi có mối lo về sau. Ðã nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, quyết chẳng dung tình. Ngươi hãy nghĩ kỹ đi.
…
Phí Bân dõng dạc nói:
– Ðây là việc của một mình Lưu Chính Phong không liên can gì đến các đệ tử khác phái Hành Sơn. Vậy bọn đệ tử phái Hành Sơn không cam tâm phụ trợ nghịch đồ thì phải mau mau qua mé bên tả.
Hồi lâu, một hán tử thanh niên nghẹn ngào lên tiếng:
– Lưu sư bá! Bọn đệ tử cam đành đắc tội với sư bá.
Rồi hơn 30 tên đệ tử phái Hành Sơn sang đứng bên quần ni phái Hằng Sơn.
…
Đệ tử Tung Sơn ngăn Lưu Chính Phong rửa tay chậu vàng để chính thức rời bỏ võ lâm
Gã đệ tử phái Tung Sơn tên gọi Ðịch Tu đứng ở đằng sau người con lớn của Lưu Chính Phong dạ một tiếng rồi nhẹ nhàng chí mũi đoản kiếm trong tay qua làn da sau lưng Lưu công tử.
Lưu Chính Phong nở một nụ cười thê thảm nhìn con hỏi:
– Hài nhi! Ngươi có sợ chết không?
Lưu công tử đáp:
– Hài nhi đã nghe lời gia gia quyết không sợ chết.
Lưu Chính Phong nói:
– Thế thì hay lắm!
Lục Bách quát lên:
– Giết đi!
Ðịch Tu liền phóng kiếm về phía trước suốt qua sau lưng thấu vào trái tim Lưu công tử. Thanh đoản kiếm vừa rút ra, Lưu công tử té xuống liền, máu tươi trào ra như suối.
Lưu phu nhân thét lên một tiếng nhảy xổ về phía thi thể con mình.
Lục Bách lại quát lên:
– Giết đi!
Ðịch Tu giơ kiếm lên phóng tới. Thanh kiếm lại đâm vào sau lưng Lưu phu nhân.
Chưởng môn phái Hành Sơn Lưu Chính Phong và trưởng lão Nhật Nguyệt thần giáo Khúc Dương cùng hợp tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ.” Vì tình bằng hữu mà Lưu Chính Phong bị thân bại danh liệt, tan cửa nát nhà.
Đây là một trích đoạn táng đởm kinh hồn, không phải vì bạo lực máu me mà vì sức nặng tâm lý thật đáng sợ. Người đã đọc Tiếu Ngạo Giang Hồ không dưới năm lần là tôi mà vẫn nín thở, tim đập chân run. Cơn ác mộng đó lại là một đặc trưng của Cách mạng Văn hóa, nó vẫn sống động trên từng trang viết, từng thước phim về thời kỳ này. Những cảnh tượng ép cung tàn nhẫn, dùng người nhà để đấu tố lẫn nhau, tru diệt cả gia tộc, … xảy ra với cường độ và tần suất chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc. Từ Hồng Kông đau đáu theo dõi tình hình quê hương chắc hẳn Kim Dung đã có nhiều đêm dài trăn trở, nhất là khi chính gia đình của ông trở thành nạn nhân. Như mọi nhà văn khác, ông hướng cảm xúc của mình vào ngòi bút. Tại Trung Quốc đang diễn ra một sự thật đáng sợ hơn bất cứ câu chuyện tưởng tượng nào. Và những người dân Hồng Kông khi đọc đến đoạn này ắt hiểu được ngay cảm hứng của Kim Dung đến từ đâu.
(Còn tiếp phần 2 và phần 3)
Anh Nguyễn - soi.today
Trần Mặc từng nhận xét tiểu thuyết Kim Dung có tính “nhã tục cộng hưởng,” nghĩa là ai cũng có thể đón nhận và say mê nó bất chấp khoảng cách về kiến thức. ”Kẻ hời hợt thì xem náo nhiệt, người sâu sắc thì tìm thấy đạo lý.” Bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ là một ví dụ xác đáng về vấn đề này.
Nói về sức cuốn hút thì Tiếu Ngạo Giang Hồ ăn khách chẳng hề thua kém Anh Hùng Xạ Điêu, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, và hơn hẳn Uyên Ương Đao hay Việt Nữ kiếm (trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung luôn được lòng đông đảo độc giả hơn những tác phẩm ngắn.) Trong cuốn Phế Đô của Giả Bình Ao, nhân vật Hồng Giang tính kế nhập một lô sách kiếm hiệp hạng hai về thay bìa, giả làm truyện Kim Dung để kiếm tiền (“Sách của Kim Dung bán chạy lắm, quyển sách ấy đương nhiên chẳng thể bằng Kim Dung, mình lấy tên Toàn Dung, viết thật láu, chợt nhìn một cái cũng là Kim Dung, nếu họ tra ra, thì cãi tôi viết là Toàn Dung cơ mà”). Nhưng Tiếu Ngạo Giang Hồ còn là một sản phẩm sinh ra từ cảm xúc nội tại của Kim Dung, và rộng hơn, của thời đại. Nếu không có những khía cạnh sâu sắc như vậy thì tác phẩm Kim Dung đã chẳng xứng đáng được lập riêng một ngành nghiên cứu gọi là Kim học (Jinology.)
Tiếu Ngạo Giang Hồ bắt đầu được Kim Dung viết vào năm 1967. Cách mạng Văn hóa được Mao Trạch Đông khởi xướng từ năm 1966. Đây đâu phải là sự trùng hợp. Các học giả cho rằng Tiếu Ngạo Giang Hồ ra đời chẳng những không ngẫu nhiên mà còn rất cố ý cố tình. Theo kết luận chung của giới Kim học, Tiếu Ngạo Giang Hồ không phải phản xạ nghệ thuật vô thức của Kim Dung mà chính là một vở kịch giễu nhại Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hóa. Có bốn luận cứ như sau:
Thứ nhất, tất cả các trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung đều có bối cảnh rõ ràng – Thiên Long Bát Bộ diễn ra đời Bắc Tống, Thần Điêu Hiệp Lữ xảy ra vào cuối thời Nam Tống, Lộc Đỉnh Ký thời nhà Thanh, v.v,… Riêng Tiếu Ngạo Giang Hồ là một ngoại lệ. Theo Li Yijian, sự mơ hồ về thời gian thậm chí “phi thời gian” khiến Tiếu Ngạo Giang Hồ có thể đại diện cho bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ta thấy giới võ lâm tưởng chừng không chịu sự quản chế của triều đình song thực ra vẫn vận hành đúng như một xã hội thu nhỏ với đầy đủ tôn ti trật tự và thủ đoạn chính trị. Những sự kiện diễn ra từng giờ từng phút tại Trung Hoa đại lục chính là cảm hứng trực tiếp để Kim Dung viết Tiếu Ngạo Giang Hồ.
Thứ hai là những yếu tố ám chỉ đến hình ảnh mặt trời. Mặt trời là biểu tượng của Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hoá. Khắp nơi là những khẩu hiệu tuyên truyền ví lớp trẻ “đang độ thăng hoa cuộc đời giống như mặt trời lúc tám, chín giờ sáng”. Mặt trời mang màu đỏ của dòng máu cuộn trào trong huyết quản quần chúng cách mạng. Mặt trời xuất hiện trên pano áp phích, trong những vở kịch, bài hát ca tụng công lao chủ tịch. Cuốn sách Mao Chủ tịch Ngữ lục có màu đỏ rực còn được gọi là Hồng bào thư. Hồng vệ binh đeo băng đỏ, cầm sách đỏ, miệng hát bài Đông phương hồng.
Bích chương cổ động Hồng vệ binh và sách đỏ của Mao
Lời bài hát Đông phương hồng:
Đông phương hồng, mặt trời lên
Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch Đông
Với nhân dân Người là vị cứu tinh
Tính tang tình
Người hằng luôn quan tâm chỉ lối mọi dặm đường
Đảng cộng sản như vầng dương
Ánh tươi chiếu rọi sáng ngời muôn phương
Khắp nơi nơi luôn có Đảng tiên phong
Cuốn sách “Mao Chủ tịch Ngữ lục”
Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ thay vì Chủ nghĩa Mao Trạch Đông ta có Nhật Nguyệt thần giáo. Lúc đầu Kim Dung đặt tên cho giáo phái này là Triều Dương thần giáo (Triều Dương nghĩa là chầu mặt trời) nhưng sau vì e ngại động chạm nên ông đổi thành Nhật Nguyệt (mặt trăng và mặt trời). Vì điều này mà ông bị Nghê Khuông phê bình là thiếu chính kiến và “làm Tiếu Ngạo Giang Hồ kém hẳn đi”. Thế chỗ cho Mao chủ tịch ngữ lục là cuốn sách nhỏ quyền lực Quỳ hoa bảo điển (Quỳ hoa nghĩa là hoa hướng dương.) Và vị giáo chủ võ nghệ siêu phàm mà tất cả mọi người sợ sệt xen lẫn ngưỡng mộ chính là Đông Phương Bất Bại (kẻ bất bại ở phía Đông, hướng mặt trời mọc)
Luận cứ thứ ba không còn dừng lại ở những ẩn ý kín đáo. Khi nghĩ tới Cách mạng Văn hóa, thường ta nghĩ ngay tới hai điều: cảnh đấu tố và sự sùng bái cá nhân (ở đây là tôn thờ Mao Trạch Đông.) Cả hai sắc thái đó xuất hiện trong Tiếu Ngạo Giang Hồ và đều là những cảnh tượng gây chấn động.
Trước tiên là đấu tố ở danh môn chính phái. Khi Lưu Chính Phong mở tiệc rửa tay gác kiếm, toàn thể võ lâm đều tới tham dự. Nhưng bọn đệ tử Tung Sơn kiên quyết không cho ông hoàn thành ý nguyện. Chúng dùng vũ lực bức bách thê tử của ông, bắt ông phải khai ra có quan hệ với trưởng lão của Ma giáo là Khúc Dương, rồi lại ép ông đi ám sát người bạn tri kỷ của mình. Xin mời đọc đoạn sau từ hồi 38 “Bọn Tung Sơn uy hiếp Lưu gia:”
Giữa lúc ấy mười mấy người từ trong hậu đường đi ra. Ðây là Lưu Chính Phong Lưu phu nhân cùng hai đứa nhỏ và đệ tử họ, tất cả bảy người. Sau mỗi người đều có một tên đệ tử phái Tung Sơn, tay cầm đao trủy thủ dí vào sau lưng bọn Lưu phu nhân.
…
Phí Bân đón lấy cây ngũ sắc lệnh kỳ trong tay gã, giơ cao lên tuyên bố:
– Lưu Chính Phong hãy nghe đây! Tả minh chủ có lệnh truyền trong vòng một tháng mà ngươi không chịu giết Khúc Dương thì lập tức Ngũ nhạc kiếm phái phải thanh toán nội bộ để khỏi có mối lo về sau. Ðã nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, quyết chẳng dung tình. Ngươi hãy nghĩ kỹ đi.
…
Phí Bân dõng dạc nói:
– Ðây là việc của một mình Lưu Chính Phong không liên can gì đến các đệ tử khác phái Hành Sơn. Vậy bọn đệ tử phái Hành Sơn không cam tâm phụ trợ nghịch đồ thì phải mau mau qua mé bên tả.
Hồi lâu, một hán tử thanh niên nghẹn ngào lên tiếng:
– Lưu sư bá! Bọn đệ tử cam đành đắc tội với sư bá.
Rồi hơn 30 tên đệ tử phái Hành Sơn sang đứng bên quần ni phái Hằng Sơn.
…
Đệ tử Tung Sơn ngăn Lưu Chính Phong rửa tay chậu vàng để chính thức rời bỏ võ lâm
Gã đệ tử phái Tung Sơn tên gọi Ðịch Tu đứng ở đằng sau người con lớn của Lưu Chính Phong dạ một tiếng rồi nhẹ nhàng chí mũi đoản kiếm trong tay qua làn da sau lưng Lưu công tử.
Lưu Chính Phong nở một nụ cười thê thảm nhìn con hỏi:
– Hài nhi! Ngươi có sợ chết không?
Lưu công tử đáp:
– Hài nhi đã nghe lời gia gia quyết không sợ chết.
Lưu Chính Phong nói:
– Thế thì hay lắm!
Lục Bách quát lên:
– Giết đi!
Ðịch Tu liền phóng kiếm về phía trước suốt qua sau lưng thấu vào trái tim Lưu công tử. Thanh đoản kiếm vừa rút ra, Lưu công tử té xuống liền, máu tươi trào ra như suối.
Lưu phu nhân thét lên một tiếng nhảy xổ về phía thi thể con mình.
Lục Bách lại quát lên:
– Giết đi!
Ðịch Tu giơ kiếm lên phóng tới. Thanh kiếm lại đâm vào sau lưng Lưu phu nhân.
Chưởng môn phái Hành Sơn Lưu Chính Phong và trưởng lão Nhật Nguyệt thần giáo Khúc Dương cùng hợp tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ.” Vì tình bằng hữu mà Lưu Chính Phong bị thân bại danh liệt, tan cửa nát nhà.
Đây là một trích đoạn táng đởm kinh hồn, không phải vì bạo lực máu me mà vì sức nặng tâm lý thật đáng sợ. Người đã đọc Tiếu Ngạo Giang Hồ không dưới năm lần là tôi mà vẫn nín thở, tim đập chân run. Cơn ác mộng đó lại là một đặc trưng của Cách mạng Văn hóa, nó vẫn sống động trên từng trang viết, từng thước phim về thời kỳ này. Những cảnh tượng ép cung tàn nhẫn, dùng người nhà để đấu tố lẫn nhau, tru diệt cả gia tộc, … xảy ra với cường độ và tần suất chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc. Từ Hồng Kông đau đáu theo dõi tình hình quê hương chắc hẳn Kim Dung đã có nhiều đêm dài trăn trở, nhất là khi chính gia đình của ông trở thành nạn nhân. Như mọi nhà văn khác, ông hướng cảm xúc của mình vào ngòi bút. Tại Trung Quốc đang diễn ra một sự thật đáng sợ hơn bất cứ câu chuyện tưởng tượng nào. Và những người dân Hồng Kông khi đọc đến đoạn này ắt hiểu được ngay cảm hứng của Kim Dung đến từ đâu.
(Còn tiếp phần 2 và phần 3)
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
“Tiếu Ngạo Giang Hồ” và Cách mạng Văn hóa (phần 2): cũng thanh trừng, cũng sùng bái cá nhân
Anh Nguyễn - soi.today
(Tiếp theo bài 1)
Danh môn chính phái có đấu tố, thì yêu ma tà phái cũng không hề kém. Khi Lệnh Hồ Xung, Hướng Vấn Thiên, Nhậm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh cải trang vào Hắc Mộc Nhai, họ chứng kiến sự hắt hủi của một “quan đại thần” trong Nhật Nguyệt thần giáo:
Lệnh Hồ Xung
Dương Liên Ðình hỏi:
– Ðổng Bách Hùng! Trong Thành Ðức điện này không để cho ngươi la ó om xòm đâu. Ngươi đã thấy mặt giáo chủ sao lại không quỳ? Ngươi còn lớn mật không một lời xưng tụng văn võ thánh đức của giáo chủ nữa ư?
Ðổng Bách Hùng ngửa mặt lên trời cười rộ đáp:
– Ta cùng Ðông Phương huynh đệ lúc kết bạn với nhau làm gì đã có thằng lỏi con ở đây? Ngày trước ta cùng Ðông Phương huynh đệ vào sinh ra tử, cùng chia hoạn nạn. Lúc đó thằng lỏi chưa ráo máu đầu có lẽ chưa ra đời, mà bây giờ đến thứ người đối lời với ta ư?
…
Dương Liên Ðình nói:
– Sau khi Nhậm Ngã Hành bị tật bệnh khỏi rồi, đáng lý phải về ngay bản giáo. Nhưng y lại đi cấu kết với chưởng môn các phái Thiếu Lâm, Võ Ðương, Tung Sơn. Như vậy không phải là mưu cuộc phản loạn thì còn là gì nữa? Tại sao y không đến tham kiến giáo chủ để nghe lời chỉ thị của ngài?
Ðổng Bách Hùng cười ha hả nói:
– Nhậm giáo chủ còn là cựu thượng ty của Ðông Phương huynh đệ. Võ công cùng kiến thức của cựu giáo chủ chưa chắc gì đã kém Ðông Phương huynh đệ. Ðông Phương huynh đệ! ta nói vậy có đúng không?
Dương Liên Ðình lớn tiếng quát:
– Ngươi đừng ỷ mình già nua tuổi tác mà nói càn nữa. Giáo chủ với ai cũng đạo nghĩa ngất trời, không thèm tranh khôn với người đâu. Nếu ngươi tự biết trách mình, lo bề hối cải thì sáng mai ở giữa tổng đàn, ngươi phải nói rõ những hành vi bất pháp của ngươi trước mặt anh em. May ra giáo chủ còn có thể mở đường sinh lộ tha mạng cho. Bằng không thế thì hậu quả ra sao ngươi cũng tự biết rồi.
Ðổng Bách Hùng cười nói:
– Ðồng mỗ gần tám chục tuổi đầu, sống đã quá đủ rồi thì còn sợ gì hậu quả nữa?
Dương Liên Ðình quát:
– Dẫn người lên đây!
Tên hầu áo tía dạ một tiếng
.
Tiếp theo những tiếng xiềng xích loảng xoảng vang lên. Mười mấy người bị áp giải vào đại điện, có nam có nữ và cả mấy đứa con nít độ bảy tám tuổi.
Ðổng Bách Hùng thấy bọn người này tiến vào, lập tức lão biến sắc quát hỏi:
– Dương Liên Ðình! Bậc đại trượng phu mình làm mình chịu. Ngươi bắt cả con cháu ta đến đây làm chi?
Tiếng lão quát làm chấn động màng tai mọi người.
…
Dương Liên Ðình lại hỏi:
– Trong những người nhà Ðổng gia có tên nào thuộc điều thứ ba trong bản giáo huấn của giáo chủ thì đọc ra cho mọi người nghe!
Một thằng nhỏ chừng mười tuổi cất tiếng đọc:
– Văn thành võ đức, nhân nghĩa quang minh. Ðiều thứ ba trong bản giáo huấn của giáo chủ là: Ðối với kẻ thù nghịch cần phải tàn độc. Nhổ cỏ trừ rễ. Già trẻ gái trai, giết cho kỳ hết, đừng để một mống.
Dương Liên Ðình khen: – Giỏi lắm! Giỏi lắm! Nhỏ kia! Mười điều giáo huấn của giáo chủ ngươi đều thuộc lòng cả ư?
Thằng nhỏ đáp:
– Tiểu tử thuộc hết. Hàng ngày không đọc đến bản giáo huấn của giáo chủ là ăn không ngon miệng, ngủ không yên giấc. Hễ đọc
giáo huấn của giáo chủ là luyện võ tiến bộ rất mau, đấm đá thêm phần khí lực.
Dương Liên Ðình cười hỏi:
– Ðúng lắm! Ai dạy ngươi nói câu đó?
Thằng nhỏ đáp:
– Gia gia của tiểu tử dạy thế!
Dương Liên Ðình trỏ vào Ðổng Bách Hùng hỏi:
– Lão kia là ai?
Thằng nhỏ đáp:
– Ðó là tổ phụ của tiểu tử.
Dương Liên Ðình hỏi:
– Tổ phụ ngươi không đọc bản giáo huấn của giáo chủ, không nghe lời giáo chủ. Trái lại y còn phản đối giáo chủ thì ngươi tính sao?
Thằng nhỏ đáp:
– Nếu vậy thì tổ phụ lầm lỗi. Bất cứ ai cũng phải đọc bảo huấn của giáo chủ và nghe lời giáo chủ truyền dạy.
Dương Liên Ðình quay lại hỏi Ðổng Bách Hùng:
– Tôn nhi ngươi là đứa nhỏ lên mười còn biết rõ đạo lý. Ngươi đã bấy nhiêu tuổi đầu, sao lại hồ đồ đến thế?
Ðổng Bách Hùng đáp:
– Ta có nói chuyện với hai vị họ Nhậm và họ Hướng. Bọn họ bảo ta phản giáo chủ nhưng ta không nghe. Ðổng Bách Hùng này nói một là một, hai là hai, quyết chẳng làm việc gì phạm lỗi với người.
Lão thấy trong mấy người trong nhà cả già lẫn trẻ bị bắt đưa vào, nên giọng lưỡi không phải mềm nhũn một phần.
Đoạn này được Kim Dung viết vào khoảng 1968, khi cuộc Cách mạng Văn hoá diễn ra đã được vài năm và tấn tuồng đang trở nên gay cấn hơn. Dân thường không phải là những người duy nhất bị bánh xe Cách mạng văn hóa nghiền nát. Trong số các nạn nhân còn có cả một số quan chức, tướng lĩnh trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để phục vụ âm mưu thanh trừng đấu đá nhau, tất cả những lỗi lầm vặt vãnh trong quá khứ đều bị lôi ra bới móc, gia đình cũng bị đem làm vật thế mạng. Đứa cháu Đổng Bách Hùng hoàn toàn bị tẩy não, sẵn sàng bán đứng tổ phụ trong khi miệng đọc vanh vách mười giáo huấn của “giáo chủ,” thật chẳng khác nào một Hồng vệ binh nho nhỏ dõng dạc khẩu hiệu Mao Trạch Đông. Có lẽ cảnh tượng “đấu tố Đổng Bách Hùng” được Kim Dung lấy cảm hứng từ sự thất sủng của Lưu Thiếu Kỳ. Năm 1968, ông bị Giang Thanh và đồng bọn vu cáo tội phản bội, nội gián, bị khai trừ khỏi Đảng và giam giữ cho đến chết.
Lưu Thiếu Kỳ bị bắt giam và đấu tố như một kẻ “phản đồ”, “nội gian”, “tay sai của đế quốc xét lại, Quốc dân đảng”
Áp phích kêu gọi đấu tố Lưu Thiếu Kỳ
Sự sùng bái cá nhân cũng diễn ra ở cả hai phía: chính giáo và tà giáo.
Trước tiên là chính giáo. Để đạt được chức Chưởng môn Ngũ Nhạc Kiếm Phái, Nhạc Bất Quần lên kế hoạch cẩn thận, dùng đủ mưu hèn kế bẩn: y dùng chính con gái làm mồi nhử Lâm Bình Chi, đổ tội đánh cắp Tịch Tà kiếm phổ cho đồ đệ Lệnh Hồ Xung, cố tình lừa Lao Đức Nặc mang kinh giả về dạy cho Tả Lãnh Thiền, thậm chí vung đao tự thiến để luyện kiếm,… Sau khi đâm mù mắt Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần đường hoàng lên nhận chức giữa tiếng hoan hô vang dậy của quần hào:
Con người lên lãnh chức chưởng môn Ngũ nhạc phái dĩ nhiên danh vọng cùng thanh thế nổi bật lên sáng chói. Trong võ lâm thiếu chi người cầu cạnh, trên chốn giang hồ thiếu chi kẻ hoan hô tâng bốc.
Dưới đài liền có người lớn tiếng đỡ lời:
– Ðao kiếm không mắt thì những cuộc tỷ võ chẳng thể nào giữ cho khỏi chuyện tổn thương.
Một người khác cũng theo hùa:
– Tiên sinh không chém giết tàn nhẫn đã tỏ ra là một bậc đại nhân đại nghĩa, chẳng có điều chi đáng trách.
Nhạc Bất Quần đáp:
– Tại hạ không dám.
Lão vẫn chắp tay đứng thần mặt ra có ý không muốn xuống đài.
Dưới đài lại có tiếng la:
– Còn ai muốn làm chưởng môn Ngũ nhạc phái thì lên đài mà trổ tài đi!
Mấy trăm người đồng thanh lớn tiếng:
– Mời Nhạc tiên sinh giữ chức chưởng môn Ngũ nhạc phái.
– Ngoài Nhạc tiên sinh không còn ai xứng đáng hơn.
…
Dứt lời lão từ từ cất bước. Cách đó chừng mấy chục thước đã có mấy trăm người đứng đón cùng bu quanh lấy lão cùng đi xuống núi.
Chưởng môn Ngũ Nhạc – Nhạc Bất Quần
Thế nhưng chức vụ mà Nhạc Bất Quần dành được vẫn còn tương đối mới mẻ nên mức độ sùng bái vẫn chưa đạt đến đỉnh cao. Nhật Nguyệt thần giáo lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Một thời gian dài giáo chủ Đông Phương Bất Bại sống trong lớp vỏ mù mịt, càng xa vời lại càng huyền bí. Các giáo chúng phần bị ép buộc, phần cầu danh lợi, phần thật sự tin vào quyền năng vô thượng của giáo chủ, tất thảy đều uốn lưng dập đầu ca tụng công đức Đông Phương Bất Bại chẳng khác gì thần linh. Chính vì chán ghét cảnh tượng hèn hạ đấy mà Nhậm Doanh Doanh cùng Lục Trúc Ông xa rời Hắc Mộc Nhai. Về sau Nhậm Ngã Hành đánh bại Đông Phương Bất Bại, cướp lại ngôi nhưng cuộc chuyển giao quyền lực lại diễn ra vô cùng êm thấm. Những tên thuộc hạ mới phút trước còn nói những câu tâng bốc Đông Phương Bất Bại (“Thuộc hạ rất khao khát được ra mắt giáo chủ. Cứ mỗi lần được nhìn kim điện giáo chủ là lại cảm thấy tinh thần phấn khởi, làm việc rất hăng say. Toàn thân rạo rực, tưởng chừng công lực trong người tăng lên bằng mười năm tu luyện”) phút sau đã quay ra thoá mạ giáo chủ cũ, xu nịnh Nhậm Ngã Hành. Trong số hàng ngàn con người đó, không kẻ nào giơ một ngón tay phản kháng hay tỏ ý phục thù. Văn hoá của Nhật Nguyệt Thần Giáo là sùng bái lãnh tụ, nó không hề mất đi mà chỉ chuyển từ lãnh tụ này sang lãnh tụ khác.
Thượng Quan Vân dường như hiểu ý Nhậm Ngã Hành liền nói:
– Thuộc hạ xin dâng lời cung hạ giáo chủ đã giết được tên đại nghịch phản giáo. Từ nay bổn giáo được giáo chủ đích thân điều động mọi việc để khuếch trương giáo phái, oai danh của giáo chúng sẽ vang lừng bốn bể. Thuộc hạ nguyện hết lòng trung, bái chúc giáo chủ Muôn năm trường trị Nhất thống giang hồ…
Nhậm Ngã Hành nghe Thượng Quan Vân vẫn tung hô những câu sáo mép thuộc lòng: “danh vang bốn bể”, “trường trị muôn năm”, “nhất thống giang hồ” thì không thể nhịn được vừa phì cười vừa ngắt lời:
– Muôn năm trường trị… là cái đếch gì..?
Nhưng lão nói tới đây lại nghĩ thầm:
– Nếu trường trị muôn năm, nhất thống giang hồ thì thực sự quả là một điều khoái lạc thứ nhất trên đời, không trách con người mong mỏi như vậy.
Nhậm Ngã Hành nghĩ tới đây rồi phá lên cười. Tiếng cười lúc này rất đỗi hả hê, ra chiều đắc ý vô cùng. ý chừng lão thỏa mãn vì đã đoạt được ngôi giáo chủ một cách chật vật, so với ngày trước lão đương nhiên làm giáo chủ còn khoan khoái hơn nhiều. Y nói tới đây, phía ngoài điện bỗng có người lên tiếng:
– Bọn thuộc hạ là đường chúa, phó đường chúa ở Thủy Hỏa đường, cùng năm vị chánh phó hương chủ xin tham kiến giáo chủ văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, trung hưng thánh giáo, bái thúc giáo chủ muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ.
Nhậm Ngã Hành
Tiếp theo Lệnh Hồ Xung lại nghe vang lên những lời chúc tụng của các đường chúa, hương chủ thốt ra. Chàng cảm thấy thanh âm của bọn này đượm vẻ hồi hộp lo âu. Chắc họ tự biết trong mười mấy năm qua vì tỏ ra hết dạ trung thành với Ðông Phương Bất Bại, ngoài những lời chúc tụng sáo mép, họ đã đưa ra những câu phỉ báng tiền nhiệm giáo chủ là Nhậm Ngã Hành để gièm pha lão, đồng thời làm cho nổi bật vai trò của Ðông Phương Bất Bại. Nay Nhậm Ngã Hành trở lại ngôi giáo chủ, lão mà bới móc chuyện cũ thì bọn chúng khó lòng tránh khỏi cái họa bay đầu.
Chàng còn phân biệt một số đê hèn chưa từng biết mặt Nhậm Ngã Hành chỉ một lòng xu phụ quyền thế. Trước kia chúng ton hót Ðông Phương Bất Bại và Dương Liên Ðình để được mau thăng chức và tránh tai họa thì này sự thay quyền đổi chủ đối với họ là kẻ vi thần vẫn chẳng có nghĩa gì. Những người này kéo gân cổ lên mà ca ngợi tân giáo chủ để được lão chú ý đến. Nhậm giáo chủ hô lên:
– Mời các vị vào đây!
Bỗng thấy mấy hán tử tiến vào trong điện, co gối quỳ cả xuống.
Ngày trước Nhậm Ngã Hành lên làm giáo chủ Triêu Dương thần giáo vẫn hô huynh gọi đệ với giáo chúng trong bản giáo. Bọn thuộc hạ khi gặp mặt giáo chủ chỉ khoanh tay thi lễ mà thôi. Bây giờ lão thấy bọn thuộc hạ quỳ mọp cả xuống liền đứng phắt dậy xua tay đáp:
– Các vị bất tất phải…
Nhưng rồi lão lại tự nhủ:
– Nếu mình thiếu vẻ oai nghiêm thì các giáo đồ khi nào chịu kính phục? Năm trước sở dĩ gian nhân thoán đoạt ngôi giáo chủ của ta, có lẽ vì ta đối đãi với họ quá nhân từ dễ dãi. Vậy những lễ nghi quỳ lạy khấu đầu mà Ðông Phương Bất Bại đã đặt ra, ta cứ để nguyên là hơn.
Lão toan nói: Các vị bất tất phải đa lễ, nhưng mới nói dở câu liền ngừng lại toan ngồi xuống.
Tiếp theo lại có toán người khác lên Hắc Mộc Nhai xin vào bái kiến. Bọn này quỳ mọp xuống hành lễ. Nhậm Ngã Hành không đứng dậy nữa mà chỉ gật đầu.
Lúc này Lệnh Hồ Xung đã lùi ra đến cửa điện cách chỗ giáo chủ ngồi rất xa ánh đèn lại huyền ảo nên nhìn vào không rõ dong mạo của Nhậm Ngã Hành.
Bất giác chàng tự hỏi:
– Người ngồi trong kia là Nhân giáo chủ hay Ðông Phương Bất Bại, hay một nhân vật nào giả mạo mình phân biệt thế nào được?
Giáo chúng Nhật Nguyệt thần giáo phủ phục trước Nhậm Ngã Hành
Lúc này Lệnh Hồ Xung đứng gần cửa điện. Ánh sáng ban mai chiếu vào phía sau chàng. Ngoài đại điện mọi vật đều tỏ rõ, nhưng trong điện chỉ thấy lờ mờ hàng trăm người quỳ mọp dưới đất, miệng tuôn ra không ngớt những lời chúc tụng thuộc lòng.
…
Lão vừa dứt lời phía dưới lại vang lên những câu chúc tụng.
– Giáo chủ nhân nghĩa ngang trời, lượng rộng như biển, sẵn lòng dung tha lỗi lầm cho người dưới trướng. Bọn thuộc hạ từ nay nhất tâm tuân theo lệnh dụ, cốt sao giữ vẹn lòng trung, xá quá thân mình sống thác.
…
Bọn thuộc hạ cũng đồng thanh lớn tiếng:
– Bọn thuộc hạ dù lớn mật đến đâu cũng không dám mảy may trái lệnh. Xin đem hết sức chó ngựa để phục vụ, những mong báo đền ơn cao đức cả của giáo chủ trong muôn một. Cầu nguyện giáo chủ nhân nghĩa anh minh, muôn năm trường trị.
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng bọn thuộc hạ chúc tụng có vẻ run sợ thì biết họ vì kinh hãi nhiều hơn là tâm phục, chàng nghĩ thầm:
– Nhậm giáo chủ và Ðông Phương Bất Bại chẳng lẽ cũng giống nhau? Ðông Phương Bất Bại đã cai trị giáo chúng bằng sự tự tôn, đe dọa khủng bố giáo chúng. Ngoài mặt họ tuy vẻ trung thành mà trong lòng ấm ức không phục. Nếu Nhậm giáo chủ cũng đi vào vết xe cũ thì trường tồn thế nào được?
Chàng đang còn ngẫm nghĩ thì thấy bọn thuộc hạ lại nhao nhao lên kể tội ác của Ðông Phương Bất Bại.
Thậm chí có người tố cáo Ðông Phương Bất Bại ăn một bữa 5 con heo, 3 con bò với hàng chục con dê, khiến Lệnh Hồ Xung không khỏi nghĩ thầm:
– Ðông Phương Bất Bại dù ăn khỏe đến đâu cũng chẳng bụng dạ nào mà chứa được bấy nhiêu thứ. Chắc hắn còn mời bạn bè hoặc cho thuộc hạ cùng ăn mớ hết nhiều như vậy. Hắn là giáo chủ một giáo phái thì việc mổ bò hay mổ heo để thết khách đâu có phải là một đại tội được?
Về sau còn bao nhiêu người thi nhau tố cáo tội trạng của Ðông Phương Bất Bại và đi sâu vào những chi tiết nhỏ mọn, vu vơ. Nào là hắn hỉ nộ thất thường, chợt cười chợt khóc. Nào là hắn mặc xiêm y sặc sỡ, ru rú trong phòng không chịu chường mặt ra trông nom giáo vụ, người thì bảo Ðông Phương Bất Bại kiến thức hẹp hòi, tính tình ngu xuẩn làm việc hồ đồ. Lại có kẻ nói võ công hắn kém cỏi chỉ ỷ thế hăm người chứ không có bản lãnh chân thật nào hết.
Đông Phương Bất Bại
Về điểm này thật là vu cáo, Lệnh Hồ Xung không nhịn được lẩm bẩm:
– Bọn các người quen thói dậu đổ bìm leo, thóa mạ chủ cũ chẳng tiếc lời. Về mọi điều các người tố cáo đúng hay sai ta không thể biết được, nhưng bảo bản lãnh Ðông Phương Bất Bại kém cỏi thì thật là láo toét. Vừa mới đây bọn ta năm người chọi một mà phải chiến đấu liều mạng vẫn không thắng được hắn cơ hồ phải bỏ mình dưới mũi kim thêu của hắn. Ðến Ðông Phương Bất Bại mà còn cho là bản lãnh tầm thường thì khắp thiên hạ còn ai đáng được kể là võ công cao cường nữa? Bọn này ăn nói hồ đồ đến thế mà sao không thấy Nhậm Ngã Hành thổ lộ ý kiến gì về những điều vu hoặc này.
Tiếp theo có người lên tiếng:
– Ðông Phương Bất Bại đam mê tửu sắc, hoang dâm vô độ. Nhất là mấy năm gần đây hắn cưỡng hiếp con gái nhà lương thiện, dâm loạn cả vợ con giáo chúng và sinh ra vô số con hoang.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:
– Ðông Phương Bất Bại vì luyện võ công trong Quỳ Hoa bảo điển mà phải thiến bộ phận sinh dục chẳng khác gì một tên thái giám. Có lý đâu y còn dâm loạn đàn bà và sinh con được?
Chàng nghĩ tới đây không nhịn được nữa phải phì cười.
(Còn tiếp phần 3)
Anh Nguyễn - soi.today
(Tiếp theo bài 1)
Danh môn chính phái có đấu tố, thì yêu ma tà phái cũng không hề kém. Khi Lệnh Hồ Xung, Hướng Vấn Thiên, Nhậm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh cải trang vào Hắc Mộc Nhai, họ chứng kiến sự hắt hủi của một “quan đại thần” trong Nhật Nguyệt thần giáo:
Lệnh Hồ Xung
Dương Liên Ðình hỏi:
– Ðổng Bách Hùng! Trong Thành Ðức điện này không để cho ngươi la ó om xòm đâu. Ngươi đã thấy mặt giáo chủ sao lại không quỳ? Ngươi còn lớn mật không một lời xưng tụng văn võ thánh đức của giáo chủ nữa ư?
Ðổng Bách Hùng ngửa mặt lên trời cười rộ đáp:
– Ta cùng Ðông Phương huynh đệ lúc kết bạn với nhau làm gì đã có thằng lỏi con ở đây? Ngày trước ta cùng Ðông Phương huynh đệ vào sinh ra tử, cùng chia hoạn nạn. Lúc đó thằng lỏi chưa ráo máu đầu có lẽ chưa ra đời, mà bây giờ đến thứ người đối lời với ta ư?
…
Dương Liên Ðình nói:
– Sau khi Nhậm Ngã Hành bị tật bệnh khỏi rồi, đáng lý phải về ngay bản giáo. Nhưng y lại đi cấu kết với chưởng môn các phái Thiếu Lâm, Võ Ðương, Tung Sơn. Như vậy không phải là mưu cuộc phản loạn thì còn là gì nữa? Tại sao y không đến tham kiến giáo chủ để nghe lời chỉ thị của ngài?
Ðổng Bách Hùng cười ha hả nói:
– Nhậm giáo chủ còn là cựu thượng ty của Ðông Phương huynh đệ. Võ công cùng kiến thức của cựu giáo chủ chưa chắc gì đã kém Ðông Phương huynh đệ. Ðông Phương huynh đệ! ta nói vậy có đúng không?
Dương Liên Ðình lớn tiếng quát:
– Ngươi đừng ỷ mình già nua tuổi tác mà nói càn nữa. Giáo chủ với ai cũng đạo nghĩa ngất trời, không thèm tranh khôn với người đâu. Nếu ngươi tự biết trách mình, lo bề hối cải thì sáng mai ở giữa tổng đàn, ngươi phải nói rõ những hành vi bất pháp của ngươi trước mặt anh em. May ra giáo chủ còn có thể mở đường sinh lộ tha mạng cho. Bằng không thế thì hậu quả ra sao ngươi cũng tự biết rồi.
Ðổng Bách Hùng cười nói:
– Ðồng mỗ gần tám chục tuổi đầu, sống đã quá đủ rồi thì còn sợ gì hậu quả nữa?
Dương Liên Ðình quát:
– Dẫn người lên đây!
Tên hầu áo tía dạ một tiếng
.
Tiếp theo những tiếng xiềng xích loảng xoảng vang lên. Mười mấy người bị áp giải vào đại điện, có nam có nữ và cả mấy đứa con nít độ bảy tám tuổi.
Ðổng Bách Hùng thấy bọn người này tiến vào, lập tức lão biến sắc quát hỏi:
– Dương Liên Ðình! Bậc đại trượng phu mình làm mình chịu. Ngươi bắt cả con cháu ta đến đây làm chi?
Tiếng lão quát làm chấn động màng tai mọi người.
…
Dương Liên Ðình lại hỏi:
– Trong những người nhà Ðổng gia có tên nào thuộc điều thứ ba trong bản giáo huấn của giáo chủ thì đọc ra cho mọi người nghe!
Một thằng nhỏ chừng mười tuổi cất tiếng đọc:
– Văn thành võ đức, nhân nghĩa quang minh. Ðiều thứ ba trong bản giáo huấn của giáo chủ là: Ðối với kẻ thù nghịch cần phải tàn độc. Nhổ cỏ trừ rễ. Già trẻ gái trai, giết cho kỳ hết, đừng để một mống.
Dương Liên Ðình khen: – Giỏi lắm! Giỏi lắm! Nhỏ kia! Mười điều giáo huấn của giáo chủ ngươi đều thuộc lòng cả ư?
Thằng nhỏ đáp:
– Tiểu tử thuộc hết. Hàng ngày không đọc đến bản giáo huấn của giáo chủ là ăn không ngon miệng, ngủ không yên giấc. Hễ đọc
giáo huấn của giáo chủ là luyện võ tiến bộ rất mau, đấm đá thêm phần khí lực.
Dương Liên Ðình cười hỏi:
– Ðúng lắm! Ai dạy ngươi nói câu đó?
Thằng nhỏ đáp:
– Gia gia của tiểu tử dạy thế!
Dương Liên Ðình trỏ vào Ðổng Bách Hùng hỏi:
– Lão kia là ai?
Thằng nhỏ đáp:
– Ðó là tổ phụ của tiểu tử.
Dương Liên Ðình hỏi:
– Tổ phụ ngươi không đọc bản giáo huấn của giáo chủ, không nghe lời giáo chủ. Trái lại y còn phản đối giáo chủ thì ngươi tính sao?
Thằng nhỏ đáp:
– Nếu vậy thì tổ phụ lầm lỗi. Bất cứ ai cũng phải đọc bảo huấn của giáo chủ và nghe lời giáo chủ truyền dạy.
Dương Liên Ðình quay lại hỏi Ðổng Bách Hùng:
– Tôn nhi ngươi là đứa nhỏ lên mười còn biết rõ đạo lý. Ngươi đã bấy nhiêu tuổi đầu, sao lại hồ đồ đến thế?
Ðổng Bách Hùng đáp:
– Ta có nói chuyện với hai vị họ Nhậm và họ Hướng. Bọn họ bảo ta phản giáo chủ nhưng ta không nghe. Ðổng Bách Hùng này nói một là một, hai là hai, quyết chẳng làm việc gì phạm lỗi với người.
Lão thấy trong mấy người trong nhà cả già lẫn trẻ bị bắt đưa vào, nên giọng lưỡi không phải mềm nhũn một phần.
Đoạn này được Kim Dung viết vào khoảng 1968, khi cuộc Cách mạng Văn hoá diễn ra đã được vài năm và tấn tuồng đang trở nên gay cấn hơn. Dân thường không phải là những người duy nhất bị bánh xe Cách mạng văn hóa nghiền nát. Trong số các nạn nhân còn có cả một số quan chức, tướng lĩnh trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để phục vụ âm mưu thanh trừng đấu đá nhau, tất cả những lỗi lầm vặt vãnh trong quá khứ đều bị lôi ra bới móc, gia đình cũng bị đem làm vật thế mạng. Đứa cháu Đổng Bách Hùng hoàn toàn bị tẩy não, sẵn sàng bán đứng tổ phụ trong khi miệng đọc vanh vách mười giáo huấn của “giáo chủ,” thật chẳng khác nào một Hồng vệ binh nho nhỏ dõng dạc khẩu hiệu Mao Trạch Đông. Có lẽ cảnh tượng “đấu tố Đổng Bách Hùng” được Kim Dung lấy cảm hứng từ sự thất sủng của Lưu Thiếu Kỳ. Năm 1968, ông bị Giang Thanh và đồng bọn vu cáo tội phản bội, nội gián, bị khai trừ khỏi Đảng và giam giữ cho đến chết.
Lưu Thiếu Kỳ bị bắt giam và đấu tố như một kẻ “phản đồ”, “nội gian”, “tay sai của đế quốc xét lại, Quốc dân đảng”
Áp phích kêu gọi đấu tố Lưu Thiếu Kỳ
Sự sùng bái cá nhân cũng diễn ra ở cả hai phía: chính giáo và tà giáo.
Trước tiên là chính giáo. Để đạt được chức Chưởng môn Ngũ Nhạc Kiếm Phái, Nhạc Bất Quần lên kế hoạch cẩn thận, dùng đủ mưu hèn kế bẩn: y dùng chính con gái làm mồi nhử Lâm Bình Chi, đổ tội đánh cắp Tịch Tà kiếm phổ cho đồ đệ Lệnh Hồ Xung, cố tình lừa Lao Đức Nặc mang kinh giả về dạy cho Tả Lãnh Thiền, thậm chí vung đao tự thiến để luyện kiếm,… Sau khi đâm mù mắt Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần đường hoàng lên nhận chức giữa tiếng hoan hô vang dậy của quần hào:
Con người lên lãnh chức chưởng môn Ngũ nhạc phái dĩ nhiên danh vọng cùng thanh thế nổi bật lên sáng chói. Trong võ lâm thiếu chi người cầu cạnh, trên chốn giang hồ thiếu chi kẻ hoan hô tâng bốc.
Dưới đài liền có người lớn tiếng đỡ lời:
– Ðao kiếm không mắt thì những cuộc tỷ võ chẳng thể nào giữ cho khỏi chuyện tổn thương.
Một người khác cũng theo hùa:
– Tiên sinh không chém giết tàn nhẫn đã tỏ ra là một bậc đại nhân đại nghĩa, chẳng có điều chi đáng trách.
Nhạc Bất Quần đáp:
– Tại hạ không dám.
Lão vẫn chắp tay đứng thần mặt ra có ý không muốn xuống đài.
Dưới đài lại có tiếng la:
– Còn ai muốn làm chưởng môn Ngũ nhạc phái thì lên đài mà trổ tài đi!
Mấy trăm người đồng thanh lớn tiếng:
– Mời Nhạc tiên sinh giữ chức chưởng môn Ngũ nhạc phái.
– Ngoài Nhạc tiên sinh không còn ai xứng đáng hơn.
…
Dứt lời lão từ từ cất bước. Cách đó chừng mấy chục thước đã có mấy trăm người đứng đón cùng bu quanh lấy lão cùng đi xuống núi.
Chưởng môn Ngũ Nhạc – Nhạc Bất Quần
Thế nhưng chức vụ mà Nhạc Bất Quần dành được vẫn còn tương đối mới mẻ nên mức độ sùng bái vẫn chưa đạt đến đỉnh cao. Nhật Nguyệt thần giáo lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Một thời gian dài giáo chủ Đông Phương Bất Bại sống trong lớp vỏ mù mịt, càng xa vời lại càng huyền bí. Các giáo chúng phần bị ép buộc, phần cầu danh lợi, phần thật sự tin vào quyền năng vô thượng của giáo chủ, tất thảy đều uốn lưng dập đầu ca tụng công đức Đông Phương Bất Bại chẳng khác gì thần linh. Chính vì chán ghét cảnh tượng hèn hạ đấy mà Nhậm Doanh Doanh cùng Lục Trúc Ông xa rời Hắc Mộc Nhai. Về sau Nhậm Ngã Hành đánh bại Đông Phương Bất Bại, cướp lại ngôi nhưng cuộc chuyển giao quyền lực lại diễn ra vô cùng êm thấm. Những tên thuộc hạ mới phút trước còn nói những câu tâng bốc Đông Phương Bất Bại (“Thuộc hạ rất khao khát được ra mắt giáo chủ. Cứ mỗi lần được nhìn kim điện giáo chủ là lại cảm thấy tinh thần phấn khởi, làm việc rất hăng say. Toàn thân rạo rực, tưởng chừng công lực trong người tăng lên bằng mười năm tu luyện”) phút sau đã quay ra thoá mạ giáo chủ cũ, xu nịnh Nhậm Ngã Hành. Trong số hàng ngàn con người đó, không kẻ nào giơ một ngón tay phản kháng hay tỏ ý phục thù. Văn hoá của Nhật Nguyệt Thần Giáo là sùng bái lãnh tụ, nó không hề mất đi mà chỉ chuyển từ lãnh tụ này sang lãnh tụ khác.
Thượng Quan Vân dường như hiểu ý Nhậm Ngã Hành liền nói:
– Thuộc hạ xin dâng lời cung hạ giáo chủ đã giết được tên đại nghịch phản giáo. Từ nay bổn giáo được giáo chủ đích thân điều động mọi việc để khuếch trương giáo phái, oai danh của giáo chúng sẽ vang lừng bốn bể. Thuộc hạ nguyện hết lòng trung, bái chúc giáo chủ Muôn năm trường trị Nhất thống giang hồ…
Nhậm Ngã Hành nghe Thượng Quan Vân vẫn tung hô những câu sáo mép thuộc lòng: “danh vang bốn bể”, “trường trị muôn năm”, “nhất thống giang hồ” thì không thể nhịn được vừa phì cười vừa ngắt lời:
– Muôn năm trường trị… là cái đếch gì..?
Nhưng lão nói tới đây lại nghĩ thầm:
– Nếu trường trị muôn năm, nhất thống giang hồ thì thực sự quả là một điều khoái lạc thứ nhất trên đời, không trách con người mong mỏi như vậy.
Nhậm Ngã Hành nghĩ tới đây rồi phá lên cười. Tiếng cười lúc này rất đỗi hả hê, ra chiều đắc ý vô cùng. ý chừng lão thỏa mãn vì đã đoạt được ngôi giáo chủ một cách chật vật, so với ngày trước lão đương nhiên làm giáo chủ còn khoan khoái hơn nhiều. Y nói tới đây, phía ngoài điện bỗng có người lên tiếng:
– Bọn thuộc hạ là đường chúa, phó đường chúa ở Thủy Hỏa đường, cùng năm vị chánh phó hương chủ xin tham kiến giáo chủ văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, trung hưng thánh giáo, bái thúc giáo chủ muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ.
Nhậm Ngã Hành
Tiếp theo Lệnh Hồ Xung lại nghe vang lên những lời chúc tụng của các đường chúa, hương chủ thốt ra. Chàng cảm thấy thanh âm của bọn này đượm vẻ hồi hộp lo âu. Chắc họ tự biết trong mười mấy năm qua vì tỏ ra hết dạ trung thành với Ðông Phương Bất Bại, ngoài những lời chúc tụng sáo mép, họ đã đưa ra những câu phỉ báng tiền nhiệm giáo chủ là Nhậm Ngã Hành để gièm pha lão, đồng thời làm cho nổi bật vai trò của Ðông Phương Bất Bại. Nay Nhậm Ngã Hành trở lại ngôi giáo chủ, lão mà bới móc chuyện cũ thì bọn chúng khó lòng tránh khỏi cái họa bay đầu.
Chàng còn phân biệt một số đê hèn chưa từng biết mặt Nhậm Ngã Hành chỉ một lòng xu phụ quyền thế. Trước kia chúng ton hót Ðông Phương Bất Bại và Dương Liên Ðình để được mau thăng chức và tránh tai họa thì này sự thay quyền đổi chủ đối với họ là kẻ vi thần vẫn chẳng có nghĩa gì. Những người này kéo gân cổ lên mà ca ngợi tân giáo chủ để được lão chú ý đến. Nhậm giáo chủ hô lên:
– Mời các vị vào đây!
Bỗng thấy mấy hán tử tiến vào trong điện, co gối quỳ cả xuống.
Ngày trước Nhậm Ngã Hành lên làm giáo chủ Triêu Dương thần giáo vẫn hô huynh gọi đệ với giáo chúng trong bản giáo. Bọn thuộc hạ khi gặp mặt giáo chủ chỉ khoanh tay thi lễ mà thôi. Bây giờ lão thấy bọn thuộc hạ quỳ mọp cả xuống liền đứng phắt dậy xua tay đáp:
– Các vị bất tất phải…
Nhưng rồi lão lại tự nhủ:
– Nếu mình thiếu vẻ oai nghiêm thì các giáo đồ khi nào chịu kính phục? Năm trước sở dĩ gian nhân thoán đoạt ngôi giáo chủ của ta, có lẽ vì ta đối đãi với họ quá nhân từ dễ dãi. Vậy những lễ nghi quỳ lạy khấu đầu mà Ðông Phương Bất Bại đã đặt ra, ta cứ để nguyên là hơn.
Lão toan nói: Các vị bất tất phải đa lễ, nhưng mới nói dở câu liền ngừng lại toan ngồi xuống.
Tiếp theo lại có toán người khác lên Hắc Mộc Nhai xin vào bái kiến. Bọn này quỳ mọp xuống hành lễ. Nhậm Ngã Hành không đứng dậy nữa mà chỉ gật đầu.
Lúc này Lệnh Hồ Xung đã lùi ra đến cửa điện cách chỗ giáo chủ ngồi rất xa ánh đèn lại huyền ảo nên nhìn vào không rõ dong mạo của Nhậm Ngã Hành.
Bất giác chàng tự hỏi:
– Người ngồi trong kia là Nhân giáo chủ hay Ðông Phương Bất Bại, hay một nhân vật nào giả mạo mình phân biệt thế nào được?
Giáo chúng Nhật Nguyệt thần giáo phủ phục trước Nhậm Ngã Hành
Lúc này Lệnh Hồ Xung đứng gần cửa điện. Ánh sáng ban mai chiếu vào phía sau chàng. Ngoài đại điện mọi vật đều tỏ rõ, nhưng trong điện chỉ thấy lờ mờ hàng trăm người quỳ mọp dưới đất, miệng tuôn ra không ngớt những lời chúc tụng thuộc lòng.
…
Lão vừa dứt lời phía dưới lại vang lên những câu chúc tụng.
– Giáo chủ nhân nghĩa ngang trời, lượng rộng như biển, sẵn lòng dung tha lỗi lầm cho người dưới trướng. Bọn thuộc hạ từ nay nhất tâm tuân theo lệnh dụ, cốt sao giữ vẹn lòng trung, xá quá thân mình sống thác.
…
Bọn thuộc hạ cũng đồng thanh lớn tiếng:
– Bọn thuộc hạ dù lớn mật đến đâu cũng không dám mảy may trái lệnh. Xin đem hết sức chó ngựa để phục vụ, những mong báo đền ơn cao đức cả của giáo chủ trong muôn một. Cầu nguyện giáo chủ nhân nghĩa anh minh, muôn năm trường trị.
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng bọn thuộc hạ chúc tụng có vẻ run sợ thì biết họ vì kinh hãi nhiều hơn là tâm phục, chàng nghĩ thầm:
– Nhậm giáo chủ và Ðông Phương Bất Bại chẳng lẽ cũng giống nhau? Ðông Phương Bất Bại đã cai trị giáo chúng bằng sự tự tôn, đe dọa khủng bố giáo chúng. Ngoài mặt họ tuy vẻ trung thành mà trong lòng ấm ức không phục. Nếu Nhậm giáo chủ cũng đi vào vết xe cũ thì trường tồn thế nào được?
Chàng đang còn ngẫm nghĩ thì thấy bọn thuộc hạ lại nhao nhao lên kể tội ác của Ðông Phương Bất Bại.
Thậm chí có người tố cáo Ðông Phương Bất Bại ăn một bữa 5 con heo, 3 con bò với hàng chục con dê, khiến Lệnh Hồ Xung không khỏi nghĩ thầm:
– Ðông Phương Bất Bại dù ăn khỏe đến đâu cũng chẳng bụng dạ nào mà chứa được bấy nhiêu thứ. Chắc hắn còn mời bạn bè hoặc cho thuộc hạ cùng ăn mớ hết nhiều như vậy. Hắn là giáo chủ một giáo phái thì việc mổ bò hay mổ heo để thết khách đâu có phải là một đại tội được?
Về sau còn bao nhiêu người thi nhau tố cáo tội trạng của Ðông Phương Bất Bại và đi sâu vào những chi tiết nhỏ mọn, vu vơ. Nào là hắn hỉ nộ thất thường, chợt cười chợt khóc. Nào là hắn mặc xiêm y sặc sỡ, ru rú trong phòng không chịu chường mặt ra trông nom giáo vụ, người thì bảo Ðông Phương Bất Bại kiến thức hẹp hòi, tính tình ngu xuẩn làm việc hồ đồ. Lại có kẻ nói võ công hắn kém cỏi chỉ ỷ thế hăm người chứ không có bản lãnh chân thật nào hết.
Đông Phương Bất Bại
Về điểm này thật là vu cáo, Lệnh Hồ Xung không nhịn được lẩm bẩm:
– Bọn các người quen thói dậu đổ bìm leo, thóa mạ chủ cũ chẳng tiếc lời. Về mọi điều các người tố cáo đúng hay sai ta không thể biết được, nhưng bảo bản lãnh Ðông Phương Bất Bại kém cỏi thì thật là láo toét. Vừa mới đây bọn ta năm người chọi một mà phải chiến đấu liều mạng vẫn không thắng được hắn cơ hồ phải bỏ mình dưới mũi kim thêu của hắn. Ðến Ðông Phương Bất Bại mà còn cho là bản lãnh tầm thường thì khắp thiên hạ còn ai đáng được kể là võ công cao cường nữa? Bọn này ăn nói hồ đồ đến thế mà sao không thấy Nhậm Ngã Hành thổ lộ ý kiến gì về những điều vu hoặc này.
Tiếp theo có người lên tiếng:
– Ðông Phương Bất Bại đam mê tửu sắc, hoang dâm vô độ. Nhất là mấy năm gần đây hắn cưỡng hiếp con gái nhà lương thiện, dâm loạn cả vợ con giáo chúng và sinh ra vô số con hoang.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:
– Ðông Phương Bất Bại vì luyện võ công trong Quỳ Hoa bảo điển mà phải thiến bộ phận sinh dục chẳng khác gì một tên thái giám. Có lý đâu y còn dâm loạn đàn bà và sinh con được?
Chàng nghĩ tới đây không nhịn được nữa phải phì cười.
(Còn tiếp phần 3)
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
“Tiếu Ngạo Giang Hồ” và Cách mạng Văn hóa (phần 3): ba lý do của một người khôn ngoan
Anh Nguyễn - soi.today
(Tiếp theo bài 2)
Có thể nói Nhật Nguyệt thần giáo đã nuôi dưỡng một “echo chamber” điển hình – một thứ cộng đồng khép kín tuân theo quy ước riêng, nơi mọi hành động lời nói thậm chí suy nghĩ đều bị kiểm soát chặt chẽ. Tất cả thông tin đều là âm vang dội lại từ hệ tư tưởng của nhà độc tài. Mọi bất đồng chính kiến đều bị dập tắt, ý chí cá nhân hoàn toàn tiêu tan. Được thần phục ở môi trường như vậy thì ngay người bình thường cũng không tránh khỏi bệnh vĩ cuồng. Nhưng khi sóng lật thì kẻ chuyên quyền hôm nay cũng có thể bị nuốt chửng trong vòng xoáy chính trị, tự biến mình thành một con tốt của lịch sử. Nếu giáo chủ là trung tâm của Nhật Nguyệt thần giáo thì Mao Trạch Đông chính là trung tâm của Cách mạng Văn hóa. Ở Trung Quốc Mao được tôn sùng chẳng khác nào một vị chúa cứu thế, nhân dân thêu dệt những câu chuyện huyền thoại về ông, treo ảnh ông, miệng không ngớt ca tụng ông.
Một áp phích thời Cách mạng Văn hóa trên có dòng chữ “Ánh dương tư tưởng Mao Trạch Đông rọi đường cho cuộc Đại Cách mạng Văn hóa của giai cấp vô sản”. Hình từ trang này
Sự tương đồng giữa Nhật Nguyệt thần giáo và giáo phái Mao Trạch Đông là không thể bàn cãi. Nhưng với Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung cố tình làm mờ ranh giới giữa chính phái và tà phái. Cả chính phái và tà phái đều có đấu tố, cả chính phái và tà phái đều tôn thờ lãnh tụ. Vì sao lại như vậy? Có ba lý do:
Lý do thứ nhất, Kim Dung phô bày sự xấu xa của các đoàn thể, chế độ hay vỗ ngực tự xưng là quang minh chính đại. Khi mọi việc được phô bày ta thấy Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần còn gian xảo hơn Nhậm Ngã Hành, Dư Thương Hải còn tàn ác hơn Hướng Vấn Thiên. Hai cao thủ xuất chúng nhất hai phe chính-tà là Nhạc Bất Quần và Đông Phương Bất Bại hóa ra luyện chung một bộ kiếm pháp, đều trở thành kẻ bán nam bán nữ, không còn tính người. Bài học ở đây: bất kỳ tổ chức nào cũng có khả năng biến tướng thành chuyên quyền dù thông điệp ban đầu có tích cực bao nhiêu. Tương tự, mọi nhà lãnh đạo đều có khả năng trở thành một kẻ độc tài nếu được giao cho quá nhiều quyền lực.
Hình tượng Đông Phương Bất Bại thường được miêu tả như một kẻ bán nam bán nữ. Trong một số phim, nhân vật này còn do diễn viên nữ thủ vai.
Lý do thứ hai, Kim Dung muốn chỉ ra rằng: dưới lớp vỏ của đấu tố (chỉ trích) và xu nịnh (tung hô) đều là mục đích cá nhân. Đương nhiên luôn có những cá nhân ngây thơ tin vào chế độ vô điều kiện, nhưng đa số những kẻ thực hiện việc đấu tố và xu nịnh chỉ muốn tốt cho bản thân: hoặc bảo vệ gia đình, hoặc vơ vét tài sản, hoặc trả thù riêng tư, hoặc thăng quan tiến chức. Khi xã hội cho phép thậm chí khuyến khích điều đó thì các giá trị nhân văn hoàn toàn bị đảo lộn và tình người không còn chỗ sống, nhường chỗ cho tinh thần trên đội dưới đạp. Đây là một bài học cảnh giác vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Cuối truyện Tiếu Ngạo, tất cả những kẻ chuyên quyền và tay sai của chúng (Nhậm Ngã Hành, Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần, Lao Đức Nặc,…) đều bị Kim Dung trừng phạt, nhưng cuộc đời thực chưa chắc đã có may mắn đó.
Lý do thứ ba, Kim Dung mượn sự đấu đá giữa hai phe chính-tà để ám chỉ sự tranh giành quyền lực giữa Trung Hoa đại lục và Đài Loan. Điều nực cười là Trung Hoa đại lục cấm Tiếu Ngạo Giang Hồ vì cho rằng nó chế nhạo Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hóa, còn chính quyền Đài Loan thì cấm vì cho rằng Kim Dung ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ tuổi thiếu niên Kim Dung đã dám viết truyện giễu thầy hiệu trưởng đến mức bị đuổi học. Tinh thần quật cường, không sợ giới cầm quyền của Kim Dung rõ ràng không hề bị phai nhạt khi ông tới tuổi trưởng thành.
Luận cứ thứ tư chứng tỏ Tiếu Ngạo Giang Hồ chính là Trung Quốc thời Cách mạng Văn hóa thu nhỏ nằm ở nhân vật Đông Phương Bất Bại. Theo John Christopher Hamm trong cuốn Paper Swordsmen, vị giáo chủ Nhật Nguyệt Thần Giáo chính là tổng hợp của Mao Trạch Đông và “Phó thống soái” Lâm Bưu. Người này được phong nguyên soái nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyền thế nghiêng trời, là cánh tay phải luôn xuất hiện bên Mao Trạch Đông. Lâm Bưu thăng tiến rất nhanh, được phong làm Phó chủ tịch Đảng duy nhất, cũng là người được chọn kế vị Mao. Thế nhưng khi quan hệ giữa hai người dần xấu đi, Lâm Bưu trở nên nôn nóng. Với mục tiêu nắm quyền làm chủ đất nước, Lâm Bưu cùng vây cánh lên kế hoạch ám sát Mao Trạch Đông. Toàn bộ chương trình đảo chính đã được Lâm Bưu và bộ sậu bàn thảo chi tiết, nhưng vẫn thất bại. Các chi tiết mờ ám xung quanh sự tử nạn của Lâm Bưu vẫn chưa được làm sáng tỏ. Sau khi chết, Lâm Bưu đã bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản và kết tội phản bội.
Tước hiệu và quyền lực của Đông Phương Bất Bại có hàm ý ám chỉ Mao Trạch Đông, nhưng sự nghiệp của y có thể nói là gần như giống hệt Lâm Bưu. Điều đáng nói là Kim Dung viết xong Tiếu Ngạo Giang Hồ năm 1969, tức là 2 năm trước khi Lâm Bưu tìm cách lật đổ Mao Trạch Đông. Bằng trực quan của mình, Kim Dung đã tiên đoán được ý đồ và vận mệnh của “tên phản loạn” Lâm Bưu.
Lâm Bưu và Mao trước khi bị “thất sủng”
Khi quá nhiều người chỉ ra sự trùng hợp giữa Tiếu Ngạo Giang Hồ và Cách mạng Văn hóa, Kim Dung đã có đôi lời.
“Trong những năm tôi viết Tiếu Ngạo Giang Hồ, cuộc Cách Mạng Văn Hóa ở Trung Hoa bùng lên như ngọn lửa hoang thiêu đốt tất cả. Để giành được quyền lực, các bên đấu đá nhau đã không từ thủ đoạn nào và bản chất xấu xa của con người được bộc lộ theo những cách đáng ghê tởm nhất. Mỗi ngày khi tôi viết cho Minh Báo, cảm xúc phẫn nộ của tôi đi vào những câu chữ một cách tự nhiên, chứ tôi không cố tình dùng Tiếu Ngạo Giang Hồ để miêu tả Cách mạng Văn hóa.”
Tại sao Kim Dung đã thừa nhận ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa rồi lại chối bỏ, đồng thời còn dành nhiều năm sau đấy hiệu đính Tiếu Ngạo Giang Hồ để bỏ đi những chi tiết quá “nhạy cảm?” Là một con người khôn ngoan kín đáo, từng là sinh viên tại Học viện chính trị trung ương tại Trùng Khánh, có lẽ Kim Dung hiểu hơn ai hết sự cân bằng giữa tự do nghệ thuật và lợi ích cá nhân. Nhờ vị trí trung lập của mình mà ngày nay các tác phẩm của Kim Dung đã không còn bị cấm tại Trung Hoa đại lục và Đài Loan, bản thân Kim Dung cũng trở thành một nhân vật được tất cả các phe phái trọng vọng, mà thông điệp của Tiếu Ngạo Giang Hồ vẫn còn nguyên giá trị.
Anh Nguyễn - soi.today
(Tiếp theo bài 2)
Có thể nói Nhật Nguyệt thần giáo đã nuôi dưỡng một “echo chamber” điển hình – một thứ cộng đồng khép kín tuân theo quy ước riêng, nơi mọi hành động lời nói thậm chí suy nghĩ đều bị kiểm soát chặt chẽ. Tất cả thông tin đều là âm vang dội lại từ hệ tư tưởng của nhà độc tài. Mọi bất đồng chính kiến đều bị dập tắt, ý chí cá nhân hoàn toàn tiêu tan. Được thần phục ở môi trường như vậy thì ngay người bình thường cũng không tránh khỏi bệnh vĩ cuồng. Nhưng khi sóng lật thì kẻ chuyên quyền hôm nay cũng có thể bị nuốt chửng trong vòng xoáy chính trị, tự biến mình thành một con tốt của lịch sử. Nếu giáo chủ là trung tâm của Nhật Nguyệt thần giáo thì Mao Trạch Đông chính là trung tâm của Cách mạng Văn hóa. Ở Trung Quốc Mao được tôn sùng chẳng khác nào một vị chúa cứu thế, nhân dân thêu dệt những câu chuyện huyền thoại về ông, treo ảnh ông, miệng không ngớt ca tụng ông.
Một áp phích thời Cách mạng Văn hóa trên có dòng chữ “Ánh dương tư tưởng Mao Trạch Đông rọi đường cho cuộc Đại Cách mạng Văn hóa của giai cấp vô sản”. Hình từ trang này
Sự tương đồng giữa Nhật Nguyệt thần giáo và giáo phái Mao Trạch Đông là không thể bàn cãi. Nhưng với Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung cố tình làm mờ ranh giới giữa chính phái và tà phái. Cả chính phái và tà phái đều có đấu tố, cả chính phái và tà phái đều tôn thờ lãnh tụ. Vì sao lại như vậy? Có ba lý do:
Lý do thứ nhất, Kim Dung phô bày sự xấu xa của các đoàn thể, chế độ hay vỗ ngực tự xưng là quang minh chính đại. Khi mọi việc được phô bày ta thấy Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần còn gian xảo hơn Nhậm Ngã Hành, Dư Thương Hải còn tàn ác hơn Hướng Vấn Thiên. Hai cao thủ xuất chúng nhất hai phe chính-tà là Nhạc Bất Quần và Đông Phương Bất Bại hóa ra luyện chung một bộ kiếm pháp, đều trở thành kẻ bán nam bán nữ, không còn tính người. Bài học ở đây: bất kỳ tổ chức nào cũng có khả năng biến tướng thành chuyên quyền dù thông điệp ban đầu có tích cực bao nhiêu. Tương tự, mọi nhà lãnh đạo đều có khả năng trở thành một kẻ độc tài nếu được giao cho quá nhiều quyền lực.
Hình tượng Đông Phương Bất Bại thường được miêu tả như một kẻ bán nam bán nữ. Trong một số phim, nhân vật này còn do diễn viên nữ thủ vai.
Lý do thứ hai, Kim Dung muốn chỉ ra rằng: dưới lớp vỏ của đấu tố (chỉ trích) và xu nịnh (tung hô) đều là mục đích cá nhân. Đương nhiên luôn có những cá nhân ngây thơ tin vào chế độ vô điều kiện, nhưng đa số những kẻ thực hiện việc đấu tố và xu nịnh chỉ muốn tốt cho bản thân: hoặc bảo vệ gia đình, hoặc vơ vét tài sản, hoặc trả thù riêng tư, hoặc thăng quan tiến chức. Khi xã hội cho phép thậm chí khuyến khích điều đó thì các giá trị nhân văn hoàn toàn bị đảo lộn và tình người không còn chỗ sống, nhường chỗ cho tinh thần trên đội dưới đạp. Đây là một bài học cảnh giác vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Cuối truyện Tiếu Ngạo, tất cả những kẻ chuyên quyền và tay sai của chúng (Nhậm Ngã Hành, Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần, Lao Đức Nặc,…) đều bị Kim Dung trừng phạt, nhưng cuộc đời thực chưa chắc đã có may mắn đó.
Lý do thứ ba, Kim Dung mượn sự đấu đá giữa hai phe chính-tà để ám chỉ sự tranh giành quyền lực giữa Trung Hoa đại lục và Đài Loan. Điều nực cười là Trung Hoa đại lục cấm Tiếu Ngạo Giang Hồ vì cho rằng nó chế nhạo Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hóa, còn chính quyền Đài Loan thì cấm vì cho rằng Kim Dung ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ tuổi thiếu niên Kim Dung đã dám viết truyện giễu thầy hiệu trưởng đến mức bị đuổi học. Tinh thần quật cường, không sợ giới cầm quyền của Kim Dung rõ ràng không hề bị phai nhạt khi ông tới tuổi trưởng thành.
Luận cứ thứ tư chứng tỏ Tiếu Ngạo Giang Hồ chính là Trung Quốc thời Cách mạng Văn hóa thu nhỏ nằm ở nhân vật Đông Phương Bất Bại. Theo John Christopher Hamm trong cuốn Paper Swordsmen, vị giáo chủ Nhật Nguyệt Thần Giáo chính là tổng hợp của Mao Trạch Đông và “Phó thống soái” Lâm Bưu. Người này được phong nguyên soái nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyền thế nghiêng trời, là cánh tay phải luôn xuất hiện bên Mao Trạch Đông. Lâm Bưu thăng tiến rất nhanh, được phong làm Phó chủ tịch Đảng duy nhất, cũng là người được chọn kế vị Mao. Thế nhưng khi quan hệ giữa hai người dần xấu đi, Lâm Bưu trở nên nôn nóng. Với mục tiêu nắm quyền làm chủ đất nước, Lâm Bưu cùng vây cánh lên kế hoạch ám sát Mao Trạch Đông. Toàn bộ chương trình đảo chính đã được Lâm Bưu và bộ sậu bàn thảo chi tiết, nhưng vẫn thất bại. Các chi tiết mờ ám xung quanh sự tử nạn của Lâm Bưu vẫn chưa được làm sáng tỏ. Sau khi chết, Lâm Bưu đã bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản và kết tội phản bội.
Tước hiệu và quyền lực của Đông Phương Bất Bại có hàm ý ám chỉ Mao Trạch Đông, nhưng sự nghiệp của y có thể nói là gần như giống hệt Lâm Bưu. Điều đáng nói là Kim Dung viết xong Tiếu Ngạo Giang Hồ năm 1969, tức là 2 năm trước khi Lâm Bưu tìm cách lật đổ Mao Trạch Đông. Bằng trực quan của mình, Kim Dung đã tiên đoán được ý đồ và vận mệnh của “tên phản loạn” Lâm Bưu.
Lâm Bưu và Mao trước khi bị “thất sủng”
Khi quá nhiều người chỉ ra sự trùng hợp giữa Tiếu Ngạo Giang Hồ và Cách mạng Văn hóa, Kim Dung đã có đôi lời.
“Trong những năm tôi viết Tiếu Ngạo Giang Hồ, cuộc Cách Mạng Văn Hóa ở Trung Hoa bùng lên như ngọn lửa hoang thiêu đốt tất cả. Để giành được quyền lực, các bên đấu đá nhau đã không từ thủ đoạn nào và bản chất xấu xa của con người được bộc lộ theo những cách đáng ghê tởm nhất. Mỗi ngày khi tôi viết cho Minh Báo, cảm xúc phẫn nộ của tôi đi vào những câu chữ một cách tự nhiên, chứ tôi không cố tình dùng Tiếu Ngạo Giang Hồ để miêu tả Cách mạng Văn hóa.”
Tại sao Kim Dung đã thừa nhận ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa rồi lại chối bỏ, đồng thời còn dành nhiều năm sau đấy hiệu đính Tiếu Ngạo Giang Hồ để bỏ đi những chi tiết quá “nhạy cảm?” Là một con người khôn ngoan kín đáo, từng là sinh viên tại Học viện chính trị trung ương tại Trùng Khánh, có lẽ Kim Dung hiểu hơn ai hết sự cân bằng giữa tự do nghệ thuật và lợi ích cá nhân. Nhờ vị trí trung lập của mình mà ngày nay các tác phẩm của Kim Dung đã không còn bị cấm tại Trung Hoa đại lục và Đài Loan, bản thân Kim Dung cũng trở thành một nhân vật được tất cả các phe phái trọng vọng, mà thông điệp của Tiếu Ngạo Giang Hồ vẫn còn nguyên giá trị.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Đọc Kim Dung (bài 1): Quách Tĩnh – Bảy lần leo núi để thành núi
Anh Nguyễn - soi.today
“Xạ điêu tam bộ khúc” là bộ ba tiểu thuyết võ hiệp Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Hiệp Lữ, Ỷ Thiên Đồ Long Ký gộp lại mà thành, trải dài từ sự hình thành của đế chế Mông Cổ cho tới khi quân Minh đánh đổ nhà Nguyên. Trong đó, hai tác phẩm Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp Lữ có quan hệ chặt chẽ hơn hẳn Ỷ Thiên Đồ Long Ký xảy ra sau đó tận 80 năm. Chính vì vậy hai nhân vật chính Quách Tĩnh-Dương Quá cũng thường xuyên được đem ra đặt lên bàn cân so sánh.
Nhà phê bình Trần Mặc đã nhận xét rất xác đáng: “Linh cảm xây dựng hình tượng Dương Quá về cơ bản là xuất phát từ việc so sánh với hình tượng đại hiệp Quách Tĩnh mà ra. Quách Tĩnh chậm chạp ngốc nghếch, Dương Quá thì thông minh lanh lợi; Quách Tĩnh chính trực đôn hậu, Dương Quá thì mẫn cảm thiên kiến; Quách Tĩnh trầm tĩnh vụng nói, Dương Quá thì nhiệt tình giỏi biện luận; Quách Tĩnh chuyên nhất cố chấp, Dương Quá thì giảo hoạt đa biến; Quách Tĩnh xuất thân trong sạch, Dương Quá thì thân thế có bí ẩn và vết nhơ. Nếu ví tính cách của Quách Tĩnh như một khối đá vững chắc, không lay chuyển; thì tính cách của Dương Quá giống như một chất lỏng nóng chảy, mẫn cảm, lưu động, có lúc sưởi ấm lòng người, làm tan băng giá, nhưng có lúc lại đốt cháy người khác, thậm chí dẫn đến hủy diệt họ. Tóm lại, hình tượng Quách Tĩnh là mẫu mực chính tông của thế giới võ hiệp, còn hình tượng Dương Quá là một thứ khác hẳn, trái với mẫu mực của thế giới võ hiệp.”
Những ai đã đọc Kim Dung dù ít dù nhiều đều có thể kiểm chứng tính xác thực của những luận điểm trên. Cũng có nhà phân tích cho rằng Quách Tĩnh là tiêu biểu của Nho gia còn Dương Quá là tiêu biểu của Đạo gia, Quách Tĩnh mang gương mặt của Trung Hoa đại lục còn Dương Quá là một Hong Kong ngạo nghễ,… Ở bài này, thay vì “cày xới” lại những điều đã cũ, chúng ta hãy cùng tiếp cận hai nhân vật này từ một hướng khác – cảnh quan địa lý.
Quách Tĩnh tuổi thiếu niên
Những địa danh xuất hiện trong tiểu thuyết Kim Dung không đơn thuần là nơi diễn ra cảnh máu chảy đầu rơi hay những cuộc hội ngộ phi phàm. Chúng có một thứ linh hồn đặc biệt, siêu thực, vĩnh viễn ngự trị trong trí tưởng tượng của người đọc. Việc những địa danh này liệu có tồn tại trong thực tế không chẳng còn quan trọng nữa, bởi chúng đã được khắc sâu trong tiềm thức của giới “Kim mê” bằng những nét bút kỳ ảo. Ai có thể quên được Nhạn Môn Quan đầy tình ý thê lương trong Thiên Long Bát Bộ, Hắc Mộc Nhai thần bí của Tiếu Ngạo Giang Hồ, hay Quang Minh Đỉnh hùng vĩ trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký? Nhưng có lẽ không có tác phẩm mà cảnh quan địa lý lại đóng vai trò cơ bản trong việc mô tả tính cách nhân vật như bộ đôi Anh Hùng-Thần Điêu.
*
Trước hết hãy bàn về Quách Tĩnh. Thật không ngoa nếu nói hành trình của chàng trong Anh Hùng Xạ Điêu là một chuỗi các cuộc… leo núi. Chỉ cần điểm lại mà xem, ta sẽ thấy Quách Tĩnh liên tục chinh phục những đỉnh cao.
Lần thứ nhất, chú bé Quách Tĩnh chấp nhận thử thách của Giang Nam Lục Quái, trèo lên núi giữa đêm khuya khoắt để bái sư.
Lần thứ hai, cậu thiếu niên Quách Tĩnh lại leo lên đỉnh núi hiểm trở mỗi tối để học phép tu luyện nội công thượng thừa của đạo trưởng Mã Ngọc.
Lần thứ ba là khi chàng bắt Đô Sử lên núi để gây áp lực cứu Thiết Mộc Chân (sau là Thành Cát Tư Hãn), từ đó được phong làm Kim Đao phò mã.
Lần thứ tư, Quách Tĩnh chạy lên núi Thiết Chưởng để bảo vệ Vũ Mục di thư của Nhạc Phi, cuốn binh pháp này về sau sẽ giúp chàng cầm quân bách chiến bách thắng.
Lần thứ năm, chàng ta cõng Hoàng Dung lên núi tìm Nhất Đăng Đại Sư để xin chữa thương.
Lần thứ sáu, chàng leo lên đỉnh Cây Trọc mong gặp lại người yêu.
Lần thứ bảy, cũng coi như “lễ tốt nghiệp” của chàng khờ Quách Tĩnh – là cuộc luận kiếm tại Hoa Sơn với các đại cao thủ võ học.
Bìa sách Anh Hùng Xạ Điêu với cảnh núi non
Bảy lần leo núi được Kim Dung bố trí khéo léo trong Anh Hùng Xạ Điêu để tương ứng với những cột mốc trưởng thành của Quách Tĩnh. Từ một chú bé mồ côi cha đáng thương, Quách Tĩnh vụt sáng thành thiếu niên anh hùng, rồi lại trở thành đại hiệp lừng lẫy đương thời. Có hai điểm cần lưu ý về hành trình leo núi của Quách Tĩnh:
– Thứ nhất, mỗi lần leo núi Quách Tĩnh đều giành được một vật báu nào đó: khi là bí quyết võ học, khi là binh thư, khi là ngôi Kim Đao phò mã, khi là cách đánh thành,.. Thế nhưng điều chàng nhắm tới mỗi khi chinh phục đỉnh cao không bao giờ là võ công, của cải, hay danh vọng. Thứ thúc đẩy Quách Tĩnh luôn là danh dự và tình cảm dành cho những người xung quanh: với sư phụ, với Đại Hãn, với người yêu. Và đúng như hiện tượng “vô tâm trồng liễu liễu xanh rờn,” Quách Tĩnh luôn được số phận tưởng thưởng: chàng dần học được nội công Huyền môn của phái Toàn Chân và Nam đế, triệt thành Hoa Thích Tử Mô, giành lấy trái tim của Hoàng Dung,.. Càng quên mình, Quách Tĩnh càng may mắn. Ngược lại, những kẻ ham hố theo đuổi võ công, quyền lực, nhan sắc trong Anh Hùng Xạ Điêu như Âu Dương Phong, Âu Dương Khắc, Cầu Thiên Nhận đều nhận phải quả đắng. Luật nhân quả được Kim Dung áp dụng triệt để trong tác phẩm này.
Quách Tĩnh cùng Hoàng Dung trên đỉnh núi
– Thứ hai, những lần leo núi của Quách Tĩnh không đơn thuần là thử thách về thể lực. Ý nghĩa tượng trưng ở đây có thể nói là rõ mồn một. Mỗi lần Quách Tĩnh chinh phục một đỉnh cao là một lần chàng vượt qua chính mình, một lần lột xác: khả năng võ học của chàng mỗi lúc lại mạnh hơn, chàng cũng trở nên lịch duyệt giang hồ, không còn là cậu bé ngờ nghệch nữa. Thế nhưng Kim Dung đã rất tinh tế khi cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Quách Tĩnh vẫn không hề thay đổi! Xin thử đối chiếu hai đoạn dưới:
Y giữa tuyệt cảnh chợt nghĩ tới hai câu Tứ sư phụ từng nói:
– Không có việc gì khó. Chỉ e kẻ có lòng.
Nghĩ thầm trước sau cũng chết. ở đây tiến lui đều không được thì chẳng bằng cố sức bò lên, lúc ấy bèn rút đoản đao ra từ từ khoét vào vách núi mấy tấc, kế đó lại khoét lỗ phía trên. Y cố gắng như thế lại lên được thêm hơn một trượng, đã mệt tới mức đầu váng mắt hoa, tay chân mềm nhũn.
Quách Tĩnh
Đây là tình cảnh Quách Tĩnh lần đầu leo lên núi để học Mã Ngọc.
Y ngẩng đầu nhìn, đột nhiên bộp một tiếng, chiếc mũ da trên đầu rơi xuống mặt tuyết, trong chớp mắt ấy đã quyết định:
– Nếu mình không gặp được Dung nhi thì sống chẳng bằng chết. Ngọn núi này tuy hiểm trớ, nhưng nhất định mình phải liều mạng mà lên, cho dù sẩy chân ngã xuống chết thì cũng là làm theo ý nàng một lần.
Nghĩ tới đó, trong lòng lập tức khoan khoái.
Quách Tĩnh – Hoàng Dung
Đây lại là lúc Quách Tĩnh bị Hoàng Dung “làm khó,” bắt chàng ta phải leo lên ngọn Cây Trọc đóng băng trơn tuột mới được gặp mặt tạ tội. Cho dù mục đích cũng như phương thức leo núi của Quách Tĩnh có khác nhau, nhưng về cơ bản thì tính cách quật cường, kiên trinh, bướng bỉnh của Quách Tĩnh vẫn nhất nhất như một. Thà chết không từ, nhất nhất dấn thân, bản sắc anh hùng của Quách Tĩnh là vậy: thuần khiết, đơn giản, thậm chí cậu ta cũng không hề nghĩ mình đang đóng vai anh hùng.
Anh Nguyễn - soi.today
“Xạ điêu tam bộ khúc” là bộ ba tiểu thuyết võ hiệp Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Hiệp Lữ, Ỷ Thiên Đồ Long Ký gộp lại mà thành, trải dài từ sự hình thành của đế chế Mông Cổ cho tới khi quân Minh đánh đổ nhà Nguyên. Trong đó, hai tác phẩm Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp Lữ có quan hệ chặt chẽ hơn hẳn Ỷ Thiên Đồ Long Ký xảy ra sau đó tận 80 năm. Chính vì vậy hai nhân vật chính Quách Tĩnh-Dương Quá cũng thường xuyên được đem ra đặt lên bàn cân so sánh.
Nhà phê bình Trần Mặc đã nhận xét rất xác đáng: “Linh cảm xây dựng hình tượng Dương Quá về cơ bản là xuất phát từ việc so sánh với hình tượng đại hiệp Quách Tĩnh mà ra. Quách Tĩnh chậm chạp ngốc nghếch, Dương Quá thì thông minh lanh lợi; Quách Tĩnh chính trực đôn hậu, Dương Quá thì mẫn cảm thiên kiến; Quách Tĩnh trầm tĩnh vụng nói, Dương Quá thì nhiệt tình giỏi biện luận; Quách Tĩnh chuyên nhất cố chấp, Dương Quá thì giảo hoạt đa biến; Quách Tĩnh xuất thân trong sạch, Dương Quá thì thân thế có bí ẩn và vết nhơ. Nếu ví tính cách của Quách Tĩnh như một khối đá vững chắc, không lay chuyển; thì tính cách của Dương Quá giống như một chất lỏng nóng chảy, mẫn cảm, lưu động, có lúc sưởi ấm lòng người, làm tan băng giá, nhưng có lúc lại đốt cháy người khác, thậm chí dẫn đến hủy diệt họ. Tóm lại, hình tượng Quách Tĩnh là mẫu mực chính tông của thế giới võ hiệp, còn hình tượng Dương Quá là một thứ khác hẳn, trái với mẫu mực của thế giới võ hiệp.”
Những ai đã đọc Kim Dung dù ít dù nhiều đều có thể kiểm chứng tính xác thực của những luận điểm trên. Cũng có nhà phân tích cho rằng Quách Tĩnh là tiêu biểu của Nho gia còn Dương Quá là tiêu biểu của Đạo gia, Quách Tĩnh mang gương mặt của Trung Hoa đại lục còn Dương Quá là một Hong Kong ngạo nghễ,… Ở bài này, thay vì “cày xới” lại những điều đã cũ, chúng ta hãy cùng tiếp cận hai nhân vật này từ một hướng khác – cảnh quan địa lý.
Quách Tĩnh tuổi thiếu niên
Những địa danh xuất hiện trong tiểu thuyết Kim Dung không đơn thuần là nơi diễn ra cảnh máu chảy đầu rơi hay những cuộc hội ngộ phi phàm. Chúng có một thứ linh hồn đặc biệt, siêu thực, vĩnh viễn ngự trị trong trí tưởng tượng của người đọc. Việc những địa danh này liệu có tồn tại trong thực tế không chẳng còn quan trọng nữa, bởi chúng đã được khắc sâu trong tiềm thức của giới “Kim mê” bằng những nét bút kỳ ảo. Ai có thể quên được Nhạn Môn Quan đầy tình ý thê lương trong Thiên Long Bát Bộ, Hắc Mộc Nhai thần bí của Tiếu Ngạo Giang Hồ, hay Quang Minh Đỉnh hùng vĩ trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký? Nhưng có lẽ không có tác phẩm mà cảnh quan địa lý lại đóng vai trò cơ bản trong việc mô tả tính cách nhân vật như bộ đôi Anh Hùng-Thần Điêu.
*
Trước hết hãy bàn về Quách Tĩnh. Thật không ngoa nếu nói hành trình của chàng trong Anh Hùng Xạ Điêu là một chuỗi các cuộc… leo núi. Chỉ cần điểm lại mà xem, ta sẽ thấy Quách Tĩnh liên tục chinh phục những đỉnh cao.
Lần thứ nhất, chú bé Quách Tĩnh chấp nhận thử thách của Giang Nam Lục Quái, trèo lên núi giữa đêm khuya khoắt để bái sư.
Lần thứ hai, cậu thiếu niên Quách Tĩnh lại leo lên đỉnh núi hiểm trở mỗi tối để học phép tu luyện nội công thượng thừa của đạo trưởng Mã Ngọc.
Lần thứ ba là khi chàng bắt Đô Sử lên núi để gây áp lực cứu Thiết Mộc Chân (sau là Thành Cát Tư Hãn), từ đó được phong làm Kim Đao phò mã.
Lần thứ tư, Quách Tĩnh chạy lên núi Thiết Chưởng để bảo vệ Vũ Mục di thư của Nhạc Phi, cuốn binh pháp này về sau sẽ giúp chàng cầm quân bách chiến bách thắng.
Lần thứ năm, chàng ta cõng Hoàng Dung lên núi tìm Nhất Đăng Đại Sư để xin chữa thương.
Lần thứ sáu, chàng leo lên đỉnh Cây Trọc mong gặp lại người yêu.
Lần thứ bảy, cũng coi như “lễ tốt nghiệp” của chàng khờ Quách Tĩnh – là cuộc luận kiếm tại Hoa Sơn với các đại cao thủ võ học.
Bìa sách Anh Hùng Xạ Điêu với cảnh núi non
Bảy lần leo núi được Kim Dung bố trí khéo léo trong Anh Hùng Xạ Điêu để tương ứng với những cột mốc trưởng thành của Quách Tĩnh. Từ một chú bé mồ côi cha đáng thương, Quách Tĩnh vụt sáng thành thiếu niên anh hùng, rồi lại trở thành đại hiệp lừng lẫy đương thời. Có hai điểm cần lưu ý về hành trình leo núi của Quách Tĩnh:
– Thứ nhất, mỗi lần leo núi Quách Tĩnh đều giành được một vật báu nào đó: khi là bí quyết võ học, khi là binh thư, khi là ngôi Kim Đao phò mã, khi là cách đánh thành,.. Thế nhưng điều chàng nhắm tới mỗi khi chinh phục đỉnh cao không bao giờ là võ công, của cải, hay danh vọng. Thứ thúc đẩy Quách Tĩnh luôn là danh dự và tình cảm dành cho những người xung quanh: với sư phụ, với Đại Hãn, với người yêu. Và đúng như hiện tượng “vô tâm trồng liễu liễu xanh rờn,” Quách Tĩnh luôn được số phận tưởng thưởng: chàng dần học được nội công Huyền môn của phái Toàn Chân và Nam đế, triệt thành Hoa Thích Tử Mô, giành lấy trái tim của Hoàng Dung,.. Càng quên mình, Quách Tĩnh càng may mắn. Ngược lại, những kẻ ham hố theo đuổi võ công, quyền lực, nhan sắc trong Anh Hùng Xạ Điêu như Âu Dương Phong, Âu Dương Khắc, Cầu Thiên Nhận đều nhận phải quả đắng. Luật nhân quả được Kim Dung áp dụng triệt để trong tác phẩm này.
Quách Tĩnh cùng Hoàng Dung trên đỉnh núi
– Thứ hai, những lần leo núi của Quách Tĩnh không đơn thuần là thử thách về thể lực. Ý nghĩa tượng trưng ở đây có thể nói là rõ mồn một. Mỗi lần Quách Tĩnh chinh phục một đỉnh cao là một lần chàng vượt qua chính mình, một lần lột xác: khả năng võ học của chàng mỗi lúc lại mạnh hơn, chàng cũng trở nên lịch duyệt giang hồ, không còn là cậu bé ngờ nghệch nữa. Thế nhưng Kim Dung đã rất tinh tế khi cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Quách Tĩnh vẫn không hề thay đổi! Xin thử đối chiếu hai đoạn dưới:
Y giữa tuyệt cảnh chợt nghĩ tới hai câu Tứ sư phụ từng nói:
– Không có việc gì khó. Chỉ e kẻ có lòng.
Nghĩ thầm trước sau cũng chết. ở đây tiến lui đều không được thì chẳng bằng cố sức bò lên, lúc ấy bèn rút đoản đao ra từ từ khoét vào vách núi mấy tấc, kế đó lại khoét lỗ phía trên. Y cố gắng như thế lại lên được thêm hơn một trượng, đã mệt tới mức đầu váng mắt hoa, tay chân mềm nhũn.
Quách Tĩnh
Đây là tình cảnh Quách Tĩnh lần đầu leo lên núi để học Mã Ngọc.
Y ngẩng đầu nhìn, đột nhiên bộp một tiếng, chiếc mũ da trên đầu rơi xuống mặt tuyết, trong chớp mắt ấy đã quyết định:
– Nếu mình không gặp được Dung nhi thì sống chẳng bằng chết. Ngọn núi này tuy hiểm trớ, nhưng nhất định mình phải liều mạng mà lên, cho dù sẩy chân ngã xuống chết thì cũng là làm theo ý nàng một lần.
Nghĩ tới đó, trong lòng lập tức khoan khoái.
Quách Tĩnh – Hoàng Dung
Đây lại là lúc Quách Tĩnh bị Hoàng Dung “làm khó,” bắt chàng ta phải leo lên ngọn Cây Trọc đóng băng trơn tuột mới được gặp mặt tạ tội. Cho dù mục đích cũng như phương thức leo núi của Quách Tĩnh có khác nhau, nhưng về cơ bản thì tính cách quật cường, kiên trinh, bướng bỉnh của Quách Tĩnh vẫn nhất nhất như một. Thà chết không từ, nhất nhất dấn thân, bản sắc anh hùng của Quách Tĩnh là vậy: thuần khiết, đơn giản, thậm chí cậu ta cũng không hề nghĩ mình đang đóng vai anh hùng.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Đọc Kim Dung (bài 2): Dương Quá – chọn vực sâu để tìm tri kỷ
Anh Nguyễn - soi.today
Trái ngược với Quách Tĩnh ở bài trước, nhân vật Dương Quá lại có một đường đời rất khác.
Nơi đầu tiên chúng ta gặp mặt chàng là một căn hầm đất nấu rượu bỏ hoang – nơi chú bé Dương Quá rách rưới cư ngụ sau khi mẹ qua đời. Được Quách Tĩnh đem về nuôi nấng và đưa tới núi Chung Nam học đạo, Dương Quá không những không tuân theo môn quy mà còn trở thành đào đồ. Chàng gia nhập phái Cổ Mộ, từ đó cùng Tiểu Long Nữ cư trú trong Hoạt Tử Nhân Mộ, tránh ánh mặt trời. Về sau dòng đời xô đẩy đưa Dương Quá tới Tuyệt Tình Cốc, một thung lũng kín đáo ít người biết tới. Dưới đáy sâu của Tuyệt Tình Cốc lại có thêm một tầng nữa: đầm cá sấu chứa nữ tù nhân Cừu Thiên Xích do chính chồng bà ta giam cầm.
Trên đường lưu lạc giang hồ, Dương Quá có trôi dạt tới hang đá có mộ phần của Độc Cô Cầu Bại – đó cũng là nơi chàng gặp gỡ Điêu huynh, luyện Huyền Thiết Trọng Kiếm, sáng tạo ra Ảm Nhiên Tiêu Hồn Chưởng. Sau 16 năm truân chuyên lạc mất người tình, chàng lao đầu xuống đáy Đoạn Trường Nhai, tái hợp Tiểu Long Nữ. Kết thúc câu truyện, Dương Quá dắt tay Tiểu Long Nữ trở về Cổ Mộ, kể từ ấy “Thần điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ.”
Khác với Quách Tĩnh, Dương Quá không mặn mà tha thiết gì với núi non. Khi bị đưa tới núi Chung Nam và bị bắt đầu nhập phái Toàn Chân, phản ứng của Dương Quá là uất hận, nổi loạn, và chạy trốn. Hai lần lên núi Hoa Sơn, chàng cũng mau chóng rời đi. Trong truyện Kim Dung, những ngọn núi luôn là biểu tượng của nam tính phồn thực, tuyệt đỉnh võ học, và khí khái anh hùng kiểu Nho gia. Sự chối bỏ của Dương Quá với núi Chung Nam, và cả núi Hoa Sơn sau này, chính là thái độ quay lưng với tất cả những giá trị đó. Những chặng đường của Dương Quá, trái ngược với Quách Tĩnh, luôn gắn liền với hang động, hầm sâu, vực tối. Chúng là biểu tượng của bóng đêm lạnh lẽo và cái chết; của nữ tính, âm tính; của sự cô độc và chối bỏ. Vì sao Kim Dung lại có quyết định như vậy?
Lý do thứ nhất nằm ở mục đích sáng tác. Anh Hùng Xạ Điêu, trên hết, là câu chuyện về “anh hùng.” Phía sau những diễn biến giang hồ, từ trang đầu tiên cho đến chương cuối cùng, là bức phông nền quốc gia, chính trị, xã tắc. Nỗi đau mất nước của người dân Tống, cuộc chiến chống Kim, xung đột với Mông Cổ,.. luôn hiển hiện trong từng trang sách. Quy trình “trèo lên đỉnh núi cao vời vợi” vừa xác lập tính cách trượng nghĩa cổ điển của Quách Tĩnh, vừa khẳng định uy thế bất diệt của Hán tộc trước ngoại tộc. Ở tuổi trung niên, Bắc hiệp Quách Tĩnh vẫn có thể thi triển “Thượng thiên thê” leo lên thành trước mặt hàng vạn quân địch, chính là tiếp nối mạch truyền thống này.
Thần Điêu Hiệp Lữ, trái lại, là câu chuyện về một đôi tình lữ thần tiên. Nó vừa là tiểu thuyết võ hiệp có thiên hướng lãng mạn nhất của Kim Dung, vừa là bức tranh sinh động về các cung bậc tình cảm. Trong suốt câu chuyện, nhân vật Dương Quá không chỉ trải nghiệm mối tình sắt son với Tiểu Long Nữ mà còn bị giằng xé bởi chữ hiếu với người cha đã khuất Dương Khang, tình nghĩa huynh đệ, tình cảm sư đồ, và không loại trừ lòng yêu nước đau đáu. Hành trình bildungsroman của Quách Tĩnh thẳng tắp một đường còn Dương Quá thì lạc lối trong mê cung tình cảm. Bị thu hút bởi nữ giới và tà khí, nhiều khi chàng quay cuồng trong bóng tối của chính tâm hồn mình. Tuyệt Tình Cốc, Hoạt Tử Nhân Mộ, Kiếm Mộ nằm ngầm dưới lòng đất chính là biểu tượng cho những ngõ ngách tâm lý cùng niềm đau giấu kín của con người.
Lý do thứ hai, Kim Dung cố tình khắc họa một Dương Quá thoắt ẩn thoắt hiện nơi âm u, cách biệt với thế giới để biến chàng thành người hùng cô độc. Từ nhỏ đến lớn, Dương Quá luôn là kẻ thách thức quyền uy, đảo lộn trật tự. Những hành động mang tính “phản nghịch” của chàng như lấy sư phụ làm vợ, nhận Âu Dương Phong làm cha, ám sát Quách Tĩnh,…khiến chàng mãi mãi là kẻ đứng ngoài lề võ lâm chính thống. Trong truyện Kim Dung, võ lâm chính là nhân sinh. Nếu Quách Tĩnh có thể đường hoàng ngồi ở vị trí Bắc Hiệp trang trọng trong thành Tương Dương thì Dương Quá vĩnh viễn đeo tấm mặt nạ u buồn, giấu hình giấu tên, không lộ tung tích.
Dương Quá
Về cuối truyện, Kim Dung để cho Dương Quá lập đại công được người người tung hô, nhưng chàng vẫn cầm tay Tiểu Long Nữ trở lại Hoạt Tử Nhân Mộ để sống nốt cuộc đời như mộng. Hơn ai hết, Dương Quá ý thức được rằng cái tôi cá nhân của chàng vốn không thể dung hòa cùng tập thể vốn quá nhiều lễ giáo khắt khe. Giống như tiền bối Độc Cô Cầu Bại, Dương Quá chấp nhận chọn cách tự tách biệt khỏi xã hội, miễn sao có tri kỷ bên cạnh. Độc Cô Cầu Bại có Thần Điêu bầu bạn, Dương Quá cũng chỉ cần một mình Tiểu Long Nữ là đủ cho chàng trên thế gian này.
Anh Nguyễn - soi.today
Trái ngược với Quách Tĩnh ở bài trước, nhân vật Dương Quá lại có một đường đời rất khác.
Nơi đầu tiên chúng ta gặp mặt chàng là một căn hầm đất nấu rượu bỏ hoang – nơi chú bé Dương Quá rách rưới cư ngụ sau khi mẹ qua đời. Được Quách Tĩnh đem về nuôi nấng và đưa tới núi Chung Nam học đạo, Dương Quá không những không tuân theo môn quy mà còn trở thành đào đồ. Chàng gia nhập phái Cổ Mộ, từ đó cùng Tiểu Long Nữ cư trú trong Hoạt Tử Nhân Mộ, tránh ánh mặt trời. Về sau dòng đời xô đẩy đưa Dương Quá tới Tuyệt Tình Cốc, một thung lũng kín đáo ít người biết tới. Dưới đáy sâu của Tuyệt Tình Cốc lại có thêm một tầng nữa: đầm cá sấu chứa nữ tù nhân Cừu Thiên Xích do chính chồng bà ta giam cầm.
Trên đường lưu lạc giang hồ, Dương Quá có trôi dạt tới hang đá có mộ phần của Độc Cô Cầu Bại – đó cũng là nơi chàng gặp gỡ Điêu huynh, luyện Huyền Thiết Trọng Kiếm, sáng tạo ra Ảm Nhiên Tiêu Hồn Chưởng. Sau 16 năm truân chuyên lạc mất người tình, chàng lao đầu xuống đáy Đoạn Trường Nhai, tái hợp Tiểu Long Nữ. Kết thúc câu truyện, Dương Quá dắt tay Tiểu Long Nữ trở về Cổ Mộ, kể từ ấy “Thần điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ.”
Khác với Quách Tĩnh, Dương Quá không mặn mà tha thiết gì với núi non. Khi bị đưa tới núi Chung Nam và bị bắt đầu nhập phái Toàn Chân, phản ứng của Dương Quá là uất hận, nổi loạn, và chạy trốn. Hai lần lên núi Hoa Sơn, chàng cũng mau chóng rời đi. Trong truyện Kim Dung, những ngọn núi luôn là biểu tượng của nam tính phồn thực, tuyệt đỉnh võ học, và khí khái anh hùng kiểu Nho gia. Sự chối bỏ của Dương Quá với núi Chung Nam, và cả núi Hoa Sơn sau này, chính là thái độ quay lưng với tất cả những giá trị đó. Những chặng đường của Dương Quá, trái ngược với Quách Tĩnh, luôn gắn liền với hang động, hầm sâu, vực tối. Chúng là biểu tượng của bóng đêm lạnh lẽo và cái chết; của nữ tính, âm tính; của sự cô độc và chối bỏ. Vì sao Kim Dung lại có quyết định như vậy?
Lý do thứ nhất nằm ở mục đích sáng tác. Anh Hùng Xạ Điêu, trên hết, là câu chuyện về “anh hùng.” Phía sau những diễn biến giang hồ, từ trang đầu tiên cho đến chương cuối cùng, là bức phông nền quốc gia, chính trị, xã tắc. Nỗi đau mất nước của người dân Tống, cuộc chiến chống Kim, xung đột với Mông Cổ,.. luôn hiển hiện trong từng trang sách. Quy trình “trèo lên đỉnh núi cao vời vợi” vừa xác lập tính cách trượng nghĩa cổ điển của Quách Tĩnh, vừa khẳng định uy thế bất diệt của Hán tộc trước ngoại tộc. Ở tuổi trung niên, Bắc hiệp Quách Tĩnh vẫn có thể thi triển “Thượng thiên thê” leo lên thành trước mặt hàng vạn quân địch, chính là tiếp nối mạch truyền thống này.
Thần Điêu Hiệp Lữ, trái lại, là câu chuyện về một đôi tình lữ thần tiên. Nó vừa là tiểu thuyết võ hiệp có thiên hướng lãng mạn nhất của Kim Dung, vừa là bức tranh sinh động về các cung bậc tình cảm. Trong suốt câu chuyện, nhân vật Dương Quá không chỉ trải nghiệm mối tình sắt son với Tiểu Long Nữ mà còn bị giằng xé bởi chữ hiếu với người cha đã khuất Dương Khang, tình nghĩa huynh đệ, tình cảm sư đồ, và không loại trừ lòng yêu nước đau đáu. Hành trình bildungsroman của Quách Tĩnh thẳng tắp một đường còn Dương Quá thì lạc lối trong mê cung tình cảm. Bị thu hút bởi nữ giới và tà khí, nhiều khi chàng quay cuồng trong bóng tối của chính tâm hồn mình. Tuyệt Tình Cốc, Hoạt Tử Nhân Mộ, Kiếm Mộ nằm ngầm dưới lòng đất chính là biểu tượng cho những ngõ ngách tâm lý cùng niềm đau giấu kín của con người.
Lý do thứ hai, Kim Dung cố tình khắc họa một Dương Quá thoắt ẩn thoắt hiện nơi âm u, cách biệt với thế giới để biến chàng thành người hùng cô độc. Từ nhỏ đến lớn, Dương Quá luôn là kẻ thách thức quyền uy, đảo lộn trật tự. Những hành động mang tính “phản nghịch” của chàng như lấy sư phụ làm vợ, nhận Âu Dương Phong làm cha, ám sát Quách Tĩnh,…khiến chàng mãi mãi là kẻ đứng ngoài lề võ lâm chính thống. Trong truyện Kim Dung, võ lâm chính là nhân sinh. Nếu Quách Tĩnh có thể đường hoàng ngồi ở vị trí Bắc Hiệp trang trọng trong thành Tương Dương thì Dương Quá vĩnh viễn đeo tấm mặt nạ u buồn, giấu hình giấu tên, không lộ tung tích.
Dương Quá
Về cuối truyện, Kim Dung để cho Dương Quá lập đại công được người người tung hô, nhưng chàng vẫn cầm tay Tiểu Long Nữ trở lại Hoạt Tử Nhân Mộ để sống nốt cuộc đời như mộng. Hơn ai hết, Dương Quá ý thức được rằng cái tôi cá nhân của chàng vốn không thể dung hòa cùng tập thể vốn quá nhiều lễ giáo khắt khe. Giống như tiền bối Độc Cô Cầu Bại, Dương Quá chấp nhận chọn cách tự tách biệt khỏi xã hội, miễn sao có tri kỷ bên cạnh. Độc Cô Cầu Bại có Thần Điêu bầu bạn, Dương Quá cũng chỉ cần một mình Tiểu Long Nữ là đủ cho chàng trên thế gian này.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Đọc Kim Dung (bài 4): “tình thánh” Dương Quá và hình tượng máu
Anh Nguyễn - soi.today
Biểu tượng của máu
Thứ gắn kết số phận Hoạt Tử Nhân Mộ và Tuyệt Tình Cốc là gì? Chính là chàng trai Dương Quá. Sự xuất hiện của chàng đã kích hoạt những cảm xúc bị ức chế, dồn nén của những con người “tuyệt tình”, “thiểu dục” kia, chẳng khác nào hòn sỏi rơi xuống mặt hồ phẳng lặng hay que diêm ném vào đống cỏ khô. Dương Quá dần len lỏi vào trái tim Tiểu Long Nữ, khiến nàng muốn nếm trải cuộc sống phù hoa, rồi lại vì kiếm tìm nàng mà tới Tuyệt Tình Cốc, khuấy động cảnh lặng lẽ nơi đây. Đúng như Trần Mặc đã nhận xét “…tính cách của Dương Quá giống như một chất lỏng nóng chảy, mẫn cảm, lưu động, có lúc sưởi ấm lòng người, làm tan băng giá, nhưng có lúc lại đốt cháy người khác, thậm chí dẫn đến hủy diệt họ.”
Trong Thần Điêu Hiệp Lữ, bên cạnh “tình thánh” Dương Quá còn có hình tượng máu là ẩn dụ cho tình cảm con người: sôi nổi ấm áp và luôn hiện hữu trong ta. Có ba dẫn chứng:
Thứ nhất, những cư dân trong Tuyệt Tình Cốc luôn ăn chay vì chỉ một giọt máu cũng đủ phế bỏ võ công của họ. Ở đây ta thấy lặp lại motif tự hạn chế mình. Chối bỏ tình hay tuyệt tình là một hành vi trái tự nhiên cũng như tránh né máu – một thứ vốn có sẵn trong cơ thể con người. Trần Mặc đã nhận xét: “Cái gọi là công phu bế huyệt, kỳ thực chỉ là công phu tự kìm nén điển hình. Để bảo đảm công phu ấy hữu hiệu lâu dài, Công Tôn Chỉ đành phải kiêng ăn uống chất tanh, tức là tự kìm nén mình. Đồng thời để duy trì tình trạng ấy, không cho chất tanh quyến rũ mình, Công Tôn Chỉ bắt tất cả mọi người ở Tuyệt Tình cốc đều phải ăn chay, tức là không chỉ kìm nén mình, mà còn kìm nén người khác. “
Thứ hai, khi Dương Quá và Tiểu Long Nữ bắt đầu yêu nhau, chàng đã cắt tay lấy máu cho nàng uống để phục hồi công lực. Quá trình truyền máu này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Một phần tình cảm nồng nàn của Dương Quá đã được chuyển sang Tiểu Long Nữ, nhờ đó nàng không còn là cô gái băng tuyết hay “hoạt tử nhân” nữa. Từ giây phút này, Tiểu Long Nữ có thể tái hoà nhập thế giới của con người biết yêu thương. Kim Dung đã lấy cảm hứng từ nghi thức kết nghĩa huynh đệ cổ điển “cắt máu ăn thề” và biến nó thành lời tuyên thệ tình yêu.
Thứ ba, khi gặp lại Dương Quá ở Tuyệt Tình Cốc, nỗi bi ai đã khiến Tiểu Long Nữ thổ huyết. Một mặt có thể coi như đây là sự đền đáp cho lần “nợ máu” trước kia, mặt khác nó cũng khẳng định sức nặng tình cảm của Tiểu Long Nữ. Những người xung quanh khi chứng kiến đều hiểu “hai người tình thâm ái thiết, dĩ vãng từng có uyên nguyên cực sâu với nhau.” Thế nhưng họ không biết rằng công phu tu luyện của Tiểu Long Nữ cốt yếu không được nảy sinh tạp niệm, nàng càng tương ái Dương Quá thì nội công lại càng suy kiệt. Vậy mà vẫn bất chấp tất cả để mà … yêu thì quả là một sự dấn thân.
Đường yêu đương khổ nạn của “tình thánh” Dương Quá
Truyện Kim Dung không thiếu những chuyện tình bị ngăn cấm: có khi là do chính tà đối ngược (Trương Thuý Sơn – Hân Tố Tố,) có khi là bởi lợi ích quốc gia (Trương Vô Kỵ – Triệu Mẫn,) có lúc đơn giản do tư thù cá nhân (Đại Ỷ Ty – Hàn Thiên Diệp). Thế nhưng dù âm thầm trốn đi hay công khai nổi loạn thì những đôi uyên ương ấy cũng sớm được “liền cánh cùng bay.” Riêng với Dương Quá-Tiểu Long Nữ, mối tình của họ đã phạm phải điều đại kỵ quá lớn, đến nỗi phải mất 16 năm để được giang hồ công nhận. 16 năm ấy vừa là thử thách, vừa là một lời bảo chứng cho tình cảm đôi lứa.
Các nhân vật nam chính trong Kim Dung đều có giai nhân bầu bạn khi hành tẩu giang hồ, nhưng Dương Quá là một trường hợp đặc biệt. Với Dương Quá, những bài học võ có gắn bó mật thiết với những “bài học yêu,” bởi Tiểu Long Nữ vừa là sư phụ lại vừa là tình nhân của chàng. Nàng tinh thông võ học hơn, nhưng trong tình cảm họ đều ngờ nghệch như nhau. Hai người bọn họ rốt cuộc chỉ có ba phần là tình thầy trò, còn lại bảy phần là luyến ái. Chính vì sự nhập nhằng này mà cả quan hệ sư đồ lẫn khát vọng yêu đương của Dương-Long đều bị giang hồ phủ nhận, dẫn đến vô vàn trở ngại. Có thể nói nửa sau Thần Điêu Hiệp Lữ là sự trả giá của Dương Quá cho mối tình “danh bất chính ngôn bất thuận” này.
Cuộc chạy trốn khỏi phái Toàn Chân của Dương Quá là sự phản kháng lại nền ý thức hệ mà Quách Tĩnh hết lòng tuân thủ. Từ đó Dương Quá bỏ lại những quy củ Nho gia để dấn thân vào thế giới của nữ tính thâm sâu bí mật. Thế nhưng trong tình huống này Dương Quá không phải tội đồ duy nhất. Giây phút Tiểu Long Nữ chấp nhận kết nạp Dương Quá vào phái Cổ Mộ, cả hai người bọn họ đã phạm phải một tội nặng bậc nhất trong võ lâm: không tuân lời sư tổ. Hành động này đã để lại hậu hoạ khôn lường. Hạt mầm của sự nổi loạn lại được gieo rắc ở mảnh đất của tình ái, tất phải nảy ra loài cây khổ đau. Nếu chiếu theo văn học phương Tây thì họ chính là star-crossed lovers, đôi tình nhân sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Câu chuyện tình của Dương-Long trong toà Hoạt Tử Nhân Mộ có phảng phất hương vị của cổ tích, ngụ ngôn với nhiều ẩn dụ về bất hạnh, chia lìa, và trừng phạt, mà tiêu biểu nhất là ba thử thách mà ta sẽ điểm qua ở bài cuối cùng.
Anh Nguyễn - soi.today
Biểu tượng của máu
Thứ gắn kết số phận Hoạt Tử Nhân Mộ và Tuyệt Tình Cốc là gì? Chính là chàng trai Dương Quá. Sự xuất hiện của chàng đã kích hoạt những cảm xúc bị ức chế, dồn nén của những con người “tuyệt tình”, “thiểu dục” kia, chẳng khác nào hòn sỏi rơi xuống mặt hồ phẳng lặng hay que diêm ném vào đống cỏ khô. Dương Quá dần len lỏi vào trái tim Tiểu Long Nữ, khiến nàng muốn nếm trải cuộc sống phù hoa, rồi lại vì kiếm tìm nàng mà tới Tuyệt Tình Cốc, khuấy động cảnh lặng lẽ nơi đây. Đúng như Trần Mặc đã nhận xét “…tính cách của Dương Quá giống như một chất lỏng nóng chảy, mẫn cảm, lưu động, có lúc sưởi ấm lòng người, làm tan băng giá, nhưng có lúc lại đốt cháy người khác, thậm chí dẫn đến hủy diệt họ.”
Trong Thần Điêu Hiệp Lữ, bên cạnh “tình thánh” Dương Quá còn có hình tượng máu là ẩn dụ cho tình cảm con người: sôi nổi ấm áp và luôn hiện hữu trong ta. Có ba dẫn chứng:
Thứ nhất, những cư dân trong Tuyệt Tình Cốc luôn ăn chay vì chỉ một giọt máu cũng đủ phế bỏ võ công của họ. Ở đây ta thấy lặp lại motif tự hạn chế mình. Chối bỏ tình hay tuyệt tình là một hành vi trái tự nhiên cũng như tránh né máu – một thứ vốn có sẵn trong cơ thể con người. Trần Mặc đã nhận xét: “Cái gọi là công phu bế huyệt, kỳ thực chỉ là công phu tự kìm nén điển hình. Để bảo đảm công phu ấy hữu hiệu lâu dài, Công Tôn Chỉ đành phải kiêng ăn uống chất tanh, tức là tự kìm nén mình. Đồng thời để duy trì tình trạng ấy, không cho chất tanh quyến rũ mình, Công Tôn Chỉ bắt tất cả mọi người ở Tuyệt Tình cốc đều phải ăn chay, tức là không chỉ kìm nén mình, mà còn kìm nén người khác. “
Thứ hai, khi Dương Quá và Tiểu Long Nữ bắt đầu yêu nhau, chàng đã cắt tay lấy máu cho nàng uống để phục hồi công lực. Quá trình truyền máu này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Một phần tình cảm nồng nàn của Dương Quá đã được chuyển sang Tiểu Long Nữ, nhờ đó nàng không còn là cô gái băng tuyết hay “hoạt tử nhân” nữa. Từ giây phút này, Tiểu Long Nữ có thể tái hoà nhập thế giới của con người biết yêu thương. Kim Dung đã lấy cảm hứng từ nghi thức kết nghĩa huynh đệ cổ điển “cắt máu ăn thề” và biến nó thành lời tuyên thệ tình yêu.
Thứ ba, khi gặp lại Dương Quá ở Tuyệt Tình Cốc, nỗi bi ai đã khiến Tiểu Long Nữ thổ huyết. Một mặt có thể coi như đây là sự đền đáp cho lần “nợ máu” trước kia, mặt khác nó cũng khẳng định sức nặng tình cảm của Tiểu Long Nữ. Những người xung quanh khi chứng kiến đều hiểu “hai người tình thâm ái thiết, dĩ vãng từng có uyên nguyên cực sâu với nhau.” Thế nhưng họ không biết rằng công phu tu luyện của Tiểu Long Nữ cốt yếu không được nảy sinh tạp niệm, nàng càng tương ái Dương Quá thì nội công lại càng suy kiệt. Vậy mà vẫn bất chấp tất cả để mà … yêu thì quả là một sự dấn thân.
Đường yêu đương khổ nạn của “tình thánh” Dương Quá
Truyện Kim Dung không thiếu những chuyện tình bị ngăn cấm: có khi là do chính tà đối ngược (Trương Thuý Sơn – Hân Tố Tố,) có khi là bởi lợi ích quốc gia (Trương Vô Kỵ – Triệu Mẫn,) có lúc đơn giản do tư thù cá nhân (Đại Ỷ Ty – Hàn Thiên Diệp). Thế nhưng dù âm thầm trốn đi hay công khai nổi loạn thì những đôi uyên ương ấy cũng sớm được “liền cánh cùng bay.” Riêng với Dương Quá-Tiểu Long Nữ, mối tình của họ đã phạm phải điều đại kỵ quá lớn, đến nỗi phải mất 16 năm để được giang hồ công nhận. 16 năm ấy vừa là thử thách, vừa là một lời bảo chứng cho tình cảm đôi lứa.
Các nhân vật nam chính trong Kim Dung đều có giai nhân bầu bạn khi hành tẩu giang hồ, nhưng Dương Quá là một trường hợp đặc biệt. Với Dương Quá, những bài học võ có gắn bó mật thiết với những “bài học yêu,” bởi Tiểu Long Nữ vừa là sư phụ lại vừa là tình nhân của chàng. Nàng tinh thông võ học hơn, nhưng trong tình cảm họ đều ngờ nghệch như nhau. Hai người bọn họ rốt cuộc chỉ có ba phần là tình thầy trò, còn lại bảy phần là luyến ái. Chính vì sự nhập nhằng này mà cả quan hệ sư đồ lẫn khát vọng yêu đương của Dương-Long đều bị giang hồ phủ nhận, dẫn đến vô vàn trở ngại. Có thể nói nửa sau Thần Điêu Hiệp Lữ là sự trả giá của Dương Quá cho mối tình “danh bất chính ngôn bất thuận” này.
Cuộc chạy trốn khỏi phái Toàn Chân của Dương Quá là sự phản kháng lại nền ý thức hệ mà Quách Tĩnh hết lòng tuân thủ. Từ đó Dương Quá bỏ lại những quy củ Nho gia để dấn thân vào thế giới của nữ tính thâm sâu bí mật. Thế nhưng trong tình huống này Dương Quá không phải tội đồ duy nhất. Giây phút Tiểu Long Nữ chấp nhận kết nạp Dương Quá vào phái Cổ Mộ, cả hai người bọn họ đã phạm phải một tội nặng bậc nhất trong võ lâm: không tuân lời sư tổ. Hành động này đã để lại hậu hoạ khôn lường. Hạt mầm của sự nổi loạn lại được gieo rắc ở mảnh đất của tình ái, tất phải nảy ra loài cây khổ đau. Nếu chiếu theo văn học phương Tây thì họ chính là star-crossed lovers, đôi tình nhân sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Câu chuyện tình của Dương-Long trong toà Hoạt Tử Nhân Mộ có phảng phất hương vị của cổ tích, ngụ ngôn với nhiều ẩn dụ về bất hạnh, chia lìa, và trừng phạt, mà tiêu biểu nhất là ba thử thách mà ta sẽ điểm qua ở bài cuối cùng.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Đọc Kim Dung (bài 5): ba thử thách đắng và một cái kết ngọt cho Dương Quá
Anh Nguyễn - soi.today
Thử thách đầu tiên của Dương Quá sau khi bái Tiểu Long Nữ làm sư phụ là nằm ngủ trên chiếc giường hàn ngọc. Chiếc giường này có lai lịch rất lớn: đích thân Vương Trùng Dương đã đi tìm loại ngọc quý ở vùng cực Bắc giá lạnh để tặng cho Lâm Triều Anh. Trong văn học, chiếc giường vốn đã là biểu tượng của hôn nhân và gắn bó, ở đây lại nhuốm màu tư tình nam nữ nên ý nghĩa càng đậm. Thế nhưng chiếc giường này lại chứa đựng nhiều mâu thuẫn: nó lạnh chứ không ấm, nó là dụng cụ luyện công chứ không phải nơi kề vai ấp má, và chỉ những người đàn bà cô đơn gối chiếc sử dụng nó chứ không hề có hơi ấm đàn ông. Mục đích sử dụng của chiếc gường đã hoàn toàn bị đảo lộn, nó trở thành nhân chứng cho trái tim lạnh lẽo của các ngọc nữ phái Cổ Mộ và sự trái khoáy của việc “tuyệt tình.”
Phải đến khi Dương Quá nằm lên nó thì ý nghĩa của chiếc giường mới hoàn toàn thay đổi. Đặt trong bối cảnh văn học, việc Tiểu Long Nữ cho phép Dương Quá cùng chia sẻ chiếc giường với nàng là có ẩn ý tình dục không thể bàn cãi. Nếu chiếc giường hàn ngọc là biểu tượng cho sự trinh nguyên của Tiểu Long Nữ thì sự có mặt của Dương Quá đã làm tan đi lớp bảo vệ đầu tiên và mở đường cho những rung động sau này. Bầu máu nóng của chàng trai trẻ mau chóng làm ấm lên chiếc giường và cả trái tim người thiếu nữ. Từ đó chiếc giường hàn ngọc thành nơi giao hoà của hai giới, có thể nói là đã chứng giám cho mối tình thâm của hai vị tiền bối Vương Trùng Dương-Lâm Triều Anh. Thế nhưng chiếc giường cũng khiến Dương Quá “toàn thân run bần bật, hai hàm răng gõ vào nhau cầm cập. Nằm một lát nữa, khí lạnh thấu xương, thật không tài nào chịu nổi.” Sự tổn thương thân thể này phản chiếu việc Dương Quá bị mất cánh tay, Tiểu Long Nữ bị cưỡng hiếp và trọng thương – cái giá đầu tiên của mối tình ngang tái.
Thử thách thứ hai của Dương Quá sau khi nhập môn phái Cổ Mộ là chộp bắt những con chim sẻ do Tiểu Long Nữ thả ra. Số lượng chim sẻ tăng từ 3 đến 81 con, phạm vi luyện tập của chàng cũng nới rộng từ gian thạch thất nhỏ ra khoảng không ngoài trời.
Hai người đi ra ngoài nhà mồ, lúc này đang là tháng Ba mùa xuân, cây lá xanh non. Dương Quá hít sâu mấy hơi, cảm thấy hương hoa thơm mát tràn vào lồng ngực, dễ chịu vô cùng. Tiểu Long Nữ mở nghiêng miệng cái túi vải, chim sẻ từ trong túi lũ lượt bay ra; lúc này hai bàn tay với mười ngón búp măng của nàng dang rộng, tay vẫy, tay phẩy, buộc những con chim sẻ đang giương cánh bay đi phải quay trở lại. Bầy chim được sổ lồng, lẽ nào không bay đi tứ phía? Nhưng lạ thay, song chưởng của Tiểu Long Nữ chỉ làm như thế, mà toàn bộ tám mươi mốt con chim sẻ đều quần tụ ở trước mặt nàng trong phạm vi ba thước.
[…]
Cứ thế luyện tập không mệt mỏi, hết xuân qua hạ, ngày càng tiến bộ. Dương Quá thông minh dĩnh ngộ, cần mẫn dụng công, số chim sẻ chặn giữ được ngày càng tăng, đến sau Trung thu, nó đã luyện xong bộ chưởng pháp “Thiên la địa võng thế”, khi thi triển, nó có thể ngăn giữ được tám mươi mốt con chim sẻ. Nếu có con nào bay thoát, thì chỉ là vì công lực của nó chưa thuần mà thôi.
Thử thách thứ hai này, tuy không đau đớn về thể xác nhưng lại yêu cầu sự kiên trì và bền bỉ cực độ. Nó tương ứng với giai đoạn thứ hai trong chuyện tình của Dương Quá: khi chàng đi khắp thiên hạ tìm bóng người yêu. Vì hiểu lầm nhau, vì lễ giáo cản ngại, vì dòng đời xô đẩy, tổng cộng Tiểu Long Nữ đã ba lần ly khai Dương Quá, theo Trương Hải Hồng nhận xét là có tác dụng “muốn bắt vờ thả.” Thế nhưng anh chàng Dương Quá cũng không phải dạng vừa. “Thông minh đĩnh ngộ,” “cần mẫn dụng công” là tố chất khiến Dương Quá luyện tập thành tài, nhưng cũng là điều kiện cần để chàng theo đuổi tình yêu sau này. Học võ ở đây chỉ là phụ, là tiền đề cho chàng rèn luyện bản lĩnh đi tìm người trong mộng. Thế nên dù cánh chim sẻ Tiểu Long Nữ có bay cùng trời cuối đất thì môn công phu “Thiên la địa võng thế” của Dương Quá cũng bắt nàng trở về bên chàng.
Thử thách cuối cùng chính là luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh. Theo truyện mô tả, khi luyện tới đây thì hai người đã trưởng thành: “Tiểu Long Nữ càng lớn càng mỹ lệ tuyệt luân. Năm nay Dương Quá đã mười sáu tuổi, thân hình cao lớn dần, giọng nói hơi ồm ồm, đã thành một trang thiếu niên tuấn tú, chứ không còn là một đứa bé như lúc tới nhà mồ.” Oái oăm thay cách luyện môn này là cả hai người đều phải … cởi hết quần áo. Ý đồ dẫn dắt câu chuyện của Kim Dung không nói thì cũng đã rõ rành rành. Cảnh thầy trò cùng luyện công bởi vậy cũng lãng mạn như cõi bồng lai:
Bụi hồng này dài tới vài trượng, tầng tầng lớp lớp hương thơm ngan ngát. … như có một tấm bình phong, hoa đỏ cành lá xanh, trông rất đẹp mắt, bốn phía có bóng cây bao phủ, tựa hồ một tòa phòng ốc bằng hoa lá cành do thiên nhiên kết thành.
…
Nàng nhảy lên cây, nhìn tứ phía, thấy đông nam tây bắc đều một màu xanh cây lá tĩnh mịch, văng vẳng tiếng suối rì rào, tiếng chim líu lo, không một dấu chân người, quả là một nơi luyện công cực tốt, bèn nói:
– Ngươi chọn được chỗ tốt, tối nay ta ra đây luyện công.
Canh hai tối hôm ấy, hai người ra chỗ bụi hoa hồng. Ban đêm, mùi hoa càng đậm đà. Tiểu Long Nữ đem pháp môn khẩu quyết tu tập “Ngọc nữ tâm kinh” nói ra một hồi, Dương Quá hỏi những chỗ chưa rõ, rồi hai người sang hai bên bụi hoa hồng, cởi hết quần áo, bắt đầu luyện tập. Dương Quá chìa tay trái qua bụi hoa, chạm vào bàn tay phải của Tiểu Long Nữ, hễ trong lúc luyện tập ai gặp chỗ khó, thì người kia nhận cảm ứng sẽ lập tức vận công trợ giúp.
…
Hai người từ đó lấy đêm làm ngày. Buổi tối họ luyện công, ban ngày nghỉ ngơi trong cổ mộ. Hồi này đang là mùa hạ nóng bức, ban đêm dụng công càng mát mẻ; cứ thế hơn hai tháng bình an vô sự.
…
Hai người ở hai bên bụi hoa hồng tự luyện tập, toàn thân hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, hòa với mùi hoa thêm nồng.
Ngọc Nữ Tâm Kinh là tâm pháp do Lâm Triều Anh tạo ra để đối địch với Vương Trùng Dương, nhưng tương tự như Ngọc Nữ Kiếm Pháp, nó chứa đựng nhiều tình hơn là hận. Trong toàn bộ Thần Điêu Hiệp Lữ, đây là giây phút gần gũi về thể xác nhất của Dương Quá và Tiểu Long Nữ. Thế nhưng bài học của cây Tình Hoa đã được lặp lại: luyến ái sâu đậm nhất luôn đi kèm với trừng phạt ác nghiệt nhất. Đây có thể ví như giây phút cuối cùng trước khi đôi Adam-Eve bị đuổi khỏi Địa đàng, bởi liền sau bức tranh tiên cảnh này là đau đớn và chia lìa: Tiểu Long Nữ bị Doãn Chí Bình cưỡng hiếp, hai người bọn họ phải rời khỏi toà Cổ Mộ và lạc mất nhau, bị sỉ nhục và hành hạ. Lần thứ hai khi hai người cùng trở lại tòa Cổ Mộ thì quá nhiều mất mát đã xảy ra: thân thể hai người không còn toàn vẹn mà danh dự cũng không, đại đa số võ lâm đều coi khinh họ vì cả gan làm chuyện “suy đồi.” Tiếp nối là 16 năm xa lìa nhau cho tới khi họ sánh vai nhau trở về Hoạt Tử Nhân Mộ vĩnh viễn.
Không chỉ có vậy, Dương Quá vẫn phải theo khuôn phép “đại hiệp cao cả nhất là vì nước vì dân” mà Quách Tĩnh đã sớm thiết lập. Quá trình lập công chuộc tội của Dương Quá trước hết là hành hiệp trượng nghĩa, sau là ba đại công với Tương Dương, cuối cùng là ném đá chết đại hãn Mông Kha dưới thành. Kim Dung muốn viết một câu chuyện về “hiệp lữ,” nhưng vẫn không thể không có yếu tố “anh hùng.” Nếu không có giai đoạn “cải tạo lao động” dài đằng đẵng này, trong mắt võ lâm (và cả người đọc,) Dương Quá sẽ mãi mãi là kẻ vì nữ nhi mà quên đi khí khái anh hùng. Để được đường hoàng danh chính ngôn thuận kết đôi cùng Tiểu Long Nữ, Dương Quá đã phải trải qua từng đấy gian truân, thậm chí đánh đổi cả sinh mệnh.
Kết
Truyện Kim Dung dù tình tiết biến ảo khôn lường nhưng cấu trúc cơ bản tương đối đồng nhất. Những nhân vật nam chính của Kim Dung đa số đều trải qua ba giai đoạn tuổi trẻ nông nổi, tung hoành giang hồ, và lui về ở ẩn. Có điều để xứng đáng được “về hưu,” những vị anh hùng này đều phải hoàn thành một (hoặc nhiều) công lao nào đó, thường là đem lại hoà bình cho giang hồ (Lệnh Hồ Xung), báo đền nợ nước (Quách Tĩnh), hoặc kết hợp cả hai (Trương Vô Kỵ). So với những vị anh hùng này, sự thoái ẩn của Dương Quá có điểm giống và cũng có điểm khác. Chàng không ra hải ngoại trốn tránh sự đời như Viên Thừa Chí, cũng không tìm một chốn Đào nguyên lánh mình như Quách Tĩnh, Lệnh Hồ Xung. Sau 16 năm lăn lộn giang hồ, Dương Quá lại trở về toà mật thất lạnh lẽo dưới chân núi Chung Nam. Thế nhưng có lẽ Dương Quá lại là người có kết cục đáng hài lòng nhất.
Đa phần truyện Kim Dung đều khép lại với những cái kết có hậu nhưng vương chút xót xa. Những vị anh hùng kia dù đã có tất cả oai danh, mỹ nhân, của cải, thẳm sâu trong lòng họ vẫn có điều tiếc nuối. Quách Tĩnh về đảo Đào hoa nhưng lòng vẫn canh cánh nợ nước, Trương Vô Kỵ ngày ngày vẽ mày cho người ngọc nhưng chưa thể quên sự phản bội của Chu Nguyên Chương, Lệnh Hồ Xung cùng Doanh Doanh vui khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ nhưng vết đau vì bị “tiểu sư muội” phụ bạc vẫn còn đó. Ngay cả Vi Tiểu Bảo sau khi dắt 7 phu nhân của y chạy biến vẫn không khỏi lưu luyến Khang Hy và các huynh đệ Thiên Đệ Hội.
Thế nhưng 16 năm lưu lạc đã cho Dương Quá nếm trải đau khổ tột độ lẫn vinh quang tột cùng, đủ để không còn gì hối hận trên đời. Dương Quá dứt áo ra đi mà lòng không còn gì vấn vương, bởi với chàng, được tái hợp Tiểu Long Nữ chính là cái đích cuối cùng và duy nhất. Toà Hoạt Tử Nhân Mộ lạnh lẽo kia với hai người Dương-Long chính là địa đàng thật sự dưới trần thế. Quá trình yêu đương khổ nạn của Dương Quá, như vậy, có thể coi là có hậu hay không?
Anh Nguyễn - soi.today
Thử thách đầu tiên của Dương Quá sau khi bái Tiểu Long Nữ làm sư phụ là nằm ngủ trên chiếc giường hàn ngọc. Chiếc giường này có lai lịch rất lớn: đích thân Vương Trùng Dương đã đi tìm loại ngọc quý ở vùng cực Bắc giá lạnh để tặng cho Lâm Triều Anh. Trong văn học, chiếc giường vốn đã là biểu tượng của hôn nhân và gắn bó, ở đây lại nhuốm màu tư tình nam nữ nên ý nghĩa càng đậm. Thế nhưng chiếc giường này lại chứa đựng nhiều mâu thuẫn: nó lạnh chứ không ấm, nó là dụng cụ luyện công chứ không phải nơi kề vai ấp má, và chỉ những người đàn bà cô đơn gối chiếc sử dụng nó chứ không hề có hơi ấm đàn ông. Mục đích sử dụng của chiếc gường đã hoàn toàn bị đảo lộn, nó trở thành nhân chứng cho trái tim lạnh lẽo của các ngọc nữ phái Cổ Mộ và sự trái khoáy của việc “tuyệt tình.”
Phải đến khi Dương Quá nằm lên nó thì ý nghĩa của chiếc giường mới hoàn toàn thay đổi. Đặt trong bối cảnh văn học, việc Tiểu Long Nữ cho phép Dương Quá cùng chia sẻ chiếc giường với nàng là có ẩn ý tình dục không thể bàn cãi. Nếu chiếc giường hàn ngọc là biểu tượng cho sự trinh nguyên của Tiểu Long Nữ thì sự có mặt của Dương Quá đã làm tan đi lớp bảo vệ đầu tiên và mở đường cho những rung động sau này. Bầu máu nóng của chàng trai trẻ mau chóng làm ấm lên chiếc giường và cả trái tim người thiếu nữ. Từ đó chiếc giường hàn ngọc thành nơi giao hoà của hai giới, có thể nói là đã chứng giám cho mối tình thâm của hai vị tiền bối Vương Trùng Dương-Lâm Triều Anh. Thế nhưng chiếc giường cũng khiến Dương Quá “toàn thân run bần bật, hai hàm răng gõ vào nhau cầm cập. Nằm một lát nữa, khí lạnh thấu xương, thật không tài nào chịu nổi.” Sự tổn thương thân thể này phản chiếu việc Dương Quá bị mất cánh tay, Tiểu Long Nữ bị cưỡng hiếp và trọng thương – cái giá đầu tiên của mối tình ngang tái.
Thử thách thứ hai của Dương Quá sau khi nhập môn phái Cổ Mộ là chộp bắt những con chim sẻ do Tiểu Long Nữ thả ra. Số lượng chim sẻ tăng từ 3 đến 81 con, phạm vi luyện tập của chàng cũng nới rộng từ gian thạch thất nhỏ ra khoảng không ngoài trời.
Hai người đi ra ngoài nhà mồ, lúc này đang là tháng Ba mùa xuân, cây lá xanh non. Dương Quá hít sâu mấy hơi, cảm thấy hương hoa thơm mát tràn vào lồng ngực, dễ chịu vô cùng. Tiểu Long Nữ mở nghiêng miệng cái túi vải, chim sẻ từ trong túi lũ lượt bay ra; lúc này hai bàn tay với mười ngón búp măng của nàng dang rộng, tay vẫy, tay phẩy, buộc những con chim sẻ đang giương cánh bay đi phải quay trở lại. Bầy chim được sổ lồng, lẽ nào không bay đi tứ phía? Nhưng lạ thay, song chưởng của Tiểu Long Nữ chỉ làm như thế, mà toàn bộ tám mươi mốt con chim sẻ đều quần tụ ở trước mặt nàng trong phạm vi ba thước.
[…]
Cứ thế luyện tập không mệt mỏi, hết xuân qua hạ, ngày càng tiến bộ. Dương Quá thông minh dĩnh ngộ, cần mẫn dụng công, số chim sẻ chặn giữ được ngày càng tăng, đến sau Trung thu, nó đã luyện xong bộ chưởng pháp “Thiên la địa võng thế”, khi thi triển, nó có thể ngăn giữ được tám mươi mốt con chim sẻ. Nếu có con nào bay thoát, thì chỉ là vì công lực của nó chưa thuần mà thôi.
Thử thách thứ hai này, tuy không đau đớn về thể xác nhưng lại yêu cầu sự kiên trì và bền bỉ cực độ. Nó tương ứng với giai đoạn thứ hai trong chuyện tình của Dương Quá: khi chàng đi khắp thiên hạ tìm bóng người yêu. Vì hiểu lầm nhau, vì lễ giáo cản ngại, vì dòng đời xô đẩy, tổng cộng Tiểu Long Nữ đã ba lần ly khai Dương Quá, theo Trương Hải Hồng nhận xét là có tác dụng “muốn bắt vờ thả.” Thế nhưng anh chàng Dương Quá cũng không phải dạng vừa. “Thông minh đĩnh ngộ,” “cần mẫn dụng công” là tố chất khiến Dương Quá luyện tập thành tài, nhưng cũng là điều kiện cần để chàng theo đuổi tình yêu sau này. Học võ ở đây chỉ là phụ, là tiền đề cho chàng rèn luyện bản lĩnh đi tìm người trong mộng. Thế nên dù cánh chim sẻ Tiểu Long Nữ có bay cùng trời cuối đất thì môn công phu “Thiên la địa võng thế” của Dương Quá cũng bắt nàng trở về bên chàng.
Thử thách cuối cùng chính là luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh. Theo truyện mô tả, khi luyện tới đây thì hai người đã trưởng thành: “Tiểu Long Nữ càng lớn càng mỹ lệ tuyệt luân. Năm nay Dương Quá đã mười sáu tuổi, thân hình cao lớn dần, giọng nói hơi ồm ồm, đã thành một trang thiếu niên tuấn tú, chứ không còn là một đứa bé như lúc tới nhà mồ.” Oái oăm thay cách luyện môn này là cả hai người đều phải … cởi hết quần áo. Ý đồ dẫn dắt câu chuyện của Kim Dung không nói thì cũng đã rõ rành rành. Cảnh thầy trò cùng luyện công bởi vậy cũng lãng mạn như cõi bồng lai:
Bụi hồng này dài tới vài trượng, tầng tầng lớp lớp hương thơm ngan ngát. … như có một tấm bình phong, hoa đỏ cành lá xanh, trông rất đẹp mắt, bốn phía có bóng cây bao phủ, tựa hồ một tòa phòng ốc bằng hoa lá cành do thiên nhiên kết thành.
…
Nàng nhảy lên cây, nhìn tứ phía, thấy đông nam tây bắc đều một màu xanh cây lá tĩnh mịch, văng vẳng tiếng suối rì rào, tiếng chim líu lo, không một dấu chân người, quả là một nơi luyện công cực tốt, bèn nói:
– Ngươi chọn được chỗ tốt, tối nay ta ra đây luyện công.
Canh hai tối hôm ấy, hai người ra chỗ bụi hoa hồng. Ban đêm, mùi hoa càng đậm đà. Tiểu Long Nữ đem pháp môn khẩu quyết tu tập “Ngọc nữ tâm kinh” nói ra một hồi, Dương Quá hỏi những chỗ chưa rõ, rồi hai người sang hai bên bụi hoa hồng, cởi hết quần áo, bắt đầu luyện tập. Dương Quá chìa tay trái qua bụi hoa, chạm vào bàn tay phải của Tiểu Long Nữ, hễ trong lúc luyện tập ai gặp chỗ khó, thì người kia nhận cảm ứng sẽ lập tức vận công trợ giúp.
…
Hai người từ đó lấy đêm làm ngày. Buổi tối họ luyện công, ban ngày nghỉ ngơi trong cổ mộ. Hồi này đang là mùa hạ nóng bức, ban đêm dụng công càng mát mẻ; cứ thế hơn hai tháng bình an vô sự.
…
Hai người ở hai bên bụi hoa hồng tự luyện tập, toàn thân hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, hòa với mùi hoa thêm nồng.
Ngọc Nữ Tâm Kinh là tâm pháp do Lâm Triều Anh tạo ra để đối địch với Vương Trùng Dương, nhưng tương tự như Ngọc Nữ Kiếm Pháp, nó chứa đựng nhiều tình hơn là hận. Trong toàn bộ Thần Điêu Hiệp Lữ, đây là giây phút gần gũi về thể xác nhất của Dương Quá và Tiểu Long Nữ. Thế nhưng bài học của cây Tình Hoa đã được lặp lại: luyến ái sâu đậm nhất luôn đi kèm với trừng phạt ác nghiệt nhất. Đây có thể ví như giây phút cuối cùng trước khi đôi Adam-Eve bị đuổi khỏi Địa đàng, bởi liền sau bức tranh tiên cảnh này là đau đớn và chia lìa: Tiểu Long Nữ bị Doãn Chí Bình cưỡng hiếp, hai người bọn họ phải rời khỏi toà Cổ Mộ và lạc mất nhau, bị sỉ nhục và hành hạ. Lần thứ hai khi hai người cùng trở lại tòa Cổ Mộ thì quá nhiều mất mát đã xảy ra: thân thể hai người không còn toàn vẹn mà danh dự cũng không, đại đa số võ lâm đều coi khinh họ vì cả gan làm chuyện “suy đồi.” Tiếp nối là 16 năm xa lìa nhau cho tới khi họ sánh vai nhau trở về Hoạt Tử Nhân Mộ vĩnh viễn.
Không chỉ có vậy, Dương Quá vẫn phải theo khuôn phép “đại hiệp cao cả nhất là vì nước vì dân” mà Quách Tĩnh đã sớm thiết lập. Quá trình lập công chuộc tội của Dương Quá trước hết là hành hiệp trượng nghĩa, sau là ba đại công với Tương Dương, cuối cùng là ném đá chết đại hãn Mông Kha dưới thành. Kim Dung muốn viết một câu chuyện về “hiệp lữ,” nhưng vẫn không thể không có yếu tố “anh hùng.” Nếu không có giai đoạn “cải tạo lao động” dài đằng đẵng này, trong mắt võ lâm (và cả người đọc,) Dương Quá sẽ mãi mãi là kẻ vì nữ nhi mà quên đi khí khái anh hùng. Để được đường hoàng danh chính ngôn thuận kết đôi cùng Tiểu Long Nữ, Dương Quá đã phải trải qua từng đấy gian truân, thậm chí đánh đổi cả sinh mệnh.
Kết
Truyện Kim Dung dù tình tiết biến ảo khôn lường nhưng cấu trúc cơ bản tương đối đồng nhất. Những nhân vật nam chính của Kim Dung đa số đều trải qua ba giai đoạn tuổi trẻ nông nổi, tung hoành giang hồ, và lui về ở ẩn. Có điều để xứng đáng được “về hưu,” những vị anh hùng này đều phải hoàn thành một (hoặc nhiều) công lao nào đó, thường là đem lại hoà bình cho giang hồ (Lệnh Hồ Xung), báo đền nợ nước (Quách Tĩnh), hoặc kết hợp cả hai (Trương Vô Kỵ). So với những vị anh hùng này, sự thoái ẩn của Dương Quá có điểm giống và cũng có điểm khác. Chàng không ra hải ngoại trốn tránh sự đời như Viên Thừa Chí, cũng không tìm một chốn Đào nguyên lánh mình như Quách Tĩnh, Lệnh Hồ Xung. Sau 16 năm lăn lộn giang hồ, Dương Quá lại trở về toà mật thất lạnh lẽo dưới chân núi Chung Nam. Thế nhưng có lẽ Dương Quá lại là người có kết cục đáng hài lòng nhất.
Đa phần truyện Kim Dung đều khép lại với những cái kết có hậu nhưng vương chút xót xa. Những vị anh hùng kia dù đã có tất cả oai danh, mỹ nhân, của cải, thẳm sâu trong lòng họ vẫn có điều tiếc nuối. Quách Tĩnh về đảo Đào hoa nhưng lòng vẫn canh cánh nợ nước, Trương Vô Kỵ ngày ngày vẽ mày cho người ngọc nhưng chưa thể quên sự phản bội của Chu Nguyên Chương, Lệnh Hồ Xung cùng Doanh Doanh vui khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ nhưng vết đau vì bị “tiểu sư muội” phụ bạc vẫn còn đó. Ngay cả Vi Tiểu Bảo sau khi dắt 7 phu nhân của y chạy biến vẫn không khỏi lưu luyến Khang Hy và các huynh đệ Thiên Đệ Hội.
Thế nhưng 16 năm lưu lạc đã cho Dương Quá nếm trải đau khổ tột độ lẫn vinh quang tột cùng, đủ để không còn gì hối hận trên đời. Dương Quá dứt áo ra đi mà lòng không còn gì vấn vương, bởi với chàng, được tái hợp Tiểu Long Nữ chính là cái đích cuối cùng và duy nhất. Toà Hoạt Tử Nhân Mộ lạnh lẽo kia với hai người Dương-Long chính là địa đàng thật sự dưới trần thế. Quá trình yêu đương khổ nạn của Dương Quá, như vậy, có thể coi là có hậu hay không?
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Vi Tiểu Bảo (bài 1): “thằng vô lại nhỏ” được Kim Dung gửi gắm toàn biểu tượng
Anh Nguyễn - soi.today
Nghê Khuông là người nghiên cứu sâu nhất về Kim Dung tại Hồng Kông. Theo Nghê Khuông, Lộc Đỉnh Ký – tác phẩm “phong bút” của Kim Dung, là “cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất mọi thời đại, ở Trung Hoa cũng như trên thế giới.” Ông còn lập ra một hệ thống phân loại các nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung, trong đó Vi Tiểu Bảo được ông xếp hạng “thượng đẳng” vì tính cách rất đời thực với đầy những lầm lỗi đặc trưng của con người, trái ngược với Quách Tĩnh hoàn hảo nhưng nhàm chán (không được Nghê Khuông xếp hạng).
Tại cuộc hội thảo về Kim Dung tổ chức tại Đài Loan nhân dịp các tác phẩm của ông được chính thức phát hành (sau một thời gian dài cấm đoán,) những cuộc bàn luận về Vi Tiểu Bảo đã chiếm ba phần tư thời lượng chương trình. Sức hút mạnh mẽ của Vi Tiểu Bảo khiến Lộc Đỉnh Ký trở thành trường thiên tiểu thuyết đầu tiên của Kim Dung được dịch sang tiếng Anh, từ đó tiếng tăm của tên “tiểu gia hỏa”(*) này càng trở nên lừng lẫy, thu hút đông đảo sự chú ý của giới học thuật.
Bìa sách Lộc Đỉnh Ký bằng tiếng Anh (quyển một)
Vi Tiểu Bảo – kẻ “tiểu nhân” nhiều người muốn noi gương
Sự yêu thích đặc biệt của độc giả với Vi Tiểu Bảo không phải là ngẫu nhiên. Trái ngược với những anh hùng khác của Kim Dung, Vi Tiểu Bảo chúa ghét việc khổ luyện võ nghệ, chẳng có tấm lòng cứu nhân độ thế, lại càng không dũng mãnh phi thường. Song những thành tựu chính trị mà Quách Tĩnh, Dương Quá, Tiêu Phong, Trương Vô Kỵ đạt được đều thật nhỏ nhoi so với Vi Tiểu Bảo. Y hành hung thành công Ngao Bái – khai quốc công thần của nhà Thanh, phá hủy Thần Long giáo, đạt được hiệp ước biên giới với Nga, làm suy yếu thế lực của đại Hán gian Ngô Tam Quế, điều đình với sứ giả Mông Cổ-Tây Tạng…
Không những thế, Vi Tiểu Bảo còn dính dáng rất sâu với các thế lực giang hồ: y kiêm chức Hương chủ của Thiên Địa hội, Bạch Long Sứ của Thần Long Giáo, bái Trường Bình công chúa nhà Minh làm sư phụ, lại có ơn với bọn Mộc vương phủ, phái Vương Ốc, Lý Tây Hoa,… Có thể nói Vi Tiểu Bảo vừa là một đại công thần của nhà Thanh vừa là một yếu nhân bậc nhất trong võ lâm. Không những thế, Vi Tiểu Bảo còn là phú ông giàu có nhất, ông chồng nhiều diễm phúc nhất của Kim Dung với kho báu Lộc Đỉnh Sơn và bảy người vợ như hoa như ngọc.
Thế nhưng bất chấp những chiến tích đó, Vi Tiểu Bảo vẫn là một tên lưu manh dễ gần. Tiêu Phong, Quách Tĩnh giống núi Thái Sơn khiến người ta cúi rạp mình ngưỡng mộ. Dương Quá, Viên Thừa Chí là cánh chim tiêu sái vô định nằm ngoài tầm với. Vi Tiểu Bảo lại giống một người bạn mà ta có thể cùng chén chú chén anh, thậm chí hứng chí lên còn vò đầu, đá đít y một cái.
Cách Kim Dung dẫn dắt câu chuyện khiến người đọc cảm thấy Vi Tiểu Bảo có tài ứng biến khôn lường, luôn dễ dàng chuyển nguy thành an, song họ cũng có thể làm được như vậy. Một tên vô lại thất học thì tài cán đến đâu cơ chứ! Những cuộc phiêu lưu của Vi Tiểu Bảo luôn ly kỳ, nhưng không đến nỗi bất khả thi. Học võ thì khó, làm anh hùng hào kiệt lại càng khó, chứ giàu có, vợ đẹp như Vi Tiểu Bảo thì chỉ cần có chút vận may là được. Đây chính là nét hấp dẫn “thoát ly thực tế” (escapism) của Lộc Đỉnh Ký.
Bìa sách Lộc Đỉnh Ký bằng tiếng Anh (quyển ba)
Thấy phụ nữ là thấy tiềm năng lợi nhuận
Trên thực tế, tạo nên một Vi Tiểu Bảo tầm thường một cách phi thường như vậy không phải dễ dàng. Kim Dung thú nhận đã từng có cảm giác chán ghét Vi Tiểu Bảo khi bắt đầu viết Lộc Đỉnh Ký. Thế nhưng càng viết về y, ông càng bị chính nhân vật của mình cuốn hút. Khi Lộc Đỉnh Ký đi đến hồi kết, Kim Dung đã coi tên nhãi ranh tinh quái này là tri kỷ. Viết về Vi Tiểu Bảo là cách Kim Dung rà soát lại những quan điểm của chính mình về các khái niệm anh hùng, hiệp nghĩa, ái quốc, dân tộc. Trên hết, ông đã gửi gắm vào nhân vật này những trăn trở, ám ảnh về tư tưởng nhất thống Trung Hoa.
Khi bắt đầu câu chuyện, Vi Tiểu Bảo nằm ở nấc thang cuối cùng của xã hội phong kiến nam quyền, đơn giản bởi y là con trai của một kỹ nữ. Xuất thân của y có hai tầng nhơ nhuốc: thứ nhất, y là kẻ không cha, nghĩa là không có nguồn gốc. Thứ hai, mẹ y là món đồ chơi của tất cả các gã đàn ông có tiền, tức là ai ai cũng có thể làm “cha hờ” của Vi Tiểu Bảo! Về khoản này, chính Vi Tiểu Bảo đã thừa nhận:
Y nhón chân đi tới ngoài phòng mẹ, vừa thò đầu vào, thấy trong phòng không có ai, biết mẹ đang tiếp khách, nghĩ thầm “Mẹ kiếp, không biết lại là thằng khách ôn dịch nào đang chơi mẹ mình, làm cha hờ của mình đây”.
Khi vào cung, Vi Tiểu Bảo giả trang làm một thái giám nhỏ, lại lấy tên là Tiểu Quế Tử. Bị triệt tiêu bộ phận sinh dục nam, các thái giám trong cung là một tầng lớp đặc biệt trong xã hội: không phải đàn ông cũng không phải đàn bà. Việc biến thành thái giám (dù chỉ là tạm thời) một lần nữa nhấn mạnh khía cạnh “nhu nhược” của Vi Tiểu Bảo. Từ “quế” lại đồng âm với “quy” – con rùa, do đó Tiểu Quế Tử cũng có thể được hiểu là ‘thằng rùa nhỏ.” Ở Trung Hoa, chửi ai đó là “đồ rùa đen” là một sỉ nhục rất nặng, vì nó ám chỉ kẻ kia bị cắm sừng. Chi tiết này tương ứng ứng với hoàn cảnh “con trai kỹ nữ” mà ta vừa nói đến ở trên. Ở giai đoạn này, Vi Tiểu Bảo đã hoàn toàn bị tước đoạt những yếu tố nam tính: từ xuất thân đến thể xác (ẩn dụ,) và cả tên gọi nữa. Y không có sự tôn trọng của bất kỳ ai, kể cả đầy tớ trong Lệ Xuân Viện nơi y sinh ra cũng khinh thường y.
Ước mơ của Vi Tiểu Bảo rất đơn giản: từ nhỏ y đã muốn vung tiền trong Lệ Xuân Viện một phen ba ngày ba đêm cho thỏa chí bình sinh, nếu có thể làm lão bản mở kỹ viện riêng thì càng tốt! Sau này khi trở thành quan đại thần của nhà Thanh, mộng ước ngày xưa không thể thực hiện được nữa, y lại đưa mẹ năm vạn lạng bạc để mở Lệ Hạ Viện, Lệ Thu Viện, Lệ Đông Viện cạnh tranh cho Lệ Xuân Viện sập tiệm. Mỗi khi gặp một mỹ nhân nào, dù đó có là công chúa hay giáo chủ phu nhân, việc đầu tiên của Vi Tiểu Bảo là tính toán mức độ “hút khách” nếu nàng làm kỹ nữ, quả thực mật lớn bằng trời. Thậm chí thái hậu đương thời trong mắt y cũng chỉ là “con đĩ già.” Ví dụ khi gặp Tô Thuyên kiều diễm âm độc, y không sợ chết mà lại nghĩ như sau:
Vi Tiểu Bảo từ xa nhìn, thấy bàn tay đúng là như bạch ngọc tạc thành, trong lòng lập tức nảy ra ý nghĩ “Nữ nhân này mà làm vợ mình cũng không phải kém. Nàng mà tới Lệ Xuân viện làm ăn, thì khách chơi ở Dương Châu sẽ ùn ùn kéo tới xô vỡ cả cổng lớn Lệ Xuân viện”.
Hay khi diện kiến đệ nhất mỹ nhân Trần Viên Viên – người khiến cả Sùng Trinh, Ngô Tam Quế, Lý Tự Thành mê đắm, Vi Tiểu Bảo không mất công suy ngẫm về lịch sử hay mối họa vong quốc mà chỉ nghĩ cách kiếm lời:
“Bà ta vừa đàn vừa nói chuyện thế này, rất giống các tiên sinh kể chuyện ở Tô Châu vừa đàn vừa kể chuyện. Mình nói chuyện vài câu với bà ta, phụ họa vài tiếng, trở thành người giúp việc của tiên sinh kể chuyện. Hai người chúng ta mà tới quán trà ở Dương Châu làm ăn, đảm bảo sẽ làm chấn động cả thành Dương Châu, cả quán trà cũng bị chen lấn vỡ toang. Mình dựa vào bảng hiệu của bà ta, tự nhiên cũng sẽ nổi tiếng”
Vi Tiểu Bảo tằng tịu cùng công chúa Nga
Rõ ràng đối với Vi Tiểu Bảo, phụ nữ là một thứ “tư bản” (capital) – những vật thể có giá trị, có khả năng đo lường được sự giàu sang của người sở hữu chúng. Thế giới quan của Vi Tiểu Bảo được môi trường kỹ viện hun đúc mà nên, môi trường đó vừa rẻ rúng người phụ nữ, biến họ thành hàng hóa, vừa tước đoạt bản ngã nam giới của Vi Tiểu Bảo, khiến y nung nấu ý chí báo thù. Mẹ y là sở hữu của vô vàn đàn ông thì y sẽ sở hữu vô số đàn bà. Sự thèm khát phụ nữ của họ Vi không đến từ nhu cầu tình dục đơn thuần. Đối với Vi Tiểu Bảo, thu thập đàn bà là cách y bồi đắp cho mình một nhân thân mới, từ đó trở thành một nam nhân thực thụ.
Về mặt này, Trương Hải Hồng đã nhận xét: “Vi Tiểu Bảo thân không võ công, nhút nhát sợ việc, lại không phải bậc hảo hán nghi biểu đường hoàng, về bề ngoài và tinh thần đều đáng xếp vào hàng anh hai thỏ. Nhưng nói tới phụ nữ thì Vi Tiểu Bảo lại đặc biệt to gan, loại nào cũng dám chọc vào, đúng là dũng cảm điên cuồng, mù quáng. Món điểm tâm Song Nhi trước bữa ăn, canh cay Yến Ninh công chúa, uyên ương bỏ lò Phương Di, rau tươi thanh đạm Mộc Kiếm Bình, Phật trèo tường A Kha,… y đều nếm tất. Ngay cả tôm rồng đầy gai Tô Thuyên y cũng nhận lấy, nhấc đũa vung gươm khoái trá ăn luôn. Bản lĩnh của y là coi mọi người như nhau, làm bừa làm bãi, kéo hết Mãn Hán vào một chiếu, có thể nói là nhà hàng ăn đứng đầu trong dã sử. Đàn ông đều muốn làm Vi Tiểu Bảo, nhưng đều không làm được.”
Vi Tiểu Bảo và các người đẹp trên giường lớn
Chinh phục gái: biểu tượng của thu phục về chính trị và văn hóa
Thế nhưng quá trình gom vợ của Vi Tiểu Bảo không chỉ là câu chuyện của một cá nhân. Rõ rệt hơn, nó là biểu tượng cho ý nghĩa nhất thống văn hóa của Lộc Đỉnh Ký. Ở cuối truyện, tác giả hé lộ cho ta biết về lai lịch của Vi Tiểu Bảo: mẹ y tiếp đủ mọi khách, chỉ thiếu người Tây Dương. Vi Tiểu Bảo là sự kết hợp của năm dòng máu Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, nói cách khác, y chính là ngụ ngôn của dân tộc Trung Hoa – một dân tộc kiêu ngạo, hãnh tiến, nhưng không ít lần trải qua những giai đoạn “nhược tiểu.” Nếu giải pháp của Vi Tiểu Bảo là sưu tập nữ nhân, thì giải pháp của dân tộc Trung Hoa là thu phục về chính trị và văn hóa.
Thử nhìn lại lai lịch bảy người vợ của Vi Tiểu Bảo: Tô Thuyên là phu nhân giáo chủ Thần Long Giáo gian hiểm, Song Nhi là người của Trang gia bị hại bởi văn tự ngục, Kiến Ninh công chúa nhà Thanh nhưng thực ra gốc gác thuộc Thần Long Giáo, Phương Di và Mộc Kiếm Bình của Mộc vương phủ Vân Nam, Tăng Nhu phái Vương Ốc, A Kha con gái Sấm Vương Lý Tự Thành. Bảy người bọn họ đến từ những tổ chức lớn nhỏ khác nhau nhưng cùng chung mục đích phản kháng triều đình nhà Thanh. Về cuối truyện, họ đều bị Vi Tiểu Bảo thâu tóm bằng nhiều thủ đoạn.
Quá trình chinh phục mỹ nhân của Vi Tiểu Bảo chính là ẩn dụ cho quá trình chinh phạt các thế lực chống đối, quy Trung Hoa về một mối của nhà Thanh. Ngay trong Lộc Đỉnh Ký, những cuộc tình của Vi Tiểu Bảo luôn diễn ra song song với việc khuất phục “thù trong giặc ngoài” của Khang Hy: bức hàng họ Trịnh ở Đài Loan, vô hiệu hoá Thiên Địa Hội, triệt thoái Nga La Tư-Mông Cổ-Tây Tạng, dẹp loạn Tam Phiên,…
Lộc Đỉnh Ký ấn hành ở Trung Quốc
Cung cách của một Trung Hoa xâm lược và gây hấn
Thế nhưng trong quá trình viết Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung luôn ý thức được tính thái quá, lố bịch, thậm chí cực đoan trong nền móng cai trị của Trung Quốc. Đối với nhân vật Vi Tiểu Bảo, việc tích luỹ đàn bà luôn sóng đôi với thắng lợi chiến tranh và hạ nhục kẻ thù. Quá trình này bắt đầu với những sự việc tưởng chừng rời rạc, nhưng khi nhìn một cách tổng thể, chúng đã khắc họa rõ nét tâm lý xâm lược/gây hấn của y. Vi Tiểu Bảo ôm ấp Phương Di trong chăn, trên kiệu chưa đủ, y phải chôn sống, đái lên đầu Lưu Nhất Chu người yêu nàng mới thỏa ý. Y dùng bàn tay Lạt ma sờ lên má A Kha, trêu ghẹo nàng, cưỡng hiếp nàng vô cùng khoái trá, nhưng y thích thú hành hạ tình địch Trịnh Khắc Sảng còn hơn thế. Vi Tiểu Bảo ngủ với Tô Thuyên khiến nàng có thai, rồi lại giết chết Hồng giáo chủ – kẻ bị y cắm sừng. Những cặp phạm trù hiếp/giết trên gây liên tưởng mạnh mẽ đến những cuộc chiến tranh mà đàn bà bị cưỡng dâm, bắt làm nô lệ, đàn ông bị xử tử. Do cách viết bông đùa của Kim Dung, những hành động của Vi Tiểu Bảo khiến chúng ta bật cười thay vì tức giận, nhưng ẩn sau đó là tư tưởng chiếm đóng, xâm lấn của dân tộc Trung Hoa.
Vi Tiểu Bảo trêu ghẹo Phương Di, Mộc Kiếm Bình trong chăn
Tâm lý này được phát tác đến đỉnh điểm trong chuyến xuất mã thu phục “quỷ La Sát” (quân Nga) của Vi Tiểu Bảo. Tâm lý chiến được Vi Tiểu Bảo áp dụng là lột truồng quân địch, dọa thiến chúng. Chiến lược đánh trận thật sự của y lại bắt nguồn từ một trò chơi: y đái vào ống nước bắn lên thành, từ đó nghĩ ra kế làm những vòi rồng (thủy long) phun nước nóng vào thành, khuất phục quân địch. Ngay cả viên tướng Nga khi bại trận cũng bị chính lính của y lột trần truồng. Những vòi rồng phun nước đầy tính phồn thực là biểu tượng cho sức mạnh dương tính vượt trội của nhà Thanh, áp đảo quân thù. Món quà kỉ niệm chiến thắng Vi Tiểu Bảo gửi cho công chúa Tô Phi Á (Sophia) chính là một bức tượng khỏa thân của y với dòng chữ “Ta mãi mãi yêu cô” – Kim Dung còn thêm vào chi tiết các phụ nữ Nga hay đến ve vuốt hạ thể bức tượng để cầu xin con trai. Hệ tư tưởng “Chinese Supremacy” vậy là đã được đẩy đến cùng cực rồi. Cuối cùng, khi kí văn tự Điều ước Ni Bố Sở (Treaty of Nerchinsk), Vi Tiểu Bảo chỉ viết nguệch ngoạc một chữ Tiểu (小):
Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm viết chữ Tiểu thì mình nắm chắc trong tay, lúc ấy bèn nhấc bút lên, vẽ một hình tròn bên trái, một hình tròn bên phải sau đó sổ một nét thẳng xuống ở giữa.
Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói “Được rồi, viết rất đẹp”. Vi Tiểu Bảo nghiêng đầu ngắm nghía chữ Tiểu, đột nhiên ngẩng lên trời cười rộ. Sách Ngạch Đồ ngạc nhiên hỏi “Vi đại soái có gì mà cười?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi nhìn chữ này một con chim hai quả trứng, há không phải là như thế sao?”. Các quan lớn bên nhà Thanh không kìm được đều hô hô cười rộ, cả đám tùy tùng và thân binh cũng cười thành tiếng.
(*) đây là cách Kim Dung gọi Vi Tiểu Bảo trong bài viết “Wei Xiaobao zhe xiao jiahuo” ( Vi Tiểu Bảo thằng vô lại nhỏ) đăng năm 1981.
Anh Nguyễn - soi.today
Nghê Khuông là người nghiên cứu sâu nhất về Kim Dung tại Hồng Kông. Theo Nghê Khuông, Lộc Đỉnh Ký – tác phẩm “phong bút” của Kim Dung, là “cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất mọi thời đại, ở Trung Hoa cũng như trên thế giới.” Ông còn lập ra một hệ thống phân loại các nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung, trong đó Vi Tiểu Bảo được ông xếp hạng “thượng đẳng” vì tính cách rất đời thực với đầy những lầm lỗi đặc trưng của con người, trái ngược với Quách Tĩnh hoàn hảo nhưng nhàm chán (không được Nghê Khuông xếp hạng).
Tại cuộc hội thảo về Kim Dung tổ chức tại Đài Loan nhân dịp các tác phẩm của ông được chính thức phát hành (sau một thời gian dài cấm đoán,) những cuộc bàn luận về Vi Tiểu Bảo đã chiếm ba phần tư thời lượng chương trình. Sức hút mạnh mẽ của Vi Tiểu Bảo khiến Lộc Đỉnh Ký trở thành trường thiên tiểu thuyết đầu tiên của Kim Dung được dịch sang tiếng Anh, từ đó tiếng tăm của tên “tiểu gia hỏa”(*) này càng trở nên lừng lẫy, thu hút đông đảo sự chú ý của giới học thuật.
Bìa sách Lộc Đỉnh Ký bằng tiếng Anh (quyển một)
Vi Tiểu Bảo – kẻ “tiểu nhân” nhiều người muốn noi gương
Sự yêu thích đặc biệt của độc giả với Vi Tiểu Bảo không phải là ngẫu nhiên. Trái ngược với những anh hùng khác của Kim Dung, Vi Tiểu Bảo chúa ghét việc khổ luyện võ nghệ, chẳng có tấm lòng cứu nhân độ thế, lại càng không dũng mãnh phi thường. Song những thành tựu chính trị mà Quách Tĩnh, Dương Quá, Tiêu Phong, Trương Vô Kỵ đạt được đều thật nhỏ nhoi so với Vi Tiểu Bảo. Y hành hung thành công Ngao Bái – khai quốc công thần của nhà Thanh, phá hủy Thần Long giáo, đạt được hiệp ước biên giới với Nga, làm suy yếu thế lực của đại Hán gian Ngô Tam Quế, điều đình với sứ giả Mông Cổ-Tây Tạng…
Không những thế, Vi Tiểu Bảo còn dính dáng rất sâu với các thế lực giang hồ: y kiêm chức Hương chủ của Thiên Địa hội, Bạch Long Sứ của Thần Long Giáo, bái Trường Bình công chúa nhà Minh làm sư phụ, lại có ơn với bọn Mộc vương phủ, phái Vương Ốc, Lý Tây Hoa,… Có thể nói Vi Tiểu Bảo vừa là một đại công thần của nhà Thanh vừa là một yếu nhân bậc nhất trong võ lâm. Không những thế, Vi Tiểu Bảo còn là phú ông giàu có nhất, ông chồng nhiều diễm phúc nhất của Kim Dung với kho báu Lộc Đỉnh Sơn và bảy người vợ như hoa như ngọc.
Thế nhưng bất chấp những chiến tích đó, Vi Tiểu Bảo vẫn là một tên lưu manh dễ gần. Tiêu Phong, Quách Tĩnh giống núi Thái Sơn khiến người ta cúi rạp mình ngưỡng mộ. Dương Quá, Viên Thừa Chí là cánh chim tiêu sái vô định nằm ngoài tầm với. Vi Tiểu Bảo lại giống một người bạn mà ta có thể cùng chén chú chén anh, thậm chí hứng chí lên còn vò đầu, đá đít y một cái.
Cách Kim Dung dẫn dắt câu chuyện khiến người đọc cảm thấy Vi Tiểu Bảo có tài ứng biến khôn lường, luôn dễ dàng chuyển nguy thành an, song họ cũng có thể làm được như vậy. Một tên vô lại thất học thì tài cán đến đâu cơ chứ! Những cuộc phiêu lưu của Vi Tiểu Bảo luôn ly kỳ, nhưng không đến nỗi bất khả thi. Học võ thì khó, làm anh hùng hào kiệt lại càng khó, chứ giàu có, vợ đẹp như Vi Tiểu Bảo thì chỉ cần có chút vận may là được. Đây chính là nét hấp dẫn “thoát ly thực tế” (escapism) của Lộc Đỉnh Ký.
Bìa sách Lộc Đỉnh Ký bằng tiếng Anh (quyển ba)
Thấy phụ nữ là thấy tiềm năng lợi nhuận
Trên thực tế, tạo nên một Vi Tiểu Bảo tầm thường một cách phi thường như vậy không phải dễ dàng. Kim Dung thú nhận đã từng có cảm giác chán ghét Vi Tiểu Bảo khi bắt đầu viết Lộc Đỉnh Ký. Thế nhưng càng viết về y, ông càng bị chính nhân vật của mình cuốn hút. Khi Lộc Đỉnh Ký đi đến hồi kết, Kim Dung đã coi tên nhãi ranh tinh quái này là tri kỷ. Viết về Vi Tiểu Bảo là cách Kim Dung rà soát lại những quan điểm của chính mình về các khái niệm anh hùng, hiệp nghĩa, ái quốc, dân tộc. Trên hết, ông đã gửi gắm vào nhân vật này những trăn trở, ám ảnh về tư tưởng nhất thống Trung Hoa.
Khi bắt đầu câu chuyện, Vi Tiểu Bảo nằm ở nấc thang cuối cùng của xã hội phong kiến nam quyền, đơn giản bởi y là con trai của một kỹ nữ. Xuất thân của y có hai tầng nhơ nhuốc: thứ nhất, y là kẻ không cha, nghĩa là không có nguồn gốc. Thứ hai, mẹ y là món đồ chơi của tất cả các gã đàn ông có tiền, tức là ai ai cũng có thể làm “cha hờ” của Vi Tiểu Bảo! Về khoản này, chính Vi Tiểu Bảo đã thừa nhận:
Y nhón chân đi tới ngoài phòng mẹ, vừa thò đầu vào, thấy trong phòng không có ai, biết mẹ đang tiếp khách, nghĩ thầm “Mẹ kiếp, không biết lại là thằng khách ôn dịch nào đang chơi mẹ mình, làm cha hờ của mình đây”.
Khi vào cung, Vi Tiểu Bảo giả trang làm một thái giám nhỏ, lại lấy tên là Tiểu Quế Tử. Bị triệt tiêu bộ phận sinh dục nam, các thái giám trong cung là một tầng lớp đặc biệt trong xã hội: không phải đàn ông cũng không phải đàn bà. Việc biến thành thái giám (dù chỉ là tạm thời) một lần nữa nhấn mạnh khía cạnh “nhu nhược” của Vi Tiểu Bảo. Từ “quế” lại đồng âm với “quy” – con rùa, do đó Tiểu Quế Tử cũng có thể được hiểu là ‘thằng rùa nhỏ.” Ở Trung Hoa, chửi ai đó là “đồ rùa đen” là một sỉ nhục rất nặng, vì nó ám chỉ kẻ kia bị cắm sừng. Chi tiết này tương ứng ứng với hoàn cảnh “con trai kỹ nữ” mà ta vừa nói đến ở trên. Ở giai đoạn này, Vi Tiểu Bảo đã hoàn toàn bị tước đoạt những yếu tố nam tính: từ xuất thân đến thể xác (ẩn dụ,) và cả tên gọi nữa. Y không có sự tôn trọng của bất kỳ ai, kể cả đầy tớ trong Lệ Xuân Viện nơi y sinh ra cũng khinh thường y.
Ước mơ của Vi Tiểu Bảo rất đơn giản: từ nhỏ y đã muốn vung tiền trong Lệ Xuân Viện một phen ba ngày ba đêm cho thỏa chí bình sinh, nếu có thể làm lão bản mở kỹ viện riêng thì càng tốt! Sau này khi trở thành quan đại thần của nhà Thanh, mộng ước ngày xưa không thể thực hiện được nữa, y lại đưa mẹ năm vạn lạng bạc để mở Lệ Hạ Viện, Lệ Thu Viện, Lệ Đông Viện cạnh tranh cho Lệ Xuân Viện sập tiệm. Mỗi khi gặp một mỹ nhân nào, dù đó có là công chúa hay giáo chủ phu nhân, việc đầu tiên của Vi Tiểu Bảo là tính toán mức độ “hút khách” nếu nàng làm kỹ nữ, quả thực mật lớn bằng trời. Thậm chí thái hậu đương thời trong mắt y cũng chỉ là “con đĩ già.” Ví dụ khi gặp Tô Thuyên kiều diễm âm độc, y không sợ chết mà lại nghĩ như sau:
Vi Tiểu Bảo từ xa nhìn, thấy bàn tay đúng là như bạch ngọc tạc thành, trong lòng lập tức nảy ra ý nghĩ “Nữ nhân này mà làm vợ mình cũng không phải kém. Nàng mà tới Lệ Xuân viện làm ăn, thì khách chơi ở Dương Châu sẽ ùn ùn kéo tới xô vỡ cả cổng lớn Lệ Xuân viện”.
Hay khi diện kiến đệ nhất mỹ nhân Trần Viên Viên – người khiến cả Sùng Trinh, Ngô Tam Quế, Lý Tự Thành mê đắm, Vi Tiểu Bảo không mất công suy ngẫm về lịch sử hay mối họa vong quốc mà chỉ nghĩ cách kiếm lời:
“Bà ta vừa đàn vừa nói chuyện thế này, rất giống các tiên sinh kể chuyện ở Tô Châu vừa đàn vừa kể chuyện. Mình nói chuyện vài câu với bà ta, phụ họa vài tiếng, trở thành người giúp việc của tiên sinh kể chuyện. Hai người chúng ta mà tới quán trà ở Dương Châu làm ăn, đảm bảo sẽ làm chấn động cả thành Dương Châu, cả quán trà cũng bị chen lấn vỡ toang. Mình dựa vào bảng hiệu của bà ta, tự nhiên cũng sẽ nổi tiếng”
Vi Tiểu Bảo tằng tịu cùng công chúa Nga
Rõ ràng đối với Vi Tiểu Bảo, phụ nữ là một thứ “tư bản” (capital) – những vật thể có giá trị, có khả năng đo lường được sự giàu sang của người sở hữu chúng. Thế giới quan của Vi Tiểu Bảo được môi trường kỹ viện hun đúc mà nên, môi trường đó vừa rẻ rúng người phụ nữ, biến họ thành hàng hóa, vừa tước đoạt bản ngã nam giới của Vi Tiểu Bảo, khiến y nung nấu ý chí báo thù. Mẹ y là sở hữu của vô vàn đàn ông thì y sẽ sở hữu vô số đàn bà. Sự thèm khát phụ nữ của họ Vi không đến từ nhu cầu tình dục đơn thuần. Đối với Vi Tiểu Bảo, thu thập đàn bà là cách y bồi đắp cho mình một nhân thân mới, từ đó trở thành một nam nhân thực thụ.
Về mặt này, Trương Hải Hồng đã nhận xét: “Vi Tiểu Bảo thân không võ công, nhút nhát sợ việc, lại không phải bậc hảo hán nghi biểu đường hoàng, về bề ngoài và tinh thần đều đáng xếp vào hàng anh hai thỏ. Nhưng nói tới phụ nữ thì Vi Tiểu Bảo lại đặc biệt to gan, loại nào cũng dám chọc vào, đúng là dũng cảm điên cuồng, mù quáng. Món điểm tâm Song Nhi trước bữa ăn, canh cay Yến Ninh công chúa, uyên ương bỏ lò Phương Di, rau tươi thanh đạm Mộc Kiếm Bình, Phật trèo tường A Kha,… y đều nếm tất. Ngay cả tôm rồng đầy gai Tô Thuyên y cũng nhận lấy, nhấc đũa vung gươm khoái trá ăn luôn. Bản lĩnh của y là coi mọi người như nhau, làm bừa làm bãi, kéo hết Mãn Hán vào một chiếu, có thể nói là nhà hàng ăn đứng đầu trong dã sử. Đàn ông đều muốn làm Vi Tiểu Bảo, nhưng đều không làm được.”
Vi Tiểu Bảo và các người đẹp trên giường lớn
Chinh phục gái: biểu tượng của thu phục về chính trị và văn hóa
Thế nhưng quá trình gom vợ của Vi Tiểu Bảo không chỉ là câu chuyện của một cá nhân. Rõ rệt hơn, nó là biểu tượng cho ý nghĩa nhất thống văn hóa của Lộc Đỉnh Ký. Ở cuối truyện, tác giả hé lộ cho ta biết về lai lịch của Vi Tiểu Bảo: mẹ y tiếp đủ mọi khách, chỉ thiếu người Tây Dương. Vi Tiểu Bảo là sự kết hợp của năm dòng máu Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, nói cách khác, y chính là ngụ ngôn của dân tộc Trung Hoa – một dân tộc kiêu ngạo, hãnh tiến, nhưng không ít lần trải qua những giai đoạn “nhược tiểu.” Nếu giải pháp của Vi Tiểu Bảo là sưu tập nữ nhân, thì giải pháp của dân tộc Trung Hoa là thu phục về chính trị và văn hóa.
Thử nhìn lại lai lịch bảy người vợ của Vi Tiểu Bảo: Tô Thuyên là phu nhân giáo chủ Thần Long Giáo gian hiểm, Song Nhi là người của Trang gia bị hại bởi văn tự ngục, Kiến Ninh công chúa nhà Thanh nhưng thực ra gốc gác thuộc Thần Long Giáo, Phương Di và Mộc Kiếm Bình của Mộc vương phủ Vân Nam, Tăng Nhu phái Vương Ốc, A Kha con gái Sấm Vương Lý Tự Thành. Bảy người bọn họ đến từ những tổ chức lớn nhỏ khác nhau nhưng cùng chung mục đích phản kháng triều đình nhà Thanh. Về cuối truyện, họ đều bị Vi Tiểu Bảo thâu tóm bằng nhiều thủ đoạn.
Quá trình chinh phục mỹ nhân của Vi Tiểu Bảo chính là ẩn dụ cho quá trình chinh phạt các thế lực chống đối, quy Trung Hoa về một mối của nhà Thanh. Ngay trong Lộc Đỉnh Ký, những cuộc tình của Vi Tiểu Bảo luôn diễn ra song song với việc khuất phục “thù trong giặc ngoài” của Khang Hy: bức hàng họ Trịnh ở Đài Loan, vô hiệu hoá Thiên Địa Hội, triệt thoái Nga La Tư-Mông Cổ-Tây Tạng, dẹp loạn Tam Phiên,…
Lộc Đỉnh Ký ấn hành ở Trung Quốc
Cung cách của một Trung Hoa xâm lược và gây hấn
Thế nhưng trong quá trình viết Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung luôn ý thức được tính thái quá, lố bịch, thậm chí cực đoan trong nền móng cai trị của Trung Quốc. Đối với nhân vật Vi Tiểu Bảo, việc tích luỹ đàn bà luôn sóng đôi với thắng lợi chiến tranh và hạ nhục kẻ thù. Quá trình này bắt đầu với những sự việc tưởng chừng rời rạc, nhưng khi nhìn một cách tổng thể, chúng đã khắc họa rõ nét tâm lý xâm lược/gây hấn của y. Vi Tiểu Bảo ôm ấp Phương Di trong chăn, trên kiệu chưa đủ, y phải chôn sống, đái lên đầu Lưu Nhất Chu người yêu nàng mới thỏa ý. Y dùng bàn tay Lạt ma sờ lên má A Kha, trêu ghẹo nàng, cưỡng hiếp nàng vô cùng khoái trá, nhưng y thích thú hành hạ tình địch Trịnh Khắc Sảng còn hơn thế. Vi Tiểu Bảo ngủ với Tô Thuyên khiến nàng có thai, rồi lại giết chết Hồng giáo chủ – kẻ bị y cắm sừng. Những cặp phạm trù hiếp/giết trên gây liên tưởng mạnh mẽ đến những cuộc chiến tranh mà đàn bà bị cưỡng dâm, bắt làm nô lệ, đàn ông bị xử tử. Do cách viết bông đùa của Kim Dung, những hành động của Vi Tiểu Bảo khiến chúng ta bật cười thay vì tức giận, nhưng ẩn sau đó là tư tưởng chiếm đóng, xâm lấn của dân tộc Trung Hoa.
Vi Tiểu Bảo trêu ghẹo Phương Di, Mộc Kiếm Bình trong chăn
Tâm lý này được phát tác đến đỉnh điểm trong chuyến xuất mã thu phục “quỷ La Sát” (quân Nga) của Vi Tiểu Bảo. Tâm lý chiến được Vi Tiểu Bảo áp dụng là lột truồng quân địch, dọa thiến chúng. Chiến lược đánh trận thật sự của y lại bắt nguồn từ một trò chơi: y đái vào ống nước bắn lên thành, từ đó nghĩ ra kế làm những vòi rồng (thủy long) phun nước nóng vào thành, khuất phục quân địch. Ngay cả viên tướng Nga khi bại trận cũng bị chính lính của y lột trần truồng. Những vòi rồng phun nước đầy tính phồn thực là biểu tượng cho sức mạnh dương tính vượt trội của nhà Thanh, áp đảo quân thù. Món quà kỉ niệm chiến thắng Vi Tiểu Bảo gửi cho công chúa Tô Phi Á (Sophia) chính là một bức tượng khỏa thân của y với dòng chữ “Ta mãi mãi yêu cô” – Kim Dung còn thêm vào chi tiết các phụ nữ Nga hay đến ve vuốt hạ thể bức tượng để cầu xin con trai. Hệ tư tưởng “Chinese Supremacy” vậy là đã được đẩy đến cùng cực rồi. Cuối cùng, khi kí văn tự Điều ước Ni Bố Sở (Treaty of Nerchinsk), Vi Tiểu Bảo chỉ viết nguệch ngoạc một chữ Tiểu (小):
Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm viết chữ Tiểu thì mình nắm chắc trong tay, lúc ấy bèn nhấc bút lên, vẽ một hình tròn bên trái, một hình tròn bên phải sau đó sổ một nét thẳng xuống ở giữa.
Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói “Được rồi, viết rất đẹp”. Vi Tiểu Bảo nghiêng đầu ngắm nghía chữ Tiểu, đột nhiên ngẩng lên trời cười rộ. Sách Ngạch Đồ ngạc nhiên hỏi “Vi đại soái có gì mà cười?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi nhìn chữ này một con chim hai quả trứng, há không phải là như thế sao?”. Các quan lớn bên nhà Thanh không kìm được đều hô hô cười rộ, cả đám tùy tùng và thân binh cũng cười thành tiếng.
(*) đây là cách Kim Dung gọi Vi Tiểu Bảo trong bài viết “Wei Xiaobao zhe xiao jiahuo” ( Vi Tiểu Bảo thằng vô lại nhỏ) đăng năm 1981.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Vi Tiểu Bảo (bài 2): phản anh hùng đạt được mọi thứ mà anh hùng khó có
Anh Nguyễn - soi.today
Lộc Đỉnh Ký được coi là một kỳ thư, và cũng là tác phẩm Kim Dung tự cho là hay nhất của mình. Nhân vật chính Vi Tiểu Bảo thì đã hóa thành một phần không thể thiếu của văn hóa đại chúng Trung Quốc. Nhiều cuốn sách trở nên rất ăn khách nhờ bàn về việc áp dụng tính cách của Vi Tiểu Bảo vào đời sống hay kinh doanh, ví dụ như Vi Tiểu Bảo thần công của Liu Tianci, Sang Mỹ dự Lộc Đỉnh Ký của Feng Liangnu, Vi Tiểu Bảo khải thị lục của Jin Ge, Khả dĩ để hiếu liêm: Vi Tiểu Bảo thoại thuyết của Zhang Mu.
Cuộc đời của Vi Tiểu Bảo có nhiều cái “số Một”: y là học trò của đệ nhất võ lâm Trần Cận Nam, đã từng diện kiến đệ nhất mỹ nhân Trần Viên Viên, kết giao với đệ nhất gian hùng Ngô Tam Quế, biết được bí mật kho báu đệ nhất thiên hạ Lộc Đỉnh Sơn. Thế nhưng Kim Dung không bao giờ cho phép người đọc quên đi hai điều: thứ nhất là xuất thân thấp hèn của Vi Tiểu Bảo, thứ hai là trình độ văn hóa vô cùng “ọt ẹt” của y.
Những người anh hùng trong tiểu thuyết Kim Dung đa phần là những hán tử thô hào, lỗ mãng, ít năng khiếu văn thơ. Thế nhưng Vi Tiểu Bảo là một trường hợp cá biệt. Y hoàn toàn mù chữ, nhưng lại mê truyện xưa tích cổ. Trí nhớ của y lèm nhèm không tốt, nhưng lại có khả năng biến báo thần kỳ. Nền văn minh vĩ đại của dân tộc Trung Hoa khi lọc qua Vi Tiểu Bảo đã biến thành một phiên bản lỗ chỗ, “tạp pí lù,” chẳng khác nào phản chiếu của một tấm gương biến dạng, thế nhưng phiên bản đó vẫn đặc sệt tư duy Đại Hán. Và tư duy đó chính là nền tảng đem đến “đại công cáo thành” cho Vi Tiểu Bảo, dù không theo cách mà ta mong đợi. Đó là những điểm mà chúng ta cần phân tích trong bài này.
Vi Tiểu Bảo khi làm quan to
Biến dạng văn hóa tầng thứ nhất: đụng đến chữ nghĩa là dùng sai
Ở tầng thứ nhất của sự biến dạng văn hóa, Vi Tiểu Bảo thường xuyên sử dụng sai các thành ngữ, tục ngữ, tên gọi. Những câu nói sai của Vi Tiểu Bảo là một kho tàng truyện cười của Lộc Đỉnh Ký. Song chớ coi thường chúng. Kim Dung đã sử dụng chính những trò đùa bông lơn này để khắc họa tính cách Vi Tiểu Bảo. Một lời nói ra bốn ngựa (tứ mã) khó đuổi đã bị y thay bằng ngựa chết (tử mã). Ngựa chết thì còn đuổi thế nào? Hay “Nghiêu Thuấn Vũ Thang” là mỹ từ để ca tụng những vị vua tài đức, lấy từ danh hiệu của Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đại Vũ, Thành Thang. Biết Khang Hy thích được nịnh là Nghiêu Thuấn Vũ Thang, Vi Tiểu Bảo rất chăm chỉ vỗ mông ngựa, song y luôn nói nhầm thành “điểu sinh ngư thang” (canh chim-sinh-cá).
Vi Tiểu Bảo là một con vẹt lặp lại những câu nói hoa mỹ chứ trong bụng y không có một mảy may chữ nghĩa thánh hiền. Ngoài ra, y cũng chẳng hề tôn thờ những giá trị mơ hồ như nói lời phải giữ lấy lời, thương dân như con, v.v,.. Đối với y, chúng chỉ là những lời rỗng tuếch, và y… không hẳn đã sai. Thông qua Vi Tiểu Bảo, Kim Dung đã biểu lộ sự chán ngán với những khẩu hiệu vô nghĩa, mị dân đầy rẫy trong lịch sử Trung Quốc. Đúng như Khang Hy nhận xét, những lãnh đạo càng thích được ca tụng thì cai trị lại càng không ra gì!
Vi Tiểu Bảo đứng chầu vua Khang Hy
Tư duy Đại Hán mà chúng ta đã bàn đến ở bài trước cũng bộc lộ rất rõ ở tầng thứ nhất này. Người Hán luôn coi mình là chủng tộc đỉnh cao, họ không chỉ coi thường các dân tộc lân bang, từ thời Xuân Thu đã gọi họ là Tứ di (bốn thứ mọi rợ: nam Man, bắc Địch, đông Di, tây Nhung), mà còn khinh miệt cả người Tây phương nữa. Vi Tiểu Bảo nói sai tiếng Trung Quốc chưa đủ, mà còn nói sai cả… tiếng Nga. Hai viên sĩ quan cấp cao của Nga có tên Hoa Bát Tư Cơ và Tề Nặc Lạp Phu bị y gọi chệch thành Vương Bát Tử Kê (gà chết khốn nạn) và Trư La Noạ Phu (heo chó hèn hạ). Trong con mắt khinh thị của Vi Tiểu Bảo, người Tây phương là công dân hạng hai, thậm chí chỉ nhỉnh hơn động vật một chút. Tư tưởng Trung Quốc là trung tâm thế giới, cái rốn vũ trụ được biểu lộ rất rõ qua cách ăn nói của Vi Tiểu Bảo.
Biến dạng văn hóa tầng thứ hai: nhìn đâu cũng ra cờ bạc và gái đẹp
Ở tầng thứ hai của sự biến dạng văn hóa, Vi Tiểu Bảo đã bộc lộ nhiều khía cạnh thú vị trong tâm lý bản thân. Vi Tiểu Bảo sống chết vì cờ bạc và gái đẹp đến mức chúng ăn sâu vào tiềm thức, trở thành hệ quy chiếu của y. Khi nghe về Gia Định tam đồ (ba lần tàn sát của quân Thanh ở Gia Định,) cái đầu mê đánh bạc của y lại diễn giải thành:
“Lão Hoàng gia và hoàng thượng đều nói Gia Định tam đồ giết quá nhiều người, là sự kiện rất thê thảm, tại sao đánh bạc ba lần mà lại giết chết rất nhiều người? Không biết Gia Định ở đâu nhỉ? Người ở đó chắc đánh bạc giỏi lắm, phải hết sức cẩn thận mới được”.
Vi Tiểu Bảo
Một lần khác, Vi Tiểu Bảo đưa bảy người phụ nữ lên giường trong trích đoạn đáng nhớ ở hồi 39. Y vừa kết bái thành huynh đệ với vương tử Mông Cổ, mà A Kỳ lại là tình nhân của nghĩa huynh, vậy có nên bế luôn nàng lên giường hay không? Vi Tiểu Bảo đã tự hội thoại với bản thân mình như sau:
Vi Tiểu Bảo thấy nàng dung mạo kiều diễm, hơi thở gấp rút, lồng ngực không ngừng nhô lên hạ xuống, chợt thấy hối hận, “Mình kết nghĩa với đại Lạt ma và vương tử Mông Cổ không phải là tâm đầu ý hợp, chẳng qua chỉ là mưu kế, lừa cho họ không giết mình thôi. Đại ca nhị ca gì gì đều là thuận miệng nói bừa. Cô nương A Kỳ xinh đẹp như thế mà phải gọi là nhị tẩu thì quá đáng tiếc, chẳng bằng cứ lấy làm vợ luôn cho xong. Trong chuyện Tam tiếu nhân duyên cửu mỹ đồ, Đường Bá Hổ có tới chín người vợ. Nếu mình tính luôn A Kỳ vào chẳng qua cũng chỉ có tám mỹ, còn thiếu một mỹ. Phì, phì, phi! Con đĩ già vừa già vừa dữ, làm sao có thể tính là một mỹ chứ?”.
So với Đường Bá Hổ thì thiếu một mỹ, còn phải trừ thái hậu giả ra thì thiếu tới hai mỹ, quả thật kém hơn quá nhiều, lúc ấy liền bế A Kỳ lên đi vào phòng. Nhưng đi được vài bước, chợt nghĩ “Quan Vân Trường ngàn dặm đưa hoàng tẩu, cũng không đem Lưu đại tẩu biến thành Quan nhị tẩu. Vi Tiểu Bảo bảy bước đưa vương tẩu, cũng không thể quá không biết nghĩa khí, thiếu hai mỹ thì thiếu hai mỹ, sợ gì tương lai không tìm được cho đủ?”. Lúc ấy lập tức xoay người, lại bế A Kỳ ra đặt lên ghế.
Đây là trích đoạn rất ngộ nghĩnh. Đường Bá Hổ hay Đường Dần chính là một họa gia nổi tiếng đời Minh với các bức vẽ mỹ nhân phong tình. Ông chính là tác giả bức tranh người đẹp lả lơi “Hải đường xuân thuỵ” đặt trong phòng ngủ của Tần Khả Khanh và một loạt tranh Xuân Cung Đồ khác. (Thực ra trên đời không hề tồn tại một bức nào của Đường Bá Hổ có tên “Hải đường xuân thụy” cả – đây là biện pháp “trong thực có ảo” của Tào Tuyết Cần, nhưng xin để bài khác bàn sau). Đường Bá Hổ có một người vợ tên là Thẩm Cửu Nương, tam sao thất bản, thiên hạ tưởng ông có đến chín người vợ. Đây là Vi Tiểu Bảo “bé cái nhầm”, nhưng lỗi này không quá nặng. Khối người mắc lỗi tương tự, thậm chí ngay ở Hong Kong cũng có bộ phim Đường Bá Hổ điểm Thu Hương của Châu Tinh Trì, trong đó Đường Bá Hổ có chín vợ thật! Điểm cốt yếu ở đây nằm ở tư tưởng “quyết không chịu thiệt” của Vi Tiểu Bảo. Tuy ở những giây phút chênh vênh giữa chính và tà, Vi Tiểu Bảo luôn hãm lại vừa đủ để không hóa thành kẻ phản diện, song tư tưởng này luôn chi phối mọi hoạt động của y. Vi Tiểu Bảo có thể thua ai, chứ nhất quyết không kém vế trong cờ bạc và đàn bà!
Vi Tiểu Bảo nghe Trần Viên Viên hát Viên Viên khúc. Người mê Viên Viên thì cho rằng y có phúc phận cực lớn mới được nghe toàn bộ bài hát này, nhưng Vi Tiểu Bảo chỉ nghĩ cách biến Trần Viên Viên thành “ca sĩ phòng trà” để kiếm lời.
Biến dạng văn hóa tầng thứ ba: bóp méo và lợi dụng truyện xưa tích cũ
Ở tầng thứ ba của sự biến dạng văn hóa, Vi Tiểu Bảo đã tiến lên một cảnh giới mới. Tinh hoa văn học-lịch sử Trung Quốc đã bị Vi Tiểu Bảo bóp méo và vận dụng nhuần nhuyễn cho các mục đích khác nhau. Ngay từ đầu, Lộc Đỉnh Ký đã giới thiệu với bạn đọc sự yêu thích vô hạn của y với truyện xưa tích cũ.
Tại thành Dương Châu có rất nhiều người kể chuyện trong quán trà, kể chuyện các anh hùng trong Tam quốc chí, Thủy hử, Đại Minh Anh liệt truyện vân vân. Đứa nhỏ này ngày đêm ở trong kỹ viện, sòng bạc, quán trà, hàng rượu, chui vào chui ra, đấm chân mua hàng, châm dầu rót nước giúp người ta kiếm chút tiền thưởng, khi rảnh rỗi thì ngồi xổm cạnh bàn trà nghe kể chuyện. Y xưng hô rất ngọt ngào với các trà bác sĩ đại thúc trong trà quán, trà bác sĩ cũng không đuổi y ra. Y nghe kể chuyện rất nhiều, rất say sưa với các anh hùng hảo hán trong chuyện cổ.
Bản tính thích nghe kể chuyện của y từ bé đến lớn không hề thay đổi. Khi Vi Tiểu Bảo áo cao mũ dài trở về Dương Châu, hùng tâm đại chí y ôm ấp trong lòng là… nhổ sạch hoa thược dược trong vườn chùa Thiền Trí để trả thù cái nhục bị đánh ngày bé. Thế nhưng một viên quan khéo kể chuyện đã xuất hiện làm xoay chuyển tình thế:
Bố chánh sứ Mộ Thiên Nhan bước ra rạp hoa, tới khóm thược dược hái một đóa hoa to như cái bát, quay trở vào tiệc, hai tay đưa cho Vi Tiểu Bảo, cười nói “Xin đại nhân gài đóa hoa này lên mũ, ty chức có một chuyện cổ xin kể cho đại nhân nghe”.
Vi Tiểu Bảo vừa nghe lại có chuyện cổ, liền đón lấy đóa hoa, chỉ thấy đóa hoa thược dược này cánh hoa màu đỏ rực, mỗi cánh đều có một vệt ngang màu vàng, vô cùng tươi đẹp, liền cài lên mũ.
Mộ Thiên Nhan nói “Chúc mừng đại nhân. Loại thược dược này có tên là Kim đới vi, là một giống thược dược vô cùng quý hiếm. Trong thư tịch cổ có ghi chép, ai nhìn thấy loại Kim đới vi này về sau sẽ làm Tể tướng”.
Nhờ tài ứng biến của Mộ Thiên Nhan mà bấy nhiêu đóa thược dược xinh đẹp tại Dương Châu đã thoát cảnh bị nhổ cho ngựa ăn.
Một lần khác, cẩu quan Ngô Chi Vinh rắp tâm mở một vụ án văn tự ngục mới, oái oăm thay y lại tìm đến đúng Vi Tiểu Bảo mách tội. Chữ nghĩa có to bằng hạt đào thì họ Vi cũng không hề quan tâm, chỉ nghe đến chuyện xưa tai y mới vểnh lên:
Vi Tiểu Bảo từ nhỏ đã nghe tiên sinh kể chuyện kể Đại Minh Anh liệt truyện, chuyện cũ nhà Minh khai quốc đã nghe thuộc lòng, vừa nghe y nói tới hai đại tướng Từ Thường, lập tức tinh thần phấn chấn, khác hẳn với vẻ thiu thiu muốn ngủ lúc y đọc văn thơ mới rồi, cười nói “Hai vị đại tướng quân ấy oai phong tám mặt, rất là lợi hại. Ngươi có biết Từ Đạt dùng binh khí gì không? Thường Ngộ Xuân dùng binh khí gì không?”.
Vi Tiểu Bảo nghe Ngô Chi Vinh kể chuyện
Đam mê cái gì tất sẽ giỏi cái đó. Kiến thức chuyện xưa của Vi Tiểu Bảo có thể nói là rất lợi hạ: những chi tiết nho nhỏ y có thể mù mờ, nhưng những bài học tinh yếu thì y nắm rõ, lại áp dụng vô cùng uyển chuyển.
Lấy ví dụ trong Lộc Đỉnh Ký, khi Khang Hy muốn Vi Tiểu Bảo cắt đứt quan hệ với lực lượng giang hồ phản Thanh phục Minh bèn ra lệnh cho y đích thân xử tử Mao Thập Bát, mà người này lại là một bằng hữu thân thiết của y. Như thường lệ mỗi khi lâm vào thế bí, y lại nghĩ đến chuyện xưa tích cổ:
Vi Tiểu Bảo nhìn Phùng Tích Phạm dưới đất, ngẫm nghĩ “Thằng đầy tớ này thì xử trí làm sao là tốt? Tha y ra xong nhất định y sẽ bẩm cáo với hoàng thượng. Cho dù không có bằng chứng gì là mình, ắt hoàng thượng cũng đoán được là mình ra tay”. Y chắp tay sau lưng, đi qua đi lại trong sảnh, lại nghĩ “Trời sáng là phải xử chém Mao đại ca, có cách nào cứu được tính mạng y không? Cướp pháp trường như trong vở Đại Danh phủ thì không được rồi. Cướp pháp trường, cướp pháp trường…”.
Đột nhiên lại nhớ tới một vở tuồng khác “Pháp trường hoán tử! Đúng rồi! Tiết Cương gây họa, cả nhà chết chém, có lão già Từ gì đó râu trắng đem con ruột mình đánh tráo đứa nhỏ Tiết gì đó trong pháp trường ra…”.
Y xem không ít tuồng hát, tên các nhân vật trong vở thì không nhớ rõ lắm, nhưng cốt truyện thì nhớ rất rõ ràng. Vừa nhớ tới vở Pháp trường hoán tử, lại nhớ tới một vở khác Sưu cỗ cứu cỗ. “Chuyện này cũng không khác lắm, có một người tên Trình Anh râu đen, đem con trai mình thay vào con chủ, để con mình bị giết mà cứu sống được con chủ. Nhưng không làm thế được, may mà Mao đại ca tuổi tác khác hẳn con mình, nếu không mà bảo mình đem Hổ Đầu, Đồng Trùy tới pháp trường giết đi, đổi Mao đại ca ra, tuy nói bạn bè nghĩa khí là trọng, nhưng những việc như thế thì mình ngàn vạn lần không sao làm được. Tốt lắm, tốt lắm!”. Y đá mạnh một cước vào Phùng Tích Phạm dưới đất, nói “Ngươi thật may mắn, Vi đại nhân nhận ngươi làm con nuôi. Con ruột thì Vi đại nhân không bỏ được, chứ con nuôi thì thương qua loa thôi”.
Kế hoạch của y từ đấy có ba phần: bước một: gây náo loạn để bắt cóc Phùng Tích Phạm; bước hai: tráo người, cùng lúc đó dùng Xuân Cung Đồ để đánh lạc hướng Đa Long; bước ba: đổ tội giết Phùng Tích Phạm cho ái thiếp của y. Trò di hoa tiếp mộc của y lại một lần nữa diễn ra trót lọt, đến mức chính người nhà Phùng Tích Phạm còn biết ơn y “phá án.”
*
Hết lần này đến lần khác, những kế sách trơn tru đã đem lại cho Vi Tiểu Bảo tất cả: tiền bạc, địa vị, quan hệ, gái đẹp. Thế nhưng Vi Tiểu Bảo mãi là một phản anh hùng. Cái xuất chúng của Vi Tiểu Bảo là chắt lọc lấy cái gì có lợi cho mình, ngoài ra mọi thứ khác đều làng nhàng. Khi đặt Vi Tiểu Bảo lên bàn cân so sánh với các nhân vật trước đó của Kim Dung, sự khác biệt của y càng rõ rệt. Tinh thần thượng võ, dấn thân, lòng trung quân ái quốc, tình yêu chung thủy – những giá trị cố hữu của Thiên Long Bát Bộ, Anh Hùng Xạ Điêu,… đã trở nên xa lạ trong Lộc Đỉnh Ký. Tất cả những nhân vật mang lý tưởng cao đẹp trong Lộc Đỉnh Ký như Trần Cận Nam, Tra Y Hoàng đều lui về làm nền cho Vi Tiểu Bảo: khi đặt cạnh dáng vẻ tinh ranh, cơ hội, nhanh nhạy của y, họ trở thành những con rối không hơn không kém.
Về kết cấu chặt chẽ, tình tiết hấp dẫn, cách viết điêu luyện, Lộc Đỉnh Ký xứng đáng là tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Dung, nhất là khi đem so với những truyện thời kì đầu như Thư kiếm ân cừu lục, Anh hùng xạ điêu,… Thế nhưng nhân vật Vi Tiểu Bảo lại là đại diện cho một xã hội kim tiền nhơ nhớp, giá trị đảo lộn. Có người đã chia trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung thành bốn giai đoạn: hoàng kim của Thiên Long Bát Bộ, bạch ngân của Xạ Điêu tam bộ khúc, thanh đồng của Tiếu ngạo giang hồ, và cuối cùng là hắc thiết của Lộc Đỉnh Ký. Võ công, phẩm chất, tính cách các nhân vật càng về sau càng kém đi mà thủ đoạn xảo trá lại tăng lên. Trong thời đại hoàng kim thì cao thủ võ lâm kiểu Nam Hải Ngạc Thần cũng thơ ngây như thiếu nhi, trong thời đại hắc thiết thì thiếu niên Vi Tiểu Bảo cũng chiêu trò không kém gì kẻ ác.
Lộc Đỉnh Ký không chỉ là một tiểu thuyết võ hiệp đơn thuần. Xã hội hiện đại hóa ngày càng hối hả tác động bên ngoài, sự chiêm nghiệm khi về già thúc đẩy bên trong, cả hai yếu tố đó đã góp phần làm nên sự biến đổi trong tư duy sáng tác của Kim Dung. Cảm xúc lẫn lộn trước thời cuộc đổi thay đã được Kim Dung chuyển hóa thành Lộc Đỉnh Ký, một cái kết hợp lý cho sự nghiệp lẫy lừng của ông. Có thể nói Kim Dung đã dùng Vi Tiểu Bảo để phủ định chính những hình tượng mà ông xây dựng lên. Lộc Đỉnh Ký là tác phẩm Kim Dung khiến ta cười nhiều nhất, song nó cũng chứa đựng những dư âm chua chát nhất của thế sự.
Anh Nguyễn - soi.today
Lộc Đỉnh Ký được coi là một kỳ thư, và cũng là tác phẩm Kim Dung tự cho là hay nhất của mình. Nhân vật chính Vi Tiểu Bảo thì đã hóa thành một phần không thể thiếu của văn hóa đại chúng Trung Quốc. Nhiều cuốn sách trở nên rất ăn khách nhờ bàn về việc áp dụng tính cách của Vi Tiểu Bảo vào đời sống hay kinh doanh, ví dụ như Vi Tiểu Bảo thần công của Liu Tianci, Sang Mỹ dự Lộc Đỉnh Ký của Feng Liangnu, Vi Tiểu Bảo khải thị lục của Jin Ge, Khả dĩ để hiếu liêm: Vi Tiểu Bảo thoại thuyết của Zhang Mu.
Cuộc đời của Vi Tiểu Bảo có nhiều cái “số Một”: y là học trò của đệ nhất võ lâm Trần Cận Nam, đã từng diện kiến đệ nhất mỹ nhân Trần Viên Viên, kết giao với đệ nhất gian hùng Ngô Tam Quế, biết được bí mật kho báu đệ nhất thiên hạ Lộc Đỉnh Sơn. Thế nhưng Kim Dung không bao giờ cho phép người đọc quên đi hai điều: thứ nhất là xuất thân thấp hèn của Vi Tiểu Bảo, thứ hai là trình độ văn hóa vô cùng “ọt ẹt” của y.
Những người anh hùng trong tiểu thuyết Kim Dung đa phần là những hán tử thô hào, lỗ mãng, ít năng khiếu văn thơ. Thế nhưng Vi Tiểu Bảo là một trường hợp cá biệt. Y hoàn toàn mù chữ, nhưng lại mê truyện xưa tích cổ. Trí nhớ của y lèm nhèm không tốt, nhưng lại có khả năng biến báo thần kỳ. Nền văn minh vĩ đại của dân tộc Trung Hoa khi lọc qua Vi Tiểu Bảo đã biến thành một phiên bản lỗ chỗ, “tạp pí lù,” chẳng khác nào phản chiếu của một tấm gương biến dạng, thế nhưng phiên bản đó vẫn đặc sệt tư duy Đại Hán. Và tư duy đó chính là nền tảng đem đến “đại công cáo thành” cho Vi Tiểu Bảo, dù không theo cách mà ta mong đợi. Đó là những điểm mà chúng ta cần phân tích trong bài này.
Vi Tiểu Bảo khi làm quan to
Biến dạng văn hóa tầng thứ nhất: đụng đến chữ nghĩa là dùng sai
Ở tầng thứ nhất của sự biến dạng văn hóa, Vi Tiểu Bảo thường xuyên sử dụng sai các thành ngữ, tục ngữ, tên gọi. Những câu nói sai của Vi Tiểu Bảo là một kho tàng truyện cười của Lộc Đỉnh Ký. Song chớ coi thường chúng. Kim Dung đã sử dụng chính những trò đùa bông lơn này để khắc họa tính cách Vi Tiểu Bảo. Một lời nói ra bốn ngựa (tứ mã) khó đuổi đã bị y thay bằng ngựa chết (tử mã). Ngựa chết thì còn đuổi thế nào? Hay “Nghiêu Thuấn Vũ Thang” là mỹ từ để ca tụng những vị vua tài đức, lấy từ danh hiệu của Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đại Vũ, Thành Thang. Biết Khang Hy thích được nịnh là Nghiêu Thuấn Vũ Thang, Vi Tiểu Bảo rất chăm chỉ vỗ mông ngựa, song y luôn nói nhầm thành “điểu sinh ngư thang” (canh chim-sinh-cá).
Vi Tiểu Bảo là một con vẹt lặp lại những câu nói hoa mỹ chứ trong bụng y không có một mảy may chữ nghĩa thánh hiền. Ngoài ra, y cũng chẳng hề tôn thờ những giá trị mơ hồ như nói lời phải giữ lấy lời, thương dân như con, v.v,.. Đối với y, chúng chỉ là những lời rỗng tuếch, và y… không hẳn đã sai. Thông qua Vi Tiểu Bảo, Kim Dung đã biểu lộ sự chán ngán với những khẩu hiệu vô nghĩa, mị dân đầy rẫy trong lịch sử Trung Quốc. Đúng như Khang Hy nhận xét, những lãnh đạo càng thích được ca tụng thì cai trị lại càng không ra gì!
Vi Tiểu Bảo đứng chầu vua Khang Hy
Tư duy Đại Hán mà chúng ta đã bàn đến ở bài trước cũng bộc lộ rất rõ ở tầng thứ nhất này. Người Hán luôn coi mình là chủng tộc đỉnh cao, họ không chỉ coi thường các dân tộc lân bang, từ thời Xuân Thu đã gọi họ là Tứ di (bốn thứ mọi rợ: nam Man, bắc Địch, đông Di, tây Nhung), mà còn khinh miệt cả người Tây phương nữa. Vi Tiểu Bảo nói sai tiếng Trung Quốc chưa đủ, mà còn nói sai cả… tiếng Nga. Hai viên sĩ quan cấp cao của Nga có tên Hoa Bát Tư Cơ và Tề Nặc Lạp Phu bị y gọi chệch thành Vương Bát Tử Kê (gà chết khốn nạn) và Trư La Noạ Phu (heo chó hèn hạ). Trong con mắt khinh thị của Vi Tiểu Bảo, người Tây phương là công dân hạng hai, thậm chí chỉ nhỉnh hơn động vật một chút. Tư tưởng Trung Quốc là trung tâm thế giới, cái rốn vũ trụ được biểu lộ rất rõ qua cách ăn nói của Vi Tiểu Bảo.
Biến dạng văn hóa tầng thứ hai: nhìn đâu cũng ra cờ bạc và gái đẹp
Ở tầng thứ hai của sự biến dạng văn hóa, Vi Tiểu Bảo đã bộc lộ nhiều khía cạnh thú vị trong tâm lý bản thân. Vi Tiểu Bảo sống chết vì cờ bạc và gái đẹp đến mức chúng ăn sâu vào tiềm thức, trở thành hệ quy chiếu của y. Khi nghe về Gia Định tam đồ (ba lần tàn sát của quân Thanh ở Gia Định,) cái đầu mê đánh bạc của y lại diễn giải thành:
“Lão Hoàng gia và hoàng thượng đều nói Gia Định tam đồ giết quá nhiều người, là sự kiện rất thê thảm, tại sao đánh bạc ba lần mà lại giết chết rất nhiều người? Không biết Gia Định ở đâu nhỉ? Người ở đó chắc đánh bạc giỏi lắm, phải hết sức cẩn thận mới được”.
Vi Tiểu Bảo
Một lần khác, Vi Tiểu Bảo đưa bảy người phụ nữ lên giường trong trích đoạn đáng nhớ ở hồi 39. Y vừa kết bái thành huynh đệ với vương tử Mông Cổ, mà A Kỳ lại là tình nhân của nghĩa huynh, vậy có nên bế luôn nàng lên giường hay không? Vi Tiểu Bảo đã tự hội thoại với bản thân mình như sau:
Vi Tiểu Bảo thấy nàng dung mạo kiều diễm, hơi thở gấp rút, lồng ngực không ngừng nhô lên hạ xuống, chợt thấy hối hận, “Mình kết nghĩa với đại Lạt ma và vương tử Mông Cổ không phải là tâm đầu ý hợp, chẳng qua chỉ là mưu kế, lừa cho họ không giết mình thôi. Đại ca nhị ca gì gì đều là thuận miệng nói bừa. Cô nương A Kỳ xinh đẹp như thế mà phải gọi là nhị tẩu thì quá đáng tiếc, chẳng bằng cứ lấy làm vợ luôn cho xong. Trong chuyện Tam tiếu nhân duyên cửu mỹ đồ, Đường Bá Hổ có tới chín người vợ. Nếu mình tính luôn A Kỳ vào chẳng qua cũng chỉ có tám mỹ, còn thiếu một mỹ. Phì, phì, phi! Con đĩ già vừa già vừa dữ, làm sao có thể tính là một mỹ chứ?”.
So với Đường Bá Hổ thì thiếu một mỹ, còn phải trừ thái hậu giả ra thì thiếu tới hai mỹ, quả thật kém hơn quá nhiều, lúc ấy liền bế A Kỳ lên đi vào phòng. Nhưng đi được vài bước, chợt nghĩ “Quan Vân Trường ngàn dặm đưa hoàng tẩu, cũng không đem Lưu đại tẩu biến thành Quan nhị tẩu. Vi Tiểu Bảo bảy bước đưa vương tẩu, cũng không thể quá không biết nghĩa khí, thiếu hai mỹ thì thiếu hai mỹ, sợ gì tương lai không tìm được cho đủ?”. Lúc ấy lập tức xoay người, lại bế A Kỳ ra đặt lên ghế.
Đây là trích đoạn rất ngộ nghĩnh. Đường Bá Hổ hay Đường Dần chính là một họa gia nổi tiếng đời Minh với các bức vẽ mỹ nhân phong tình. Ông chính là tác giả bức tranh người đẹp lả lơi “Hải đường xuân thuỵ” đặt trong phòng ngủ của Tần Khả Khanh và một loạt tranh Xuân Cung Đồ khác. (Thực ra trên đời không hề tồn tại một bức nào của Đường Bá Hổ có tên “Hải đường xuân thụy” cả – đây là biện pháp “trong thực có ảo” của Tào Tuyết Cần, nhưng xin để bài khác bàn sau). Đường Bá Hổ có một người vợ tên là Thẩm Cửu Nương, tam sao thất bản, thiên hạ tưởng ông có đến chín người vợ. Đây là Vi Tiểu Bảo “bé cái nhầm”, nhưng lỗi này không quá nặng. Khối người mắc lỗi tương tự, thậm chí ngay ở Hong Kong cũng có bộ phim Đường Bá Hổ điểm Thu Hương của Châu Tinh Trì, trong đó Đường Bá Hổ có chín vợ thật! Điểm cốt yếu ở đây nằm ở tư tưởng “quyết không chịu thiệt” của Vi Tiểu Bảo. Tuy ở những giây phút chênh vênh giữa chính và tà, Vi Tiểu Bảo luôn hãm lại vừa đủ để không hóa thành kẻ phản diện, song tư tưởng này luôn chi phối mọi hoạt động của y. Vi Tiểu Bảo có thể thua ai, chứ nhất quyết không kém vế trong cờ bạc và đàn bà!
Vi Tiểu Bảo nghe Trần Viên Viên hát Viên Viên khúc. Người mê Viên Viên thì cho rằng y có phúc phận cực lớn mới được nghe toàn bộ bài hát này, nhưng Vi Tiểu Bảo chỉ nghĩ cách biến Trần Viên Viên thành “ca sĩ phòng trà” để kiếm lời.
Biến dạng văn hóa tầng thứ ba: bóp méo và lợi dụng truyện xưa tích cũ
Ở tầng thứ ba của sự biến dạng văn hóa, Vi Tiểu Bảo đã tiến lên một cảnh giới mới. Tinh hoa văn học-lịch sử Trung Quốc đã bị Vi Tiểu Bảo bóp méo và vận dụng nhuần nhuyễn cho các mục đích khác nhau. Ngay từ đầu, Lộc Đỉnh Ký đã giới thiệu với bạn đọc sự yêu thích vô hạn của y với truyện xưa tích cũ.
Tại thành Dương Châu có rất nhiều người kể chuyện trong quán trà, kể chuyện các anh hùng trong Tam quốc chí, Thủy hử, Đại Minh Anh liệt truyện vân vân. Đứa nhỏ này ngày đêm ở trong kỹ viện, sòng bạc, quán trà, hàng rượu, chui vào chui ra, đấm chân mua hàng, châm dầu rót nước giúp người ta kiếm chút tiền thưởng, khi rảnh rỗi thì ngồi xổm cạnh bàn trà nghe kể chuyện. Y xưng hô rất ngọt ngào với các trà bác sĩ đại thúc trong trà quán, trà bác sĩ cũng không đuổi y ra. Y nghe kể chuyện rất nhiều, rất say sưa với các anh hùng hảo hán trong chuyện cổ.
Bản tính thích nghe kể chuyện của y từ bé đến lớn không hề thay đổi. Khi Vi Tiểu Bảo áo cao mũ dài trở về Dương Châu, hùng tâm đại chí y ôm ấp trong lòng là… nhổ sạch hoa thược dược trong vườn chùa Thiền Trí để trả thù cái nhục bị đánh ngày bé. Thế nhưng một viên quan khéo kể chuyện đã xuất hiện làm xoay chuyển tình thế:
Bố chánh sứ Mộ Thiên Nhan bước ra rạp hoa, tới khóm thược dược hái một đóa hoa to như cái bát, quay trở vào tiệc, hai tay đưa cho Vi Tiểu Bảo, cười nói “Xin đại nhân gài đóa hoa này lên mũ, ty chức có một chuyện cổ xin kể cho đại nhân nghe”.
Vi Tiểu Bảo vừa nghe lại có chuyện cổ, liền đón lấy đóa hoa, chỉ thấy đóa hoa thược dược này cánh hoa màu đỏ rực, mỗi cánh đều có một vệt ngang màu vàng, vô cùng tươi đẹp, liền cài lên mũ.
Mộ Thiên Nhan nói “Chúc mừng đại nhân. Loại thược dược này có tên là Kim đới vi, là một giống thược dược vô cùng quý hiếm. Trong thư tịch cổ có ghi chép, ai nhìn thấy loại Kim đới vi này về sau sẽ làm Tể tướng”.
Nhờ tài ứng biến của Mộ Thiên Nhan mà bấy nhiêu đóa thược dược xinh đẹp tại Dương Châu đã thoát cảnh bị nhổ cho ngựa ăn.
Một lần khác, cẩu quan Ngô Chi Vinh rắp tâm mở một vụ án văn tự ngục mới, oái oăm thay y lại tìm đến đúng Vi Tiểu Bảo mách tội. Chữ nghĩa có to bằng hạt đào thì họ Vi cũng không hề quan tâm, chỉ nghe đến chuyện xưa tai y mới vểnh lên:
Vi Tiểu Bảo từ nhỏ đã nghe tiên sinh kể chuyện kể Đại Minh Anh liệt truyện, chuyện cũ nhà Minh khai quốc đã nghe thuộc lòng, vừa nghe y nói tới hai đại tướng Từ Thường, lập tức tinh thần phấn chấn, khác hẳn với vẻ thiu thiu muốn ngủ lúc y đọc văn thơ mới rồi, cười nói “Hai vị đại tướng quân ấy oai phong tám mặt, rất là lợi hại. Ngươi có biết Từ Đạt dùng binh khí gì không? Thường Ngộ Xuân dùng binh khí gì không?”.
Vi Tiểu Bảo nghe Ngô Chi Vinh kể chuyện
Đam mê cái gì tất sẽ giỏi cái đó. Kiến thức chuyện xưa của Vi Tiểu Bảo có thể nói là rất lợi hạ: những chi tiết nho nhỏ y có thể mù mờ, nhưng những bài học tinh yếu thì y nắm rõ, lại áp dụng vô cùng uyển chuyển.
Lấy ví dụ trong Lộc Đỉnh Ký, khi Khang Hy muốn Vi Tiểu Bảo cắt đứt quan hệ với lực lượng giang hồ phản Thanh phục Minh bèn ra lệnh cho y đích thân xử tử Mao Thập Bát, mà người này lại là một bằng hữu thân thiết của y. Như thường lệ mỗi khi lâm vào thế bí, y lại nghĩ đến chuyện xưa tích cổ:
Vi Tiểu Bảo nhìn Phùng Tích Phạm dưới đất, ngẫm nghĩ “Thằng đầy tớ này thì xử trí làm sao là tốt? Tha y ra xong nhất định y sẽ bẩm cáo với hoàng thượng. Cho dù không có bằng chứng gì là mình, ắt hoàng thượng cũng đoán được là mình ra tay”. Y chắp tay sau lưng, đi qua đi lại trong sảnh, lại nghĩ “Trời sáng là phải xử chém Mao đại ca, có cách nào cứu được tính mạng y không? Cướp pháp trường như trong vở Đại Danh phủ thì không được rồi. Cướp pháp trường, cướp pháp trường…”.
Đột nhiên lại nhớ tới một vở tuồng khác “Pháp trường hoán tử! Đúng rồi! Tiết Cương gây họa, cả nhà chết chém, có lão già Từ gì đó râu trắng đem con ruột mình đánh tráo đứa nhỏ Tiết gì đó trong pháp trường ra…”.
Y xem không ít tuồng hát, tên các nhân vật trong vở thì không nhớ rõ lắm, nhưng cốt truyện thì nhớ rất rõ ràng. Vừa nhớ tới vở Pháp trường hoán tử, lại nhớ tới một vở khác Sưu cỗ cứu cỗ. “Chuyện này cũng không khác lắm, có một người tên Trình Anh râu đen, đem con trai mình thay vào con chủ, để con mình bị giết mà cứu sống được con chủ. Nhưng không làm thế được, may mà Mao đại ca tuổi tác khác hẳn con mình, nếu không mà bảo mình đem Hổ Đầu, Đồng Trùy tới pháp trường giết đi, đổi Mao đại ca ra, tuy nói bạn bè nghĩa khí là trọng, nhưng những việc như thế thì mình ngàn vạn lần không sao làm được. Tốt lắm, tốt lắm!”. Y đá mạnh một cước vào Phùng Tích Phạm dưới đất, nói “Ngươi thật may mắn, Vi đại nhân nhận ngươi làm con nuôi. Con ruột thì Vi đại nhân không bỏ được, chứ con nuôi thì thương qua loa thôi”.
Kế hoạch của y từ đấy có ba phần: bước một: gây náo loạn để bắt cóc Phùng Tích Phạm; bước hai: tráo người, cùng lúc đó dùng Xuân Cung Đồ để đánh lạc hướng Đa Long; bước ba: đổ tội giết Phùng Tích Phạm cho ái thiếp của y. Trò di hoa tiếp mộc của y lại một lần nữa diễn ra trót lọt, đến mức chính người nhà Phùng Tích Phạm còn biết ơn y “phá án.”
*
Hết lần này đến lần khác, những kế sách trơn tru đã đem lại cho Vi Tiểu Bảo tất cả: tiền bạc, địa vị, quan hệ, gái đẹp. Thế nhưng Vi Tiểu Bảo mãi là một phản anh hùng. Cái xuất chúng của Vi Tiểu Bảo là chắt lọc lấy cái gì có lợi cho mình, ngoài ra mọi thứ khác đều làng nhàng. Khi đặt Vi Tiểu Bảo lên bàn cân so sánh với các nhân vật trước đó của Kim Dung, sự khác biệt của y càng rõ rệt. Tinh thần thượng võ, dấn thân, lòng trung quân ái quốc, tình yêu chung thủy – những giá trị cố hữu của Thiên Long Bát Bộ, Anh Hùng Xạ Điêu,… đã trở nên xa lạ trong Lộc Đỉnh Ký. Tất cả những nhân vật mang lý tưởng cao đẹp trong Lộc Đỉnh Ký như Trần Cận Nam, Tra Y Hoàng đều lui về làm nền cho Vi Tiểu Bảo: khi đặt cạnh dáng vẻ tinh ranh, cơ hội, nhanh nhạy của y, họ trở thành những con rối không hơn không kém.
Về kết cấu chặt chẽ, tình tiết hấp dẫn, cách viết điêu luyện, Lộc Đỉnh Ký xứng đáng là tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Dung, nhất là khi đem so với những truyện thời kì đầu như Thư kiếm ân cừu lục, Anh hùng xạ điêu,… Thế nhưng nhân vật Vi Tiểu Bảo lại là đại diện cho một xã hội kim tiền nhơ nhớp, giá trị đảo lộn. Có người đã chia trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung thành bốn giai đoạn: hoàng kim của Thiên Long Bát Bộ, bạch ngân của Xạ Điêu tam bộ khúc, thanh đồng của Tiếu ngạo giang hồ, và cuối cùng là hắc thiết của Lộc Đỉnh Ký. Võ công, phẩm chất, tính cách các nhân vật càng về sau càng kém đi mà thủ đoạn xảo trá lại tăng lên. Trong thời đại hoàng kim thì cao thủ võ lâm kiểu Nam Hải Ngạc Thần cũng thơ ngây như thiếu nhi, trong thời đại hắc thiết thì thiếu niên Vi Tiểu Bảo cũng chiêu trò không kém gì kẻ ác.
Lộc Đỉnh Ký không chỉ là một tiểu thuyết võ hiệp đơn thuần. Xã hội hiện đại hóa ngày càng hối hả tác động bên ngoài, sự chiêm nghiệm khi về già thúc đẩy bên trong, cả hai yếu tố đó đã góp phần làm nên sự biến đổi trong tư duy sáng tác của Kim Dung. Cảm xúc lẫn lộn trước thời cuộc đổi thay đã được Kim Dung chuyển hóa thành Lộc Đỉnh Ký, một cái kết hợp lý cho sự nghiệp lẫy lừng của ông. Có thể nói Kim Dung đã dùng Vi Tiểu Bảo để phủ định chính những hình tượng mà ông xây dựng lên. Lộc Đỉnh Ký là tác phẩm Kim Dung khiến ta cười nhiều nhất, song nó cũng chứa đựng những dư âm chua chát nhất của thế sự.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Trong ngũ bá kẻ nào về nhất? (bài 1):
Ai đẹp nhất? Ai nghề nghiệp ổn nhất?
Anh Nguyễn - soi.today
Cách đây mấy hôm vô tình đọc được hai câu thơ lục bát trên mạng: “Lấy chồng hãy chọn Đông Tà. Đừng yêu Bắc Cái không nhà không xe.” Trong bụng chợt nghĩ trong năm đại cao thủ võ lâm Đông Tà, Tây, Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, ai là người đáng chọn làm phu quân nhất? Hôm nay rỗi rãi thử làm một bài tổng kết. Vốn chẳng có ý tứ sâu xa gì, lại dám mạo muội đem tiêu chuẩn kết hôn thế kỉ 21 áp vào võ lâm ngũ bá đời nhà Tống, hy vọng không khiến mếch lòng các chư vị anh hùng.
1. TƯỚNG MẠO – YẾU TỐ ĐẦU TIÊN ĐỂ CHỌN TÌNH LANG
Đừng nghĩ ở thời hiện đại người ta mới coi trọng vẻ ngoài của nam nhân. Ngày nay các cô gái mê mẩn vẻ đẹp trai của thần tượng Kpop, diễn viên Hollywood, hay gần gũi hơn là thủ môn Bùi Tiến Dũng đội tuyển U23, thì ngày xưa cũng vậy. Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa được truyền tụng đã đành, còn có tứ đại mỹ nam ít được biết đến hơn là Tống Ngọc, Phan An, Lan Lăng Vương, Vệ Vương Giới. Cụ Nguyễn Du đã đưa Tống Ngọc vào Kiều (Sáng đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh). Vệ Vương Giới thì đẹp trai đến mức bị các cô gái đeo bám đến nhà, sợ hãi sinh bệnh nặng mà chết. Từ đó có thành ngữ “nhìn chết Vệ Giới” (khán sát Vệ Giới,) có thể nói là ca đầu tiên được ghi nhận chết vì fan cuồng. Dài dòng như vậy để nói rõ rằng trong việc chọn chồng thì ngoại hình là yếu tố không thể xem thường.
Võ lâm ngũ bá khi xuất hiện thì đều đã ở lứa U50, vẻ xuân sắc đã sớm nhường chỗ cho ánh tà dương của tuổi trung niên. Tuy nhiên dựa trên những mô tả trong Anh Hùng Xạ Điêu vẫn có thể đưa ra một số phỏng đoán về “nhan sắc” của ngũ tuyệt.
Thứ nhất là Đông Tà Hoàng Dược Sư: “Khuôn mặt thật của y vừa lộ ra, chỉ thấy y tướng mạo thanh cù, phong tư tuấn tú ung dung tiêu sái, khí vũ hiên ngang.”
Đông Tà Hoàng Dược Sư
Thứ hai là Bắc Cái Hồng Thất Công: “Người này hàm vuông mặt dài, dưới cằm có râu, tay thô chân to, quần áo trên người vá chằng vá đụp nhưng rất sạch sẽ, cầm một chiếc gậy trúc xanh bóng loáng như ngọc, lưng đeo một chiếc hồ lô lớn sơn đỏ, vẻ mặt rất thèm thuồng, thần thái rất nôn nóng, tựa hồ nếu không đưa y phần phao câu gà thì y sẽ giơ tay ra cướp.”
Bắc Cái
Thứ ba là Nam Đế Đoàn Trí Hưng: “Một người khác mặc tăng bào bằng vải thô, hai hàng lông mi dài che rũ xuống khóe mắt, mặt mũi hiền từ, trong mắt thấp thoáng vẻ sầu khổ nhưng lại lập tức ánh lên nét tinh anh, chỉ nhìn một cái là biết.”
Thứ tư là Tây Độc Âu Dương Phong: “Bèn ngưng thần nhìn người đi sau Âu Dương Khắc, thấy y thân thể cao lớn, cũng mặc áo trắng, chỉ vì phía sau y có ánh sáng nên không nhìn thấy rõ diện mạo.”
Âu Dương Phong thường được miêu tả với tướng mạo khá thô
Thứ năm là Trung Thần Thông Vương Trùng Dương: Khi các sự kiện trong truyện diễn ra thì y tạ thế đã lâu, hình bóng chỉ tồn tại trong ký ức những người còn sống, chẳng khác nào kì lân trong cổ tích. Người tình cũ của y là Lâm Triều Anh khi sinh thời đã kịp hoạ một bức chân dung y, khi chia tay y lại ra lệnh cho lũ đồ đệ nhổ vào đó cho bõ tức. Thế nhưng “tấm ảnh cũ” này lại chỉ có lưng mà không có mặt: “Dương Quá nhìn, thấy bức chân dung vẽ một đạo sĩ thân hình cao lớn, lưng đeo trường kiếm, ngón trỏ tay phải chỉ về góc đông bắc, có điều là đạo sĩ quay lưng lại nên không thấy mặt.”
Vương Trùng Dương trước khi xuất gia là một công tử nhà giàu. Y là nhân vật có thực trong lịch sử, hiện tại vẫn được thờ phụng trong Đạo giáo
Vậy thì ai xứng đáng là mỹ nam trong càn khôn ngũ tuyệt? Đoàn Trí Hưng dòng dõi vương tộc, cả gene di truyền lẫn điều kiện dinh dưỡng đều vào hàng tuyệt phẩm, dung mạo chắc chắn không kém. Trung Thần Thông vừa gặp Lâm Triều Anh đã khiến nàng ta điên đảo thần hồn, hẳn cũng là một trai đẹp trong võ lâm. Hồng Thất Công có phong thái hào sảng của dân Sơn Đông, còn Âu Dương Phong lại ánh lên vẻ nham hiểm, hung dữ. Dựa trên hậu nhân mà suy luận, con ruột của Âu Dương Phong là Âu Dương Khắc là một thanh niên tuấn tú, nên có lẽ vẻ ngoài của ông bố không thể quá xấu xí. Nhưng tất cả đều chịu thua Hoàng Lão Tà.
Thứ nhất, Đông Tà là người được Kim Dung mô tả hấp dẫn nhất, mà như dân mạng bây giờ hay nói đó, “quan trọng là thần thái.” Thứ hai, con gái y Hoàng Dung là hoa hậu trong Anh Hùng Xạ Điêu, người đời lại nhận xét cha con y giống nhau như hệt từ mắt đến miệng, đương nhiên Hoàng Dược Sư là một trung niên mỹ mạo. Thứ ba, y không chỉ có vẻ ngoài “lạnh lùng lộng lẫy” mà còn biết cách ăn vận phong cách. Một đời y chuyên mặc trường bào màu xanh tôn da tôn dáng, lại luôn giữ thân mình sạch sẽ không vết nhơ. Giả sử mà kết hôn với Cửu Chỉ Thần Cái “một tháng áo sạch, một tháng áo bẩn” chắc phụ nữ thời nay khó thể chịu nổi.
Kết luận: Đông Tà hạng Nhất về vẻ đẹp.
2. NGHỀ NGHIỆP – YẾU TỐ THỨ HAI ĐỂ CHỌN CHỒNG
Nam nhi đại trượng phu phải có chỗ đứng trong trời đất, ngày xưa đã thế mà thời nay cũng vậy. Lấy chồng thất nghiệp thì dù đẹp trai cũng không thể nào mài ra mà ăn. Nhìn lại cảm thấy các nhân vật trong càn khôn ngũ tuyệt đều có sự nghiệp lừng lẫy, đáng để người ta kính phục, song để chọn làm chồng thì tương đối khó nói.
Đông Tà Hoàng Dược Sư là một cướp biển đã về hưu. Nhờ làm cướp biển mà y thu thập được một khối tài sản lớn, từ đó xây dựng trên đảo Đào Hoa một cơ đồ đáng nể, lại sưu tầm vô số châu báu. Do không phải lo kiếm ăn nên y có thể thong thả thu nhận sáu đồ đệ, nghiền ngẫm Cửu âm chân kinh, tranh đấu với Chu Bá Thông. Tuy nhiên nghề hải tặc không những nguy hiểm mà còn bất chính, vì nó mà Hoàng Dược Sư bị mang tiếng ác. “Người ven biển sợ đảo Ðào Hoa như rắn rết, dặn nhau không được tới bốn ngàn dặm quanh đảo, nếu nói tới tên đảo Ðào Hoa thì cho dù có bao nhiêu tiền bạc cũng không chiếc thuyền đánh cá nào dám đi.” Lấy y cũng như uống ly rượu – rượu nồng khiến người ta say ngây ngất nhưng ẩn chứa độc tính.
Hình dung về Đông Tà
Bắc Cái Hồng Thất Công là thủ lĩnh bang hội lớn nhất thiên hạ, thế lực nghiêng trời, được giang hồ kính nể. Có điều y làm bang chủ Cái Bang thì vợ y cũng không tránh khỏi đám khiếu hóa từ vây xung quanh tối ngày, mà đa phần họ là những kẻ thô lỗ, hay nói tục chửi bậy, khạc nhổ, nuôi rắn rết bọ cạp trong bao, vệ sinh thân thể cực kém.
Nếu sinh ra là một người phụ nữ tao nhã, mềm mại, thích thêu thùa đốt hương, vẽ hoa ngâm thơ thì thật khó dung hòa với công việc của Bắc Cái. Phụ nữ thời nay đã bớt ngâm thơ vẽ tranh nhưng bản tính ưa sạch sẽ muôn đời vẫn thế, chắc chắn cũng không thích chồng làm thủ lĩnh ăn mày. Hơn nữa xã hội ngày càng phát triển, nghề ăn mày dần dần cũng ít được tôn trọng. Lấy Hồng Thất Công chẳng khác nào hàng ngày cũng xơi món thịt lợn luộc không mắm muối, tuy đủ dinh dưỡng nhưng chẳng thấy ngon.
Nam Đế Đoàn Trí Hưng là vua một nước, địa vị trong cõi thế tục là cao nhất trong ngũ tuyệt, người đời tất thảy đều kính ngưỡng y. Y lên làm vua nước Đại Lý đúng vào thời điểm thái bình thịnh trị, anh em trong hoàng tộc hoà thuận, có thể nói là việc nhẹ lương cao, tha hồ luyện võ. Làm vợ y thì yên cái bụng vì vinh hoa phú quý, châu ngọc đeo đầy mình, mỗi tội có vài trăm bà vợ khác cũng tranh nhau sự ân sủng của y, nếu ai có chút máu Hoạn Thư thì đây là điểm trừ duy nhất nhưng rất nặng. Nhất là phụ nữ ngày nay vốn quen với chế độ một vợ một chồng thì mùi vị đó thật khó mà nuốt trôi. Về sau y lại đùng đùng bỏ việc, đem đổi ngai vàng hoàng đế lấy cái bồ đoàn nhà sư, sự nghiệp thứ hai này khiến y không thể lấy vợ nữa nên không bàn tới. Đoàn Hoàng Gia chính là mâm cỗ nhiều cao lương mỹ vị nhưng khiến chị em lo sợ mình tăng cân.
Đoàn Nam Đế đi tu
Tây Độc Âu Dương Phong làm nghề luyện độc ở vùng Bạch Đà Sơn. Chọn Âu Dương Phong làm ý trung nhân là phải gánh chịu một thứ rủi ro nghề nghiệp khá lớn. Thứ nhất, xung quanh y luôn lổm ngổm các loại rắn rết, trùng độc đáng sợ, y lại luôn mang theo xà trượng có hai quái xà cực độc bò lên bò xuống, lỡ đãng trí va quệt phải thì thật nguy nan.
Tây Độc không chỉ luyện độc từ dị thú mà còn từ nhiều loài thực vật khác nhau, kiến thức sinh-hóa rất rộng rãi. Nếu y tái sinh ở thời này thì có thể làm giáo sư hóa học tài giỏi hay lương y chữa độc, có điều người làm sao của chiêm bao làm vậy, y chỉ thích hạ độc người khác. Sống cạnh y là luôn phải thấp thỏm lo lắng cho sự an toàn, cần giữ thuốc giải độc bên mình như tính mạng. Chẳng những thế, vì Âu Dương Phong luyện độc nên người y cũng đầy độc tính, lỡ hôn y một cái mà không có miễn dịch tốt thì có thể về chầu ông bà như chơi. Lấy y chẳng khác nào xơi món cá fugu cực độc của Nhật, mỗi lần ăn là một lần đánh cược với số phận.
Trung Thần Thông Vương Trùng Dương trước theo sự nghiệp kháng chiến chống Kim, sự nghiệp này thất bại, y chuyển sang làm đạo sĩ mũi trâu. Cả hai công việc đó đều cao cả nhưng không cho phép y vui thú hôn nhân. Hồi xưa say mê hoạt động cách mạng thì y dành hết sạch thời gian, tâm trí vào công việc, phát nguyện không thắng Kim không lấy vợ. Sau y làm đạo sĩ lại càng ngoan cố không chịu hoàn tục.
Vương Trùng Dương xa lánh thế sự, về dạy dỗ Toàn Chân thất tử
Tài sản của Vương Trùng Dương có nhiều nhưng phần lớn là huy động trong dân chúng để chống giặc, không thể sử dụng bừa bãi. Yêu y chính là đi vào địa ngục không lối thoát. Số phận gái ế chết già trong ngôi mộ cổ của Lâm Triều Anh chính là tấm gương cho những bóng hồng có ý kết duyên với Vương Trùng Dương. Y là củ sâm nghìn năm trong truyền thuyết, ăn vào có thể trường sinh bất lão, là Đường Tam Tạng tu hành mười kiếp, nhưng nào có ai trói buộc được y?
Kết luận: Nam Đế hạng Nhất về nghề nghiệp.
Ai đẹp nhất? Ai nghề nghiệp ổn nhất?
Anh Nguyễn - soi.today
Cách đây mấy hôm vô tình đọc được hai câu thơ lục bát trên mạng: “Lấy chồng hãy chọn Đông Tà. Đừng yêu Bắc Cái không nhà không xe.” Trong bụng chợt nghĩ trong năm đại cao thủ võ lâm Đông Tà, Tây, Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, ai là người đáng chọn làm phu quân nhất? Hôm nay rỗi rãi thử làm một bài tổng kết. Vốn chẳng có ý tứ sâu xa gì, lại dám mạo muội đem tiêu chuẩn kết hôn thế kỉ 21 áp vào võ lâm ngũ bá đời nhà Tống, hy vọng không khiến mếch lòng các chư vị anh hùng.
1. TƯỚNG MẠO – YẾU TỐ ĐẦU TIÊN ĐỂ CHỌN TÌNH LANG
Đừng nghĩ ở thời hiện đại người ta mới coi trọng vẻ ngoài của nam nhân. Ngày nay các cô gái mê mẩn vẻ đẹp trai của thần tượng Kpop, diễn viên Hollywood, hay gần gũi hơn là thủ môn Bùi Tiến Dũng đội tuyển U23, thì ngày xưa cũng vậy. Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa được truyền tụng đã đành, còn có tứ đại mỹ nam ít được biết đến hơn là Tống Ngọc, Phan An, Lan Lăng Vương, Vệ Vương Giới. Cụ Nguyễn Du đã đưa Tống Ngọc vào Kiều (Sáng đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh). Vệ Vương Giới thì đẹp trai đến mức bị các cô gái đeo bám đến nhà, sợ hãi sinh bệnh nặng mà chết. Từ đó có thành ngữ “nhìn chết Vệ Giới” (khán sát Vệ Giới,) có thể nói là ca đầu tiên được ghi nhận chết vì fan cuồng. Dài dòng như vậy để nói rõ rằng trong việc chọn chồng thì ngoại hình là yếu tố không thể xem thường.
Võ lâm ngũ bá khi xuất hiện thì đều đã ở lứa U50, vẻ xuân sắc đã sớm nhường chỗ cho ánh tà dương của tuổi trung niên. Tuy nhiên dựa trên những mô tả trong Anh Hùng Xạ Điêu vẫn có thể đưa ra một số phỏng đoán về “nhan sắc” của ngũ tuyệt.
Thứ nhất là Đông Tà Hoàng Dược Sư: “Khuôn mặt thật của y vừa lộ ra, chỉ thấy y tướng mạo thanh cù, phong tư tuấn tú ung dung tiêu sái, khí vũ hiên ngang.”
Đông Tà Hoàng Dược Sư
Thứ hai là Bắc Cái Hồng Thất Công: “Người này hàm vuông mặt dài, dưới cằm có râu, tay thô chân to, quần áo trên người vá chằng vá đụp nhưng rất sạch sẽ, cầm một chiếc gậy trúc xanh bóng loáng như ngọc, lưng đeo một chiếc hồ lô lớn sơn đỏ, vẻ mặt rất thèm thuồng, thần thái rất nôn nóng, tựa hồ nếu không đưa y phần phao câu gà thì y sẽ giơ tay ra cướp.”
Bắc Cái
Thứ ba là Nam Đế Đoàn Trí Hưng: “Một người khác mặc tăng bào bằng vải thô, hai hàng lông mi dài che rũ xuống khóe mắt, mặt mũi hiền từ, trong mắt thấp thoáng vẻ sầu khổ nhưng lại lập tức ánh lên nét tinh anh, chỉ nhìn một cái là biết.”
Thứ tư là Tây Độc Âu Dương Phong: “Bèn ngưng thần nhìn người đi sau Âu Dương Khắc, thấy y thân thể cao lớn, cũng mặc áo trắng, chỉ vì phía sau y có ánh sáng nên không nhìn thấy rõ diện mạo.”
Âu Dương Phong thường được miêu tả với tướng mạo khá thô
Thứ năm là Trung Thần Thông Vương Trùng Dương: Khi các sự kiện trong truyện diễn ra thì y tạ thế đã lâu, hình bóng chỉ tồn tại trong ký ức những người còn sống, chẳng khác nào kì lân trong cổ tích. Người tình cũ của y là Lâm Triều Anh khi sinh thời đã kịp hoạ một bức chân dung y, khi chia tay y lại ra lệnh cho lũ đồ đệ nhổ vào đó cho bõ tức. Thế nhưng “tấm ảnh cũ” này lại chỉ có lưng mà không có mặt: “Dương Quá nhìn, thấy bức chân dung vẽ một đạo sĩ thân hình cao lớn, lưng đeo trường kiếm, ngón trỏ tay phải chỉ về góc đông bắc, có điều là đạo sĩ quay lưng lại nên không thấy mặt.”
Vương Trùng Dương trước khi xuất gia là một công tử nhà giàu. Y là nhân vật có thực trong lịch sử, hiện tại vẫn được thờ phụng trong Đạo giáo
Vậy thì ai xứng đáng là mỹ nam trong càn khôn ngũ tuyệt? Đoàn Trí Hưng dòng dõi vương tộc, cả gene di truyền lẫn điều kiện dinh dưỡng đều vào hàng tuyệt phẩm, dung mạo chắc chắn không kém. Trung Thần Thông vừa gặp Lâm Triều Anh đã khiến nàng ta điên đảo thần hồn, hẳn cũng là một trai đẹp trong võ lâm. Hồng Thất Công có phong thái hào sảng của dân Sơn Đông, còn Âu Dương Phong lại ánh lên vẻ nham hiểm, hung dữ. Dựa trên hậu nhân mà suy luận, con ruột của Âu Dương Phong là Âu Dương Khắc là một thanh niên tuấn tú, nên có lẽ vẻ ngoài của ông bố không thể quá xấu xí. Nhưng tất cả đều chịu thua Hoàng Lão Tà.
Thứ nhất, Đông Tà là người được Kim Dung mô tả hấp dẫn nhất, mà như dân mạng bây giờ hay nói đó, “quan trọng là thần thái.” Thứ hai, con gái y Hoàng Dung là hoa hậu trong Anh Hùng Xạ Điêu, người đời lại nhận xét cha con y giống nhau như hệt từ mắt đến miệng, đương nhiên Hoàng Dược Sư là một trung niên mỹ mạo. Thứ ba, y không chỉ có vẻ ngoài “lạnh lùng lộng lẫy” mà còn biết cách ăn vận phong cách. Một đời y chuyên mặc trường bào màu xanh tôn da tôn dáng, lại luôn giữ thân mình sạch sẽ không vết nhơ. Giả sử mà kết hôn với Cửu Chỉ Thần Cái “một tháng áo sạch, một tháng áo bẩn” chắc phụ nữ thời nay khó thể chịu nổi.
Kết luận: Đông Tà hạng Nhất về vẻ đẹp.
2. NGHỀ NGHIỆP – YẾU TỐ THỨ HAI ĐỂ CHỌN CHỒNG
Nam nhi đại trượng phu phải có chỗ đứng trong trời đất, ngày xưa đã thế mà thời nay cũng vậy. Lấy chồng thất nghiệp thì dù đẹp trai cũng không thể nào mài ra mà ăn. Nhìn lại cảm thấy các nhân vật trong càn khôn ngũ tuyệt đều có sự nghiệp lừng lẫy, đáng để người ta kính phục, song để chọn làm chồng thì tương đối khó nói.
Đông Tà Hoàng Dược Sư là một cướp biển đã về hưu. Nhờ làm cướp biển mà y thu thập được một khối tài sản lớn, từ đó xây dựng trên đảo Đào Hoa một cơ đồ đáng nể, lại sưu tầm vô số châu báu. Do không phải lo kiếm ăn nên y có thể thong thả thu nhận sáu đồ đệ, nghiền ngẫm Cửu âm chân kinh, tranh đấu với Chu Bá Thông. Tuy nhiên nghề hải tặc không những nguy hiểm mà còn bất chính, vì nó mà Hoàng Dược Sư bị mang tiếng ác. “Người ven biển sợ đảo Ðào Hoa như rắn rết, dặn nhau không được tới bốn ngàn dặm quanh đảo, nếu nói tới tên đảo Ðào Hoa thì cho dù có bao nhiêu tiền bạc cũng không chiếc thuyền đánh cá nào dám đi.” Lấy y cũng như uống ly rượu – rượu nồng khiến người ta say ngây ngất nhưng ẩn chứa độc tính.
Hình dung về Đông Tà
Bắc Cái Hồng Thất Công là thủ lĩnh bang hội lớn nhất thiên hạ, thế lực nghiêng trời, được giang hồ kính nể. Có điều y làm bang chủ Cái Bang thì vợ y cũng không tránh khỏi đám khiếu hóa từ vây xung quanh tối ngày, mà đa phần họ là những kẻ thô lỗ, hay nói tục chửi bậy, khạc nhổ, nuôi rắn rết bọ cạp trong bao, vệ sinh thân thể cực kém.
Nếu sinh ra là một người phụ nữ tao nhã, mềm mại, thích thêu thùa đốt hương, vẽ hoa ngâm thơ thì thật khó dung hòa với công việc của Bắc Cái. Phụ nữ thời nay đã bớt ngâm thơ vẽ tranh nhưng bản tính ưa sạch sẽ muôn đời vẫn thế, chắc chắn cũng không thích chồng làm thủ lĩnh ăn mày. Hơn nữa xã hội ngày càng phát triển, nghề ăn mày dần dần cũng ít được tôn trọng. Lấy Hồng Thất Công chẳng khác nào hàng ngày cũng xơi món thịt lợn luộc không mắm muối, tuy đủ dinh dưỡng nhưng chẳng thấy ngon.
Nam Đế Đoàn Trí Hưng là vua một nước, địa vị trong cõi thế tục là cao nhất trong ngũ tuyệt, người đời tất thảy đều kính ngưỡng y. Y lên làm vua nước Đại Lý đúng vào thời điểm thái bình thịnh trị, anh em trong hoàng tộc hoà thuận, có thể nói là việc nhẹ lương cao, tha hồ luyện võ. Làm vợ y thì yên cái bụng vì vinh hoa phú quý, châu ngọc đeo đầy mình, mỗi tội có vài trăm bà vợ khác cũng tranh nhau sự ân sủng của y, nếu ai có chút máu Hoạn Thư thì đây là điểm trừ duy nhất nhưng rất nặng. Nhất là phụ nữ ngày nay vốn quen với chế độ một vợ một chồng thì mùi vị đó thật khó mà nuốt trôi. Về sau y lại đùng đùng bỏ việc, đem đổi ngai vàng hoàng đế lấy cái bồ đoàn nhà sư, sự nghiệp thứ hai này khiến y không thể lấy vợ nữa nên không bàn tới. Đoàn Hoàng Gia chính là mâm cỗ nhiều cao lương mỹ vị nhưng khiến chị em lo sợ mình tăng cân.
Đoàn Nam Đế đi tu
Tây Độc Âu Dương Phong làm nghề luyện độc ở vùng Bạch Đà Sơn. Chọn Âu Dương Phong làm ý trung nhân là phải gánh chịu một thứ rủi ro nghề nghiệp khá lớn. Thứ nhất, xung quanh y luôn lổm ngổm các loại rắn rết, trùng độc đáng sợ, y lại luôn mang theo xà trượng có hai quái xà cực độc bò lên bò xuống, lỡ đãng trí va quệt phải thì thật nguy nan.
Tây Độc không chỉ luyện độc từ dị thú mà còn từ nhiều loài thực vật khác nhau, kiến thức sinh-hóa rất rộng rãi. Nếu y tái sinh ở thời này thì có thể làm giáo sư hóa học tài giỏi hay lương y chữa độc, có điều người làm sao của chiêm bao làm vậy, y chỉ thích hạ độc người khác. Sống cạnh y là luôn phải thấp thỏm lo lắng cho sự an toàn, cần giữ thuốc giải độc bên mình như tính mạng. Chẳng những thế, vì Âu Dương Phong luyện độc nên người y cũng đầy độc tính, lỡ hôn y một cái mà không có miễn dịch tốt thì có thể về chầu ông bà như chơi. Lấy y chẳng khác nào xơi món cá fugu cực độc của Nhật, mỗi lần ăn là một lần đánh cược với số phận.
Trung Thần Thông Vương Trùng Dương trước theo sự nghiệp kháng chiến chống Kim, sự nghiệp này thất bại, y chuyển sang làm đạo sĩ mũi trâu. Cả hai công việc đó đều cao cả nhưng không cho phép y vui thú hôn nhân. Hồi xưa say mê hoạt động cách mạng thì y dành hết sạch thời gian, tâm trí vào công việc, phát nguyện không thắng Kim không lấy vợ. Sau y làm đạo sĩ lại càng ngoan cố không chịu hoàn tục.
Vương Trùng Dương xa lánh thế sự, về dạy dỗ Toàn Chân thất tử
Tài sản của Vương Trùng Dương có nhiều nhưng phần lớn là huy động trong dân chúng để chống giặc, không thể sử dụng bừa bãi. Yêu y chính là đi vào địa ngục không lối thoát. Số phận gái ế chết già trong ngôi mộ cổ của Lâm Triều Anh chính là tấm gương cho những bóng hồng có ý kết duyên với Vương Trùng Dương. Y là củ sâm nghìn năm trong truyền thuyết, ăn vào có thể trường sinh bất lão, là Đường Tam Tạng tu hành mười kiếp, nhưng nào có ai trói buộc được y?
Kết luận: Nam Đế hạng Nhất về nghề nghiệp.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Trong ngũ bá kẻ nào về nhất? (bài 2):
Tính ai hay nhất? Nhà ai thích nhất?
Anh NNguyễn - soi.today
3. YẾU TỐ THỨ BA: TÍNH CÁCH VÀ TRÍ TUỆ
Đây là yếu tố thứ ba để chọn chồng. Đã đứng vào hàng võ lâm ngũ bá thì đương nhiên là tài năng võ học siêu việt, nhưng tài năng này chưa chắc đã đem lại hạnh phúc hôn nhân. Chỉ tính cách người chồng mới giúp người phụ nữ được hạnh phúc, còn trí tuệ của anh ta chỉ đem lại sự vui vẻ. Năm người trong ngũ tuyệt cũng có tính cách rất đa dạng, có thể nói là Kim Dung đã dày công khắc họa mỗi nhân vật một nét riêng.
Đông Tà Hoàng Dược Sư là người có trí tuệ siêu việt. Đàn ông chăm làm việc nhỏ thường không làm được việc lớn, đàn ông nhiều tài vặt thường không có tài chính, nhưng Hoàng Dược Sư lại là ngoại lệ. Không chỉ võ công mà y học, tướng số, ngũ hành kì môn độn giáp, văn chương, âm nhạc,… môn nào y cũng giỏi đến mức xuất quỷ nhập thần.
Đông Tà Hoàng Dược Sư
Riêng về võ học mà nói, Đông Tà Hoàng Dược Sư tự mình sáng tạo ra được nhiều pho võ công xuất chúng, điều đó chứng tỏ nội hàm trí tuệ sâu rộng của y. Các tuyệt chiêu của y như Lan hoa phất huyệt thủ, Ngọc tiêu kiếm pháp, Bích hải triều sinh khúc,… đều có lồng ghép văn chương, âm nhạc, cảnh tượng thiên nhiên kỳ thú, điều đó lại cho thấy tâm hồn y vô cùng lãng mạn.
Tính cách Hoàng Dược Sư có điểm tà khí, quái dị, song cuộc sống bên cạnh y sẽ không bao giờ nhàm chán. Vợ y muốn cùng y ngâm thơ vọng nguyệt, cưỡi ngựa ngắm hoa, uống rượu chơi cờ, y đều có thể chiều ý. Không những thế y lại vô cùng chung thủy, si tình như điên, sống chết không từ. Vợ y mất đi, y bèn dựng một con thuyền, định rong buồm ra khơi tự sát theo vợ. Hoàng Dược Sư xứng đáng nhất với danh hiệu “soái ca ngôn tình.”
Bắc Cái Hồng Thất Công là người tính tình thẳng thắn, khẳng khái không chút quanh co. Y trượng nghĩa, không cơ tâm, sẵn sàng xả thân cứu kẻ khác mà không màng bản thân mình. Sở trường của y là 18 chiêu Hàng Long thập bát chưởng vô cùng cương mãnh và Đả cẩu bổng pháp tinh diệu, nhưng cả đời y không sáng chế ra được một pho võ công mới nào. Điều này cũng phù hợp với tính cách đơn giản của y.
Hồng Thất Công mê rượu
Hồng Thất Công là kẻ tứ hải giai huynh đệ, không phù hợp với nơi trướng rủ màn che êm đềm. Y sinh ra để khề khà chén rượu với anh hùng thiên hạ, hành hiệp trượng nghĩa, một người đàn bà không thể trói buộc y. Làm phu nhân Cái Bang thì chỉ được cái tiếng vô vị: y có thể không lăng nhăng với người phụ nữ khác, song cô mãi mãi không phải là điều quan trọng nhất với y. Chưa kể, lấy một người chồng mê nhậu mà lại thích ăn ngon (!!) như Hồng Thất Công ắt sẽ dẫn đến tinh thần ức chế, bất mãn về lâu về dài.
Nam Đế Đoàn Trí Hưng là người có tấm lòng nhân hậu, lại bao dung độ lượng. Thân y làm vua một nước nhưng cư xử với anh em trong giang hồ hết sức lễ nghi, khiêm tốn. Có điều y không biết nặng nhẹ, quá coi trọng võ học mà không hiểu tâm tình nhi nữ, dẫn đến ba lần đắc tội với Anh Cô: lần thứ nhất y mê say võ công bỏ bê người đẹp khiến nàng tằng tịu với Chu Bá Thông. Lần thứ hai y sẵn sàng đem nàng gả cho người khác. Lần thứ ba y chần chừ không cứu khiến con nàng bỏ mạng. Chưa kể đến việc lấy y là phải cạnh tranh với vô vàn cung tần mỹ nữ, ba ví dụ trên đã đủ người ta uất hận đến chết.
Nam Đế cùng đàm đạo với Bắc Cái
Nam Đế tuy thân là vua nhưng tâm lý khù khờ không nhanh nhẹn giỏi ứng biến. Y có khí khái nam nhi nhưng động tới chuyện tình cảm lại trù trừ. Vụ Anh Cô vốn dĩ đơn giản, y lại chẳng xử lý kịp thời, khiến từ một việc nhỏ hóa thành to không sửa được, chuốc vạ cho mấy người (Bá Thông, Anh Cô, bản thân y) đến già. Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản, việc nhà y không ứng phó dứt điểm được nên chán đời đi tu, quả thật thiếu bản lĩnh của một vị quân vương.
Tây Độc Âu Dương Phong âm hiểm gian trá, là kẻ độc địa số một trong ngũ bá. Làm vợ y lúc nào cũng chịu cảnh “sống trong sợ hãi,” nếu y không vừa lòng thì chỉ một tí thuốc Hoá Thi Phấn cũng đủ biến cô thành vũng nước vàng. Thế còn đỡ, y có vô số cách khiến người ta đau đớn vô cùng, sống không được chết không xong. Không những vậy, y còn tư thông với chị dâu sinh ra Âu Dương Khắc, thực là bất trung, bất nghĩa. Lấy kẻ có tư cách đạo đức thấp hèn như vậy làm chồng thì ắt khó mà sống thọ.
Tây Độc lột hết quần áo, nhảy dù từ ngọn Ngọc Phong Bút
Trong bộ phim truyện Đông Tà Tây Độc của Vương Gia Vệ, đạo diễn biến Tây Độc (Trương Quốc Vinh) thành nhân vật bi thảm đẹp trai như ngọc, lại vẽ mối tình của y với chị dâu (Trương Mạn Ngọc) thành câu chuyện lâm li bi đát. Đông Tà Tây Độc là tác phẩm cực hay của Vương Gia Vệ, nhưng nhiêu đó không đủ thay đổi hình tượng quá kém lý tưởng của lão Độc Vật.
Trung Thần Thông Vương Trùng Dương thì trí tuệ quá siêu đẳng, đạo đức lại càng không có gì phải nói. Tuy y đã chết nhưng hình tượng chói lòa của y vẫn chiếu sáng trong hai bộ Xạ điêu, Thần điêu, chẳng khác nào mặt trăng mặt trời.
Tuy nhiên nhược điểm của y là quá cầu toàn. Y cầu toàn với bản thân chưa đủ, lại đem cái nhìn đó áp vào thế giới xung quanh, khi mọi sự không theo ý muốn, y liền rút vào trong núi, tự chôn vùi đời mình.
Giáo chủ Toàn Chân Vương chân nhân
Y có tình với Lâm Triều Anh nhưng cách thể hiện tình cảm của y khiến nàng sống dở chết dở, phí một đời hoa. Y cự tuyệt nàng nhưng lại viết thư gửi nàng đều đặn, không lấy nàng làm vợ nhưng lại đi đào hàn ngọc tặng nàng làm giường, khiến nàng khốn khổ không dứt nổi y. Vương Trùng Dương không thể đem lại hạnh phúc cho một người đàn bà, song lại luôn tỏ ra cao thượng khiến cô ta không thể trách móc y. Sống với vị Giáo chủ này có lẽ sẽ là một dạng tra tấn tinh thần thể nhẹ.
Kết luận: Đông Tà về Nhất ở khoản tính cách.
4. NƠI CƯ NGỤ: YẾU TỐ CUỐI CÙNG
Câu “Thuyền theo lái, gái theo chồng” đời nào cũng đúng. An cư mới lạc nghiệp, chỗ ở có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống. Võ lâm ngũ bá “mỗi người hùng cứ một phương” nên lựa chọn cho các chị em cũng hết sức phong phú.
Đông Tà Hoàng Dược Sư cư ngụ tại đảo Đào Hoa. Về phương diện mỹ học thì đây là nơi diễm lệ nhất: có hoa đào bóng rụng (đào hoa ảnh lạc,) có biển biếc triều dâng (bích hải triều sinh). Trên đảo có đầy đủ các loài điểu cầm xinh đẹp sinh sống. Hoàng Dược Sư lại là kiến trúc sư có tài, y thiết kế đầy đủ đền gác, nhà cửa, vườn tược lộng lẫy chẳng khác nào tiên cảnh.
Đảo Đào Hoa
Có người cho rằng đất nước Nhật Bản thơ mộng ở phía Đông chính là cảm hứng để Kim Dung sáng tạo hình ảnh đảo Đào Hoa. Nếu không có Chu Bá Thông tới quấy rối, ắt vợ chồng y có ngày sẽ mọc cánh thành tiên. Nhược điểm duy nhất của nơi này là vị trí địa lý cách trở, quá biệt lập với đất liền. Hoàng đảo chủ chẳng thiếu lương thực, ngọc ngà, nhưng với những người ưa phồn hoa đô hội, đi chơi ăn uống shopping xem phim thì có lẽ cuộc sống trên đảo sẽ hết sức tẻ nhạt.
Bắc Cái Hồng Thất Công lại lang thang khắp Trung nguyên, chẳng có đâu là chốn dừng chân lâu dài. Ngày hôm nay thì y tham gia đại hội võ lâm ở Hoa Sơn, hôm khác lại núp trên nóc ngự trù ăn Nem uyên ương ngũ trân, hôm khác lại về đảo Đào Hoa chữa bệnh,…
Nhân vật nào trong truyện chưởng cũng chu du thiên hạ, song riêng Hồng Thất Công dường như không có chỗ nào cố định. Thân ăn mày bốn bể là nhà, khó có thể đèo bòng thêm vợ con. Cuộc sống bấp bênh, không ổn định như vậy thì ở vậy cả đời là lựa chọn xác đáng của Bắc Cái. Đến khi gặp Hoàng Dung, tình phụ tử trong y mới được khơi dậy khiến y che chở cho nàng, lại khiến lòng y có chút ghen tị với cảnh vợ con đề huề của Hoàng Dược Sư.
Nam Đế Đoàn Trí Hưng là con nhà giàu, có hẳn một vương quốc làm địa bàn, về mặt bất động sản thì hơn hẳn bốn vị còn lại. Đại Lý nằm ở phía nam, chủ yếu là khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay. Đất nước tuy nhỏ nhưng giang sơn cẩm tú, lại có nhiều loại đặc sản: hoa trà rực rỡ, trà Phổ Nhĩ ngát hương. Ẩm thực Vân Nam cũng ngon nổi tiếng, nói chung là ăn ở đều tuyệt.
Vẻ đẹp nên thơ của Đại Lý
Trong Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung đã miêu tả món ăn Vân Nam như sau: “Quế công công, nhà bếp dặn tiểu nhân bẩm lại với công công, món canh Quá kiều mễ tuyến này nóng lắm, nhìn thì không thấy bốc hơi chứ thật ra đang sôi đấy. Món chân giò sấy Tuyên Thành này nướng với Tiền liên tử tẩm đường, gấp quá có khi chưa thật mềm, xin công công bỏ qua. Món này là gỏi đen Vân Nam. Đĩa này là khô cá công ở Nhĩ Hải Đại Lý, tuy không phải cá tươi nhưng mười phần quý báu, rán bằng dầu hoa hồng Vân Nam. Trong bình là trà bọt Phổ Nhĩ ở Vân Nam. Nhà bếp nói món gà hấp Vân Nam phải hơn hai giờ mới chín, chỉ còn cách buổi chiều sẽ đưa tới cho Quế công công lão nhân gia người”. Quả khiến cho người ta chảy nước bọt.
Ngoài ra Đại Lý tuy là một vương quốc riêng biệt nhưng việc di chuyển về Trung thổ thì rất đơn giản, gọi một chuyến Uber hay Grab là tới ngay, có thể nói là vị trí đắc địa.
Tây Độc Âu Dương Phong trấn vùng Bạch Đà Sơn thuộc Tây Vực. Nơi này chính là khu vực Tân Cương ngày nay, hồi xưa nó còn dính dáng đến các nước Ấn Độ, Ba Tư, Kyrgyzstan,… Không thể nói hết khí hậu khắc nghiệt, phong tục khác biệt, địa lý xa xôi cách trở, thua những nơi khác về mọi mặt. Âu Dương Phong chắc chắn không có cửa trong cuộc đua này nên khỏi cần bàn tiếp.
Kết luận: Nam Đế về nhất về nơi cư ngụ
*
Tổng kết lại, tỉ số là Đông Tà, Nam Đế hoà nhau 2-2. Nhưng xét lại, trong tình yêu thì nhà đẹp chức to như Nam Đế chưa chắc đã quan trọng bằng một mảnh tình si của Đông Tà. Có câu ngàn vàng dễ kiếm, tình lang khó tìm là vậy. Vì vậy xin bầu chọn Đông Tà là người chồng lý tưởng nhất trong Võ Lâm ngũ bá, có điều xin đừng bắt vợ học thuộc Cửu Âm Chân Kinh!
Tính ai hay nhất? Nhà ai thích nhất?
Anh NNguyễn - soi.today
3. YẾU TỐ THỨ BA: TÍNH CÁCH VÀ TRÍ TUỆ
Đây là yếu tố thứ ba để chọn chồng. Đã đứng vào hàng võ lâm ngũ bá thì đương nhiên là tài năng võ học siêu việt, nhưng tài năng này chưa chắc đã đem lại hạnh phúc hôn nhân. Chỉ tính cách người chồng mới giúp người phụ nữ được hạnh phúc, còn trí tuệ của anh ta chỉ đem lại sự vui vẻ. Năm người trong ngũ tuyệt cũng có tính cách rất đa dạng, có thể nói là Kim Dung đã dày công khắc họa mỗi nhân vật một nét riêng.
Đông Tà Hoàng Dược Sư là người có trí tuệ siêu việt. Đàn ông chăm làm việc nhỏ thường không làm được việc lớn, đàn ông nhiều tài vặt thường không có tài chính, nhưng Hoàng Dược Sư lại là ngoại lệ. Không chỉ võ công mà y học, tướng số, ngũ hành kì môn độn giáp, văn chương, âm nhạc,… môn nào y cũng giỏi đến mức xuất quỷ nhập thần.
Đông Tà Hoàng Dược Sư
Riêng về võ học mà nói, Đông Tà Hoàng Dược Sư tự mình sáng tạo ra được nhiều pho võ công xuất chúng, điều đó chứng tỏ nội hàm trí tuệ sâu rộng của y. Các tuyệt chiêu của y như Lan hoa phất huyệt thủ, Ngọc tiêu kiếm pháp, Bích hải triều sinh khúc,… đều có lồng ghép văn chương, âm nhạc, cảnh tượng thiên nhiên kỳ thú, điều đó lại cho thấy tâm hồn y vô cùng lãng mạn.
Tính cách Hoàng Dược Sư có điểm tà khí, quái dị, song cuộc sống bên cạnh y sẽ không bao giờ nhàm chán. Vợ y muốn cùng y ngâm thơ vọng nguyệt, cưỡi ngựa ngắm hoa, uống rượu chơi cờ, y đều có thể chiều ý. Không những thế y lại vô cùng chung thủy, si tình như điên, sống chết không từ. Vợ y mất đi, y bèn dựng một con thuyền, định rong buồm ra khơi tự sát theo vợ. Hoàng Dược Sư xứng đáng nhất với danh hiệu “soái ca ngôn tình.”
Bắc Cái Hồng Thất Công là người tính tình thẳng thắn, khẳng khái không chút quanh co. Y trượng nghĩa, không cơ tâm, sẵn sàng xả thân cứu kẻ khác mà không màng bản thân mình. Sở trường của y là 18 chiêu Hàng Long thập bát chưởng vô cùng cương mãnh và Đả cẩu bổng pháp tinh diệu, nhưng cả đời y không sáng chế ra được một pho võ công mới nào. Điều này cũng phù hợp với tính cách đơn giản của y.
Hồng Thất Công mê rượu
Hồng Thất Công là kẻ tứ hải giai huynh đệ, không phù hợp với nơi trướng rủ màn che êm đềm. Y sinh ra để khề khà chén rượu với anh hùng thiên hạ, hành hiệp trượng nghĩa, một người đàn bà không thể trói buộc y. Làm phu nhân Cái Bang thì chỉ được cái tiếng vô vị: y có thể không lăng nhăng với người phụ nữ khác, song cô mãi mãi không phải là điều quan trọng nhất với y. Chưa kể, lấy một người chồng mê nhậu mà lại thích ăn ngon (!!) như Hồng Thất Công ắt sẽ dẫn đến tinh thần ức chế, bất mãn về lâu về dài.
Nam Đế Đoàn Trí Hưng là người có tấm lòng nhân hậu, lại bao dung độ lượng. Thân y làm vua một nước nhưng cư xử với anh em trong giang hồ hết sức lễ nghi, khiêm tốn. Có điều y không biết nặng nhẹ, quá coi trọng võ học mà không hiểu tâm tình nhi nữ, dẫn đến ba lần đắc tội với Anh Cô: lần thứ nhất y mê say võ công bỏ bê người đẹp khiến nàng tằng tịu với Chu Bá Thông. Lần thứ hai y sẵn sàng đem nàng gả cho người khác. Lần thứ ba y chần chừ không cứu khiến con nàng bỏ mạng. Chưa kể đến việc lấy y là phải cạnh tranh với vô vàn cung tần mỹ nữ, ba ví dụ trên đã đủ người ta uất hận đến chết.
Nam Đế cùng đàm đạo với Bắc Cái
Nam Đế tuy thân là vua nhưng tâm lý khù khờ không nhanh nhẹn giỏi ứng biến. Y có khí khái nam nhi nhưng động tới chuyện tình cảm lại trù trừ. Vụ Anh Cô vốn dĩ đơn giản, y lại chẳng xử lý kịp thời, khiến từ một việc nhỏ hóa thành to không sửa được, chuốc vạ cho mấy người (Bá Thông, Anh Cô, bản thân y) đến già. Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản, việc nhà y không ứng phó dứt điểm được nên chán đời đi tu, quả thật thiếu bản lĩnh của một vị quân vương.
Tây Độc Âu Dương Phong âm hiểm gian trá, là kẻ độc địa số một trong ngũ bá. Làm vợ y lúc nào cũng chịu cảnh “sống trong sợ hãi,” nếu y không vừa lòng thì chỉ một tí thuốc Hoá Thi Phấn cũng đủ biến cô thành vũng nước vàng. Thế còn đỡ, y có vô số cách khiến người ta đau đớn vô cùng, sống không được chết không xong. Không những vậy, y còn tư thông với chị dâu sinh ra Âu Dương Khắc, thực là bất trung, bất nghĩa. Lấy kẻ có tư cách đạo đức thấp hèn như vậy làm chồng thì ắt khó mà sống thọ.
Tây Độc lột hết quần áo, nhảy dù từ ngọn Ngọc Phong Bút
Trong bộ phim truyện Đông Tà Tây Độc của Vương Gia Vệ, đạo diễn biến Tây Độc (Trương Quốc Vinh) thành nhân vật bi thảm đẹp trai như ngọc, lại vẽ mối tình của y với chị dâu (Trương Mạn Ngọc) thành câu chuyện lâm li bi đát. Đông Tà Tây Độc là tác phẩm cực hay của Vương Gia Vệ, nhưng nhiêu đó không đủ thay đổi hình tượng quá kém lý tưởng của lão Độc Vật.
Trung Thần Thông Vương Trùng Dương thì trí tuệ quá siêu đẳng, đạo đức lại càng không có gì phải nói. Tuy y đã chết nhưng hình tượng chói lòa của y vẫn chiếu sáng trong hai bộ Xạ điêu, Thần điêu, chẳng khác nào mặt trăng mặt trời.
Tuy nhiên nhược điểm của y là quá cầu toàn. Y cầu toàn với bản thân chưa đủ, lại đem cái nhìn đó áp vào thế giới xung quanh, khi mọi sự không theo ý muốn, y liền rút vào trong núi, tự chôn vùi đời mình.
Giáo chủ Toàn Chân Vương chân nhân
Y có tình với Lâm Triều Anh nhưng cách thể hiện tình cảm của y khiến nàng sống dở chết dở, phí một đời hoa. Y cự tuyệt nàng nhưng lại viết thư gửi nàng đều đặn, không lấy nàng làm vợ nhưng lại đi đào hàn ngọc tặng nàng làm giường, khiến nàng khốn khổ không dứt nổi y. Vương Trùng Dương không thể đem lại hạnh phúc cho một người đàn bà, song lại luôn tỏ ra cao thượng khiến cô ta không thể trách móc y. Sống với vị Giáo chủ này có lẽ sẽ là một dạng tra tấn tinh thần thể nhẹ.
Kết luận: Đông Tà về Nhất ở khoản tính cách.
4. NƠI CƯ NGỤ: YẾU TỐ CUỐI CÙNG
Câu “Thuyền theo lái, gái theo chồng” đời nào cũng đúng. An cư mới lạc nghiệp, chỗ ở có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống. Võ lâm ngũ bá “mỗi người hùng cứ một phương” nên lựa chọn cho các chị em cũng hết sức phong phú.
Đông Tà Hoàng Dược Sư cư ngụ tại đảo Đào Hoa. Về phương diện mỹ học thì đây là nơi diễm lệ nhất: có hoa đào bóng rụng (đào hoa ảnh lạc,) có biển biếc triều dâng (bích hải triều sinh). Trên đảo có đầy đủ các loài điểu cầm xinh đẹp sinh sống. Hoàng Dược Sư lại là kiến trúc sư có tài, y thiết kế đầy đủ đền gác, nhà cửa, vườn tược lộng lẫy chẳng khác nào tiên cảnh.
Đảo Đào Hoa
Có người cho rằng đất nước Nhật Bản thơ mộng ở phía Đông chính là cảm hứng để Kim Dung sáng tạo hình ảnh đảo Đào Hoa. Nếu không có Chu Bá Thông tới quấy rối, ắt vợ chồng y có ngày sẽ mọc cánh thành tiên. Nhược điểm duy nhất của nơi này là vị trí địa lý cách trở, quá biệt lập với đất liền. Hoàng đảo chủ chẳng thiếu lương thực, ngọc ngà, nhưng với những người ưa phồn hoa đô hội, đi chơi ăn uống shopping xem phim thì có lẽ cuộc sống trên đảo sẽ hết sức tẻ nhạt.
Bắc Cái Hồng Thất Công lại lang thang khắp Trung nguyên, chẳng có đâu là chốn dừng chân lâu dài. Ngày hôm nay thì y tham gia đại hội võ lâm ở Hoa Sơn, hôm khác lại núp trên nóc ngự trù ăn Nem uyên ương ngũ trân, hôm khác lại về đảo Đào Hoa chữa bệnh,…
Nhân vật nào trong truyện chưởng cũng chu du thiên hạ, song riêng Hồng Thất Công dường như không có chỗ nào cố định. Thân ăn mày bốn bể là nhà, khó có thể đèo bòng thêm vợ con. Cuộc sống bấp bênh, không ổn định như vậy thì ở vậy cả đời là lựa chọn xác đáng của Bắc Cái. Đến khi gặp Hoàng Dung, tình phụ tử trong y mới được khơi dậy khiến y che chở cho nàng, lại khiến lòng y có chút ghen tị với cảnh vợ con đề huề của Hoàng Dược Sư.
Nam Đế Đoàn Trí Hưng là con nhà giàu, có hẳn một vương quốc làm địa bàn, về mặt bất động sản thì hơn hẳn bốn vị còn lại. Đại Lý nằm ở phía nam, chủ yếu là khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay. Đất nước tuy nhỏ nhưng giang sơn cẩm tú, lại có nhiều loại đặc sản: hoa trà rực rỡ, trà Phổ Nhĩ ngát hương. Ẩm thực Vân Nam cũng ngon nổi tiếng, nói chung là ăn ở đều tuyệt.
Vẻ đẹp nên thơ của Đại Lý
Trong Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung đã miêu tả món ăn Vân Nam như sau: “Quế công công, nhà bếp dặn tiểu nhân bẩm lại với công công, món canh Quá kiều mễ tuyến này nóng lắm, nhìn thì không thấy bốc hơi chứ thật ra đang sôi đấy. Món chân giò sấy Tuyên Thành này nướng với Tiền liên tử tẩm đường, gấp quá có khi chưa thật mềm, xin công công bỏ qua. Món này là gỏi đen Vân Nam. Đĩa này là khô cá công ở Nhĩ Hải Đại Lý, tuy không phải cá tươi nhưng mười phần quý báu, rán bằng dầu hoa hồng Vân Nam. Trong bình là trà bọt Phổ Nhĩ ở Vân Nam. Nhà bếp nói món gà hấp Vân Nam phải hơn hai giờ mới chín, chỉ còn cách buổi chiều sẽ đưa tới cho Quế công công lão nhân gia người”. Quả khiến cho người ta chảy nước bọt.
Ngoài ra Đại Lý tuy là một vương quốc riêng biệt nhưng việc di chuyển về Trung thổ thì rất đơn giản, gọi một chuyến Uber hay Grab là tới ngay, có thể nói là vị trí đắc địa.
Tây Độc Âu Dương Phong trấn vùng Bạch Đà Sơn thuộc Tây Vực. Nơi này chính là khu vực Tân Cương ngày nay, hồi xưa nó còn dính dáng đến các nước Ấn Độ, Ba Tư, Kyrgyzstan,… Không thể nói hết khí hậu khắc nghiệt, phong tục khác biệt, địa lý xa xôi cách trở, thua những nơi khác về mọi mặt. Âu Dương Phong chắc chắn không có cửa trong cuộc đua này nên khỏi cần bàn tiếp.
Kết luận: Nam Đế về nhất về nơi cư ngụ
*
Tổng kết lại, tỉ số là Đông Tà, Nam Đế hoà nhau 2-2. Nhưng xét lại, trong tình yêu thì nhà đẹp chức to như Nam Đế chưa chắc đã quan trọng bằng một mảnh tình si của Đông Tà. Có câu ngàn vàng dễ kiếm, tình lang khó tìm là vậy. Vì vậy xin bầu chọn Đông Tà là người chồng lý tưởng nhất trong Võ Lâm ngũ bá, có điều xin đừng bắt vợ học thuộc Cửu Âm Chân Kinh!
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Số phận oái oăm của những bộ sách bí ẩn trong tác phẩm Kim Dung
zingnews
Kim Dung dành cho sách một vị trí khá quan trọng trong tiểu thuyết của mình. Ông lạ hóa, ly kỳ, bí ẩn hóa, và tạo cho những bộ sách những số phận oái oăm.Trích sách "Kim Dung giữa đời tôi"Chủ nhật, 4/11/2018 06:00 (GMT+7)A A
Sách chiếm một vai trò rất lớn trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Điều này được nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển phân tích trong cuốn Kim Dung giữa đời tôi (NXB Trẻ xuất bản và phát hành). Được sự đồng ý của tác giả, Zing.vn trích đăng một phần nội dung sách.
Trước khi là một nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là nhà văn hóa. Và là một nhà văn hóa cho nên ông rất chú trọng đến các vấn đề văn hóa, đặc biệt là các vấn đề về thế giới sách.
Ông đã dành cho sách một vị trí khá quan trọng, không phải chỉ trong những bài viết trên tờ Minh Báo mà còn ngay trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp vốn đầy tính đấu tranh của giới võ lâm.
Ta có thể tìm trong thế giới võ hiệp của ông một thế giới về sách và số phận của những bộ sách đó cũng đầy sóng gió như số phận những nhân vật chính trong tác phẩm của ông.
MUÔN HÌNH VẠN TRẠNG CỦA NHỮNG CUỐN SÁCH BÍ ẨN
Một cách khái quát, Kim Dung có cách gọi tên sách rất phong phú. Sách được gọi là thư; như bộ Vũ Mục di thư của Nhạc Phi tức Nhạc Võ Mục giấu trong bảo đao Đồ Long (Ỷ Thiên Đồ Long ký), bộ Minh thư tập lược của Cố Viêm Võ và Tra Y Hoàng (Lộc Đỉnh ký).
Sách được gọi là phổ; như Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu (Tiếu ngạo giang hồ), Cầm phổ và Tiêu phổ của khúc hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ.
Sách được gọi là kinh; như Thần chiếu kinh của Đinh Điển (trong Liên thành quyết), Lục mạch thần kiếm kinh của chùa Thiên Long và Dịch cân kinh của chùa Thiếu Lâm (Thiên long bát bộ), Tứ thập nhị chương kinh của Bát kỳ triều Thanh (Lộc Đỉnh ký), Dược vương kinh (trong Phi hồ ngoại truyện).
Sách Kim Dung giữa đời tôi của Vũ Đức Sao Biển, NXB Trẻ phát hành.
Sách được gọi là điển, như Quỳ hoa bảo điển (trong Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là Lục, như bộ Tử hà bí lục của phái Hoa Sơn (Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là tâm pháp, như bộ Càn khôn đại na di tâm pháp (Ỷ thiên Đồ Long ký).
Sách được gọi là ký, như Minh giáo lưu truyền Trung thổ ký của Dương Tiêu viết về quá trình hình thành Bái hỏa giáo (Minh giáo) ở đất Trung Hoa (trong Ỷ thiên Đồ Long ký).
Những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến được ghi chép với nhiều dạng văn tự khác nhau trên những phương tiện khác nhau. Vũ Mục di thư, Cửu âm chân kinh chép bằng chữ Hán (văn ngôn) trên những tờ giấy mỏng vàng khè.
Lục mạch thần kiếm kinh chép bằng chữ Hán, có đồ hình hướng dẫn chép trên lụa quý. Tịch tà kiếm phổ lại chép trên áo cà sa. Dịch cân kinh chép bằng tiếng Phạn (Sanskrit) trên giấy.
Thiết bản thần công của Nhậm Ngã Hành truyền cho Lệnh Hồ Xung lại chép trên sắt. Võ công phái Tiêu Dao lại chép trên đá. Càn khôn đại na di tâm pháp được chép bằng tiếng Ba Tư trên da dê.
Võ công Minh giáo Ba Tư được chép trên tám tấm Thánh hỏa lệnh dài ngắn khác nhau, xương không ra xương, ngà không ra ngà. Nói cách khác, những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến khá phong phú về văn tự, đa dạng về vật liệu làm sách.
Ngay cả cách chép sách cũng lạ: phải vận chỉ công để khắc chữ trên sắt, trên đá; phải đem Thánh hỏa lệnh nhúng vào một lớp sáp rồi viết chữ lên lớp sáp và dùng cường toan (acide - không nói rõ là thứ gì) đồ theo những chữ đã viết mới ra tự dạng trên Thánh hỏa lệnh.
Sách đã lạ, cách đọc sách cũng lạ hơn. Lệnh Hồ Xung sẽ không đọc được Thiết bản thần công của Nhậm Ngã Hành nếu không cởi trần truồng nằm trên tấm sắt cho những chữ khắc đó hằn lên da thịt.
Vô Kỵ cũng không biết tấm da dê là Càn khôn đại na di tâm pháp nếu Tiểu Chiêu không trích máu ngón tay nhỏ vào cho chữ hiện ra. Du Thản Chi đọc được Dịch cân kinh và lĩnh hội được yếu quyết của kinh chỉ khi nào cúi đầu xuống đất, chổng chân lên trời.
Tựu trung, những bộ sách trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung mang theo nhiều điều bí ẩn khó tả, có người cầm nó trong tay nhưng chẳng biết được giá trị liên thành - chiều sâu chứa đựng trong bộ sách.
SỐ PHẬN OÁI OĂM CỦA NHỮNG BỘ SÁCH
Số phận những bộ sách được Kim Dung hư cấu trong tác phẩm võ hiệp của ông đã thực sự cuốn hút người đọc, đưa người đọc đi vào một thế giới tiểu thuyết vừa siêu thực nhưng cũng rất hiện thực.
Có những bộ sách trở thành tựa đề luôn cho tác phẩm. Đó là trường hợp Cầm phổ và Tiêu phổ, hai bản nhạc hợp thành tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ, đã khiến cho Kim Dung chọn luôn tựa sách của mình là Tiếu ngạo giang hồ.
Đó là tác phẩm hợp soạn của hai con người thanh nhã: Lưu Chính Phong, cao thủ Hành Sơn phe bạch đạo và Khúc Dương trưởng lão của Nhật Nguyệt thần giáo, phe hắc đạo.
Xưa nay, người ta vẫn sống theo công thức "hắc bạch không thể hòa, chính tà không thể gặp”. Cả Lưu Chính Phong và Khúc Dương đều muốn chứng minh rằng khúc Tiếu ngạo giang hồ của họ có thể hóa giải những biên giới của sự chia rẽ và hận thù. Kết quả là cả Phong lẫn Khúc đều bị hại bởi những con người tự xưng là danh môn chính phái.
Trần Kiều Ân vào vai Đông Phương Bất Bại trong Tiếu ngạo giang hồ bản 2013. Do luyện Quỳ hoa bảo điển, một phiên bản của Tịch tà kiếm phổ, Đông Phương Bất Bại trở thành kẻ bán nam bán nữ. Ảnh: Baidu.
Trần Kiều Ân vào vai Đông Phương Bất Bại trong Tiếu ngạo giang hồ bản 2013. Do luyện Quỳ hoa bảo điển, một phiên bản của Tịch tà kiếm phổ, Đông Phương Bất Bại trở thành kẻ bán nam bán nữ. Ảnh: Baidu.
Bộ sách đó được truyền lại cho Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn. Lệnh Hồ Xung mang nó trong người, gặp không biết bao nhiêu điều đau khổ. Nhưng cũng chính Tiếu ngạo giang hồ đã đưa chàng lãng tử vô hạnh này gặp được ngọc nữ Doanh Doanh, đại tiểu thư của giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo.
Họ yêu thương nhau, đến với nhau, hoá giải được biên giới chính tà, hợp tấu cầm tiêu trong bộ Tiếu ngạo giang hồ đi đến chỗ tâm linh tương thức - điều mà hai vị tiền bối Lưu Chính Phong và Khúc Dương không thể làm được.
Một bộ sách khác được nhắc đến trong Tiếu ngạo giang hồ là Tịch tà kiếm phổ (quyển sách về những đường kiếm chuyên trị những bọn tà đạo) tương truyền của dòng họ Lâm. Lâm Viễn Đồ xuất thân là tiêu sư, có được kiếm phổ phải “dẫn đao tự cung” (tự thiến) để luyện.
Kiếm pháp Tịch tà quá đỗi độc ác, ông ta chép lại vào áo cà sa, dặn con cháu không được dở ra coi. Con ông là Lâm Chấn Nam võ công tầm thường, bị phái Thanh Thành của Dư Thương Hải tấn công nhằm đoạt Tịch tà kiếm phổ mà không đánh trả được.
Kẻ đoạt được pho kiếm phổ này là chưởng môn Hoa Sơn Nhạc Bất Quần đoạt được. Một mặt, Nhạc tự thiến để luyện kiếm; mặt khác Nhạc vu cáo cho học trò là Lệnh Hồ Xung ăn cắp Tịch tà kiếm phổ.
Khi Nhạc luyện xong, vứt áo cà sa đi thì Lâm Bình Chi, con trai Lâm Chấn Nam, lấy được và cũng tự thiến để luyện. Nhạc Bất Quần gả con gái là Nhạc Linh San cho cho Lâm Bình Chi và thường xuyên theo dõi xem con gái mình có được hạnh phúc chăn gối hay không.
Lâm Bình Chi đã “tự cung” thì làm sao có thể chăn gối được. Nhưng Nhạc Linh San đã cứu mạng Lâm Bình Chi. Cô trả lời rằng Lâm đối với cô rất tốt. Nhạc Bất Quần tin lời đó mới tha mạng cho Lâm Bình Chi. Lệnh Hồ Xung đã dùng kiếm pháp của phái Hoa Sơn đánh bại kiếm pháp Tịch tà.
Tịch tà kiếm phổ đã khiến ba con người thân bại danh liệt: Nhạc Bất Quần, Lâm Bình Chi và Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn. Đúng ra, phải gọi nó là Tà môn kiếm phổ.
Bản dịch tiếng Anh của Lộc Đỉnh ký vớitựa đề The Deer and the Cauldron của dịch giả John Minford.
Những pho sách mà Kim Dung đề cập đến trong tác phẩm của ông có khi là sản phẩm tưởng tượng, cũng có khi là sản phẩm thực tế được lồng vào cốt truyện. Vũ Mục di thư trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, Dịch cân kinh trong Thiên Long bát bộ, Tứ thập nhị chương kinh và Minh thư tập lược trong Lộc Đỉnh ký… là những tác phẩm có thực trong lịch sử văn hóa Trung Hoa.
Dù là sản phẩm hư cấu hay sản phẩm thực tế, Kim Dung đã khoác cho những bộ sách của mình một hành tung kỳ bí, một số phận oái oăm, khiến người đọc càng cảm thấy thú vị.
Thí dụ như trường hợp bộ Tứ thập nhị chương kinh, một bộ kinh Phật thông thường mà mọi người Trung Hoa đều có thể biết, trong Lộc Đỉnh ký. Bát kỳ nước Mãn Châu tiến công Trung Quốc, tiêu diệt nhà Minh. Đời vua thứ nhất của nhà Thành là Thuận Trị giao cho Bát kỳ tám bộ Tứ thập nhị chương kinh, mỗi quyển có bìa sách đúng như màu cờ của Bát kỳ: Bạch kỳ bìa trắng, Hắc kỳ bìa đen, Hồng kỳ bìa đỏ, Thanh kỳ bìa xanh…
Tám quyển kinh đó có gì đặc biệt? Có! Thuận Trị đã cắt nhỏ một bản đồ khu vực Oa Tập Sơn (tiếng Mãn Châu; dịch ra tiếng Trung Quốc là Lộc Đỉnh Sơn) được vẽ trên tấm da dê rồi chia các miếng vải đã cắt vào trong bìa sách, cho Bát kỳ. Thuận Trị dặn con cháu: “Nếu không giữ được thiên hạ (tức đất Trung Quốc) thì ta ở đâu hãy trở về nơi đó”.
Có ít nhất sáu thế lực tìm mọi cách để cướp cho được bí mật trong tám quyển Tứ thập nhị chương kinh. Một là vua Khang Hy, con vua Thuận Trị. Hai là con gái vua Sùng Trinh triều Minh, muốn trả thù cho cha. Ba là bọn Thần Long giáo, một giáo phái bí mật thông đồng với người La Sát (nước Nga La Tư).
Bốn là Thiên Địa hội, một tổ chức chống triều đình Khang Hy do Trần Vĩnh Hoa làm tổng lý. Năm là Ngô Tam Quế, phản thần của triều Minh, được nhà Thanh phong cho tước Bình Tây vương, trấn vùng Vân Nam. Sáu là bọn Lạt ma Tây Tạng do Tang Kết cầm đầu.
Mỗi thế lực đều tin rằng tấm bản đồ giấu trong tám bìa sách có bí mật riêng. Khang Hy muốn có để đốt đi, bảo vệ long mạch của tổ tiên tại Hắc Long Giang, Lộc Đỉnh Sơn miền Đông bắc Trung Quốc.
Con gái vua Sùng Trinh Chu Mỹ Xúc - Trường Bình công chúa - và Thiên Địa hội muốn phá được long mạch của nhà Thanh nhằm đuổi người Mãn Châu ra khỏi Trung Quốc. Thần Long giáo tin rằng bản đồ vẽ kho vàng... Cuối cùng cả tám quyển Tứ thập nhị chương kinh lọt hết vào tay Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo lấy hết các mảnh vải nhỏ sai nữ tì Song Nhi kết lại thành một bản đồ hoàn chỉnh. Hắn giữ lại bản đồ trong mình còn các pho Tứ thập nhị chương kinh thì được may bìa lại để biếu cho vua Khang Hy, Trần Cận Nam (thầy của Vi Tiểu Bảo) và công chúa Trường Bình (cũng là thầy của Vi Tiểu Bảo).
SỰ TRÂN QUÝ VỚI SÁCH
Một số nhân vật của Kim Dung là văn gia nên đi đâu họ cũng mang sách theo. Sách trở thành vũ khí trong chiến đấu chống kẻ thù, tranh biện với kẻ khác. Nhân vật Chu Đan Thần, một trong Tứ ẩn của nước Đại Lý, có nhiệm vụ bảo vệ Trấn Nam vương Đoàn Chính Thuần, đi đâu cũng cầm theo các tập thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ. Trước khi chiến đấu, Chu hay ngâm thơ! Trong Thiên Long bát bộ, Chu nhiều khi đã bàn luận thi ca với Đoàn Dự, con Đoàn Chính Thuần.
Nhân vật Tuân Tản trong nhóm Hàm Cốc bát hữu ra trận thường lục túi, đem sách ra… đấu võ miệng. Trong trận đụng độ với nhà sư Huyền Thống chùa Thiếu Lâm, Tuân Tản đã đem đủ các sách Luận ngữ, Mạnh Tử ra chất vấn Huyền Thống đại sư.
Đến khi biết rằng nhà sư không đọc sách đạo Nho, Tuân Tản đổi sang trích dẫn kinh điền đạo Phật: “Biển khổ mênh mông, quay đầu lại là thấy bờ”, khiến Huyền Thống chợt ngừng trận đấu. Nhà sư đã ngộ Thiền cơ trong câu kinh đó và đứng tim, viên tịch tại chỗ với nụ cười thư thái giải thoát trên môi.
Sách của Kim Dung đã đề cập đến trong truyện võ hiệp đương nhiên là sách quý, giá trị không biết bao nhiêu mà lường. Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, nhà sư Giác Viễn trước khi chết, đọc một vài đoạn thuộc lòng trong bộ Cửu dương chân kinh. Quách Tương học lỏm vài câu mà đã có thể dựng nên phái Nga Mi; Trương Quân Bảo cũng chỉ thuộc vài đoạn mà dựng nên phái Võ Đang.
Bọn Doãn Khắc Tây, Tiêu Tương Tử ăn cắp bộ sách này từ chùa Thiếu Lâm, rạch bụng con vượn mà nhét vào. Trước khi chết, chúng di ngôn lại cho Hà Túc Đạo núi Côn Luân là “kinh để trong hầu”.
Hà Túc Đạo nghe gà hóa cuốc, nói lại với phái Thiếu Lâm là “kinh để trong dầu”! Chỉ sau này, khi Trương Vô Kỵ giải phẫu cho con vượn già mới tìm lại được bộ sách trân quý của chùa Thiếu Lâm.
Sách quý nên việc bảo quản cũng rất công phu. Những nơi chứa sách được gọi là Tàng kinh lâu, Tàng kinh các, có quy định rất nghiêm ngặt, cấm người lạ lai vãng. Càng cấm nên sách càng gợi trí tò mò. Từ đó xuất hiện những kẻ ăn cắp sách.
Trong Thiên Long bát bộ, nhà sư Ba La Tinh từ Ấn Độ sang chùa Thiếu Lâm ăn cắp sách, bị phát hiện và bị nhốt. Tiêu Viễn Sơn, quan lớn của nước Khiết Đan, đột nhập vào Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm đọc lén võ kinh và học võ công Trung Quốc.
Mộ Dung Bác, người hoàng tộc nước Đại Yên giống Tiên Ty cũng trá tử, cạo đầu làm sư, vào chùa Thiếu Lâm nằm vùng đọc hết 72 quyển võ kinh của chùa Thiếu Lâm, nuôi mộng trung hưng nước Đại Yên.
Hàn Đống vào vai Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký phiên bản năm 2014. Vì mù chữ, Vi Tiểu Bảo rất ghét sách.
Những nhân vật của Kim Dung thường có trí nhớ rất tuyệt vời. Vương Ngữ Yên đọc thuộc lòng các sách võ trong thiên hạ, trở thành nhân vật ai cũng hâm mộ. Vương tử Đoàn Dự đọc qua bộ Lục mạch thần kiếm kinh một lần tại chùa Thiên Long mà tâm đã lãnh hội trọn vẹn.
Trong các bộ tiểu thuyết của Kim Dung, chỉ có một nhân vật ghét sách thậm tệ, thấy sách và chữ nghĩa là mắt hoa đầu váng. Đó là Vi Tiểu Bảo, Lộng Đỉnh công triều Khang Hy. Vốn hắn chỉ thích chơi gái, đánh bạc, uống rượu, nói tục và dốt đặc cán mai. Ấy thế mà trời lại trao cho hắn tám quyển Tứ thập nhị chương kinh.
Sách chiếm một vai trò rất lớn trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp. Kim Dung đưa các bộ sách vào, tạo cho tác phẩm của mình những tình tiết hấp dẫn, những mâu thuẫn lạ lùng.
Ở chừng mực nào đó, sách làm nên chất văn hóa cho tác phẩm võ hiệp tiểu thuyết vốn nặng về âm mưu, thủ đoạn, sự tranh đấu, sự giết chóc. Chỉ ngay trong khía cạnh đưa sách vào tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là một bậc thầy trong văn chương tiểu thuyết hiện đại.
zingnews
Kim Dung dành cho sách một vị trí khá quan trọng trong tiểu thuyết của mình. Ông lạ hóa, ly kỳ, bí ẩn hóa, và tạo cho những bộ sách những số phận oái oăm.Trích sách "Kim Dung giữa đời tôi"Chủ nhật, 4/11/2018 06:00 (GMT+7)A A
Sách chiếm một vai trò rất lớn trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Điều này được nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển phân tích trong cuốn Kim Dung giữa đời tôi (NXB Trẻ xuất bản và phát hành). Được sự đồng ý của tác giả, Zing.vn trích đăng một phần nội dung sách.
Trước khi là một nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là nhà văn hóa. Và là một nhà văn hóa cho nên ông rất chú trọng đến các vấn đề văn hóa, đặc biệt là các vấn đề về thế giới sách.
Ông đã dành cho sách một vị trí khá quan trọng, không phải chỉ trong những bài viết trên tờ Minh Báo mà còn ngay trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp vốn đầy tính đấu tranh của giới võ lâm.
Ta có thể tìm trong thế giới võ hiệp của ông một thế giới về sách và số phận của những bộ sách đó cũng đầy sóng gió như số phận những nhân vật chính trong tác phẩm của ông.
MUÔN HÌNH VẠN TRẠNG CỦA NHỮNG CUỐN SÁCH BÍ ẨN
Một cách khái quát, Kim Dung có cách gọi tên sách rất phong phú. Sách được gọi là thư; như bộ Vũ Mục di thư của Nhạc Phi tức Nhạc Võ Mục giấu trong bảo đao Đồ Long (Ỷ Thiên Đồ Long ký), bộ Minh thư tập lược của Cố Viêm Võ và Tra Y Hoàng (Lộc Đỉnh ký).
Sách được gọi là phổ; như Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu (Tiếu ngạo giang hồ), Cầm phổ và Tiêu phổ của khúc hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ.
Sách được gọi là kinh; như Thần chiếu kinh của Đinh Điển (trong Liên thành quyết), Lục mạch thần kiếm kinh của chùa Thiên Long và Dịch cân kinh của chùa Thiếu Lâm (Thiên long bát bộ), Tứ thập nhị chương kinh của Bát kỳ triều Thanh (Lộc Đỉnh ký), Dược vương kinh (trong Phi hồ ngoại truyện).
Sách Kim Dung giữa đời tôi của Vũ Đức Sao Biển, NXB Trẻ phát hành.
Sách được gọi là điển, như Quỳ hoa bảo điển (trong Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là Lục, như bộ Tử hà bí lục của phái Hoa Sơn (Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là tâm pháp, như bộ Càn khôn đại na di tâm pháp (Ỷ thiên Đồ Long ký).
Sách được gọi là ký, như Minh giáo lưu truyền Trung thổ ký của Dương Tiêu viết về quá trình hình thành Bái hỏa giáo (Minh giáo) ở đất Trung Hoa (trong Ỷ thiên Đồ Long ký).
Những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến được ghi chép với nhiều dạng văn tự khác nhau trên những phương tiện khác nhau. Vũ Mục di thư, Cửu âm chân kinh chép bằng chữ Hán (văn ngôn) trên những tờ giấy mỏng vàng khè.
Lục mạch thần kiếm kinh chép bằng chữ Hán, có đồ hình hướng dẫn chép trên lụa quý. Tịch tà kiếm phổ lại chép trên áo cà sa. Dịch cân kinh chép bằng tiếng Phạn (Sanskrit) trên giấy.
Thiết bản thần công của Nhậm Ngã Hành truyền cho Lệnh Hồ Xung lại chép trên sắt. Võ công phái Tiêu Dao lại chép trên đá. Càn khôn đại na di tâm pháp được chép bằng tiếng Ba Tư trên da dê.
Võ công Minh giáo Ba Tư được chép trên tám tấm Thánh hỏa lệnh dài ngắn khác nhau, xương không ra xương, ngà không ra ngà. Nói cách khác, những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến khá phong phú về văn tự, đa dạng về vật liệu làm sách.
Ngay cả cách chép sách cũng lạ: phải vận chỉ công để khắc chữ trên sắt, trên đá; phải đem Thánh hỏa lệnh nhúng vào một lớp sáp rồi viết chữ lên lớp sáp và dùng cường toan (acide - không nói rõ là thứ gì) đồ theo những chữ đã viết mới ra tự dạng trên Thánh hỏa lệnh.
Sách đã lạ, cách đọc sách cũng lạ hơn. Lệnh Hồ Xung sẽ không đọc được Thiết bản thần công của Nhậm Ngã Hành nếu không cởi trần truồng nằm trên tấm sắt cho những chữ khắc đó hằn lên da thịt.
Vô Kỵ cũng không biết tấm da dê là Càn khôn đại na di tâm pháp nếu Tiểu Chiêu không trích máu ngón tay nhỏ vào cho chữ hiện ra. Du Thản Chi đọc được Dịch cân kinh và lĩnh hội được yếu quyết của kinh chỉ khi nào cúi đầu xuống đất, chổng chân lên trời.
Tựu trung, những bộ sách trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung mang theo nhiều điều bí ẩn khó tả, có người cầm nó trong tay nhưng chẳng biết được giá trị liên thành - chiều sâu chứa đựng trong bộ sách.
SỐ PHẬN OÁI OĂM CỦA NHỮNG BỘ SÁCH
Số phận những bộ sách được Kim Dung hư cấu trong tác phẩm võ hiệp của ông đã thực sự cuốn hút người đọc, đưa người đọc đi vào một thế giới tiểu thuyết vừa siêu thực nhưng cũng rất hiện thực.
Có những bộ sách trở thành tựa đề luôn cho tác phẩm. Đó là trường hợp Cầm phổ và Tiêu phổ, hai bản nhạc hợp thành tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ, đã khiến cho Kim Dung chọn luôn tựa sách của mình là Tiếu ngạo giang hồ.
Đó là tác phẩm hợp soạn của hai con người thanh nhã: Lưu Chính Phong, cao thủ Hành Sơn phe bạch đạo và Khúc Dương trưởng lão của Nhật Nguyệt thần giáo, phe hắc đạo.
Xưa nay, người ta vẫn sống theo công thức "hắc bạch không thể hòa, chính tà không thể gặp”. Cả Lưu Chính Phong và Khúc Dương đều muốn chứng minh rằng khúc Tiếu ngạo giang hồ của họ có thể hóa giải những biên giới của sự chia rẽ và hận thù. Kết quả là cả Phong lẫn Khúc đều bị hại bởi những con người tự xưng là danh môn chính phái.
Trần Kiều Ân vào vai Đông Phương Bất Bại trong Tiếu ngạo giang hồ bản 2013. Do luyện Quỳ hoa bảo điển, một phiên bản của Tịch tà kiếm phổ, Đông Phương Bất Bại trở thành kẻ bán nam bán nữ. Ảnh: Baidu.
Trần Kiều Ân vào vai Đông Phương Bất Bại trong Tiếu ngạo giang hồ bản 2013. Do luyện Quỳ hoa bảo điển, một phiên bản của Tịch tà kiếm phổ, Đông Phương Bất Bại trở thành kẻ bán nam bán nữ. Ảnh: Baidu.
Bộ sách đó được truyền lại cho Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn. Lệnh Hồ Xung mang nó trong người, gặp không biết bao nhiêu điều đau khổ. Nhưng cũng chính Tiếu ngạo giang hồ đã đưa chàng lãng tử vô hạnh này gặp được ngọc nữ Doanh Doanh, đại tiểu thư của giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo.
Họ yêu thương nhau, đến với nhau, hoá giải được biên giới chính tà, hợp tấu cầm tiêu trong bộ Tiếu ngạo giang hồ đi đến chỗ tâm linh tương thức - điều mà hai vị tiền bối Lưu Chính Phong và Khúc Dương không thể làm được.
Một bộ sách khác được nhắc đến trong Tiếu ngạo giang hồ là Tịch tà kiếm phổ (quyển sách về những đường kiếm chuyên trị những bọn tà đạo) tương truyền của dòng họ Lâm. Lâm Viễn Đồ xuất thân là tiêu sư, có được kiếm phổ phải “dẫn đao tự cung” (tự thiến) để luyện.
Kiếm pháp Tịch tà quá đỗi độc ác, ông ta chép lại vào áo cà sa, dặn con cháu không được dở ra coi. Con ông là Lâm Chấn Nam võ công tầm thường, bị phái Thanh Thành của Dư Thương Hải tấn công nhằm đoạt Tịch tà kiếm phổ mà không đánh trả được.
Kẻ đoạt được pho kiếm phổ này là chưởng môn Hoa Sơn Nhạc Bất Quần đoạt được. Một mặt, Nhạc tự thiến để luyện kiếm; mặt khác Nhạc vu cáo cho học trò là Lệnh Hồ Xung ăn cắp Tịch tà kiếm phổ.
Khi Nhạc luyện xong, vứt áo cà sa đi thì Lâm Bình Chi, con trai Lâm Chấn Nam, lấy được và cũng tự thiến để luyện. Nhạc Bất Quần gả con gái là Nhạc Linh San cho cho Lâm Bình Chi và thường xuyên theo dõi xem con gái mình có được hạnh phúc chăn gối hay không.
Lâm Bình Chi đã “tự cung” thì làm sao có thể chăn gối được. Nhưng Nhạc Linh San đã cứu mạng Lâm Bình Chi. Cô trả lời rằng Lâm đối với cô rất tốt. Nhạc Bất Quần tin lời đó mới tha mạng cho Lâm Bình Chi. Lệnh Hồ Xung đã dùng kiếm pháp của phái Hoa Sơn đánh bại kiếm pháp Tịch tà.
Tịch tà kiếm phổ đã khiến ba con người thân bại danh liệt: Nhạc Bất Quần, Lâm Bình Chi và Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn. Đúng ra, phải gọi nó là Tà môn kiếm phổ.
Bản dịch tiếng Anh của Lộc Đỉnh ký vớitựa đề The Deer and the Cauldron của dịch giả John Minford.
Những pho sách mà Kim Dung đề cập đến trong tác phẩm của ông có khi là sản phẩm tưởng tượng, cũng có khi là sản phẩm thực tế được lồng vào cốt truyện. Vũ Mục di thư trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, Dịch cân kinh trong Thiên Long bát bộ, Tứ thập nhị chương kinh và Minh thư tập lược trong Lộc Đỉnh ký… là những tác phẩm có thực trong lịch sử văn hóa Trung Hoa.
Dù là sản phẩm hư cấu hay sản phẩm thực tế, Kim Dung đã khoác cho những bộ sách của mình một hành tung kỳ bí, một số phận oái oăm, khiến người đọc càng cảm thấy thú vị.
Thí dụ như trường hợp bộ Tứ thập nhị chương kinh, một bộ kinh Phật thông thường mà mọi người Trung Hoa đều có thể biết, trong Lộc Đỉnh ký. Bát kỳ nước Mãn Châu tiến công Trung Quốc, tiêu diệt nhà Minh. Đời vua thứ nhất của nhà Thành là Thuận Trị giao cho Bát kỳ tám bộ Tứ thập nhị chương kinh, mỗi quyển có bìa sách đúng như màu cờ của Bát kỳ: Bạch kỳ bìa trắng, Hắc kỳ bìa đen, Hồng kỳ bìa đỏ, Thanh kỳ bìa xanh…
Tám quyển kinh đó có gì đặc biệt? Có! Thuận Trị đã cắt nhỏ một bản đồ khu vực Oa Tập Sơn (tiếng Mãn Châu; dịch ra tiếng Trung Quốc là Lộc Đỉnh Sơn) được vẽ trên tấm da dê rồi chia các miếng vải đã cắt vào trong bìa sách, cho Bát kỳ. Thuận Trị dặn con cháu: “Nếu không giữ được thiên hạ (tức đất Trung Quốc) thì ta ở đâu hãy trở về nơi đó”.
Có ít nhất sáu thế lực tìm mọi cách để cướp cho được bí mật trong tám quyển Tứ thập nhị chương kinh. Một là vua Khang Hy, con vua Thuận Trị. Hai là con gái vua Sùng Trinh triều Minh, muốn trả thù cho cha. Ba là bọn Thần Long giáo, một giáo phái bí mật thông đồng với người La Sát (nước Nga La Tư).
Bốn là Thiên Địa hội, một tổ chức chống triều đình Khang Hy do Trần Vĩnh Hoa làm tổng lý. Năm là Ngô Tam Quế, phản thần của triều Minh, được nhà Thanh phong cho tước Bình Tây vương, trấn vùng Vân Nam. Sáu là bọn Lạt ma Tây Tạng do Tang Kết cầm đầu.
Mỗi thế lực đều tin rằng tấm bản đồ giấu trong tám bìa sách có bí mật riêng. Khang Hy muốn có để đốt đi, bảo vệ long mạch của tổ tiên tại Hắc Long Giang, Lộc Đỉnh Sơn miền Đông bắc Trung Quốc.
Con gái vua Sùng Trinh Chu Mỹ Xúc - Trường Bình công chúa - và Thiên Địa hội muốn phá được long mạch của nhà Thanh nhằm đuổi người Mãn Châu ra khỏi Trung Quốc. Thần Long giáo tin rằng bản đồ vẽ kho vàng... Cuối cùng cả tám quyển Tứ thập nhị chương kinh lọt hết vào tay Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo lấy hết các mảnh vải nhỏ sai nữ tì Song Nhi kết lại thành một bản đồ hoàn chỉnh. Hắn giữ lại bản đồ trong mình còn các pho Tứ thập nhị chương kinh thì được may bìa lại để biếu cho vua Khang Hy, Trần Cận Nam (thầy của Vi Tiểu Bảo) và công chúa Trường Bình (cũng là thầy của Vi Tiểu Bảo).
SỰ TRÂN QUÝ VỚI SÁCH
Một số nhân vật của Kim Dung là văn gia nên đi đâu họ cũng mang sách theo. Sách trở thành vũ khí trong chiến đấu chống kẻ thù, tranh biện với kẻ khác. Nhân vật Chu Đan Thần, một trong Tứ ẩn của nước Đại Lý, có nhiệm vụ bảo vệ Trấn Nam vương Đoàn Chính Thuần, đi đâu cũng cầm theo các tập thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ. Trước khi chiến đấu, Chu hay ngâm thơ! Trong Thiên Long bát bộ, Chu nhiều khi đã bàn luận thi ca với Đoàn Dự, con Đoàn Chính Thuần.
Nhân vật Tuân Tản trong nhóm Hàm Cốc bát hữu ra trận thường lục túi, đem sách ra… đấu võ miệng. Trong trận đụng độ với nhà sư Huyền Thống chùa Thiếu Lâm, Tuân Tản đã đem đủ các sách Luận ngữ, Mạnh Tử ra chất vấn Huyền Thống đại sư.
Đến khi biết rằng nhà sư không đọc sách đạo Nho, Tuân Tản đổi sang trích dẫn kinh điền đạo Phật: “Biển khổ mênh mông, quay đầu lại là thấy bờ”, khiến Huyền Thống chợt ngừng trận đấu. Nhà sư đã ngộ Thiền cơ trong câu kinh đó và đứng tim, viên tịch tại chỗ với nụ cười thư thái giải thoát trên môi.
Sách của Kim Dung đã đề cập đến trong truyện võ hiệp đương nhiên là sách quý, giá trị không biết bao nhiêu mà lường. Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, nhà sư Giác Viễn trước khi chết, đọc một vài đoạn thuộc lòng trong bộ Cửu dương chân kinh. Quách Tương học lỏm vài câu mà đã có thể dựng nên phái Nga Mi; Trương Quân Bảo cũng chỉ thuộc vài đoạn mà dựng nên phái Võ Đang.
Bọn Doãn Khắc Tây, Tiêu Tương Tử ăn cắp bộ sách này từ chùa Thiếu Lâm, rạch bụng con vượn mà nhét vào. Trước khi chết, chúng di ngôn lại cho Hà Túc Đạo núi Côn Luân là “kinh để trong hầu”.
Hà Túc Đạo nghe gà hóa cuốc, nói lại với phái Thiếu Lâm là “kinh để trong dầu”! Chỉ sau này, khi Trương Vô Kỵ giải phẫu cho con vượn già mới tìm lại được bộ sách trân quý của chùa Thiếu Lâm.
Sách quý nên việc bảo quản cũng rất công phu. Những nơi chứa sách được gọi là Tàng kinh lâu, Tàng kinh các, có quy định rất nghiêm ngặt, cấm người lạ lai vãng. Càng cấm nên sách càng gợi trí tò mò. Từ đó xuất hiện những kẻ ăn cắp sách.
Trong Thiên Long bát bộ, nhà sư Ba La Tinh từ Ấn Độ sang chùa Thiếu Lâm ăn cắp sách, bị phát hiện và bị nhốt. Tiêu Viễn Sơn, quan lớn của nước Khiết Đan, đột nhập vào Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm đọc lén võ kinh và học võ công Trung Quốc.
Mộ Dung Bác, người hoàng tộc nước Đại Yên giống Tiên Ty cũng trá tử, cạo đầu làm sư, vào chùa Thiếu Lâm nằm vùng đọc hết 72 quyển võ kinh của chùa Thiếu Lâm, nuôi mộng trung hưng nước Đại Yên.
Hàn Đống vào vai Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký phiên bản năm 2014. Vì mù chữ, Vi Tiểu Bảo rất ghét sách.
Những nhân vật của Kim Dung thường có trí nhớ rất tuyệt vời. Vương Ngữ Yên đọc thuộc lòng các sách võ trong thiên hạ, trở thành nhân vật ai cũng hâm mộ. Vương tử Đoàn Dự đọc qua bộ Lục mạch thần kiếm kinh một lần tại chùa Thiên Long mà tâm đã lãnh hội trọn vẹn.
Trong các bộ tiểu thuyết của Kim Dung, chỉ có một nhân vật ghét sách thậm tệ, thấy sách và chữ nghĩa là mắt hoa đầu váng. Đó là Vi Tiểu Bảo, Lộng Đỉnh công triều Khang Hy. Vốn hắn chỉ thích chơi gái, đánh bạc, uống rượu, nói tục và dốt đặc cán mai. Ấy thế mà trời lại trao cho hắn tám quyển Tứ thập nhị chương kinh.
Sách chiếm một vai trò rất lớn trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp. Kim Dung đưa các bộ sách vào, tạo cho tác phẩm của mình những tình tiết hấp dẫn, những mâu thuẫn lạ lùng.
Ở chừng mực nào đó, sách làm nên chất văn hóa cho tác phẩm võ hiệp tiểu thuyết vốn nặng về âm mưu, thủ đoạn, sự tranh đấu, sự giết chóc. Chỉ ngay trong khía cạnh đưa sách vào tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là một bậc thầy trong văn chương tiểu thuyết hiện đại.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Tản mạn Tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long - Cao Tự Thanh
Ngoài Kim Dung, trên văn đàn tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa hiện đại còn có nhiều tác giả nổi tiếng khác trong đó nổi bật là Cổ Long với Phong vân đệ nhất đao được dịch thành Long hổ phong vân ở miền Nam trước 1975 và Huyết biển bức được dựng thành phim vidéo với tên gọi Biển bức cung chủ được dịch là “Cung Dơi chúa” ở Việt Nam vài năm gần đây. Có thể nói nếu Kim Dung là tác giả tiêu biểu cho trường phái “truyền thống” thì Cổ Long là tác giả tiêu biểu cho trường phái “canh tân” trong tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa hiện đại, trường phái với các tác phẩm loại võ hiệp hình sự, trinh thám được chuyển thể thành phim ảnh rất rộng rãi khoảng mươi năm nay.
Khác với Kim Dung, tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long có kết cấu khá giống các tác phẩm tiểu thuyết hình sự trinh thám hay tâm lý xã hội phương Tây hiện đại, hoàn toàn hư cấu về không gian và thời gian nhưng khá chân thực về số phận và tâm lý nhân vật. Các nhân vật Lục Tiểu Phụng, Lý Tầm Hoan, Tiểu Phi tức Đạo soái Lưu Hương và Thẩm Thăng Y trong các tác phẩm từ U linh sơn trang, Ngân câu đổ trường, Phong vân đệ nhất đao tới Huyết biển bức, Thất dạ câu hồn... thật ra đều là những viên thanh tra cảnh sát tự nguyện chuyên điều tra khám phá các vụ án trong xã hội võ lâm, còn các nhân vật phản diện cũng có thân phận khá hiện đại, có khi là một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ giỏi thuật dịch dung như Cẩm Cung Thành trong Ma đao dùng tài năng toan cướp ngôi vua, có khi là một nữ tặc giết mướn như Vân Phiêu Phiêu trong Thất dạ câu hồn bị đồng bọn trong tổ chức cũ truy sát vì tự ý ly khai rồi lập ra Thất Sát trang để kinh doanh riêng. Các nhân vật chính diện của Cổ Long ít được miêu tả về lai lịch và công phu võ học như của Kim Dung, cũng ít khi động quyền vung kiếm. Họ vật lộn với cuộc sống, đối đầu với kẻ thù bằng trí tuệ và tâm hồn nhiều hơn là bằng kiếm chiêu chưởng pháp, và đặc biệt là các nhân vật chính của Cổ Long dù gian tà hay hiệp nghĩa cũng hầu như đều có số phận rủi ro lận đận và tâm sự trầm uất đau buồn. Cái thế đối lập lưỡng phân này khiến cuộc sống với các quan hệ và mâu thuẫn trong tác phẩm của Cổ Long nhiều khi giống như một gánh nặng tiền định hay một cuộc chơi tàn nhẫn, nhưng cũng chính vì vậy mà nội dung tâm lý lại trở thành yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn trong tiểu thuyết võ hiệp của ông. Dĩ nhiên để đạt tới những điều nói trên Cổ Long cũng phải trải qua một quá trình, và có thể ít nhiều thấy được sự tự ý thức về quá trình ấy của chính Cổ Long qua lời tựa của ông in trong bộ Thất dạ câu hồn được Thái Bạch Văn nghệ xã tái bản ở Trung Quốc năm 1994 :
“Sau khi viết bộ Tiểu Lý phi đao và Hiệp đạo Sở Lưu Hương, độc giả của tôi ngày càng đông, cái tên Cổ Long cũng ngày càng nổi tiếng. Trong hiệu sách bày sách của tôi, trên vô tuyến truyền hình chiếu các nhân vật và cốt truyện mà tôi sáng tác, trên đường phố ngân nga bài hát “Tiểu Lý phi đao”, thậm chí còn có người chủ động tìm tới nhà xin tôi cho phép đặt tên quán rượu của ông ta là “Sở Lưu Hương tửu quán”.
Tôi cám ơn lòng yêu mến của người đọc. Đối với hai nhân vật ấy tôi đã có cách nhìn của mình. Lý Tầm Hoan trong Tiểu Lý phi đao hiệp nghĩa thiện lương, nhưng cũng có nhược điểm trong tính cách. Y tình cảm yếu đuối, thiếu sự dứt khoát, yêu Lâm Thi Âm nhưng không muốn thổ lộ chân tình với nàng, hết sức đè nén tình cảm của mình, dùng chén rượu tiêu sầu qua tháng ngày, tiêu cực, bi quan, đau khổ, suốt đời sống trong mâu thuẫn và bi kịch, sống quá vất vả rất không thoải mái.
Còn Sở Lưu Hương ? Y tiêu sái, phong lưu, sâu sắc, khôi hài, ngao du trong đời, hành hiệp trượng nghĩa. Y có thể thu xếp rất ổn thỏa những việc rất khó giải quyết, điều đó quả rất tuyệt vời, rất khiến người ta phải lưu ý. Rất nhiều người cho rằng một lá thư ngắn của Sở Lưu Hương trong tác phẩm của tôi có thể làm rõ vấn đề này :
“Nghe nói ông có tượng mỹ nhân bằng bạch ngọc, do thợ khéo tạc thành, vô cùng xinh đẹp, không kìm được lòng hâm mộ. Giờ Tý đêm nay ta sẽ đạp ánh trăng tới lấy, ông vốn là người cao nhã khoát đạt, ắt không đến nỗi để ta phải đi uổng công”.
Lá thư ngắn này nói về việc ăn trộm bảo vật của người ta mà viết rất nhẹ nhàng, trang nhã, lại có ý thơ, đó chính là phẩm cách của Sở Lưu Hương.
Tôi có rất nhiều bạn bè trí tuệ rất cao, có tài văn chương, họ cứ gặp tôi là đều hỏi “Tiểu Lý phi đao và Sở Lưu Hương viết rất hay, sao anh không viết tiếp, viết thêm vài bộ nữa ?”.
Tôi cười cười.
Tôi cũng chỉ có thể cười cười.
Tiểu Lý phi đao đã tả tới mức rốt ráo, về Sở Lưu Hương cũng đã viết tới tám bộ, Hồ Thiết Hoa cũng già rồi, còn gì để viết nữa ? Nếu viết nữa cũng chỉ có thể rơi vào hình thức vốn có.
Vậy thì tôi viết nữa hay không ?
Đương nhiên là viết ! Mà còn phải thay đổi, canh tân, vượt thoát ra khỏi nội dung và hình thức cũ, đổi mới cách viết, tạo ra một hình tượng hiệp khách mới - Thẩm Thăng Y.
Thẩm Thăng Y không những có tấm lòng thông cảm với con người như Tiểu Lý phi đao mà còn có phong cách phiêu nhiên tiêu sái, sâu sắc phong lưu của Sở Lưu Hương, đồng thời cũng có cả trí tuệ và võ công của họ. Tiểu Lý phi đao dùng đao, Sở Lưu Hương không dùng võ khí, nhưng Thẩm Thăng Y dùng kiếm, mà còn dùng song kiếm.
Chuyện Thẩm Thăng Y khúc chiết ly kỳ, khẩn trương kịch liệt, vả lại rất tình tứ, nhưng hoàn toàn không phải là chuyện hoang đường vô căn cứ, mà lại chan chứa tình cảm với bạn bè, khảng khái và nghĩa hiệp, sâu sắc và thông cảm, hy vọng người đọc sau khi vui buồn cảm động có thể cảm nhận được sự gợi ý trong sách, nhìn con người và sự việc trên đời sâu hơn, xa hơn.
Đó chính là nguyện vọng lớn nhất của tôi khi viết Thẩm Thăng Y”.
Cổ Long tên thật là Hùng Diệu Hoa, nguyên quán Giang Tô, sinh ở Hương Cảng, về sau định cư ở Đài Loan. Lúc trẻ nghèo khổ, nhờ bạn bè giúp đỡ vừa đi làm vừa đi học tốt nghiệp Đại học Đạm Giang. Từng gia nhập quân đội đóng ở Đài Bắc. Về sau vì sinh hoạt bức bách, bắt đầu sáng tác tiểu thuyết võ hiệp. Tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long rất độc đáo, có ảnh hưởng rất lớn. Ông đã sáng tác gần một trăm tác phẩm, trong đó tiêu biểu có các bộ Sở Lưu Hương hệ liệt, Lục Tiểu Phụng, Đa tình kiếm khách vô tình kiếm, Tuyệt đại song kiêu, Cửu nguyệt ưng phi, Hồ điệp lưu tinh kiếm, Thiên nhai minh nguyệt đao, Thất chủng vũ khí, Tiêu Thập Nhất lang, Thẩm Thăng Y truyền kỳ hệ liệt, Đại địa phi ưng.
Cổ Long sinh năm 1937, qua đời năm 1985, được coi là người có “một đột phá lớn trong lịch sử tiểu thuyết võ hiệp” Trung Hoa.
Ngoài Kim Dung, trên văn đàn tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa hiện đại còn có nhiều tác giả nổi tiếng khác trong đó nổi bật là Cổ Long với Phong vân đệ nhất đao được dịch thành Long hổ phong vân ở miền Nam trước 1975 và Huyết biển bức được dựng thành phim vidéo với tên gọi Biển bức cung chủ được dịch là “Cung Dơi chúa” ở Việt Nam vài năm gần đây. Có thể nói nếu Kim Dung là tác giả tiêu biểu cho trường phái “truyền thống” thì Cổ Long là tác giả tiêu biểu cho trường phái “canh tân” trong tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa hiện đại, trường phái với các tác phẩm loại võ hiệp hình sự, trinh thám được chuyển thể thành phim ảnh rất rộng rãi khoảng mươi năm nay.
Khác với Kim Dung, tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long có kết cấu khá giống các tác phẩm tiểu thuyết hình sự trinh thám hay tâm lý xã hội phương Tây hiện đại, hoàn toàn hư cấu về không gian và thời gian nhưng khá chân thực về số phận và tâm lý nhân vật. Các nhân vật Lục Tiểu Phụng, Lý Tầm Hoan, Tiểu Phi tức Đạo soái Lưu Hương và Thẩm Thăng Y trong các tác phẩm từ U linh sơn trang, Ngân câu đổ trường, Phong vân đệ nhất đao tới Huyết biển bức, Thất dạ câu hồn... thật ra đều là những viên thanh tra cảnh sát tự nguyện chuyên điều tra khám phá các vụ án trong xã hội võ lâm, còn các nhân vật phản diện cũng có thân phận khá hiện đại, có khi là một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ giỏi thuật dịch dung như Cẩm Cung Thành trong Ma đao dùng tài năng toan cướp ngôi vua, có khi là một nữ tặc giết mướn như Vân Phiêu Phiêu trong Thất dạ câu hồn bị đồng bọn trong tổ chức cũ truy sát vì tự ý ly khai rồi lập ra Thất Sát trang để kinh doanh riêng. Các nhân vật chính diện của Cổ Long ít được miêu tả về lai lịch và công phu võ học như của Kim Dung, cũng ít khi động quyền vung kiếm. Họ vật lộn với cuộc sống, đối đầu với kẻ thù bằng trí tuệ và tâm hồn nhiều hơn là bằng kiếm chiêu chưởng pháp, và đặc biệt là các nhân vật chính của Cổ Long dù gian tà hay hiệp nghĩa cũng hầu như đều có số phận rủi ro lận đận và tâm sự trầm uất đau buồn. Cái thế đối lập lưỡng phân này khiến cuộc sống với các quan hệ và mâu thuẫn trong tác phẩm của Cổ Long nhiều khi giống như một gánh nặng tiền định hay một cuộc chơi tàn nhẫn, nhưng cũng chính vì vậy mà nội dung tâm lý lại trở thành yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn trong tiểu thuyết võ hiệp của ông. Dĩ nhiên để đạt tới những điều nói trên Cổ Long cũng phải trải qua một quá trình, và có thể ít nhiều thấy được sự tự ý thức về quá trình ấy của chính Cổ Long qua lời tựa của ông in trong bộ Thất dạ câu hồn được Thái Bạch Văn nghệ xã tái bản ở Trung Quốc năm 1994 :
“Sau khi viết bộ Tiểu Lý phi đao và Hiệp đạo Sở Lưu Hương, độc giả của tôi ngày càng đông, cái tên Cổ Long cũng ngày càng nổi tiếng. Trong hiệu sách bày sách của tôi, trên vô tuyến truyền hình chiếu các nhân vật và cốt truyện mà tôi sáng tác, trên đường phố ngân nga bài hát “Tiểu Lý phi đao”, thậm chí còn có người chủ động tìm tới nhà xin tôi cho phép đặt tên quán rượu của ông ta là “Sở Lưu Hương tửu quán”.
Tôi cám ơn lòng yêu mến của người đọc. Đối với hai nhân vật ấy tôi đã có cách nhìn của mình. Lý Tầm Hoan trong Tiểu Lý phi đao hiệp nghĩa thiện lương, nhưng cũng có nhược điểm trong tính cách. Y tình cảm yếu đuối, thiếu sự dứt khoát, yêu Lâm Thi Âm nhưng không muốn thổ lộ chân tình với nàng, hết sức đè nén tình cảm của mình, dùng chén rượu tiêu sầu qua tháng ngày, tiêu cực, bi quan, đau khổ, suốt đời sống trong mâu thuẫn và bi kịch, sống quá vất vả rất không thoải mái.
Còn Sở Lưu Hương ? Y tiêu sái, phong lưu, sâu sắc, khôi hài, ngao du trong đời, hành hiệp trượng nghĩa. Y có thể thu xếp rất ổn thỏa những việc rất khó giải quyết, điều đó quả rất tuyệt vời, rất khiến người ta phải lưu ý. Rất nhiều người cho rằng một lá thư ngắn của Sở Lưu Hương trong tác phẩm của tôi có thể làm rõ vấn đề này :
“Nghe nói ông có tượng mỹ nhân bằng bạch ngọc, do thợ khéo tạc thành, vô cùng xinh đẹp, không kìm được lòng hâm mộ. Giờ Tý đêm nay ta sẽ đạp ánh trăng tới lấy, ông vốn là người cao nhã khoát đạt, ắt không đến nỗi để ta phải đi uổng công”.
Lá thư ngắn này nói về việc ăn trộm bảo vật của người ta mà viết rất nhẹ nhàng, trang nhã, lại có ý thơ, đó chính là phẩm cách của Sở Lưu Hương.
Tôi có rất nhiều bạn bè trí tuệ rất cao, có tài văn chương, họ cứ gặp tôi là đều hỏi “Tiểu Lý phi đao và Sở Lưu Hương viết rất hay, sao anh không viết tiếp, viết thêm vài bộ nữa ?”.
Tôi cười cười.
Tôi cũng chỉ có thể cười cười.
Tiểu Lý phi đao đã tả tới mức rốt ráo, về Sở Lưu Hương cũng đã viết tới tám bộ, Hồ Thiết Hoa cũng già rồi, còn gì để viết nữa ? Nếu viết nữa cũng chỉ có thể rơi vào hình thức vốn có.
Vậy thì tôi viết nữa hay không ?
Đương nhiên là viết ! Mà còn phải thay đổi, canh tân, vượt thoát ra khỏi nội dung và hình thức cũ, đổi mới cách viết, tạo ra một hình tượng hiệp khách mới - Thẩm Thăng Y.
Thẩm Thăng Y không những có tấm lòng thông cảm với con người như Tiểu Lý phi đao mà còn có phong cách phiêu nhiên tiêu sái, sâu sắc phong lưu của Sở Lưu Hương, đồng thời cũng có cả trí tuệ và võ công của họ. Tiểu Lý phi đao dùng đao, Sở Lưu Hương không dùng võ khí, nhưng Thẩm Thăng Y dùng kiếm, mà còn dùng song kiếm.
Chuyện Thẩm Thăng Y khúc chiết ly kỳ, khẩn trương kịch liệt, vả lại rất tình tứ, nhưng hoàn toàn không phải là chuyện hoang đường vô căn cứ, mà lại chan chứa tình cảm với bạn bè, khảng khái và nghĩa hiệp, sâu sắc và thông cảm, hy vọng người đọc sau khi vui buồn cảm động có thể cảm nhận được sự gợi ý trong sách, nhìn con người và sự việc trên đời sâu hơn, xa hơn.
Đó chính là nguyện vọng lớn nhất của tôi khi viết Thẩm Thăng Y”.
Cổ Long tên thật là Hùng Diệu Hoa, nguyên quán Giang Tô, sinh ở Hương Cảng, về sau định cư ở Đài Loan. Lúc trẻ nghèo khổ, nhờ bạn bè giúp đỡ vừa đi làm vừa đi học tốt nghiệp Đại học Đạm Giang. Từng gia nhập quân đội đóng ở Đài Bắc. Về sau vì sinh hoạt bức bách, bắt đầu sáng tác tiểu thuyết võ hiệp. Tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long rất độc đáo, có ảnh hưởng rất lớn. Ông đã sáng tác gần một trăm tác phẩm, trong đó tiêu biểu có các bộ Sở Lưu Hương hệ liệt, Lục Tiểu Phụng, Đa tình kiếm khách vô tình kiếm, Tuyệt đại song kiêu, Cửu nguyệt ưng phi, Hồ điệp lưu tinh kiếm, Thiên nhai minh nguyệt đao, Thất chủng vũ khí, Tiêu Thập Nhất lang, Thẩm Thăng Y truyền kỳ hệ liệt, Đại địa phi ưng.
Cổ Long sinh năm 1937, qua đời năm 1985, được coi là người có “một đột phá lớn trong lịch sử tiểu thuyết võ hiệp” Trung Hoa.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Bút pháp Kim Dung và Cổ Long khác biệt nhau chỉ trong 3 chữ
Đọc giả Việt Nam say mê truyện kiếm hiệp, cổ trang chắc chắn không thể không biết đến hai cây đại thụ Kim Dung và Cổ Long. Có nhiều bạn đọc hỏi rằng: Kim Dung và Cổ Long, ai tài giỏi hơn?
Câu hỏi này thật sự là rất khó trả lời, bởi vì hai người họ thật sự là khác nhau rất lớn, cho dù là tính cách, tướng mạo, sở thích, hay là trải nghiệm, tài sản, tuổi tác,…v.v.
Tuy nhiên, nói khó thì thật ra cũng không khó lắm, chỗ khác biệt giữa Kim Dung và Cổ Long, thật ra chỉ là ba chữ mà thôi.
Kim Dung viết về chốn dân gian, Cổ Long viết về nơi chân trời hẻo lánh
Trong tác phẩm của Kim Dung và Cổ Long, mỗi người họ đều tự đặt ra cho mình câu hỏi về nhân sinh và sinh mệnh.
Câu hỏi của Kim Dung là: “Ta là ai?“.
Còn Cổ Long hỏi: “Chân trời còn bao xa nữa?“.
Kim Dung, là suy tư mang tính triết lý đằng sau cái gọi là đầy đủ, sung túc, điều được hỏi là ý nghĩa của đời người.
Câu hỏi của Cổ Long, chính là tìm kiếm trong sự cô độc, phiêu bạt nay đây mai đó, điều được hỏi chính là nơi trở về của nhân sinh.
Hiệp khách của Kim Dung chính là hiệp khách của chốn dân gian, chính là giống như bạn và tôi những con người của cõi phàm tục này, mãi luôn bị nhân tình thế thái bao vây, cha mẹ – sư trưởng – bằng hữu – quân thần, dân gian – gia tộc – miếu đường – giang hồ, các loại quan hệ, các hiệp khách đều phải đối mặt.
Dương quá và Tiểu Long nữ.
Những nhân vật của Kim Dung họ đều có lai lịch rõ ràng, thư hương thế gia Trần Gia Lạc, lênh đênh cô khổ tiểu Dương Quá, dòng dõi hoàng tộc Đoàn công tử, tận trung báo quốc Quách Đại hiệp. Ngay đến cả nhân vật có lai lịch bất minh như Vi Tiểu Bảo, ít nhất thì chúng ta cũng biết được mẹ ruột của y là ai.
Đọc giả có thể biết được tuổi thơ của họ, phong cách nói chuyện của họ, mối tình đầu của họ. Họ bị Kim Dung đẩy vào chốn giang hồ, cũng giống như bạn từ ghế nhà trường bước vào xã hội vậy, muôn vàn sóng gió, muôn vàn trắc trở, mỗi hy vọng mà họ có được, mỗi một cạm bẫy, mỗi một bước trưởng thành, bạn đều cảm thấy được rất rõ ràng.
Hiệp khách của Cổ Long thì lại không như vậy. Hiệp khách của ông là hiệp khách của chân trời.
Cổ Long không phải là không thể viết về nhân gian, nhưng trong phạm vi khá là hạn hẹp, giống như một ca sĩ chất giọng có hạn vậy. Hễ viết về nhân vật nhỏ, thì phải mời ra quán rượu; hễ viết đến cuộc sống của Vương công Thần giả, cũng chỉ có tấm thảm Ba Tư, thịt sườn bò, mĩ nữ thoát y ngả vào lòng. Ông viết không được rõ ràng là họ ăn cái gì, tặng nhau lễ vật gì, nói những chuyện gì. Thế là Cổ Long tự mình mở ra một con đường, kiên quyết rời khỏi nhân gian, đưa những hiệp khách của ông lang bạt đến tận chân trời.
Hiệp khách của ông không có lai lịch, tựa như những vì sao lẻ loi, dường như là khi trời đất bắt đầu, ngay cái thời khắc mà cánh cửa giang hồ mở ra, thì họ đã lạnh lùng ở trong đó rồi.
Họ mãi mãi đang đi đường, nhưng lại không biết sẽ đi về đâu.
Trương Trí Lâm hóa thân thành Lục Tiểu Phụng trong bộ phim Lục Tiểu Phụng truyền kỳ (2006).
Đọc giả không biết được quê hương của họ, không biết được mối tình đầu của họ. Bạn có thể biết rõ người đàn bà bên cạnh họ lúc này, nhưng lại không biết là họ đã từng yêu ai.
Quách Tĩnh gặp được Hoàng Dung, chúng ta biết được chàng phần nhiều sẽ nghĩ về Hoa Tranh; Hồ Phỉ gặp được Miêu Nhược Lan, chúng ta biết được chàng phần nhiều sẽ nhớ đến Trình Linh Tố. Nhưng nếu Lục Tiểu Phụng quen được một cô nương thì sao? Chỉ có trời mới biết được rằng y sẽ nhớ đến ai.
Hiệp khách của Cổ Long, trước sau vẫn không xử lý những quan hệ xã hội phức tạp. Cuộc đời của họ chỉ có hai việc: sinh tồn và tử vong.
Hình ảnh trong cuộc sống của họ chỉ có ba loại: giường ngủ, quán rượu, đỉnh núi (hay nóc nhà): “nằm ngủ trên giường, xã giao trong quán rượu, quyết chiến trên đỉnh núi“.
Người mà họ đối diện cũng chỉ có ba loại: “bằng hữu, kẻ thủ, và người qua đường“.
Có thể bạn sẽ hỏi: Còn phụ nữ thì sao? Câu trả lời chính là: “người phụ nữ sau khi chấm dứt rồi thì đường ai nấy đi, cũng chẳng khác gì người qua đường vậy“.
Kim Dung viết mặt trời, Cổ Long viết ánh trăng
Đây là chỗ khác biệt thứ hai của hai người.
Hiệp khách của Kim Dung, thường thường là võ sĩ chói lọi như mặt trời.
Khi sống điều mà họ tâm đắc là “anh hùng hảo hán, vì nước vì dân“; điều mà họ hát trước khi chết là “hãy thiêu hủy tấm thân tàn của ta, hỡi ngọn lửa thánh hỏa rừng rực“.
Trận chiến vĩ đại nhất của họ khi ở thành Tương Dương, trên núi Hoa Sơn, Quang Minh đỉnh, ở Nhạn Môn quan đều diễn ra vào ban ngày; đoàn thể lớn mạnh nhất của họ, thứ mà họ tôn sùng là ngọn lửa nóng bỏng; người có võ công mạnh nhất trong họ có họ Đông Phương, võ công lợi hại nhất tên Quỳ Hoa (hoa mặt trời), tất cả đều chỉ hướng về mặt trời.
Tiêu Phong đường đường chính chính đánh bại quần hùng ở Thiếu Lâm tự.
Hiệp khách của Cổ Long, lại là những hiệp khách thuộc về đêm trăng.
Sở Lưu Hương rõ là thuộc về đêm trăng: “Biết ngài có bạch ngọc mỹ nhân, khéo léo khắc thành, vô cùng xinh đẹp, không thể dằn lòng tưởng đến. Giữa đêm nay, đạp trăng tới lấy”.
Phó Hồng Tuyết là người thuộc về đêm trăng; “Trăng sáng ở nơi nào? Chính là ở trong lòng chàng, trái tim của chàng chính là ánh trăng”.
Mỗi một vị hiệp khách đều theo khí chất màn đêm nồng nặc. Vào ban ngày, họ lười biếng, ẩn mình, chỉ đến ban đêm mới xuất hiện. Chính như A Phi là con sói dưới đêm trăng, Tây Môn Xuy Tuyết là tảng băng giá dưới đêm trăng, Lục Tiểu Phụng là tinh linh dưới đêm trăng, Lý Tầm Hoan là thần dưới đêm trăng.
Vậy nên, trận chiến vĩ đại nhất của Cổ Long thường là diễn ra vào buổi tối. Trận quyết chiến giữa Lý Tầm Hoan và Thượng Quan Kim Hồng là diễn ra vào buổi tối: “Ngọn đèn đang cháy, tim đèn đã sắp cháy hết”.
Trận quyết đấu giữa Tây Môn Xuy Tuyết và Diệp Cô Thành, cũng là diễn ra vào buổi tối: “Giữa đêm trăng tròn, trên nóc của Tử Cấm Thành“. Anh hùng của Cổ Long, trước giờ không thích quyết định số phận của mình vào ban ngày.
Kim Dung viết kiếm, Cổ Long viết đao
Đây là chỗ khác biệt thứ ba giữa họ.
Kiếm là vua của các loại của vũ khí, sắc bén, cao quý, tao nhã, cân đối. Hiệp khách giang hồ của Kim Dung là thiên về dùng kiếm, trong 14 bộ tiểu thuyết, đao thật sự chiếm vai chính chỉ có ba bộ: “Tuyết sơn phi hồ”, “Phi hồ ngoại truyện”, “Uyên ương đao“, còn lại gần như toàn bộ đều là thiên hạ của kiếm.
Nếu như không có “Tuyết sơn phi hồ“, không có đao pháp của Hồ gia, thì thật sự không biết là Kim Dung sẽ thiên vị về kiếm đến trình độ nào nữa.
Trái ngược với kiếm, đao là cuồng khách trong các loại binh khí, thô lỗ, bạo lực, dứt khoát. Hiệp khách giang hồ của Cổ Long, suy cho cùng là giang hồ thuộc về đao khách.
Phó Hồng Tuyết (Chung Hán Lương) mạnh mẽ trong Thiên nhai minh nguyệt đao.
Trong tiềm thức của Cổ Long, thường là cảm thấy kiếm là giả tạo, xem thường người khác, tự phụ. Một loại nhân vật là ông thích viết nhất, chính là con cháu danh gia khoác theo bảo kiếm, không biết trời cao đất dày, sau đó bị người ta lăng nhục đủ điều, ngược đãi đủ điều. Cổ Long thích dùng những thanh đao cao ngạo để phá vỡ cái thế giới lập dị này.
Ông đã nặn tạo nên vô số binh khí nổi tiếng, nhưng lợi hại nhất không chút nghi ngờ hiển nhiên là Tiểu Lý phi đao.
Trong số hiệp khách của ông, những người dùng đao luôn luôn có sức hút hơn so với những người dùng kiếm.
Lý Tầm Hoan dùng phi đao hấp dẫn hơn A Phi dùng kiếm, cũng như vậy Diệp Khai dùng phi đao thú vị hơn so với Lộ Tiểu Giai dùng kiếm, Tiêu Thập Nhất Lang dùng Cát Lộc Đao đặc sắc hơn so với Liên Thành Bích dùng kiếm, chính ngay đến cả Kiếm Thần Tây Môn Xuy Tuyết mà bản thân Cổ Long dày công nào nhặn, bản thân tôi cảm thấy cũng không có sâu sắc, phức tạp và lay động lòng người như Đao khách Cô độc Phó Hồng Tuyết.
Nói cho gọn lại chính là:
Kim Dung: nhân gian, mặt trời, kiếm.
Cổ Long: chân trời, ánh trăng, đao.
Hồng Khang dịch từ NTD
Đọc giả Việt Nam say mê truyện kiếm hiệp, cổ trang chắc chắn không thể không biết đến hai cây đại thụ Kim Dung và Cổ Long. Có nhiều bạn đọc hỏi rằng: Kim Dung và Cổ Long, ai tài giỏi hơn?
Câu hỏi này thật sự là rất khó trả lời, bởi vì hai người họ thật sự là khác nhau rất lớn, cho dù là tính cách, tướng mạo, sở thích, hay là trải nghiệm, tài sản, tuổi tác,…v.v.
Tuy nhiên, nói khó thì thật ra cũng không khó lắm, chỗ khác biệt giữa Kim Dung và Cổ Long, thật ra chỉ là ba chữ mà thôi.
Kim Dung viết về chốn dân gian, Cổ Long viết về nơi chân trời hẻo lánh
Trong tác phẩm của Kim Dung và Cổ Long, mỗi người họ đều tự đặt ra cho mình câu hỏi về nhân sinh và sinh mệnh.
Câu hỏi của Kim Dung là: “Ta là ai?“.
Còn Cổ Long hỏi: “Chân trời còn bao xa nữa?“.
Kim Dung, là suy tư mang tính triết lý đằng sau cái gọi là đầy đủ, sung túc, điều được hỏi là ý nghĩa của đời người.
Câu hỏi của Cổ Long, chính là tìm kiếm trong sự cô độc, phiêu bạt nay đây mai đó, điều được hỏi chính là nơi trở về của nhân sinh.
Hiệp khách của Kim Dung chính là hiệp khách của chốn dân gian, chính là giống như bạn và tôi những con người của cõi phàm tục này, mãi luôn bị nhân tình thế thái bao vây, cha mẹ – sư trưởng – bằng hữu – quân thần, dân gian – gia tộc – miếu đường – giang hồ, các loại quan hệ, các hiệp khách đều phải đối mặt.
Dương quá và Tiểu Long nữ.
Những nhân vật của Kim Dung họ đều có lai lịch rõ ràng, thư hương thế gia Trần Gia Lạc, lênh đênh cô khổ tiểu Dương Quá, dòng dõi hoàng tộc Đoàn công tử, tận trung báo quốc Quách Đại hiệp. Ngay đến cả nhân vật có lai lịch bất minh như Vi Tiểu Bảo, ít nhất thì chúng ta cũng biết được mẹ ruột của y là ai.
Đọc giả có thể biết được tuổi thơ của họ, phong cách nói chuyện của họ, mối tình đầu của họ. Họ bị Kim Dung đẩy vào chốn giang hồ, cũng giống như bạn từ ghế nhà trường bước vào xã hội vậy, muôn vàn sóng gió, muôn vàn trắc trở, mỗi hy vọng mà họ có được, mỗi một cạm bẫy, mỗi một bước trưởng thành, bạn đều cảm thấy được rất rõ ràng.
Hiệp khách của Cổ Long thì lại không như vậy. Hiệp khách của ông là hiệp khách của chân trời.
Cổ Long không phải là không thể viết về nhân gian, nhưng trong phạm vi khá là hạn hẹp, giống như một ca sĩ chất giọng có hạn vậy. Hễ viết về nhân vật nhỏ, thì phải mời ra quán rượu; hễ viết đến cuộc sống của Vương công Thần giả, cũng chỉ có tấm thảm Ba Tư, thịt sườn bò, mĩ nữ thoát y ngả vào lòng. Ông viết không được rõ ràng là họ ăn cái gì, tặng nhau lễ vật gì, nói những chuyện gì. Thế là Cổ Long tự mình mở ra một con đường, kiên quyết rời khỏi nhân gian, đưa những hiệp khách của ông lang bạt đến tận chân trời.
Hiệp khách của ông không có lai lịch, tựa như những vì sao lẻ loi, dường như là khi trời đất bắt đầu, ngay cái thời khắc mà cánh cửa giang hồ mở ra, thì họ đã lạnh lùng ở trong đó rồi.
Họ mãi mãi đang đi đường, nhưng lại không biết sẽ đi về đâu.
Trương Trí Lâm hóa thân thành Lục Tiểu Phụng trong bộ phim Lục Tiểu Phụng truyền kỳ (2006).
Đọc giả không biết được quê hương của họ, không biết được mối tình đầu của họ. Bạn có thể biết rõ người đàn bà bên cạnh họ lúc này, nhưng lại không biết là họ đã từng yêu ai.
Quách Tĩnh gặp được Hoàng Dung, chúng ta biết được chàng phần nhiều sẽ nghĩ về Hoa Tranh; Hồ Phỉ gặp được Miêu Nhược Lan, chúng ta biết được chàng phần nhiều sẽ nhớ đến Trình Linh Tố. Nhưng nếu Lục Tiểu Phụng quen được một cô nương thì sao? Chỉ có trời mới biết được rằng y sẽ nhớ đến ai.
Hiệp khách của Cổ Long, trước sau vẫn không xử lý những quan hệ xã hội phức tạp. Cuộc đời của họ chỉ có hai việc: sinh tồn và tử vong.
Hình ảnh trong cuộc sống của họ chỉ có ba loại: giường ngủ, quán rượu, đỉnh núi (hay nóc nhà): “nằm ngủ trên giường, xã giao trong quán rượu, quyết chiến trên đỉnh núi“.
Người mà họ đối diện cũng chỉ có ba loại: “bằng hữu, kẻ thủ, và người qua đường“.
Có thể bạn sẽ hỏi: Còn phụ nữ thì sao? Câu trả lời chính là: “người phụ nữ sau khi chấm dứt rồi thì đường ai nấy đi, cũng chẳng khác gì người qua đường vậy“.
Kim Dung viết mặt trời, Cổ Long viết ánh trăng
Đây là chỗ khác biệt thứ hai của hai người.
Hiệp khách của Kim Dung, thường thường là võ sĩ chói lọi như mặt trời.
Khi sống điều mà họ tâm đắc là “anh hùng hảo hán, vì nước vì dân“; điều mà họ hát trước khi chết là “hãy thiêu hủy tấm thân tàn của ta, hỡi ngọn lửa thánh hỏa rừng rực“.
Trận chiến vĩ đại nhất của họ khi ở thành Tương Dương, trên núi Hoa Sơn, Quang Minh đỉnh, ở Nhạn Môn quan đều diễn ra vào ban ngày; đoàn thể lớn mạnh nhất của họ, thứ mà họ tôn sùng là ngọn lửa nóng bỏng; người có võ công mạnh nhất trong họ có họ Đông Phương, võ công lợi hại nhất tên Quỳ Hoa (hoa mặt trời), tất cả đều chỉ hướng về mặt trời.
Tiêu Phong đường đường chính chính đánh bại quần hùng ở Thiếu Lâm tự.
Hiệp khách của Cổ Long, lại là những hiệp khách thuộc về đêm trăng.
Sở Lưu Hương rõ là thuộc về đêm trăng: “Biết ngài có bạch ngọc mỹ nhân, khéo léo khắc thành, vô cùng xinh đẹp, không thể dằn lòng tưởng đến. Giữa đêm nay, đạp trăng tới lấy”.
Phó Hồng Tuyết là người thuộc về đêm trăng; “Trăng sáng ở nơi nào? Chính là ở trong lòng chàng, trái tim của chàng chính là ánh trăng”.
Mỗi một vị hiệp khách đều theo khí chất màn đêm nồng nặc. Vào ban ngày, họ lười biếng, ẩn mình, chỉ đến ban đêm mới xuất hiện. Chính như A Phi là con sói dưới đêm trăng, Tây Môn Xuy Tuyết là tảng băng giá dưới đêm trăng, Lục Tiểu Phụng là tinh linh dưới đêm trăng, Lý Tầm Hoan là thần dưới đêm trăng.
Vậy nên, trận chiến vĩ đại nhất của Cổ Long thường là diễn ra vào buổi tối. Trận quyết chiến giữa Lý Tầm Hoan và Thượng Quan Kim Hồng là diễn ra vào buổi tối: “Ngọn đèn đang cháy, tim đèn đã sắp cháy hết”.
Trận quyết đấu giữa Tây Môn Xuy Tuyết và Diệp Cô Thành, cũng là diễn ra vào buổi tối: “Giữa đêm trăng tròn, trên nóc của Tử Cấm Thành“. Anh hùng của Cổ Long, trước giờ không thích quyết định số phận của mình vào ban ngày.
Kim Dung viết kiếm, Cổ Long viết đao
Đây là chỗ khác biệt thứ ba giữa họ.
Kiếm là vua của các loại của vũ khí, sắc bén, cao quý, tao nhã, cân đối. Hiệp khách giang hồ của Kim Dung là thiên về dùng kiếm, trong 14 bộ tiểu thuyết, đao thật sự chiếm vai chính chỉ có ba bộ: “Tuyết sơn phi hồ”, “Phi hồ ngoại truyện”, “Uyên ương đao“, còn lại gần như toàn bộ đều là thiên hạ của kiếm.
Nếu như không có “Tuyết sơn phi hồ“, không có đao pháp của Hồ gia, thì thật sự không biết là Kim Dung sẽ thiên vị về kiếm đến trình độ nào nữa.
Trái ngược với kiếm, đao là cuồng khách trong các loại binh khí, thô lỗ, bạo lực, dứt khoát. Hiệp khách giang hồ của Cổ Long, suy cho cùng là giang hồ thuộc về đao khách.
Phó Hồng Tuyết (Chung Hán Lương) mạnh mẽ trong Thiên nhai minh nguyệt đao.
Trong tiềm thức của Cổ Long, thường là cảm thấy kiếm là giả tạo, xem thường người khác, tự phụ. Một loại nhân vật là ông thích viết nhất, chính là con cháu danh gia khoác theo bảo kiếm, không biết trời cao đất dày, sau đó bị người ta lăng nhục đủ điều, ngược đãi đủ điều. Cổ Long thích dùng những thanh đao cao ngạo để phá vỡ cái thế giới lập dị này.
Ông đã nặn tạo nên vô số binh khí nổi tiếng, nhưng lợi hại nhất không chút nghi ngờ hiển nhiên là Tiểu Lý phi đao.
Trong số hiệp khách của ông, những người dùng đao luôn luôn có sức hút hơn so với những người dùng kiếm.
Lý Tầm Hoan dùng phi đao hấp dẫn hơn A Phi dùng kiếm, cũng như vậy Diệp Khai dùng phi đao thú vị hơn so với Lộ Tiểu Giai dùng kiếm, Tiêu Thập Nhất Lang dùng Cát Lộc Đao đặc sắc hơn so với Liên Thành Bích dùng kiếm, chính ngay đến cả Kiếm Thần Tây Môn Xuy Tuyết mà bản thân Cổ Long dày công nào nhặn, bản thân tôi cảm thấy cũng không có sâu sắc, phức tạp và lay động lòng người như Đao khách Cô độc Phó Hồng Tuyết.
Nói cho gọn lại chính là:
Kim Dung: nhân gian, mặt trời, kiếm.
Cổ Long: chân trời, ánh trăng, đao.
Hồng Khang dịch từ NTD
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Page 34 of 50 • 1 ... 18 ... 33, 34, 35 ... 42 ... 50
Page 34 of 50
Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum