Our forum runs best with JavaScript enabled !

Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Page 1 of 2 1, 2  Next

View previous topic View next topic Go down

Confused Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Thu Feb 03, 2022 4:41 pm

Đây là loạt bài của RFA. Tôi sẽ bổ xung ~ bài khác. Song song, sẽ tìm và đăng về cải cách ruộng đất ở Tàu, Tàu làm trước, việt cộng làm theo (sau). Trong các tài liệu đều nói việt minh 0 ~ nhận chỉ thị của Tàu mà còn của Liên Xô nữa. 

Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền bắc (Bài 1)

2006.05.15

Nguyễn An, phóng viên đài RFA

Thưa quý thính giả, kể từ hôm nay, và liên tiếp trong chín buổi phát thanh, ban Việt ngữ đài Á châu tự do xin gửi đến quý thính giả loạt bài về cuộc Cải Cách ruộng đất diễn ra đầu thập niên 1950 tại miền bắc Việt Nam. Loạt bài do Nguyễn An thực hiện. Mời quý thính giả theo dõi bài thứ nhất qua sự trình bày của Phương Anh.

Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956.

50 năm trước, tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, tức là đảng Cộng sản sau này, đã diễn ra một cuộc cách mạng được chính những người phát động mô tả là “long trời lở đất”. Đó là cuộc cải cách ruộng đất.

Nói đúng ra thì năm 1956 chỉ là năm cuối của giai đoạn 5, tức cũng là giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu bẩy năm trước đó. Tuy nhiên, mốc thời gian này đáng nhớ thứ nhất vì cuộc cải cách ruộng đất đến năm đó đã đụng trần, với những án tử hình thi hành tại chỗ, những án tù dài hạn, mà hầu hết nạn nhân đều chết trong khi đang bị giam cầm, và một bầu không khí nặng nề, đe doạ đã lan rộng khắp nơi, khiến ngừơi dân phải chìm đắm trong nỗi e sợ mênh mông.

“Đào tận gốc, trốc tận rễ”

Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.

Con số này có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được vì nó được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành, và vì nó không nói gì đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thừơng thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, mà trước khi chết vẫn còn hô to khẩu hiệu, đảng Cộng sản muôn năm.

Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.

Nhà thơ Tố Hữu lúc bấy giờ là trưởng ban tuyên truyền trung ương đảng sau này nhớ lại đã phải nói: “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”

Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org

Lời dặn “nhân ái”

Trong “Nội san cải cách ruộng đất” số ra ngày 25 tháng hai năm 1956, có đăng toàn văn lời căn dặn của ông Hồ Chí Minh rằng: “Nhục hình là lối dã man” và “ tuyệt đối không được dùng nhục hình, nếu dùng nhục hình là trái chính sách của đảng, của chính phủ, trái tác phong của cách mạng.”

Căn cứ trên thời gian phát hành của báo, thì lời căn dặn “nhân ái” này được đưa ra bốn năm sau khi bắt đầu thực hiện thí điểm, và chỉ ba tháng trước khi cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt bằng đợt sửa sai. Khi đó, nhục hình đã phổ biến khắp nơi và sự sợ hãi đến mụ mẫm cả người đã bao trùm toàn lãnh thổ.

Cũng xin nhắc rằng ngay từ khi thực hiện thí điểm, địa chủ đã bị xác định là kẻ thù của nhân dân, như lời ông Nguyễn Minh Cần, nguyên phó chủ tịch thành phố Hà nội kể lại: "Trước đây, chúng ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, nhưng bây giờ thì không phải như vậy rồi. Bây giờ thì địa chủ không phải là nhân dân. Nhân dân chỉ là nhân dân thôi, còn địa chủ thì không phải, đó là những ngừơi chống lại nhân dân, là kẻ địch của nhân dân."

Không chỉ những nạn nhân đau đớn, mà gia đình họ cũng chịu hoạ lây vì bị xã hội cô lập theo chính sách của đảng. Không chỉ gia đình của những người bị kết tội địa chủ phải chịu nhục nhằn, mà những cảnh tượng diễn ra hàng ngày ở mọi nơi những năm đó vẫn còn in dấu cả mấy chục năm sau nơi những chứng nhân.

Ngay trong đề cương báo cáo của bộ chính trị đảng năm 1956 mỗi khi nói đến các cuộc thanh trừng thời cải cách ruộng đất cũng đều phải dùng hình dung từ “tàn khốc” để nói lên những gì xẩy ra hàng ngày, hàng giờ tại miền bắc trong suốt mấy năm trời cao điểm của Cải cách ruộng đất.

Nhà văn Dương Thu Hương trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái của Little Saigon Radio mới đây vẫn còn nhắc lại: "Đối với tôi, lý tưởng Cộng sản là một cái gì đó khủng khiếp và xa lạ. Vì ngay trứơc cổng nhà tôi là một người chết treo năm cải cách ruộng đất, và tám tuổi, tôi đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến những cụôc đấu đá địa chủ. Sau lưng nhà tôi, đừơng tàu, cũng là xác một ngừơi tự tử chết bằng cách tự đặt cổ mình vào đường ray. Khi tôi tám tuổi, buổi sáng tôi đi tưới rau, tôi đã thấy những ngừơi chết đó, và điều đó làm cho tôi vô cùng khủng khiếp."

Và nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng trong một cuộc phỏng vấn của ký giả Đinh Quang Anh Thái, khi nói lên lý do tại sao ông muốn từ bỏ chủ nghĩa Mác đã phát biểu: "Tôi nhận ra cái điều này cũng lâu rồi, mà nhận từ từ, bởi vì tôi đã đựơc chứng kiến cụôc cải cách ruộng đất ở ngoài miền Bắc mà gia đình tôi là nạn nhân. Tôi thấy nó rất là khủng khiếp. Tôi không hiểu cái chủ nghĩa gì mà nó chỉ có một biện pháp duy nhất là trấn áp ngừơi ta, mang người ta ra đấu tố và bắn bỏ ngừơi ta, mà không có xét xử công minh, cũng không có bằng cớ gì cả. Cuộc cải cách ruộng đất là một cuộc diệt chủng như là Pon Pot và Yeng Sari (đã làm bên xứ chùa Tháp) mà thời đó tôi đã chứng kiến.

Gia đình nhà tôi may mắn là ông nội tôi và các chú các cô, toàn bộ đã di cư vào nam. Bố tôi là con trưởng nên phải ở lại để giữ đất, cho nên không di cư đựơc, phải gánh chịu cái tai hoạ của ông nỗi cũng như các chú, một mình phải chịu trận, cho nên rất là khổ."

Còn nhà văn Vũ Thư Hiên mới đây, khi nói chuyện về cuộc cải cách ruộng đất với đài Á châu tự do, đã nhớ lại lời bà cô của ông dặn dò như sau: "Tôi có một bà cô ruột ấy, chồng bà cũng bị đấu, mà ông ấy là chủ nhiệm Việt Minh của một xã, mà lại có chân trong Liên Việt huyện, Liên Việt tức là Mặt Trận Tổ Quốc bây giờ. Ông ấy bị đấu, bị giam trong chuồng trâu chuồng bò, nói chung là khổ lắm, rồi ăn uống kém cỏi, đến lúc đựơc thả về nhà thì ông ấy chết, chết tại nhà. Bà cô tôi chỉ nói, cháu ạ, mình phải lựa bạn mà chơi. Cái bọn Cộng sản nó gian ác và bất nhân lắm đấy. Tôi nói, nhưng bố cháu là Cộng sản cơ mà! (Bà cô trả lời) Thì bố cháu không hiểu, bố cháu mới đi với bọn ấy."

Vết thương chưa lành

Cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt 50 năm trước đây quả nhiên vẫn còn là một vết thương chưa lành đối với quá nhiều con người dù có trực tiếp là chứng nhân hay không. Đáng tiếc là những sách báo viết về giai đoạn ấy quá ít, lại thường bị tịch thu ngay sau khi phát hành, và dù 50 năm đã qua đi, thì cải cách ruộng đất vẫn còn là một đề tài cấm kỵ, trong khi những chứng nhân cứ già đi và chết đi dần.

Đó là lý do khiến ban Việt ngữ đài Á châu tự do chúng tôi quyết định thực hiện một loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất để vẽ lại bức tranh thực xẩy ra của một thời mà không ai không xót xa khi nhớ lại.

Loạt bài sẽ bắt đầu với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng. Ông sẽ điểm lại tám đợt phát động quần chúng giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất kéo dài suốt bẩy năm kể từ năm 1949. Sau đó, là lời kể lại của ông Nguyễn Minh Cần là người từng trực tiếp tham gia đoàn cải cách ruộng đất cũng như công tác sửa sai.

Xen kẽ sẽ là lời kể của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từng chứng kiến từ đầu đến cuối một phiên xử của toà án nhân dân, của ông Trần Anh Kim có ông nội và bố đều là nạn nhân của Cải cách ruộng đất, lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên khi ông có dịp qua những nơi đã diễn ra cuộc cách mạng được gọi là “long trời lở đất” ấy, của nhạc sĩ Trịnh Hưng là người bạn chí cốt của nhà thơ Hữu Loan, tác giả màu tím hoa sim, vốn là người mà những biến chuyển của đời sống gắn liền với cuộc cải cách ruộng đất.

Trước khi bắt đầu vào loạt bài cải cách ruộng đất kể từ buổi phát thanh tới, ban Việt ngữ trân trọng cảm ơn các vị vừa nêu tên đã nhiệt thành cộng tác và giúp đỡ chúng tôi trong cố gắng lật lại bộ hồ sơ đầy oan khuất này.

Quý thính giả vừa nghe bài đầu tiên trong loạt chín bài về cuộc Cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước. Trong buổi phát thanh tới, nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng sẽ nói về các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất kéo dài từ năm 1949 đến 1956. Mong quý thính giả đón nghe.


Last edited by LDN on Tue Feb 15, 2022 1:56 pm; edited 4 times in total

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Fri Feb 04, 2022 1:17 am

Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (phần 2)

2006.05.16

Nguyễn An, phóng viên đài RFA

Bài 2: Phỏng vấn nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng (phần 1)

Hình bìa cuốn sách "Án tích Cộng Sản Việt Nam" của nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng

Mở đầu loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả cuộc phỏng vấn của BTV Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc Cải Cách Ruộng đất bắt đầu từ năm 1949 và chấm dứt vào năm 1956. Ông Trần Gia Phụng hiện đang sinh sống tại Canada.

Ông Trần Gia Phụng đã tốt nghiệp khoa sử địa đại học sư phạm Huế và cử nhân giáo khoa Sử đại học Văn khoa Huế năm 1965. Trong vòng 10 năm trở lại đây, ông đã xuất bản 14 đầu sách nghiên cứu về Sử, trong đó liên quan đến chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam có các cuốn, Án tích Cộng Sản Việt Nam xuất bản năm 2001 và Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh xuất bản năm 2003.

Nguyễn An: Trước hết, xin anh cho biết bối cảnh và mục đích của cuộc cải cách ruộng đất.

Ông Trần Gia Phụng: Muốn nói đến bối cảnh và mục đích của cuộc cải cách ruộng đất thì có lẽ chúng ta phải bắt đầu từ đầu. Tức là bắt đầu từ cuộc chiến tranh 46-54. Cuộc chiến tranh này có thể chia ra làm hai giai đoạn: từ 46-49 và từ 49-54.

Năm 1949 là năm cần phải chú ý, thưa anh, là vì năm này có hai sự kiện quan trọng. Sự kiện thứ nhất là chính phủ Bảo Đại ra đời sau hiệp định Élysée năm 1949. Thứ hai là nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập vào 1/10/1949. Khi chính phủ Bảo Đại được thành lập, nhiều người rời bỏ chiến khu để về thành thị sinh sống theo chính phủ Bảo Đại.

Ngoài hậu quả chính trị, thì việc trở về thành thị làm cho Việt Minh mất đi nguồn nhân lực, nhất là thiếu thanh thiếu niên để đưa vào bộ đội. Còn về phía Trung Hoa, khi mà Đảng CS lên cầm quyền ở Trung Hoa thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thì Trung Hoa viện trợ cho Việt Minh vũ khí và vừa cả nhân sự nữa. Cho nên Việt Minh chuyển từ du kích chiến qua vận động chiến mở những trận đánh lớn chống Pháp. Thành ra, năm 1949 mà mốc giới quan trọng trong chiến tranh Việt Nam.

Ngoài ra, nếu tính từ năm 1946 chiến tranh đã xảy ra cho đến năm 1949 (chiến tranh đã xảy ra 3 năm) thì dân chúng tản cư từ vùng này sang vùng khác, hoặc là bỏ vùng quê ra thành thị sinh sống nên có nhiều đất đai bỏ hoang, không canh tá. Vì vậy mà Việt Minh mở cuộc cải cách ruộng đất để giải quyết hai nhu cầu trên của họ.

Nguyễn An: Thưa, nhu cầu thứ nhất là thiếu người, và nhu cầu thứ hai là...

Ông Trần Gia Phụng: Lương thực cho bộ đội.

Nguyễn An: Thế như vậy cuộc cải cách ruộng đất như anh vừa nói thì có thể coi như bắt đầu từ năm 1949?

Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng!

Nguyễn An: Và nó kéo dài đến năm 1956, như vậy nó qua bao nhiêu giai đoạn?

Ông Trần Gia Phụng: Thưa anh, nó qua tất cả là 5 giai đoạn.

Nguyễn An: Thưa, là những giai đoạn nào?

Ông Trần Gia Phụng: 5 giai đoạn này bắt đầu là nó được đánh dấu bằng sắc lệnh cải cách ruộng đất. Thứ nhất là từ năm 1949, năm này để khuyến khích nông dân ra sức cày bừa thì nhà cầm quyền Việt Minh ra sắc lệnh để thành lập hội đồng giảm tô. Họ ấn định rằng các chủ đất phải giảm tối thiểu và đồng bộ tiền thuê đất (tô tức là tiền thuê đất) cho tá điền (tức là nông dân cày ruộng). Có nơi giảm đến 35% tiền thuê đất.

Sau đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Việt Minh gọi là Việt gian, tức là những người mà Việt Minh kết tội thông Pháp hoặc là những người không cộng tác với Việt Minh.

Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org

Nguyễn An: Thưa, giai đoạn này kéo dài bao lâu ạ?

Ông Trần Gia Phụng: Thưa, giai đoạn này cũng chỉ trong năm 1949 thôi! Bởi vì trong năm 1950 đã thay đổi. Sắc lệnh ngày 12 tháng 2 năm 1950 tổng động viên toàn bộ nguồn nhân lực (tức là người), vật lực (gia súc và nông cụ) và tài lực (tức là tiền bạc) cho tổ quốc.

Trong năm 1950 này, xuất hiện cùng một lúc 2 sắc lệnh, cùng một ngày nữa. Sắc lệnh thứ nhất là xoá bỏ tất cả các hợp đồng vay nợ giữa tá điền và điền chủ ký kết trước năm 1945 và xoá bỏ các hợp đồng ký sau năm 1945 nếu con nợ đã trả đủ 100%

Nguyễn An: Như vậy, cả lãi lẫn vốn đã trả rồi mà bằng cái số vốn vay ban đầu thì xoá luôn?

Ông Trần Gia Phụng: Dạ, xoá luôn! Cùng sắc lệnh thứ hai đó là quốc hữu hoá tất cả những đất đai bỏ hoang trong 5 năm liên tục, thì sẽ những đất đai này lấy và chia lại cho nông dân. Nhưng mà ngang đây, tức là năm 1950 thì nó có những sự kiện quan trọng mà cái quan trọng nhất là ông Hồ Chí Minh qua thăm Bắc Kinh tháng 1/1950 rồi qua thăm Mạc Tư Khoa.

Trong cuộc gặp gỡ tại Mạc Tư Khoa giữa ông Hồ và Stalin, thì Stalin thúc bách ông Hồ thực hiện 2 việc: việc thứ nhất là ông Hồ phải tái công khai Đảng CS, và việc thứ hai là ông Hồ phải đẩy mạnh cuộc cải cách ruộng đất theo đường lối CS. Để chuẩn bị cho việc cải cách ruộng đất thì ông Hồ mở phong trào chỉnh huấn theo đường lối của CS Trung Hoa

Nguyễn An: Và sau chuyến đi của ông Hồ thì bắt đầu cho giai đoạn 3 chăng?

Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng! Thì sau đó chuẩn bị bắt đầu cho giai đoạn 3. Trước giai đoạn 3, ông Hồ đã cử phái đoàn sang Trung Họa để học khoá học về chủ nghĩa Mac-LeNin ở Bắc Kinh. Nhưng thật sự ra đó là học về phương thức cải cách ruộng đất theo đường lối của Trung Cộng. Và phái đoàn này trở về thì đượcĐảng CS tổ chức gởi thí điểm tất cả các nơi ở Bắc và Bắc Trung Việt; còn ở trong Nam cũng có nhưng mà ở những miền sâu, còn những miền bán Bình Nguyên là những miền đồng bằng gần với các tỉnh thì ít thấy xuất hiện.

Nguyễn An: Thưa, như vậy thì giai đoạn 3 kéo dài bao lâu và đặc điểm của nó là gì?

Ông Trần Gia Phụng: Nó bắt đầu bằng sắc lệnh ngày 20 tháng 4 năm1953 đăng trên công báo của Việt Minh. Đặc điểm của nó là ngoài luật lệ thêm vào thì luật mới là quyết định tịch thu tất cả tài sản của đế quốc Pháp, của Việt gian, của địa chủ ác ôn. Và nó có một đặc điểm nữa đó là giai đoạn 3 này bắt đầu thành lập uỷ ban Nông Nghiệp các cấp.

Ủy ban Nông Nghiệp trung ương do thủ tướng đứng đầu, và ở các thành phố đến cấp xã cũng có uỷ ban Nông Nghiêp Và bắt đầu thấy xuất hiện những cuộc đấu tố. Nhưng mà khi đó bắt đầu sửa soạn hội nghị Geneva, cho nên Việt Minh nhẹ tay để tránh làm xôn xao dư luận.

Thế còn qua giai đoạn 4 là nó bắt đầu quy định toà án nhân dân để xét xử những thành phần chống lại cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng mà giai đoạn 4 mới tiến hành thì xảy ra hiệp định Geneva. Tuy có toà án nhân dân nhưng chưa xảy ra vụ đấu tố rùng rợn như sau năm 1954.

Quý thính giả vừa nghe phần đầu cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây. Trong chương trình phát thanh tới, cuộc trao đổi sẽ tập trung vào giai đoạn 5, cũng là giai đoạn cuối, đầy máu và nước mắt của cuộc Cải cách ruộng đất. Mong quý thính giả đón nghe.


Last edited by LDN on Sat Feb 05, 2022 4:50 am; edited 2 times in total

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Fri Feb 04, 2022 1:24 am

Giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất (phần 3)

2006.05.17

Nguyễn An, phóng viên đài RFA

Bài 3: Phỏng vấn nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng (phần 2)

Hìnhbìa cuốn sách "Án tích Cộng Sản Việt Nam" của nhà nghiên cứu sử Trần Gia PhụngPhụng

Kỳ trước, chúng tôi đã gửi đến quý thính giả phần đầu cuộc phỏng vấn của biên tập viên Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc Cải Cách Ruộng đất bắt đầu từ năm 1949. Nay xin gửi đến quý vị phần thứ hai của cuộc phỏng vấn, nói về giai đoạn 5 và cũng là giai đoạn cuối đầy máu và nước mắt của cuộc cải cách ruộng đất.

Ông Trần Gia Phụng hiện đang sinh sống tại Canada. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Huế khoa Sử địa và cử nhân giáo khoa Sử đại học Văn Khoa Huế năm 1965. Trong vòng 10 năm trở lại đây, ông đã xuất bản 14 đầu sách nghiên cứu về Sử, trong đó liên quan đến chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam có các cuốn, Án tích Cộng Sản Việt Nam xuất bản năm 2001 và Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh xuất bản năm 2003.

Ông Trần Gia Phụng: Ngày 14 tháng 6 năm 1955, ông Hồ Chí Minh mới ký sắc luật về cải cách ruộng đất đợt 5, sắc luật ngày 14 tháng 6 năm 1955, tuy dựa trên căn bản của hai sắc lệnh năm 1953, nhưng mà họ còn có những hành động gắt gao hơn là thành lập cái ủy ban cải cách ruộng đất từ trung ương do Trường Chinh cầm đầu, rồi ở mỗi địa phương họ thành lập những đội cải cách ruộng đất, rồi họ thành lập tòa án nhân dân, thì cái giai đoạn này chính là thảm họa của nông dân Bắc Việt.

Tòa án nhân dân là cái công cụ để thanh lọc hàng ngũ nông thôn, truy xét tận gốc rễ lý lịch của tất cả cái thành phần nông thôn, và đồng thời tòa án nhân dân cũng là cái công cụ để tiêu diệt tất cả những thành phần lãnh đạo xã hội cũ.

Nguyễn An: Tất cả những thảm kịch đó xảy ra là trong đợt 5, thưa anh tại sao cuộc cải cách ruộng đất lại dừng lại năm 1956? Có phải là vì họ đã đạt dược mục đích không hay là bởi có quá nhiều lời kêu ca, có quá nhiều trường hợp oan ức cho nên họ phải dừng lại?

Ông Trần Gia Phụng: Đây là một câu hỏi lý thú, lý thú là vì cái chỗ này này: Đứng trên quyền lợi dân tộc, đứng trên lập trường của đại đa số quần chúng Việt Nam, nghĩa là đứng trên lập trường của một người Việt Nam thì rõ ràng ai cũng thấy là CSVN sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhưng đứng trên quyền lợi của đảng CSVN, của thiểu số chóp bu trong đảng, họ không sai lầm. Đứng về phương diện chuyên môn nông nghiệp, cuộc cải cách ruộng đất không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển, không thăng tiến được đời sống nông dân mà còn làm tan nát nền nông nghiệp cổ truyền ở ngoài Bắc và đưa mọi người vào cảnh nghèo đói.

Tuy nhiên, đứng trên quan điểm của đảng CS thì họ đã thành công trong cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh và đảng CS phải chấm dứt cái đợt cải cách ruộng đất năm 1956 vì hai lẽ. Lẽ thứ nhất là vấn đề nội bộ Bắc Việt là cuộc cải cách ruộng đất đã đạt được những mục tiêu chính trị của họ. Cái mục tiêu chính trị của họ là gì?

Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ cái cái giới hào mục lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó là lớp lãnh đạo mới là những đảng viên CS, cái mục tiêu chính trị nữa là họ chận đứng sự trà trộn của những điệp viên địch thủ trong dân chúng, họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn, họ thay thế bằng cái chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác xít.

Ngoài ra, cái liều lượng khủng bố của CS đối với nông dân trong cuộc cải cách ruộng đất đợt 5 đủ để khuất phục nông dân, đủ để làm cho nông dân khiếp sợ, làm cho họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, sống luôn luôn trong sự sợ hãi tột cùng và ghép họ vào trong khuôn phép CS, ổn định một cách kiên cố hạ tầng cơ sở xã hội nông thôn miền Bắc. Nhưng nếu làm quá đi, đẩy họ đến cùng thì nông dân họ sẽ nổi dậy như vụ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An tức là quê hương của ông Hồ Chí Minh năm 1956 và ông Hồ Chí Minh phải điều động cả một sư đoàn tới đó mới dẹp yên.

CSVN đã đạt được cái mục đích là tiêu diệt cũng như là xóa sạch những cái thành phần “phản động” ở nông thôn, đưa nông dân vào hợp tác xã do nhà nước quản lý, lấy lại cái đất đai mà lâu nay đã cấp cho nông dân hoàn toàn làm chủ cái phương tiện sản xuất nông nghiệp, quản lý cái kho lúa gạo trên toàn miền Bắc, áp đặt và củng cố vững vàng cái chính sách chỉ huy nông nghiệp, thì ông Hồ Chí Minh và đảng của ông ta, đảng CS lúc đó có cái tên là đảng Lao Động ngưng cuộc cải cách ruộng đất để quay qua ổn định tình hình ở thành phố. Tôi nói như vậy đó là đứng trên phương diện nội bộ Bắc Việt.

Nguyễn An: : Anh vừa dùng chữ nội bộ Bắc Việt, như vậy thì yếu tố thứ hai chắc phải là từ bên ngoài vào?

Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng, thứ hai là trên bình diện quốc tế, cái này mình phải chú ý, bởi vì phải đặt cái tình hình Việt Nam trong toàn bộ cái tình hình CS và toàn bộ tình hình thế giới. Trên cái tình hình quốc tế thì lúc đó ở tại Nga, nhà độc tài Stalin chết năm 1953, thì trong cuộc tranh giành quyền lực đấu đá với nhau, ông Khrushốp trồi lên và nắm được chính quyền, nắm được đảng CS và trong đại hội lần thứ 20 của đảng CS Liên Sô năm 1956 tại Moscow thì Khrushốp đã đọc một bài diễn văn nảy lửa kể hết tội lỗi độc tài, tàn ác, tôn sùng cá nhân của Stalin, cái bài diễn văn này làm cho cả thế giới kinh ngạc và ông Khrushốp hứa hẹn sẽ mềm dẻo hơn, sẽ sống chung hòa bình với các nước không đồng chế độ chính trị và ông hứa hẹn sẽ dân chủ hóa Liên Sô.

Sau khi vững vàng rồi, Khrushốp mới gởi đại diện đi các nước cộng sản, và riêng CSVN thì ông Mikoyan đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1956, ông giải thích chính sách mới của đại hội đảng 20 của Liên Sô và vì vậy mà CSVN không thể đi ngược lại đường lối mới của Liên Sô, cho nên nhân cái cuộc tổng kết cải cách ruộng đất đợt 5 vào tháng 7 năm 1956, ông Hồ vì những cái lý do trong nước và ngoài nước thì ông Hồ cho ngưng cái cuộc cải cách ruộng đất và bắt đầu chương trình sửa sai và ông đổ trách nhiệm cho những người thừa hành mà người gần ông nhất là ông Trường Chinh, nên ông cách chức ông Trường Chinh, cất chức nhưng sau rồi ông Trường Chinh cũng ra lại và rồi cất chức những nhân vật khác như là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng và các nhân vật này sau cũng được trọng dụng trở lại hết, rồi bồi thường thiệt hại và xét lại một cách tượng trưng cho vài trường hợp quá đáng mà thôi

Quý thính giả đã nghe cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An của ban Việt ngữ và nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây.

Trong chương trình phát thanh tới, BTV Nguyễn An sẽ trao đổi với ông Nguyễn Minh Cần về các diễn tiến của cuộc cải cách ruộng đất từ khi chuẩn bị cho đến khi kết thúc bằng nhận lỗi và sửa sai. Ông Nguyễn Minh Cần nguyên là một cán bộ cấp cao của chế độ, và đã tham gia từng bước của cuộc cải cách ruộng đất. Mong quý thính giả đón nghe.


Last edited by LDN on Sat Feb 12, 2022 2:44 pm; edited 1 time in total

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Fri Feb 04, 2022 1:29 am

Phần 4: Đảng và Nhà nước đã chuẩn bị thế nào cho cải cách ruộng đất?

Phần này xin gửi đến quý vị cuộc phỏng vấn với ông Nguyễn Minh Cần về sự chuẩn bị của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam trước khi bắt đầu cuộc Cải cách ruộng đất. Cuối giai đoạn chuẩn bị là thí điểm với vụ án bà Cát Thanh Long từng gây xôn xao dư luận một thời.

Nguyễn An, phóng viên RFA
2008.02.07

Ông Nguyễn Minh Cần trong giai đoạn ấy là một cán bộ trung cấp. Ông từng là bí thư quận uỷ ngoại thành Hà nội trước khi ra công khai, trở thành phó chủ tịch uỷ ban hành chính Hà nội vào năm 1954. Ông thấu hiểu từng bước của cụôc cải cách ruộng đất và đã trực tiếp làm công tác sửa sai sau đó tại ngoại thành Hà nội. Hiện ông Cần sinh sống tại Matxcơva.

Mời quý thính giả theo dõi cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị mọi mặt của đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam cho cuộc cải cách ruộng đất, khi đó đựơc gọi là một cuộc cách mạng long trời lở đất.

Nguyễn An: Kính chào ông Nguyễn Minh Cần, ông có thể cho biết là ông HCM và đảng CS đã chuẩn bị cho cuộc cải cách ruộng đất như thế nào?

Nguyễn Minh Cần: Trong năm 1951 và 1952 ông HCM đã cùng với Thường vụ trung ương đảng, bây giờ ta gọi là Bộ chính trị, lúc bấy giờ gọi là Thường vụ trung ương đảng, họ chuẩn bị về mọi mặt. Chuẩn bị quan trọng đầu tiên là chuẩn bị về mặt tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên, quân đội thông suốt về tư tưởng.

Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân - kẻ địch của nhân dân.

Điểm đó là điểm mà xoay chiều tư tưởng rất lớn ở trong cán bộ. Lúc bấy giờ cũng có nhiều cán bộ thắc mắc, đại thể tôi muốn nói một kinh nghiệm, khía cạnh như vậy để thấy rằng lúc đầu tư tưởng của cán bộ cũng không phải nhất trí trong vấn đề đánh địa chủ đâu, mà có những thắc mắc như vậy. Thế nhưng mà những cuộc chỉnh huấn có nhiệm vụ làm thế nào để dẹp hết tất cả những tư tưởng thắc mắc đó để tạo một sự nhất trí bắt buộc ở trong đảng, ở trong quân đội và ở trong các đoàn thể. Trong giới trí thức cũng có những cuộc chỉnh huấn.

Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân - kẻ địch của nhân dân.

Việc thứ hai, chuẩn bị mặt tổ chức thì tôi muốn nói rõ thêm là về mặt tổ chức lúc bấy giờ theo sự phân công giữa Mao Trạch Động và ông HCM thì Stalin có nói rằng Trung Quốc ở gần Việt Nam và đã từng có kinh nghiệm cải cách ruộng đất rồi, thế thì Trung Quốc sẽ giúp cho Việt Nam làm việc đó.

Vì vậy cho nên Việt Nam mời các cố vấn sang. Tổng cố vấn lúc bấy giờ là Lã Quý Ba, ông ta đồng thời là đại sứ của Bắc Kinh, đại sứ mà lại đồng thời là tổng cố vấn. Tổng cố vấn về quân đội là Vi Quốc Hân?, tổng vấn về cải cách ruộng đất là Triểu Hiểu Quang. Ông này là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây, là tỉnh cũng đã làm cải cách ruộng đất.

Như vậy là trùm lên trên về mặt tổ chức là hệ thống cố vấn. Đồng thời về mặt tổ chức thì thành lập cái gọi là Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương, dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất. Mỗi đoàn cải cách ruộng đất thì có một đoàn ủy lãnh đạo. Dưới các đoàn là các đội cải cách ruộng đất.

Nguyễn An: Xin ông nói rõ thêm về đội cải cách ruộng đất, là những người trực tiếp thực hiện và dân chúng còn mô tả là có quyền hành hơn cả Trời. Nhất đội nhì Trời kia mà.

Nguyễn Minh Cần: Mỗi đội cải cách ruộng đất, theo xã to hay nhỏ gồm khoảng 30 hoặc 40 người. Phần nhiều là những người ở các địa phương khác, tức là họ giữ một nguyên tắc là không để cho người địa phương nơi nào phải đi làm cải cách ruộng đất ở nơi ấy. Vì họ sợ như vậy sẽ tạo điều kiện bao che cho tổ chức cũ, bao che cho địa chủ quen biết v.v... Đấy là một nguyên tắc.

Như vậy là cả một đạo quân để đi làm cải cách ruộng đất. Bây giờ để chuẩn bị một bước thứ ba nữa tức là chuẩn bị mặt chính sách. Năm 1952, Bộ chính trị tổ chức làm thí điểm cải cách ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, là một tình căn cứ của Việt Minh thời kỳ bấy giờ.

Trong lần thí nghiệm này có một sự kiện động trời, tức là tòa án cải cách ruộng đất tử hình bà Nguyễn Thị Năm (còn có tên gọi khác là bà Cát Thanh Long).

Nguyễn An: Thưa ông, vụ án này nổi tiếng lắm, ông vui lòng kể thêm một số chi tiết về vụ án này.

Nguyễn Minh Cần: Bà là một người mà thời kỳ trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông lớn nhất của đảng CS lúc bấy giờ là ông Trường Chinh, ông Hoàng Quốc Việt, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, ông Lê Thanh Nghị và ông Lê Giảng.

Còn trong thời kỳ "Tuần lễ vàng", là sau khi đã có chính phủ Việt Nam DCCH rồi thì gia đình bà đã dâng nộp100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà lại hoạt động trong hội phụ nữ, lại có con trai làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà lại bị quy là địa chủ, cường hào gian ác và bị đoàn cải cách ruộng đất xử án tử hình.

Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương do Trường Chinh cầm đầu đã duyệt và thường vụ trung ương, tức là bộ chính trị cũng đã chuẩn y và tất nhiên cả ông Hồ Chí Minh lúc bấy giờ cũng biết sự kiện đó chớ không phải không. Nhưng họ lại lạnh lùng chuẩn y một án tử hình như vậy.

Phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước, đã từng giúp đỡ cho những người CS! Phát súng đó đã nói rằng nó nói lên nhiều về tâm địa của những lãnh tụ CS, nó báo hiệu trước một tai họa khôn lường cho toàn dân ở miền Bắc lúc bấy giờ.

Nguyễn An: Xin được hỏi thêm ông về vụ xử tử bà Cát Thanh Long. Về sau mỗi khi tòa án tuyên án tử hình thì án được thi hành liền. Thế tại sao án tử hình của bà Cát Thanh Long lại còn phải đưa lên trên để xin ý kiến.

Nguyễn Minh Cần: Vì đây là thí điểm đầu tiên, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho nên có sự thận trọng. Về sau này thì lại khác, tức là quyết định của tòa án là bắn luôn.

Từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4/12/1953 thì kỳ họp thứ 3 của quốc hội khóa I, tại đó chủ tịch HCM đọc báo cáo "tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất". Đến ngày 4/12 thì quốc hội nhất trí thông qua luật cải cách ruộng đất và chủ tịch HCM đã ký sắc lệnh ban hành luật. Từ đó bắt đầu các đợt cải cách ruộng đất.

Lúc đầu, mỗi đợt cải cách ruộng đất thì ở một vùng, số lượng xã ít hơn, nhưng dần dần thì mở rộng ra. Đến năm 1956, tức là đợt 5 là đợt cuối cùng, diễn ra ở hầu hết các đồng bằng Bắc bộ và các vùng trước đây bị Pháp chiếm đóng. Quý thính giả vừa nghe phần đầu cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An của ban Việt ngữ và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam cho cụôc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Fri Feb 04, 2022 1:34 am

Bà Cát Thành Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ Chí Minh


Nguyễn Quang Duy
 
Cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ) tại miền Bắc Việt Nam là sự kiện có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Sự kiện này đã dẫn đến việc tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động phải ra các quyết định sau: ngưng chức Tổng Bí thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị và loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Sau nhiều năm bị che đậy, các tài liệu, các bài viết, các hồi ký, các tác phẩm văn học... được phổ biến trong thời gian gần đây giúp chúng ta biết thêm sự thật về cuộc cải cách ruộng đất này.

Tuy vậy trong năm mười năm qua vai trò của Hồ Chí Minh trong CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có thật ông chỉ theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông? Có thật ông chỉ là thiểu số không đủ quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc? Có phải ông chỉ muốn tiến hành giảm tô? Có phải ông đã khóc khi biết được các tội ác do CCRĐ gây ra?… Các câu hỏi này càng lúc lại càng trở nên cấp thiết khi Đảng Cộng sản (ĐCS) không ngừng tạo những huyền thoại về Hồ Chí Minh. Vừa rồi Bộ Chính trị lại ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW "yêu cầu toàn dân học tập để nhận thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của lý tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Những công việc này chỉ làm xa dần con người thực của ông.

Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lãnh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 8/2/1928, ông viết: "Tôi tranh thủ thời gian viết 'những ký ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những ký ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân uỷ nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân cách mạng." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "... đồng chí Bành Bái ở Trung Quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, trang 357).

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược 2 của ĐCS ghi rõ: "Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, trang 297). Chương trình hành động thì hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, trang 299). Các văn kiện thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra.

Ít tháng sau, ĐCS đã lãnh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến. Cuộc nổi dậy đã bị Pháp đàn áp dã man. Từ đó, chia rẽ giữa các các tầng lớp nông dân ngày một trầm trọng hơn.

Năm 1945, khi nắm được chính quyền, một mặt Hồ Chí Minh và ĐCS phải lo đối đầu với Pháp, mặt khác vì đa số các đảng viên và cán bộ đều xuất thân từ các gia đình địa chủ hay phú nông, việc phát động cách mạng thổ địa đã không thể tiến hành ngay. Mãi đến năm 1949, khi ĐCS Trung Hoa đã chiếm xong lục địa, cửa hậu cần mới được khai thông. Việt Minh nhận được những viện trợ dồi dào từ Quốc tế Cộng sản, nhất là từ ĐCS Trung Hoa. Chiến trường Việt Nam ngày một thuận lợi hơn cho lực lượng Việt Minh. Khi ấy Hồ Chí Minh và ĐCS mới nghĩ đến việc tiến hành CCRĐ, mở đầu bằng việc giảm tô cho nông dân. Ngày 14/7/1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 78 SL quy định chủ đất phải giảm địa tô 25 phần trăm so với mức trước năm 1945.

Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.

Ngay sau đó, ngày 5/2/1953, tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, Hồ Chí Minh đã vấn an các đảng viên và cán bộ tham dự như sau: "Địa chủ cũng có đôi người làm cách mạng, nước ta như các nước khác, ta cũng có vài đồng chí, đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền của giúp cho Đảng hết, cam tâm chịu tù đày. Họ tuy là người trong giai cấp địa chủ nhưng lập trường và tư tưởng đã đứng về phe vô sản, là người của giai cấp công nhân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, trang 357).

Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.

Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành CCRĐ.

Trong báo cáo trước Quốc hội khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu "Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, trang 509). Ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện Sài Gòn Chợ Lớn, giải thích "phóng tay" nghiã là "cứ việc làm mạnh thả cửa" (Nguyễn Văn Trấn, trang 266). Ông Nguyễn Minh Cần giải thích "là làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ". Ông còn cho biết: "Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được". Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng "Trời ơi! Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh." (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).

Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, trang 509). Chính chỉ tiêu này đã: "... giết chết bao nhiêu vạn sinh linh".

Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long (xem Nguyễn Minh Cần). Bà là người đã che giấu và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian ĐCS còn hoạt động bí mật. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.

Trong Hồi ký Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là: (1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố; (2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố; (3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là "... bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam". Ông viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!"

Trong hồi ký Những kỷ niệm về Bác Hồ, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: 'Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.' Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: 'Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.' Và họ cứ thế làm".

Trong hồi ký Mặt thật, nguyên Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, nhà báo Thành Tín (Bùi Tín) đã kể rằng theo lập luận của đội CCRĐ thì "Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào." Thành Tín cũng viết "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: 'Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.' Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này". Thành Tín viết tiếp: "Thế nhưng không có gì động theo hướng đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ đã quá chậm. Các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi".

Qua Thành Tín ta cũng biết được suy nghĩ của Hoàng Quốc Việt: "Đến Bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ... ‘Họ’ là các ông con trời đặc phái viên của Mao". Thành Tín nhận xét: "Trước hết Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là chủ tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm. Ông không can thiệp thì ai có thể can thiệp? Ông để mặc cho nước ông bị một số kẻ nước ngoài (cố vấn Tàu) lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế ông đã từ nhiệm vị trí trách nhiệm của mình".

Trong hồi ký Giọt nước trong biển cả, ông Hoàng Văn Hoan đã cho rằng Ủy ban CCRĐ "... tự cho phép các đội CCRĐ được bắn vào địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế của nông dân." Ông nêu ra điều 36 của luật CCRĐ quy định: "Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác". Ông cũng đã viết: "Tham dự xong Hội nghị Trung ương về CCRĐ, tôi lại trở ra Bắc Kinh. Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc hay không? Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở Việt Nam phạm sai lầm, như coi thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào thành phần phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là những nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công với cách mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc".

Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch Hà Nội, đã hết sức ưu tư về việc "những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!".

Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một cách dứt khoát: "Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người bào chữa cho ông là một chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không phải là chỉ cứu được bà Nguyễn Thị Năm, nó còn cứu hằng ngàn người bị giết oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đã muộn" .

Vũ Thư Hiên còn cho biết ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên thư ký riêng của Hồ Chí Minh, đã nói thẳng với ông Hồ: "Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác vẫn còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào đồng chí". Cũng qua Vũ Thư Hiên ta biết được ông Vũ Đình Huỳnh đã "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ".

Điểm qua những hồi ký, suy nghĩ, ưu tư kể trên, ta thấy được vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, vào sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải được làm sáng tỏ.

Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài "Địa chủ ác ghê". Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín cho biết, "các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể cùng suy ngẫm.

Địa chủ ác ghê

Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:

Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:

Giết chết 14 nông dân.
Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.

Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.

Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào!

Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:

Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.

Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:

Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!

(21-7-1953)

Vì bài báo gọi bà Nguyễn Thị Năm là Cát-hanh-Long nên người viết theo đó mà gọi. Có người còn gọi bà là bà Cát Thanh Long hay bà Cát Thành Long, không biết danh hiệu nào là đúng?

Nhà báo Thành tín cũng viết: "Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến". Nhóm từ "mấy tên lâu la" được dùng trong bài báo nêu trên có lẽ để kết tội các nông dân hiền hoà, chất phác đã không chịu đấu tố bà Năm và hai người con của bà.

Báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, bài báo phải được duyệt xét kỹ của Trung ương Đảng trước khi cho phổ biến. Khi đọc bài báo này, người viết cảm nhận một điều là bố cục, hình thức và văn phong của bài viết rất tương tự với bản "Tuyên ngôn Độc lập" do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, phần lên án thực dân Pháp.

Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rõ têntác giả các bài viết trong đó là C.B. - đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6 (từ 1-1951 đến 7-1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đã đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ Chí Minh ký tên là C.B.

Không thấy bài viết này được nhắc đến trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. Tuy nhiên trong Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 5 trang 418 ghi rõ: "Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Địa chủ phản động ác ghê, ký bút danh Đ. X. đăng trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2/11/1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã cấu kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại chính sách ruộng đất của Chính phủ. Chúng là bọn ‘mặt người dạ thú’ và tội ác của chúng là ‘tuyệt vô nhân đạo’." Có thể bài viết của ông Hồ trên báo Nhân Dân đã được đăng lại trên báo Cứu Quốc.

Khi đọc bản thảo bài viết này, ông Nguyễn Minh Cần nhớ lại năm 1953 ông đã được đọc bài "Địa chủ ác ghê" từ nội san Cải cách ruộng đất được phổ biến trong nội bộ Đảng Lao động và các cán bộ CCRĐ.

Ông Hoàng Văn Chí có viết trong khoá chỉnh huấn trung ương nhằm đả thông tư tưởng đảng viên và cán bộ làm công tác CCRĐ, Hồ Chí Minh đã ví von: "đế quốc là con hổ mà địa chủ là bụi rậm để cho hổ núp. Vì vậy muốn đuổi hổ phải phá cho kỳ hết bụi rậm." (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Chương 12, trang 90).

Khác với các vụ xử tử trong CCRĐ sau này, Hoàng Tùng xác nhận Bộ Chính trị đã họp và quyết định về vụ xử bắn bà Năm. Ông Nguyễn Minh Cần nói rõ hơn: "bà đã bị quy là địa chủ cường hà ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban CCRĐ Trung ương duyệt y và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chuẩn y". Theo người viết, ít nhất có 7 lý do để bà Năm được chọn làm thí điểm đầu tiên cho cuộc phóng tay phát động quần chúng CCRĐ:

Thứ nhất, phương châm chính trong CCRĐ là "thà giết lầm 10 người vô tội, còn hơn để thoát một kẻ thù". CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa bần cố nông và địa chủ (nông dân có ruộng). Do đó địa chủ không thể được lọt lưới, được bỏ sót. Bà Năm lại có đến 2,789 mẫu đất (Thanh Cần, trang 3), là một đại địa chủ.

Thứ nhì, phát súng đầu tiên bắn vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ phong kiến là phụ nữ hay đàn ông, già hay trẻ...

Thứ ba, như Hồ Chí Minh thường tuyên bố "toàn dân kháng chiến", địa chủ đã chấp nhận ở lại vùng kháng chiến, đương nhiên là chấp nhận theo, đóng góp, tham gia kháng chiến. Xử bắn bà, và những địa chủ trong vùng kháng chiến, là để phủ nhận công lao đóng góp của thành phần này. Nay đã có Quốc tế Cộng sản, có giai cấp công nông, khẩu hiệu "toàn dân kháng chiến" không còn cần thiết nữa.

Thứ tư, bắn bà Năm là dấu hiệu cho phép trừng phạt tất cả những người có ruộng đất, có tài sản, có ảnh hưởng kinh tế chính trị trong và ngoài Đảng Lao động Việt Nam. Theo ông Đoàn Duy Thành, bà Năm là địa chủ đã hiến ruộng cho chính quyền kháng chiến.

Thứ năm, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của bà, và của các địa chủ khác, cần phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ chuyên chế toàn trị.

Thứ sáu, xử bắn bà Năm, và giai cấp địa chủ, là nhằm sách động nông dân thực thi sách lược "chia để trị".

Thứ bẩy, xử bắn bà Năm và tiêu diệt giai cấp địa chủ là nhằm nâng cao quyền lực của Hồ Chí Minh và ĐCS. Nguyễn Văn Trấn đã viết: "Các đoàn CCRĐ đã rút kinh nghiệm về cách đem phạm nhân đi bắn, và đã cho lệnh bắn sau lưng kẻ thọ hình. Vì kinh nghiệm cho thấy, đem trói nó vào nọc trụ để bắn thì nó sẽ la to Hồ Chí Minh muôn năm, Đảng Lao động muôn năm" (Nguyễn Văn Trấn, trang 270). Vũ Thư Hiên cũng nhắc đến việc có người đã tự tử để lại bức thư tuyệt mệnh: "Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ với Đảng. Tôi không phản bội, Hồ Chí Minh muôn năm!" (Vũ Thư Hiên, chương 1).

Chính vì những lý do trên mà Hồ Chí Minh mới đích thân viết bài trên báo Nhân Dân đấu tố bà Năm.

Trong một lá thư, đề ngày 18/8/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp: "Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đã xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc "kẻ địch phá hoại điên cuồng" đã được ông giải thích như sau: "Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).

Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 6/1/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố: "Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đã phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân thì Đảng đã cương quyết phát động quần chúng cải cách ruộng đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596).

Hồ Chí Minh đã hiểu rõ nguyện vọng của dân tộc là độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc, người cày có ruộng... Trong điều 12, Hiến pháp 1946, còn được gọi là “Hiến pháp Cụ Hồ” vì ông là trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, đã xác định: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm". CCRĐ chẳng những vi hiến, nó còn là một tội ác với số nạn nhân chưa thể hay không bao giờ có thể tính được. Hồ Chí Minh đã lợi dụng các khao khát, các ước vọng của người dân để xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam.

CCRĐ không phải chỉ tàn sát những thường dân vô tội. Nó còn phá hoại những truyền thống tốt đẹp, phá hoại đạo lý luân thường, phá hoại tâm linh văn hoá của dân tộc Việt Nam (xin xem Nguyễn Minh Cần). Quả lời ông Vũ Đình Huỳnh "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ" là hoàn toàn chính xác.

Bài viết này mong làm sáng tỏ, làm minh bạch một phần của quá khứ, không phải để gợi lại hận thù, mà để xây dựng con đường đi tới tránh xa những tội ác mà người đi trước như Hồ Chí Minh đã mắc phải.

Nguyễn Quang Duy gửi 02.07.2010

Nguồn: www.x-cafevn.org/node/596

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Fri Feb 04, 2022 1:44 am

Cải cách Ruộng đất: Số người bị giết ở VN ít hơn bên Trung Quốc nhưng 'di chứng lâu hơn'

3 tháng 2 2022 - BBC

Tháng 9/2014 có cuộc triển lãm về Cải cách Ruộng đất tại Hà Nội nhưng bị đóng cửa sau vài hôm "do sự cố mất điện".

Cho đến ngày hôm qua, Việt Nam vẫn chưa làm một tổng kết cụ thể, công khai về con số nạn nhân của Cải cách Ruộng đất mà thời gian diễn ra từ 1948 hoặc từ 1953 đến 1955, tùy theo tài liệu.

Bernard Fall, tác giả viết về Bắc Việt Nam, nêu ước tính 50 nghìn người ở miền Bắc VN trong giai đoạn 1953-55 bị quy là 'địa chủ' và xử tử. Theo ông, con số bị tống vào các trại cải tạo phải "ít nhất là gấp đôi như thế".

Hoàng Văn Chí trong sách của mình về miền Bắc VN thời VNDCCH cho rằng "chừng 5% dân số miền Bắc, tức vào khoảng nửa triệu người" bị chế độ mới giết.

Nhà báo Gareth Porter lại nêu con số ít hơn nhiều: 800-2500 vụ xử tử trong Cải cách Ruộng đất.

Sử gia Edwin Moïse nêu con số cao hơn nhưng cho là từ 5000 tới 15.000.

Nhà nghiên cứu Mông Cổ, Balazs Szalontai khai thác các tài liệu Hungary, Đông Âu và Liên Xô cũ về Bắc VN, viết trong bài "Political and Economic Crisis in North Vietnam, 1955 -56" (Cold War History, 2005), thì nêu ra con số trong phần so sánh nạn nhân Cải cách Ruộng đất ở Bắc VN và Cải cách Thổ địa ở Trung Quốc.

Theo ông Szalontai, số liệu thu thập được tại Bắc VN cho thấy các con số sau: 1.337 vụ xử tử, 23.748 người bị xử tù.

Phạm vi của 'khủng bố' rất rộng

Tuy số bị xử tử không cao bằng chiến tranh, nhưng "tầm vóc của khủng bố" (scope of terror) mà Đảng Lao động Việt Nam tung ra, thì bao trùm toàn xã hội, theo tác giả Mông Cổ.

Quá trình này diễn ra liên tục, nhắm vào người dân, đảng viên đem lại qua các đợt Chỉnh huấn, chỉnh quân, Giảm tô, Cải cách Ruộng đất, thanh trừng văn nghệ sĩ, bộ máy đảng

Chỉ trong đợt Giảm tô: 7,7 triệu người dân và hàng trăm nghìn gia đình buộc phải tham gia và chịu hệ lụy.

Trong Cải cách Ruộng đất đợt chính thức: 4 triệu người ở 1.594 xã, tính đến tháng 12/1955 chịu tác động.

Trong số này 18.738 bị quy kết là "cường hào ác bá giả danh trung nông".

Chính quyền tổ chức 3.312 vụ đấu tố, dẫn tới 162 vụ tử hình tại chỗ.

Các vùng duyên hải gần biên giới Trung Quốc (Quảng Ninh ngày nay) có nhiều khối dân cư gốc Hoa không chịu theo chế độ mới. Một số nhóm sắc tộc thiểu số, tôn giáo cũng có thái độ bất hợp tác.

Cải cách Ruộng đất vì thế còn có mục tiêu "thanh lọc và tổ chức lại xã hội" nhằm buộc toàn dân tuân thủ theo một ý thức hệ mới.

Ngoài các vụ bị giết là nhiều trường hợp người ta tự tử, và không khí đen tối chung cũng làm nhiều người hoảng loạn.

Nhà địa chủ, hình ảnh tại triển lãm Cải cách Ruộng đất tháng 9/2014 ở HN

Có 12 nghìn người chết đói tại Bắc VN tính đến cuối 1954 vì thiên tai, lụt lội, và cả vì mùa màng thất thu do xáo trộn kinh tế xảy ra ở các vùng "giải phóng", theo tài liệu ông Szanlontai trích dẫn.

Hình ảnh nhà 'bần cố nông' tại Cuộc triển lãm Cải cách Ruộng đất tháng 9/2014 ở HN

Đến vụ lúa xuân năm 1955, nạn đói tiếp tục lan ra, ảnh hưởng xấu tới ít nhất 1 triệu dân, đa số ở các làng theo đạo Công giáo.

Cùng thời gian, theo lời ông Trường Chinh nói với các "đồng chí Đông Âu" vào cuối 1957, Đảng Lao động VN đã khai trừ 80 nghìn đảng viên, nhiều người trong quân đội, để trừng phạt họ về "xuất thân địa chủ". Cũng chính ông ta thừa nhận, 60% bị xử lý "oan sai".

Quân đội Bắc VN tự đánh vào hàng ngũ của họ bằng tiêu chuẩn lý lịch.

Vì số bản thân là công nhân, gốc công nhân, thợ mỏ chỉ chiếm 2,6 % trong 227 nghìn quân nhân nên đa số hoặc gốc tiểu tử sản hoặc nông dân.

Việc quy kết thành phần xấu cho gia đình họ, trên thực tế, đã tác động sâu rộng tới quân đội.

Vì lý do khách quan, Đảng Lao động VN không thực hiện được Cải cách Ruộng đất ở miền Nam, dù đã lên kế hoạch. Nhưng chính sách phân biệt giai cấp khiến họ ra lệnh cho hàng nghìn cán bộ bỏ vợ con "sai thành phần" ở lại để tập kết ra Bắc.

Với thanh niên Bắc VN tin theo chế độ, chừng 50 nghìn bị "khai trừ khỏi đoàn" vì lý lịch của cha mẹ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với nông dân, ảnh chụp khoảng cuối năm 1953

Sau đợt "sửa sai" hàng chục nghìn người bị tù oan được thả về.

Thấp hơn TQ, cao hơn Đông Âu

Tác giả người Mông Cổ nói làn sóng đàn áp, khủng bố ở Bắc Việt Nam cao hơn chương trình tương tự ở Đông Âu:

Hungary chỉ xử tử 500 tù nhân, gồm cả những người gây tội ác thời phát-xít;

Tiệp Khắc xử tử 178 người từ tháng 10/1948 đến cuối 1952;

Romania: 137 người (1945-1964);

Ba Lan chỉ có 20 người chết trong các năm 1950-53.

Đó là không kể 2500 bị thiệt mạng trong 'nội chiến nhỏ' ở Ba Lan giữa các nhóm vũ trang đối kháng chính quyền mới, với chiến dịch đầu diễn ra trước khi Thế Chiến kết thúc: 1944, chấm dứt năm 1948.

Nhưng con số của Bắc VN thấp hơn nhiều so với Trung Quốc dù Cải cách Ruộng đất được Trung Quốc khuyến khích, chỉ đạo.

Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ công bố tại Đại hội Đảng CSTQ lần thứ 7, tính đến tháng 2/1954, đã "tử hình 710 nghìn thành phần kẻ thù giai cấo" trong Cải cách Thổ địa.

Đó là chưa kể 2 triệu "thành phần bất hảo, trộm cướp" bị chế độ mới "tiêu diệt". Nhiều triệu người ở CHND Trung Hoa bị đi tù vì lý lịch.

Các vụ trấn áp, bỏ tù và xử tử "người của chế độ cũ" tại Bắc Việt Nam làm dấy lên lo ngại rằng đó là hành động vi phạm Hiệp định Geneva, cấm trả thù những người từng làm cho Pháp.

Điều này khiến nay nội bộ Đảng Lao động VN có quan điểm bất đồng.

Các nhà ngoại giao Đông Âu ghi nhận được ý kiến từ nhiều nhân vật của chế độ về không khí chính trị chung.

Ví dụ Tổng thư ký đảng Dân chủ, ông Dương Đức Hiền nói với cán bộ Đại sứ quán Hungary Denes Felkai vào năm 1957 rằng "toàn bộ quan niệm chung về Cải cách Ruộng đất là sai".

Đáng chú ý là ông Hiền cũng theo dõi tình hình bên ngoài và khoe rằng ông "nghe đài BBC, thấy cách giải thích của họ về biến động ở Hungary 1956 đáng tin hơn báo Đảng".

Ngoài ra, các quan chức khác của Đảng Lao động và cả lãnh đạo đã nhận ra "sai lầm" trong Cải cách Ruộng đất.

Tuy thế, trên nguyên tắc, Đảng Lao động VN vẫn coi đây là một thắng lợi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khoá II Trường đại học Nhân dân Việt Nam (8-12-1956) nêu rõ:

"Trong Cải cách Ruộng đất, cán bộ đã phạm những sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng, cần phải kiên quyết sửa chữa. Nhưng không nên vì sai lầm khuyết điểm mà phủ nhận thành tích của cải cách ruộng đất tức là giai cấp phong kiến địa chủ đã bị đánh đổ, độ 8 triệu nông dân đã có ruộng cày. Đó là một thành tích không ai có thể chối cãi được. Cần nhận rõ như thế để không vì sai lầm khuyết điểm mà bi quan. Trái lại vẫn giữ vững lòng tin tưởng vào Đảng và Chính phủ."

Di sản khác Đông Âu, khác cả Liên Xô, TQ

Theo ông Balazs Szalontai, chính quyền VNDCCH thừa nhận sai lầm "nhiều hơn Trung Quốc và Liên Xô muốn" trong Cải cách Ruộng đất.

Chính vì thế mà hệ lụy về sau này lại có khác so với quá trình "tan băng" ở Đông Âu.

Do đã thừa nhận các sai trái bằng lời, Đảng Lao động Việt Nam đã không làm gì cụ thể để thay đổi cơ chế quyền lực.

Hình Malenkov, Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông tại một vụ xử "địa chủ" thời Cải cách Ruộng đất

Khác với ở Việt Nam, sửa sai ở Đông Âu diễn ra cùng quá trình "giải độc chủ nghĩa Stalin" và tại Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, và cả ở Mông Cổ cơ chế Đảng được tách ra khỏi Nhà nước.

Còn tại Việt Nam, cơ chế này, trên thực tế là Đảng "chỉ huy Chính phủ" (mà không chịu trách nhiệm trước Quốc hội), được duy trì tại Bắc VN sau Cải cách Ruộng, trên cả nước sau 1975 và còn tồn tại đến nay, đầu thế kỷ 21.

Ngược lại, việc "sửa sai" riêng một kiểu có ý nghĩa quan trọng với hệ thống chính trị ở Việt Nam: nó trở nên độc lập hơn các nước Đông Âu trong quan hệ với Liên Xô.

Theo BBC tìm hiểu, một bức hình người châu Âu luôn xuất hiện tại các vụ đấu tố kinh hoàng thời Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam.

Đó là ảnh thủ tướng Liên Xô Georgy Malenkov, người lên thay Stalin được chưa đầy hai năm: 1953-55.

Ảnh ông được treo cạnh ảnh Chủ tịch Mao và Chủ tịch Hồ Chí Minh "chứng kiến các cuộc đấu tố".

Nhưng sau này ông Malenkov bị hạ bệ vì muốn "hòa hoãn, giảm sức mạnh quân sự" của quân đội Liên Xô, một gánh nặng kinh tế, theo quan điểm của ông.

Điều này gần như không được nói đến ở Việt Nam và người ta cũng tránh nhắc tới các nhân vật "cải cách ở Liên Xô".

So với Trung Quốc thì quá trình "sửa sai" ở Bắc Việt Nam cũng nửa vời hơn nhiều.

Từ 1956, Trung Quốc chỉnh lại chính sách, cho phép con em gia đình thuộc thành phần "tư sản" được thi và vào học đại học.

Còn ở Việt Nam (và sau 1975 ở miền Nam- BBC), việc loại trừ nhiều công dân ra khỏi quyền tiếp cận giáo dục theo chủ nghĩa lý lịch về "thành phần giai cấp" vẫn tiếp tục lâu dài.

Cùng lúc, các thành phần bần cố nông được ưu tiên vào đại học, vào hệ thống kinh tế, chính trị, quân sự và tiếp tục lãnh đạo nước VN cho đến nhiều năm về sau.

Việc tự do hóa tại Liên Xô và Trung Quốc cùng thời gian xem ra không có tác động gì tương tự ở Bắc Việt Nam, theo bài "Political and Economic Crisis in North Vietnam, 1955 -56".

So sánh với các đợt phản kháng rộng khắp như ở Đông Âu sau khi Stalin chết, tác giả của nghiên cứu trích lời một nhà quan sát Hungary ở Hà Nội khi đó, kết luận rằng nhờ "sửa sai kịp thời, cộng với trấn áp tiếp tục (subsequent repressive measures- hàm ý vụ Nhân văn Giai phẩm)" VNDCCH đã ngăn được "cơn bão nổ ra".

Có thể vì các biện pháp không rốt ráo trong "sửa sai" di chứng của Cải cách Ruộng đất đến nay vẫn còn ở nước VN thống nhất.

Hồi tháng 9/2014 có cuộc triển lãm về Cải cách Ruộng đất tại Hà Nội nhưng sau vài hôm bị đóng cửa "do sự cố mất điện".

Theo sử gia Dương Trung Quốc, triển lãm được thực hiện trong bối cảnh chưa có một tổng kết chính thức về cải cách ruộng đất nên "đương nhiên sẽ có hạn chế rất lớn" bất chấp nỗ lực của những người làm công tác bảo tàng.

Cho đến nay (03/02/2022) chưa có cuộc điều tra hình sự nào tại Việt Nam về các vụ giết người trong Cải cách Ruộng đất.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Fri Feb 04, 2022 6:15 am

Phần 5: Diễn biến cụ thể một đợt Cải cách ruộng đất

Phần trước ông Nguyễn Minh Cần đã nói là trong cuộc cải cách ruộng đất thì cả một đạo quân được chuẩn bị thật là kỹ lưỡng để ra trận. Mà mũi xung kích xuống từng xã là đội cải cách ruộng đất. Ở phần này ông tiếp tục cho biết đội cải cách ruộng đất đó hoạt động như thế nào?

Nguyễn An, phóng viên RFA
2008.02.07

Ông Nguyễn Minh Cần.

Nguyễn An: Thưa ông Nguyễn Minh Cần, kỳ trước ông có nói là trong cuộc cải cách ruộng đất thì cả một đạo quân được chuẩn bị thật là kỹ lưỡng để ra trận. Mà mũi xung kích xuống từng xã là đội cải cách ruộng đất. Vậy thì đội cải cách ruộng đất đó hoạt động như thế nào?

Nguyễn Minh Cần: Tôi xin giới thiệu chương trình của một đợt cải cách ruộng đất ở một xã để bạn nghe đài hiểu được là vì bây giờ đã lâu, nhiều người không biết quá trình làm như thế nào. Tức là khi đội xuống xã, việc đó rất là bí mật - coi như đợt đột kích ở trên đưa xuống.

Khi đội cải cách xuống xã rồi thì việc đầu tiên là người ta hạn chế việc đi ra đi vào. Người ta sợ việc phân tán tài sản của địa chủ. Người ta đình chỉ công việc của các ủy ban lãnh đạo, người trưởng công an cho đến người chỉ huy du kích v.v... Lúc bấy giờ toàn bộ công việc do đội nắm.

Đội sẽ xây dựng nhóm người gọi là "bần cố nông" cốt cán theo cách thức mà nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại như sau:

"Có anh đội, anh đội về đấy là ở trong nhà nông dân là 3 cùng: ăn cùng, ở cùng, lao động cùng. Thăm nghèo hỏi khổ, tức là hỏi xem hồi xưa sống như thế nào, địa chủ nó bốc lột ra sao. Xong rồi "bắt rễ", tức là anh này tin tưởng được thì bắt anh này làm rễ.

Từ anh bắt rễ thì hỏi ngày xưa khổ như anh thì có ai, cũng làm tá điền như anh thì có những ai, anh biết ai khổ nhất. Tìm một anh A, chị B nào nữa thì gọi là "xâu chuỗi". Những từ lúc bấy giờ mà tôi còn nhớ là nó như vậy."

Nguyễn Minh Cần: Tất cả những lời tố khổ của những người cốt cán đó thì đều được ghi chép lên hồ sơ, nhìn vào để phân biệt được địa chủ, phân biệt được phản động, phân biệt được nhân dân.

Rồi cũng qua lời tố khổ đó, để hiểu được và phân định thành phần ai là công nông, ai là bần cố nông. Khi đã xác định được lên hồ sơ ai là địa chủ rồi thì việc đầu tiên là phải bao vây gia đình đó, không cho đi ra khỏi nhà. Tiếp tục ngay lập tức là truy tài sản.

Tôi xin giới thiệu chương trình của một đợt cải cách ruộng đất ở một xã để bạn nghe đài hiểu được là vì bây giờ đã lâu, nhiều người không biết quá trình làm như thế nào. Tức là khi đội xuống xã, việc đó rất là bí mật - coi như đợt đột kích ở trên đưa xuống.

Vì vấn đề này là vấn đề mà theo mục đích cải cách là để sau này còn có của để chia cho bần cố nông. Của nỗi thì rõ rồi, nhưng của chìm là vàng bạc, tiền thì rất khó cho nên phải truy tài sản. Nhưng nói thực ra anh em họ vẫn gọi là "truy của" hay "tra của". Truy ngày, truy đêm liên tục. Tôi còn nhớ khi tôi đi cải cách ruộng đất ở Thái Bình thì có nghe một câu than như thế này, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ:

"Truy đêm rồi lại truy ngày Tra lui tra tới của mày để đâu Sân vườn, chuồng lợn, bờ ao Đào tung, xới hết chẳng sao: có vàng Trời ơi, oan thật là oan Thân con quá khổ biết làm sao đây"

Còn việc lập hồ sơ các loại địa chủ, cường hào v.v... thì chủ yếu dựa vào lời tố của bần cố nông. Nhưng có một điều có thể nói là người ta đánh vào lòng tham lam, vào lòng hận thù. Có khi bà con lúc đầu họ không muốn tố, nhưng nếu mà không tố thì tức là dường như mình có liên quan đến địa chủ, mình chưa có thái độ dứt khoát.

Và người ta nói rằng ai tố nhiều thì sau này bả thực, tức là chia tiền, chia ruộng đất, chia tài sản v.v... thì sẽ được nhiều. Cho nên, nói thật đánh vào lòng tham, đánh vào lòng hận thù, cho nên cũng nhiều người tố rất bừa bãi. Ở nông thôn lúc bấy giờ gọi là "tố điêu" hoặc "tố đại hội", "tố bừa".

Nhưng khốn nỗi, tất cả những lời tố đó đều coi như những bằng chứng để kết tội người địa chủ, hoặc người đối tượng mà mình coi là phản động hay đảng phái v.v... Cho nên sau khi lên hồ sơ rồi, tức là đưa lên đoàn cải cách ruộng đất, tức là đoàn duyệt xong và chuẩn bị cho việc đấy và xử án.

Nguyễn An: Vậy là coi như hồ sơ xử án đã xong rồi, thế bây giờ chính phiên xử của tòa án nhân dân thì diễn ra như thế nào?

Nguyễn Minh Cần: Tổ chức tòa án là tổ chức cuộc đấu. Trước đó bao nhiêu ngày phải chuẩn bị, người ta làm như là một diễn tập cho một vỡ kịch, tức là mỗi người nông dân lên tố như thế nào, rồi ý cho họ chỉ mặt như thế nào, tức là xỉa vào mặt của địa chủ, bắt quì xuống như thế nào... v.v... tất cả những cái đó được đạo diễn trước một cách rất cẩn thận.

Nguyễn An: Có vẽ họ tập dợt trước tất cả mọi thứ, cả ai nói gì, phản ứng ra sao, hô khẩu hiệu như thế nào?

Nguyễn Minh Cần: Đúng rồi, khi nào địa chủ nói cái gì mà có thể gây ra điều tự bênh vực hoặc gì đấy, thì để lấn áp thì lúc bấy giờ phải hô khẩu hiệu như thế nào v.v... Có cả một kế hoạch, diễn tập như diễn một vỡ tuồng.

Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org

Như vậy đấu, có khi đấu 2-3 ngày tùy theo "tình trạng nghiêm trọng" của địa chủ hay số người v.v... Sau khi kết án thì hành quyết ngay ở trước mặt. Đấy là đợt sau này nó mới vậy.

Nguyễn An: Dường như là vào lúc bấy giờ các đoàn cố vấn của Trung Quốc nói rằng phải làm sao để có tỷ lệ 5% trên tổng số dân là địa chủ. Điều đó có không và họ đã thực hiện như thế nào?

Nguyễn Minh Cần: Cái đó chính là một cái khó khăn nhất của các đội, như vậy là cái này không chỉ là cố vấn đưa ra mà phải nói rằng ngay cả ông Trường Chinh cũng nói như vậy trong hội nghị giải thích cho cán bộ về cải cách ruộng đất. Sự thật ra tỷ lệ này, một sự chủ quan rất trầm trọng về tỷ lệ như vậy. Cho nên có tình trạng là ép các đội phải nông lên, gọi là "kích thành phần".

Chính cái đó đã gây ra một thảm họa cho dân chúng trong cải cách ruộng đất. Có nhiều khi vì bí quá, cho nên các đội, và đoàn cũng nói: "thà sai hơn sót", đấy là chữ mà người ta thường nói, hoặc là "oan một tí, nhưng không để lọt lưới". Đấy là những câu nói cửa mồm của các đoàn và các đội. Nhưng sự thật ra "oan một tí" lại trở thành oan một trăm tí, một nghìn tí...

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Fri Feb 04, 2022 6:22 am

Trò chuyện với một nhân chứng sống của Cải cách Ruộng đất

22/09/2014

Trà Mi-VOA

Nhà văn Trần Mạnh Hảo

Một sự kiện gây bão dư luận trong tháng này khi chính phủ Hà Nội lần đầu tiên mở triển lãm về cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất những năm 40-50 ở miền Bắc và vội vã đóng cửa sau 3 ngày gặp phản ứng mãnh mẽ từ công chúng, nhất là các cư dân mạng.

Cuộc triển lãm tại Viện Bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia ở Hà Nội chuyên đề “Cải cách ruộng đất 1946 – 1957” khai mạc hôm 8/9 đã làm khơi dậy làn sóng phẫn nộ vì điều bị cáo buộc là không phản ánh đúng thực chất sự kiện lịch sử đã giết chết ít nhất 15 ngàn người bị đấu tố là địa chủ mà đa phần trong số đó bị vu oan, cùng hàng ngàn nạn nhân khác bị tra tấn, hành hạ và bỏ đói trong tù.

Với sự hướng dẫn, giúp đỡ của cộng sản Trung Quốc và Liên Xô, chiến dịch Cải cách Ruộng đất của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng Lao động Việt Nam tức đảng Cộng sản hiện nay đề mục tiêu xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt địa chủ và các thành phần bị xem là ‘bóc lột, phản quốc’, để chia lại ruộng đất cho dân cày, lập nền chuyên chính vô sản, nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Chiến dịch đấu tố thảm sát tàn bạo này đã gây ra bầu không khí nồi da xáo thịt kinh hoàng khi đồng bào- đồng loại truy quét, thảm sát, tận diệt lẫn nhau; khi những người cùng huyết thống trong gia đình đấu tố, vu cáo, ám hại nhau giẫm đạp luân thường đạo lý.

Sự khủng khiếp ấy đã được bộc lộ rõ nét qua mấy vần thơ của Tố Hữu:

«Giết! Giết nữa bàn tay không phút nghỉ,

Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong,

Cho Đảng bền lâu cùng rập bước tơ lòng,

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sit-ta-lin bất diệt!»

Trong số trên 172 ngàn người bị quy là địa chủ trong Cải cách Ruộng đất, cứ 10 người thì có tới hơn 7 người bị quy oan, để rồi sau đó ông Hồ Chí Minh đã thừa nhận chính sách này là một sai lầm.

Giới trẻ Việt Nam ít người được biết đến cuộc Cải cách Ruộng đất này vì bấy lâu nay nó không được sử sách nhà trường nói đến hay báo chí nhà nước nhắc lại, và cuộc triển lãm lần đầu tiên đầy tranh cãi và kịch tính ở Bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia trong tháng này dường như là một vết dao thêm nữa cứa vào vết thương còn rỉ máu sau gần 6 thập niên.

Để các bạn trẻ hiểu thêm về sự kiện gây sóng gió công luận này, Tạp chí Thanh Niên hôm nay có cuộc trao đổi với một trong những nhân chứng sống, nạn nhân, và cũng là người tham gia cuộc Cải cách Ruộng đất 60 năm về trước: nhà văn, nhà báo Trần Mạnh Hảo, nguyên ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà văn Việt Nam, người đã bị khai trừ khỏi đảng Cộng sản vào năm 1989 vì tác phẩm ‘Ly Thân’ trong đó có nói tới chiến dịch Cải cách Ruộng đất.

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Đại cục của Cải cách ruộng đất là cái xấu xa, đảo lộn đạo lý của dân tộc, là những cuộc đấu tố khủng khiếp xử oán oan người ta, hàng vạn người bị oan. Vết thương đã lành họ lại khoét nó ra. Dư luận trên internet phản ứng. Người ta kể ra sự thật, cho nên họ thấy lợi bất cập hại, họ vội vàng đóng cửa. Đây là một bài học cho sự tuyên truyền dối trá. Bây giờ còn rất nhiều người trong Cải cách Ruộng đất như chúng tôi vẫn còn sống đây, sao lại bịp chúng tôi được?

Trà Mi: Hành động nhắc lại lịch sử có người đánh giá là khoét lại nỗi đau chưa lành, có người cho rằng nên nhìn lại lịch sử để học lại bài học của chính mình. Bấy lâu nay đã có rất nhiều chỉ trích nói rằng nhà cầm quyền Việt Nam muốn né tránh những chuyện sai lầm đã gây ra, nên họ cố quên và muốn nhân dân phải quên đi. Nhưng tới lúc họ nhắc lại thì bị ném đá, bị chỉ trích nặng hơn. Không nhắc thì nói là bưng bít, còn nhắc lại thì bị phản ứng. Nên hiểu thế nào về những gì ẩn sau trong lòng dân chúng Việt Nam? Liệu dư luận Việt Nam có quá khắc khe hay không?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Cải cách Ruộng đất thật sự là một vết nhơ xấu xa nhất của cộng sản. Cái xấu xa nhất lại đưa ra khoe, triển lãm. Mà triển lãm lại nói phần tốt đẹp chứ không nói phần xấu. Vẫn là một sự bịp bợm, nói dối. Họ cứ quen thói bịp nhân dân mãi. Xưa nhà nước độc quyền các phương tiện truyền thông, chứ giờ internet và Facebook đã là phương tiện truyền thông của mọi người.

Trà Mi: Có ý kíên cho rằng lịch sử không phải để thù hận, cho nên cũng có người ủng hộ sự bạch hóa lịch sử…

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Bạch hóa lại chối tội, gian dối thì làm sao? Anh bắn giết, hành hạ người oan. Người qua không tội gì lại vu cáo, bịa chuyện để đưa ra bắn, thích bắn là bắn. Bắn hàng vạn người như vậy, rồi ngồi khóc là xong tội à? Ai gây ra chuyện căm thù nhau, nồi da xáo thịt? Ai gây chuyện đấu tố địa chủ khủng khiếp như vậy? Chỉ bởi học thuyết sai lầm về đấu tranh giai cấp sinh ra. Họ đưa học thuyết tà đạo về áp dụng cho dân tộc Việt Nam, làm đảo lộn đạo lý của dân tộc, con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, cháu đấu tố ông bà. Toàn tố điêu không. Tôi là người tham gia Cải cách Ruộng đất từ đầu chí cuối. Gia đình tôi và bản thân tôi là nạn nhân của Cải cách Ruộng đất nên tôi biết. Sao chúng tôi lại không lên tiếng được? Buộc lòng chúng tôi phải viết mấy bài trên Facebook kể lại chuyện gia đình tôi, rất khủng khiếp, mà tôi chỉ kể có mức độ thôi. Họ không biết sám hối mà cốt tuyên truyền, đem cái xấu xa nhất của chế độ khoe ra mà bảo là tốt thì làm sao mà mọi người nhịn được. Nếu họ triển lãm trung thực, kể ra cái ác của Cải cách Ruộng đất ra để sám hối, để nhận lỗi của mình thì không ai phản ứng cả. Đằng này họ lại làm cái cuộc dối trá như vậy. Không coi người dân ra cái gì cả. Cũng không có một thái độ đàng hoàng, tử tế. Khi thấy triển lãm hố, hai ba ngày sau ngưng không triển lãm nữa lấy lý do thiếu ánh sáng. Thái độ rất hèn hạ. Những người đã bị đấu tố hầu hết là những địa chủ phục vụ kháng chiến. Thế nhưng họ lại bắt đưa ra đấu tố. Như bà Nguyễn Thị Năm là người có công vô cùng lớn với chế độ của ông Hồ Chí Minh, đã nuôi ông Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản trong nhà và mang hết tài sản ra tặng. Thế nhưng cuối cùng họ lại đem bà ra bắn.

Trà Mi: Là một nhà báo để ý quan sát thời cuộc, theo ông, vì sao nhà nước lại mở triển lãm Cải cách Ruộng đất vào lúc này chứ không phải là sớm hơn hay muộn hơn?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Tôi nghĩ rằng cuộc triển lãm này được cấp cao nhất quyết định lâu rồi. Phải là Bộ Chính trị quyết định chứ Bộ Văn hóa không có quyền làm chuyện này. Họ chủ quan nghĩ rằng đã lừa dối được dân mấy chục năm nay rồi thì giờ muốn nói gì thì nói. Đấy là một cái nhầm vì dân bây giờ đã thức tỉnh.

Trà Mi: Đã có nhiều ngòi bút mô tả Cải cách Ruộng đất như một cuộc cách mạng ‘long trời lở đất.’ Cải cách Ruộng đất dưới ngòi bút của nhà văn-nhà báo Trần Mạnh Hảo, một cựu đảng viên cộng sản Việt Nam, như thế nào?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Trong tiểu thuyết Ly Thân của tôi nay đã bị nhà nước cấm, tôi có mô tả đến cuộc Cải cách Ruộng đất. Bây giờ tôi cũng không muốn nhắc tới vì con cháu những người trong làng đã đấu tố gia đình nhà tôi, những người tố điêu, những người làm những việc rất xấu xa đê tiện đó hiện giờ vẫn còn sống trong làng. Khi tôi nhắc lại thì con cháu những người đó cũng có gọi điện thoại vào nói ‘Xin bác tha cho vì chúng ta là những người Công giáo, lấy sự tha thứ làm trọng.’ Tôi bảo ‘Không, tôi thì tôi quên rồi, nhưng tự nhiên ông nhà nước triển lãm Cải cách Ruộng đất mà rất là dối trá như vậy thì bắt buộc tôi phải lên tiếng để công luận biết những gì triển lãm kia không phải thực chất của Cải cách Ruộng đất. Thực ra, nếu muốn viết về Cải cách Ruộng đất, tôi đã viết một cuốn sách ít nhất phải là 500 trang vì riêng chuyện gia đình tôi cũng khủng khiếp lắm. Có những điều tôi cũng không muốn nói ra nữa.

Trà Mi: Nhân nói chuyện về cuộc triển lãm nhắc lại thời mốc quá khứ đen tối trong lịch sử Việt Nam, có thể cùng nhà văn Trần Mạnh Hảo nhìn lại những gì đã diễn ra? Là một nạn nhân cũng là ngừơi tham gia đấu tố trong Cải cách Ruộng đất, từng kinh qua những chuỗi ngày Cải cách Ruộng đất trong thời thơ ấu, sau 6 thập niên nhìn lại, những ký ức còn đọng lại trong ông là gì?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Tôi đã chứng kiến lính Pháp đi càn quét trong làng xã, cũng là kinh khiếp lắm, nhưng không bằng Cải cách Ruộng đất. Tôi đã từng đi xem bắn người, những người tốt nhất trong làng xã tôi bị quy là địa chủ và bị đưa ra bắn rất tàn bạo. Tôi cũng từng đấu tố bố mẹ tôi. Tôi cũng từng chứng kiến thảm cảnh gia đình nhà tôi từ đầu chí cuối thì tôi phải nói là Cải cách Ruộng đất không khác gì Polpot bao nhiêu. Những người bị bắn trong làng xã tôi hầu hết là từng là đảng viên cộng sản. Không hiểu tại sao họ lại lôi ra bắn hết. Chắc họ muốn thanh trừng vì họ sợ. Những lớp người làm kháng chiến chống Pháp trong vùng này đã từng là bí thư chi bộ của cộng sản, chủ tịch xã bị lôi ra bắn hết.

Trà Mi: Ông không hiểu vì sao họ làm như vậy, nhưng chính bản thân ông từng có hành động đấu tố tham gia trong cuộc Cải cách Ruộng đất đó, ông có hiểu vì sao mình làm vậy không?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Lúc đó tôi mới 10 tuổi thôi. Họ huy động thiếu niên con cái của địa chủ, bắt phải đấu tố bố mẹ thì bố mẹ mới khỏi bị bắn. Bọn chúng tôi đều nghĩ là họ nói thật nên sợ lắm. Tôi bàn với mẹ, mẹ bảo ‘Con không đấu tố thì bố con chết.’ Cuối cùng, chúng tôi phải đứng ra nói theo kịch bản của họ là ‘Bố tôi rất gian ác.’ Họ bảo ‘Chưa được, phải nói nặng thêm.’ Tôi hét lên ‘Bố tôi giết cả làng này.’ Ông đội cải cách rất trẻ tát vào mặt tôi cái bốp, bảo ‘Chửi cha vượt chỉ tiêu trên giao. Trên giao cho mày chửi bố có bằng này thôi, sao mày chửi nhiều vậy?’ Bố mẹ tôi còn bị những người hàng xóm đấu tố. Trước đó, họ là những người Thiên Chúa giáo rất tốt. Đội Cải cách về khuyến khích thế nào thành ra nói dối hết. Tất cả ‘địa chủ’ trong làng xã tôi đều không giàu có gì vì ngoài Bắc ít có người có ruộng thẳng cánh cò bay như trong Nam Bộ. Chỉ vài mẫu ruộng, vài con trâu mà thành ‘địa chủ’ rồi. Họ cứ quy và đấu tố điêu rất gian ác. Trong Cải cách Ruộng đất, không khí khủng khiếp vô cùng.

Trà Mi: Sau lần chính ông đấu tố bố mình, bố ông có lãnh hậu quả thế nào không?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Bố tôi sau đó bị nhốt mấy tháng được thả vì gia đình tôi được xuống thành phần ‘trung nông lớp D.’ Tôi nhớ bác Luông ở gần làng tôi cũng bị bắn rất tàn bạo. Đến khi họ sửa sai thì họ cho bác ấy xuống thành phần. Người ta đền tội bắn chết ông Luông có 100 cân thóc cho gia đình. Ngay cả em ruột ông nội tôi là một nhà sư rất nổi tiếng ở huyện cũng bị đấu tố đến mức tự treo cổ chết. Sau này, ông cũng được xuống thành phần. Ông sư trong chùa có gì mà là địa chủ. Họ cốt quy ông là địa chủ để phá chùa của ông thôi. Gần như Cải cách Ruộng đất tiến đến một cuộc diệt chủng. Ví dụ như ông cố sinh ra ông nội tôi, năm đó gần 90 tuổi, râu tóc bạc phơ. Vậy mà họ cũng đem ông ra ruộng đào hố đấu tố ông chỉ vì ông có nhà to nhất làng. Ông cố tôi là một trong những người lập ra cái làng đó. Ông bị đấu tố tới ngất đi. Ông xin xử bắn cho ông được yên mà họ không bắn, đem nhốt ông trong nhà bếp bên cạnh nhà tôi, không cho ăn. Cứ đêm đến ông gọi tôi qua cửa sổ ‘Ông Hảo ơi cho con xin miếng cơm.’ Mẹ tôi thỉnh thoảng lén ném qua cửa sổ cho ông một nắm cơm để ông sống. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông chết.

Trà Mi: Cải cách Ruộng đất nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến; tiêu diệt các thành phần địa chủ, chống chính quyền, hay Việt gian để lấy lại ruộng đất cho bần cố nông. Họ nói mục tiêu đó về cơ bản không sai, nhưng dẫn tới sự đẫm máu và oan sai là do cách thực hiện sai. Ông nghĩ thế nào?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Cái đó chỉ là họ biện minh cho hành động độc ác của họ. Mục tiêu của họ là giết trí thức và người giàu. Khẩu hiệu ‘Trí-phú-địa-hào, đào tận gốc trốc tận rễ’, khẩu hiệu căn bản của Cải cách Ruộng đất, vẫn rành rành ra đó. Khẩu hiệu này ra đời từ đảng Cộng sản Đông dương 1930. Trí thức và những người biết làm giàu là thành phần tạo nên xã hội văn minh. Không có trí thức, không có người biết làm ra của cải thì không có xã hội văn minh. Ngay mục tiêu ban đầu của họ đã là rất ác độc, sai trái, chống con người mà cứ bảo trên đúng do dưới thực hiện sai thì rất bậy bạ. Họ chỉ tìm cách mị dân thôi.

Trà Mi: Chủ nghĩa cộng sản tin rằng cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc…

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Họ có giải phóng gì đâu. Họ chia ít ruộng cho bần cố nông. Hai năm sau, đến 1958 là họ thu lại hết. Họ cướp hết, cho vào hợp tác xã. Nông dân vẫn tiếp tục khổ ai, còn khổ ải hơn xưa nữa, khốn khó vô cùng. Năm 1958 họ lấy hết đất của dân dồn vào tay nhà nước gọi là ‘hợp tác xã’, thì đâu thể gọi là ‘dân cày có ruộng?’ Đấy là cuộc cách mạng dân cày mất ruộng chứ. Lúc ấy chúng tôi có một ông địa chủ to vô cùng có tên là ‘hợp tác xã,’ đày đọa con người không thể tưởng tượng được. Tôi từng đi làm hợp tác xã, tôi biết, đói vô cùng, hoa cả mắt, suốt ngày làm không đủ ăn.

Trà Mi: Với con mắt một nhân chứng, một người từng là nạn nhân của Cải cách Ruộng đất, ông sẽ nói gì về những di hại của nó cho tới 6 thập niên sau?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Tôi chỉ muốn nói rằng dân tộc chúng ta đã kinh qua rất nhiều bi thảm do lỗi lầm của những người mang tà thuyết độc ác, chủ nghĩa duy ác, về đất nước chúng ta. Mong rằng họ sẽ từ bỏ chủ nghĩa duy ác này để trở về với dân tộc, với sự thương yêu hòa đồng với nhau. Chủ nghĩa đấu tranh giai cấp này là một chủ nghĩa rất là sai lầm, làm tai hại cho dân tộc, làm nhân dân cùng đường khốn khổ khốn nạn như thế này. Tôi mong những người cộng sản lãnh đạo đất nước hãy mau thức tỉnh sám hối. Hãy nghĩ rằng không chóng thì chày họ sẽ bị lịch sử lên án. Tôi chỉ mong họ hồi tâm quay lại với đất nước. Mọi người chúng ta hãy cùng nhau nói lên sự thật thì sự thật mới có mặt trên đất nước chúng ta.

Trà Mi: Với thế hệ trẻ ngày nay và ngày mai của nước Việt, theo ông, Cải cách Ruộng đất đã để lại cho họ bài học lịch sử như thế nào?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Thế hệ chúng tôi bây giờ gần đất xa trời rồi. Thế hệ bố mẹ chúng tôi bị ám ảnh bởi Cải cách Ruộng đất thì chết hết rồi. Bây giờ họ tưởng đã đến lúc họ muốn sáng tác, muốn bịa theo kiểu của họ thế nào cũng được vì lớp trẻ đâu có biết gì, họ muốn nói gì thì nói mà. May mà những người như chúng tôi còn sống và có những bạn trẻ được cha mẹ kể lại những ký ức đau thương của thời Cải cách Ruộng đất, cho nên người ta đã lên tiếng. Không thể nào bịp nhân dân mãi, không thể nào bịt miệng được nhân dân mãi. Internet là phương tiện vô cùng hữu hiệu để chúng ta nói lên sự thật.

Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn nhà văn Trần Mạnh Hảo đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.

Trà Mi-VOA


 


Thaile (Outspace) 28/09/2014 05:38

sự tàn ác và ô luân thường đạo lý trong cải cách ruộng đất là có thật sự bịp bợp lừa dôi của CS là có thật cho đến nay VN là một dân tộc bị đọa đày C62u mong cho tổ quốc sớm thoát đời nô lệ CS


Ngô Văn Gạch (Thái Bình, VN ) 27/09/2014 10:47

Tôi đã lớn lên trong "thời đại Hồ Chí Minh", chẳng cần đọc tôi cũng biết nhiều điều diễn ra trong xã hội mà mình chứng kiến.

Điều man rợ nhất, tàn ác nhất là CCRĐ thì nhiều người đã nói, nhưng chưa hết và không bao giờ đủ.

Còn tội ác nữa của HCM là ban hành chế độ tem phiếu, quản lý lương thực, hàng hóa làm cho dân nửa nước đói cho mãi đến năm 1990 mới bắt đầu hết là do nhờ ơn Liên xô sụp đổ (chế độ tem phiếu sụp đổ theo).

Còn ai bảo "Hồ Chí Minh thực sự tự cho mình rất bình thường giản dị, thực sự khiêm tốn" thì chỉ xin đọc quyyển sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch" đo tác giả Trần Dân Tiên viết là đủ, đỡ phải tranh cãi. Trần Dân Tiên tức TIỀN TRÊN DÂN là bút danh của Hồ Chí Minh.

Chỉ cần nhớ một điều về HCM là đủ, đó là HCM nhập CNCS vào nước ta và lúc chết còn muốn về với Mác Lê nin. CNCS có mặt ở đâu thì gây ra tại họa cho nhân loại đến đó. Nguyễn Phú Trọng đang dẫn dân ta đến thiên đàng CNCS đấy.


Không ghi tên 26/09/2014 04:54

Theo tôi bảo tàng CCRD lập ra một cách vội vã vì sự xuất hiện của tác phẩm "Đèn cù" của Trần Đĩnh. Tác phẩm 599 trang này là một nguồn tư liệu khổng lồ đã phơi bày những chuyện thâm cung bí sử của lãnh đạo cộng sản Việt nam trong đó có những chi tiết đặc biệt về cải cách ruộng đất và Hồ Chí Minh. Đèn cù đã làm rung chuyển Hà nội, đi đâu cũng thấy bàn tán. Nếu không muốn đọc trên mạng có thể mua chui hoặc thuê in. Một cuốn Đèn cù mua chui ở Đinh Lễ có giá khoảng 200.000 - 500.000 VND còn thuê in độ 100.000 VND.


Mít 28/09/2014 00:26

Một điều tôi không đồng ý với nhà văn Trần Đĩnh bảo là dân ta hèn từ chổ dân trí thấp chẳng qua dân ta chưa có cơ hội chỉ cần một quả bom như Phạm Hồng Thái thì đất nước ta sẻ có một trang sử mới hào hùng hơn, trong sạch hơn, và được thế giới kính trọng hơn vì dân Việt ta nhiều tinh khôi nhưng bị dẫn dắt bởi đám ngu đần nhất trên hành tinh này, lấy ví dụ như chuyện CCRĐ này.


dabong 26/09/2014 10:57

Tháp Mười đẹp nhất bông sen.
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ

Nếu nói cho đúng: nếu dùng hết nước Tháp Mười cũng không của sạch được bàn tay đầy maú của Bác Hồ. Nếu Nhà văn Trần Mạnh Hảọ đã đi chiếc tàu há mồm vào Nam, thì tôi là người đầu tiên đón chào vào ôm bác vào lúc ấy. Cam on nha van day bản lảnh nay.


Last edited by LDN on Fri Feb 04, 2022 11:37 am; edited 1 time in total

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Fri Feb 04, 2022 8:32 am

Cải cách ruộng đất và hàng trăm ngàn cái chết oan ức

ovv 
7 năm trước

Hành quyết tại chỗ

Sự kiện mang tên “Cải cách ruộng đất” (CCRĐ) xảy ra ở ngoài Bắc và lúc tôi mới sinh, nên tôi cũng như phần lớn các bạn chỉ biết về sự kiện qua báo chí, văn học, phim ảnh. Sự thật kinh hoàng và đau thương là hàng vạn, thậm chí hàng trăm ngàn ngườ bị giết oan. Con số đó chắc chẳng làm ai xúc động, nhưng hãy thử tưởng tượng 120,000 xác người! Bẵng đi một thời gian dài, bây giờ người ta đem ra triển lãm về sự kiện kinh hoàng đó! Thật chẳng khác gì triển lãm thành tích … giết người. Trong bài này, tôi chỉ muốn chia sẻ cùng các bạn vài suy nghĩ cá nhân liên quan đến mục tiêu, con số tử vong, và những câu chuyện tang thương trong vụ CCRĐ.

Cuộc CCRĐ không chỉ xảy ra trong một thời điểm ngắn, mà kéo dài từ 1953 đến 1956, tức khoảng 4 năm qua 5 giai đoạn. Những người chủ trương CCRĐ làm có vẻ rất bài bản và có hệ thống. Khởi đầu là vận động và chuẩn bị hậu thuẫn của quần chúng, sau đó là ra sắc lệnh, rồi làm thí điểm, và vào cuộc ồ ạt. Có vài nguồn nói rằng lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn làm CCRĐ, nhưng vì Tàu cộng gây áp lực lớn quá nên đành phải làm. Tôi không biết luận điểm này khả tín ra sao, nhưng cảm thấy rất khó chấp nhận, vì nó cho thấy rõ ràng là miền Bắc VN lúc đó chịu lệ thuộc Tàu quá lớn.

Mục đích

CCRĐ để làm gì? Một văn bản có tên là “Luật cải cách ruộng đất” do Chủ tịch Quốc hội Hồ Chí Minh kí (1) ghi rõ:

“Điều 1. – Mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất là:
Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ,
Để thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân,
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển,

Để cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến,
Để đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phòng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc.”

Dĩ nhiên, đó là “bề nổi” của mục đích, còn “bề chìm” thì có lẽ hiểu một cách khác. Có thể mục tiêu chính là xoá bỏ sự ảnh hưởng của giới giàu có và có học ở nông thôn. Thời đó, đại đa số nông dân không biết chữ, và giới có học thường là người nhà giàu, và những người này có thể nói là “proxy” lãnh đạo ở nông thôn. Người cộng sản muốn độc quyền lãnh đạo nên phải xoá bỏ thành phần giàu và có học này. Theo tôi nghĩ đó mới là lí do chính họ phát động cuộc CCRĐ.

Một lí do quan trọng nữa theo tôi nghĩ là họ muốn làm cho nông dân phải biết sợ sức mạnh của người cộng sản. Nên nhớ rằng phần lớn các cuộc khởi nghĩa hay nổi dậy đều xuất phát từ nông dân. Nông dân tuy không có học nhiều nhưng một khi họ đoàn kết lại thì trở thành một lực lượng rất khó khống chế. Do đó, người cộng sản phải thị uy quyền lực của họ qua CCRĐ. Rất có thể mục đích này giải thích tại sao họ xử bắn nạn nhân ngay trước mặt công chúng và người thân của nạn nhân. Có thể lúc đó những người hành xử như thế không thấy họ là dã man hay thú tính, mà họ thấy họ đã thị uy để khuất phục đám đông.

Một lí do khác là hệ quả của hai lí do trên có thể là họ muốn xoá bỏ nền tảng đạo lí vốn đã tồn tại qua hàng ngàn thế hệ của nông thôn VN. Họ muốn thay vào đó cái nền tảng đạo đức xã hội chủ nghĩa mà họ mới du nhập từ Nga và Tàu vào. Đó chính là lí do tại sao rất nhiều di tích lịch sử, đền đài, chùa chiềng bị đập phá một cách không thương tiếc. Họ muốn đoạn tuyệt với lịch sử và văn hoá VN.
Một cách trớ trêu, tôi nghĩ người cộng sản đã đạt được cả 3 mục tiêu chìm trên. Họ đã xoá sạch ảnh hưởng của giai cấp giàu và có học ở nông thôn và biến họ thành những phế nhân của xã hội. Họ đã thành công làm cho nông dân và cả xã hội nói chung phải sợ trước họng súng, đúng như Mao từng nói “chính quyền sinh ra từ họng súng”. Và sau cùng họ đã thành công một phần nào đó đoạn tuyệt với quá khứ và xoá bỏ ảnh hưởng của tôn giáo. Nhưng thành công nào cũng đi kèm theo những hệ quả khôn lường. Cái hệ quả lớn nhất, đau thương nhất, và kinh khủng nhất là giết chết hàng vạn người vô tội.

Bao nhiêu người chết?
Hậu quả kinh khủng nhất của CCRĐ là cái chết. Không ai có một con số thống kê chính xác về số người bị xử và số người bị giết, chỉ có ước tính. Những ước tính từ các chuyên gia trong và ngoài nước chênh lệch nhau rất lớn. Nhưng dù chênh lệch, họ đều nhất quán một điều là số người bị giết cao hơn 50,000. Tính trung bình mỗi ngày có gần 70 người bị các đội CCRĐ giết chết. Đó là một con số rất lớn, một vết thương dân tộc mang tính lịch sử mà tất cả chúng ta đều không được quên.

Trước hết, chúng ta hãy thử đọc thống kê chính thức của Nhà nước. GS Đặng Phong, một sử gia về kinh tế VN, đã dày công làm thống kê về CCRĐ và trong một cuốn sách “Lịch sử kinh tế Việt Nam” ông đưa ra con số người bị giết trong thời kì CCRĐ là 172,008. Đó là những người bị kết tội là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của giai cấp (2).

Nhưng chưa hết! Trong số 172,008 người bị kết án và giết chết đó, sau khi tổng kết thì Nhà nước kết luận rằng có đến 123,266 bị kết án oan. Nói cách khác, cứ 10 người bị kết án, thì có 7 người bị oan. Thật ra, “oan” ở đây có nghĩa là theo quan điểm của họ (người cộng sản) chứ trong thực tế có lẽ 100% đều là oan.

Nhưng giả dụ như 7/10 là oan, thử hỏi trên thế giới này có nơi nào mà án oan nhiều đến như thế. Điều này không ngạc nhiên, bởi vì những người gọi là “chánh án” hay ngồi ghế xử tử hình người khác toàn là loại “cóc nhái”. Sau đây là lời nói của một người từng chứng kiến CCRĐ: “Ôi! Tôi còn nhớ như thế này, tôi chưa bao giờ thấy lịch sử con người lại ngược đời như thế, đến nỗi phải nói là thời đại trâu bò đi “bí tất”, cóc nhái nhẩy lên làm người, mõ sãi ngày xưa nhẩy lên làm chánh án, làm thẩm phán. Thậm chí ngồi trên toà đấu bố mình.” (3)

Các chuyên gia nghiên cứu ở nước ngoài cũng đưa ra những con số nạn nhân bị giết chết trong CCRĐ. Các chuyên gia này dựa vào nguồn từ Việt Nam và suy luận, và kết luận rằng khoảng 50,000 đến 172,000 người bị giết chết (4-6) vì bị kết án là kẻ thù của nhân dân.

Theo wikipedia, một nguồn từ Bộ chính trị đảng CSVN thì chỉ tiêu tối thiểu là giết 1/1000 người Việt (miền Bắc) trong giai đoạn “giảm tô”. Con số này có nghĩa là tối thiểu 14,000 người bị giết trong thời giảm tô. Dĩ nhiên, con số bị giết chết trong các đợt CCRĐ kế tiếp phải cao hơn con số đó nhiều lần.

Một chuyên gia về đất đai của VN là Lâm Thanh Liêm (miền Nam) người đã phỏng vấn nhiều cán bộ miền Bắc đã hồi chánh cũng đưa ra một ước tính khác. Ông ước tính rằng số người bị giết dao động trong khoảng 120,000 đến 200,000. Con số này có vẻ phù hợp với số nhà và chòi của “địa chủ” được giao cho những người nông dân (những ông chủ mới). Lúc đó, người ta (ai đó?) đặt ra một chỉ tiêu là 5.68% dân số phải là “địa chủ”.

Nói tóm lại, các ước tính trên đây rất chênh lệch nhau, nhưng tất cả đều nhất quán rằng có ít nhất 50,000 người bị giết trong thời kì CCRĐ. Con số “trung bình” có lẽ là 120,000 người. Dân số miền Bắc lúc đó là khoảng 12 triệu. Như vậy, có thể ước tính rằng cuộc CCRĐ giết chết 1% dân số. Nếu tính trung bình trong 3 năm “cải cách” thì mỗi ngày các đội CCRĐ giết chết gần 110 người. Nên nhớ là MỖI NGÀY có đến ~110 người bị hành quyết. Thật kinh khủng!
Những câu chuyện thương tâm.

Có rất nhiều câu chuyện đau thương về hậu quả của CCRĐ. Đã có nhiều người viết thành sách, tiểu thuyết. Ngay cả một người sắc máu như Tố Hữu mà còn phát biểu rằng “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”

Người bị xử bắn đầu tiên trong vụ CCRĐ là bà Nguyễn Thị Năm. Bà là một ân nhân lớn của các ông như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Hữu Nhân (Bí thư Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, v.v. Bà từng đóng góp cho Cácn mạng Tháng 8 20,000 đồng bạc Đông Dương (tương đương 700 lượng vàng). Con trai của bà có người làm đến chức trung đoàn trưởng trong quân đội Việt Minh.

Vậy mà khi CCRĐ xảy ra, người ta đem bà ra xử và bắn chết! Các ông như Trường Chinh (lúc đó là trưởng ban CCRĐ) và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở đâu mà không can thiệp? Họ trả nghĩa bà Năm như thế chăng? Thứ tình nghĩa gì mà quái gở như thế? Trong cuốn “Trần Huy Liệu – Cõi đời”, tác giả Trần Chiến kể lại buổi đấu tố bà Năm như sau:

“Hôm ấy là ngày 22/5/1953, trời nắng chói chang. Để tránh cái nắng nóng nhiều người đã lấy cành cây che đầu, nhưng vì làm như thế thì người ngồi sau sẽ bị che khuất nên Chủ tịch đoàn đã yêu cầu mọi người vứt lá đi. Phiên tòa hôm ấy khoảng 1 vạn người. Cũng như ngày trước, Chủ tịch đoàn lại ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Khi bà Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công (2) cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu được Đội dân quân dẫn vào các bần cố nông đã bật dậy hô đả đảo vang trời. Có người còn đòi “bọn địa chủ gian ác” phải đứng lên cao và quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo.

Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên “địa chủ ác ôn” và ngắc ngứ đọc lý lịch, nhưng không nêu tội ác cụ thể. Cứ sau mỗi lần như vậy những người tham dự phiên tòa lại hô vang 3 lần: “Đã đảo, đã đảo, đã đảo!”.

Đám đông đã tỏ ra hết sức phẩn nộ trước thái độ của đội Hàm. Đôi mắt anh này cứ gườm gườm đầy thách thức. Nhiều người đã hét lên yêu cầu lính gác phiên tòa “tát cho nó nảy đom đóm mắt ra để nó cúi gằm mặt xuống mà nhận tội”.Rút kinh nghiệm lần trước, Chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò”.

Cũng có những người lên tố, nhưng do trình độ, học vấn không có nên nói không đạt ý, không rõ việc. Không ai hiểu họ nói gì. Một bà tên là Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội bà Năm ở đâu.

Còn một ông tên là Giồng tố cáo bà Năm đã cướp gánh cỏ của ông ta để cho ngựa của bà ăn và cướp cả giỏ củ mài làm cho cả nhà ông ta phải nhịn đói.

Hài hước hơn cả là trường hợp của một chị có tên là Lý. Chị Lý tố cáo rằng, chị ta là con nuôi của bà Năm, được bà Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị bà Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Nội dung tố cáo chỉ là thế, nhưng vì chị ta vừa nói vừa khóc nên không ai rõ chị ta nói gì.”

Sau khi bà Năm bị tử hình, một bài báo xuất hiện trên tờ “Nhân dân” có tựa đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả kí tên là C.B. Bút danh này đã được ông Hồ Chí Minh dùng rất nhiều lần trong thời gian đó. Do đó, người ta nghi ngờ rằng chính ông Hồ là tác giả bài viết mang tính đấu tố này.
Đài RFA có hẳn một mục dành cho những câu chuyện mang tính cá nhân về CCRĐ. Sau đây là vài câu chuyện thật mà đọc lên chúng ta thấy không biết tại sao con người lúc đó quá tàn ác với nhau.

Về những người tố cáo, qua lời kể của Nhà văn Nguyễn Chí Thiện:
“Họ bị kích động nhiều, bị kích động hơn là bị ép buộc anh ạ. Nhưng số người mà sau này họ hăng say lao theo thì đông, chứ còn số người miễn cưỡng lên thì ít thôi. Nhưng phải nhớ một điều là từ đầu đã có một sự cưỡng bức rồi. Những người hăng say thì không phải là tự họ họ lên đâu, mà họ không lên cũng không được. Qua quá trình kể khổ rồi khơi sâu lòng hận thù thì nhiều người trở thành hận thù thật. Họ lên họ làm việc đó.

Chỉ riêng trong gia đình thôi thì là một sự miễn cưỡng rõ rệt anh ạ. Thí dụ như con dâu mà lên tố bố chẳng hạn, tố là ông ấy hiếp mình thế nọ thế kia thì ăn nói nó có vẻ gượng gạo, không có tinh thần hăng say như những người khác.
Có một điều đặc biệt là, ông ta đã ngoài 60 rồi, mà ông ta vẫn cứ phải xưng cháu hoặc xưng con với bất cứ một người nào lên đấu tố, dù người lên đấu tố chỉ đáng tuổi con ông thôi. Thâm chí tôi còn nhớ một cô con gái lên tố ông ta thì ông ta cũng phải xưng con với người con gái đó – con gái mình đẻ ra đấy ạ.”

Còn người ngồi ghế xử án:
“Bây giờ nói đến tòa án nhân dân mà ngồi xử thì toàn là nông dân thôi, toàn là nông dân họ sắp xếp lên ngồi thôi. Chị làm “chánh án”, tôi còn nhớ chị ấy còn mù chữ nữa anh ạ, không biết viết a,b,c thế mà lại lên làm chánh án.
Sau một ngày đấu tố nhục nhã như thế rồi thì họ bắt đầu họ tuyên án. Họ tuyên án với tất cả những tội ác mà địa chủ đã phạm phải, mà toàn bộ là bịa đặt thôi. Người ta tuyên án ông ấy tử hình. Đặc biệt là trong quá trình đấu tố thì ông địa chủ này không có quyền cãi mà chỉ có quyền bất cứ ai đấu tố thế nào đều chỉ có quyền “nhận tội” – nhận tội lỗi của mình chớ không hề có một lời cãi nào được phép cả.”
Họ làm gì với nạn nhân đã bi tử hình?

“Buổi hôm đó, tôi còn nhớ là sau khi đấu tố xong thì lập tức có 6 anh du kích. 6 anh du kích này đứng cách khoảng độ 2 mét… thế là bắn chết ông ta ngay. Sau khi bắn chết xong thì chặt dây thừng – không phải là cởi nữa mà là chặt dây thừng, lấy con dao chặt dây thừng ra và lôi ông ta ra chỗ cái hố đó. Xin nhớ một điều, không có áo quan anh nhá. Thế là họ vất tụt xuống hố đó là lấp đất ngay lập tức thôi. Lấp đất xong thì đất ấy cũng không được đấp thành mộ mà đấp bằng như bình thường thôi chớ không đấp gồ lên như một khối u như là một mộ phần anh ạ. Đấy là điều mà tôi chứng kiến tận mắt.”

Ông Nguyễn Văn Thủ kể lại vụ xử cha mẹ của vợ nhà thơ Hữu Loan:
“Bà ấy lên, lật ngửa mặt cụ ra, rồi chỉ vào tận mặt và nói: con Ly, tên bà cụ là Ly, vợ chồng mày ép buộc tao, phải gả con gái cho con mày…rồi bà ấy khóc hu hu lên…rồi xin đội cải cách cho đem con gái về… rồi bà ấy bảo là mày dụ dỗ con tao đi Nam để cho bố mẹ lià con…

Lúc ấy, tự nhiên nó như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà tôi, người ta như muốn ăn thịt luôn, họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy, người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử hình, bắn chết ngay, lôi ra bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu… Đấu tố bố mình, bắt phải ra nhìn…Còn những người khác bị tra tấn, bị chết thì cho là họ tự tử, bắn thì rõ ràng rồi, mấy trường hợp…Cuối cùng thì sửa sai, biết là sai lầm, rồi xin lỗi, thế thôi !”

Đối xử với nạn nhân như là thú vật. Trung tá Trần Anh Kim kể:
“Toàn bộ những cái bố tôi kể thì tôi còn ghi được nguyên cuốn băng. Cứ làm như thế, hàng ngày làm như thế, làm để bắt nhận là QDĐ. Bố tôi không nhận QDĐ, bố tôi bảo rằng bố tôi chẳng biết QDĐ là ai cả, chỉ biết đảng viên đảng CS thôi. Thế người ta không quy được cho bố tôi QDĐ thì người ta lại đưa bố tôi lên địa chủ luôn.
Địa chủ ngày đó là địa chủ “phân” anh ạ. Thí dụ mỗi một thôn là mấy địa chủ thì cứ thế người ta đưa lên thôi. Cuối cùng thì cũng bị tù không án, hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi tù nhiều. Tức là tay thì trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi.

Lúc bấy giờ tôi còn nhỏ, khoảng 10 tuổi, tôi mang cơm cho bố tôi thì khổ thế này: đầu tiên mang ra ngõ thì mình cũng chẳng biết gì cả, lúc bắt bố tôi thì tôi biết nhưng bắt ông tôi thì tôi không biết. Lúc bắt bố tôi thì tôi chỉ biết khóc thôi. Tôi thấy tự nhiên người ta đến nhà mình, 5 người đến, người ta dằn bố mình ra người ta trói mang đi, nói thằng này là QDĐ, trói mang đi thì mình chỉ biết khóc thôi. Không biết làm gì cả.

Ra ngõ thì gặp đội, thế là nó quát ầm lên: “thằng này con nhà QDĐ, cháu địa chủ, tại sao mày gặp chúng tao mày không chào, mày không quì xuống”. Lúc bấy giờ biết đâu được, chỉ khóc thôi. Tôi khóc và bắt đầu quỳ xuống, nó bảo từ nay trở đi mày gặp chúng tao mày phải quỳ xuống, mày lạy các ông đội, xin phép các ông đội, xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi, thế thì chúng tao cho đi. Thế thì cuối cùng từ đấy thì cứ quen như vậy. Cứ ra ngõ gặp người ta là phải quỳ xuống, xong lại xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi. Gọi là cơm nhưng có cơm đâu, chủ yếu là khoai thôi.
Nắm cơm mang xuống thì thế này. Người ta dùng ngay cái trét xúc cứt đấy ông ạ, xúc phân gà, nó xắn vào chén cơm. Tôi cũng chẳng biết gì cả, tôi chỉ biết người ta làm như vậy thôi. Nhưng ông thôi thì rất hăng. Ông tôi bảo tại sao lại phải làm như vậy thì nó bảo là phải kiểm tra xem bọn địa chủ nó có tiếp tế cho nhau không, nó có thông tin cho nhau không, chúng ta phải kiểm tra.

Có hôm thì họ làm như vậy, có hôm thì không có trét, nó rút ngay cái cọc ở chuồng lợn bên cạnh con trâu, thế thì họ chọc vào cơm, chọc luôn vào khoai, bảo chúng tao phải kiểm tra. Năm đó thì có gì đâu, có cái gáo dừa thôi mà. Cái gáo dừa treo hai cái dây lủng là lủng lẳng đem nước vô cho ông – nó đổ đi một nữa xong nó đái vào đấy. Tôi cũng chẳng biết gì, chỉ biết như thế thôi.

Nhưng ông tôi quát rầm lên thì nó bảo rằng cho chúng mày uống để mà sáng mắt ra, cho chúng mày hết tư tưởng bóc lột, hết tư tưởng ức hiếp nhân dân. Nó cứ chửi ông tôi như thế – tôi cũng chỉ biết khóc, chẳng biết làm thế nào cả. Mình chỉ mang đi cho ông, mang đến chỗ thì lại về rồi.”
***

Những câu chuyện thương tâm về CCRĐ thì cả bộ sách viết cũng chưa chắc đủ. Nhưng tôi có cảm giác là hình như vẫn chưa có những nghiên cứu hàn lâm về CCRĐ và hậu quả của nó, một phần có lẽ do thiếu thông tin (vì Nhà nước VN không cung cấp), một phần do bản chất “tế nhị” của vấn đề nên các nhà nghiên cứu trong nước không muốn/dám động đến.

Với hàng trăm ngàn người chết mà cho đến nay chẳng ai đứng ra chịu trách nhiệm về những tang thương xảy ra trong thời CCRĐ. Ngược lại, người ta còn có vẻ tự hào triển lãm những thành quả của CCRĐ! Mà, cuộc triển lãm cũng chỉ là những trưng bài mang tính một chiều, mà không dám trưng bày những góc cạnh tối của sự kiện. Người ta chỉ tuyên bố theo kiểu sáo ngữ như “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng dân chủ ‘long trời lở đất’, mang lại những giá trị to lớn của một xã hội mới, một chế độ mới, một cuộc sống mới cho người dân Việt Nam”, nhưng không dám nói lên sự thật về hàng trăm ngàn cái chết oan. Thật tình mà nói, tôi không rõ CCRĐ đã đem lại cuộc sống mới và giá trị mới gì, nhưng có lẽ đó là sự thành công trong việc xoá bỏ giai cấp “trí hào” ở nông thôn và nền tảng đạo lí của xã hội VN. Chúng ta đã thấy xoá bỏ giai cấp đó thì dần dần hình thành một giai cấp thống trị mới xem ra còn khắc nghiệt hơn và hệ thống hơn giai cấp trí hào cũ.

Cuộc CCRĐ còn làm đảo lộn luân thường đạo lí của xã hội VN. Có người Việt bình thường nào có thể tưởng tượng nổi con đấu tố cha, con dâu tố cha chồng, vợ đấu tố chồng, v.v. Tất cả đều chỉ là làm theo những vở kịch đã được diễn tập, hoặc bị kích động. Đây phải nói là một đề tài nghiên cứu tâm lí rất độc đáo. Một con người bình thường khi được trang bị cho một thứ chủ thuyết nào đó họ sẽ trở thành những tên sát nhân nguy hiểm. Đó là bằng chứng từ nghiên cứu vào thập niên 1950. Có lẽ những người đứng đằng sau cuộc CCRĐ đã rành những chứng cứ đó nên họ áp dụng rất thành thục, và hệ quả là một xã hội bị đảo lộn về tôn ti trật tự. Sự đảo lộn vẫn còn để lại hệ quả cho đến ngày hôm nay.
Một trong những ông tổ cộng sản và cũng là tên đồ tể giết người không gớm tay là Josef Stalin từng nói rằng “một cái chết là một thảm trạng; hàng triệu cái chết là một con số thống kê” (The death of one man is a tragedy; the death of millions is a statistic). Câu nói lạnh lùng hàm ý rằng giết một người thì sẽ có người quan tâm làm lớn chuyện vì họ động lòng, nhưng giết hàng triệu người thì chẳng mấy ai quan tâm vì người ta sẽ mệt mỏi với sự thương tâm (emotional fatigue) và nó chỉ là con số thống kê. Đối với nhà độc tài như Stalin thì mạng sống con người chẳng có nghĩa lí gì vì nó như là một con số thống kê.

Chúng ta thường hay kinh hãi trước những cái chết trong cuộc “cách mạng văn hoá” ở Tàu với hàng chục triệu người bị giết oan. Nhưng trớ trêu thay, ít người trong chúng ta kinh hãi trước 120,000 người hay 1% đồng hương của mình bị giết chết trong thời CCRĐ! Có người nghĩ rằng sự kiện CCRĐ là chuyện quá khứ, đảng và Nhà nước đã chính thức xin lỗi, nhắc lại làm gì. Nhưng tôi nghĩ suy nghĩ đó không đúng. Nhắc lại hay nghiên cứu về sự kiện trong lịch sử không phải để trả thù ai, mà để học hỏi từ những bài học quá khứ. Có triết gia từng nói và tôi đồng ý: Những kẻ nào không học từ lịch sử thì sẽ có ngày lặp lại những sai lầm của quá khứ. Do đó, phải học từ những sai lầm trong quá khứ để không vấp phải chúng một lần nữa.
—-
(1) http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=1106
(2) Chương III trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam của Đặng Phong.
(3) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/LandReform50YearsAgoP8_PAnh-20060519.html
(4) Bernard B. Fall (1967), The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (London: Pall Mall Press, 2nd rev. ed.), p. 156.
(5) Robert F. Turner (1975), Vietnamese Communism: Its Origins and Development (Hoover Institution Press), pp141-3, 155-7.
(6) The History of the Vietnamese Economy (2005), Vol. 2, edited by Dang Phong of the Institute of Economy, Vietnamese Institute of Social Sciences.
(7) Alec Holcombe, Politburo’s Directive Issued on May 4, 1953, on Some Special Issues regarding Mass Mobilization Journal of Vietnamese Studies, Vol. 5, No. 2 (Summer 2010), pp. 243-247, quoting a translated Politburo directive from May 4, 1953. This directive was published in Complete Collection of Party Documents (Van Kien Dang Toan Tap), a 54 volume work authorized by the Vietnamese Communist Party.
(Cool Lam Thanh Liem (1990), “Chinh sach cai cach ruong dat cua Ho Chi Minh: sai lam hay toi ac?” in Jean-Francois Revel et al., Ho Chi Minh, Nam A, pp. 179-214.
(9) http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/landreform


Nguồn : FB Dr Nguyen Van Tuan

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Sat Feb 05, 2022 3:59 pm

Đọc lại chuyện bố mẹ vợ nhà thơ Hữu Loan bị hành quyết trong cải cách ruộng đất.

Tác giả Hữu Loan

Baotre...


Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.


Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.


Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ”Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt.


Có lần tôi kể chuyện “bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:


– Thầy có thích ăn sim không?


Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ.


Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
– Thầy ăn đi.


Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: Ngọt quá.


Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.


Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ…


Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”.


Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ”yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay… lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.


Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại… Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.


Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời!


Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi. Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn …
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng… Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.
Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt . Và chiều hoang tím có chiều hoang biết… Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”


Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi “hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạnh họe đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng. Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông …


Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đẩy hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi.


Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!


Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.


Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông.


Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.


Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.


Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.


Năm 1988, tôi “tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Vitek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.



https://youtu.be/xaxhpB6-gOM

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Sun Feb 06, 2022 12:32 pm

Nhân chứng sống. Ông kể hay và hồi hộp thiệt.

https://youtu.be/9kFgFml6Ajs

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Sun Feb 06, 2022 1:23 pm

Ông Nguyễn Chí Thiện kể hay quá. Rùng rợn ~ chuyện gia đình giết nhau để mong chính mình thoát chết. Hèn chi ~ người bắc di cư rất yêu quý ông Diệm và khinh ghét cs.

Papa tôi kể trong làng của papa tôi có ông nọ 0 muốn đi vào Nam, ở lại với nhà và ruộng vườn, chỉ để vợ con đi. Sau khi gia đình papa tôi đi rồi thì ông nọ bị việt minh đem ra đấu tố, xử tử.

Papa tôi cũng nói như ông N. C. Thiện nói 0 rõ ý, phần đông đa số ~ người bắc di cư là thành phần học thức, trí thức, có tài sản như có nhà,có ruộng. Người nghèo miền Bắc đa số ở lại, 0 vào Nam.

https://youtu.be/Dgm7PtefDOQ


Last edited by LDN on Sat Feb 12, 2022 4:00 pm; edited 2 times in total

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Sun Feb 06, 2022 2:34 pm

Hồ chí Minh và Cải cách ruộng đất

Đại Nghĩa

Cải cách ruộng đất, một chiến dịch diệt chủng của người cộng sản cách đây hơn nửa thế kỷ mà khi nhắc lại tưởng chừng như mới hôm nào. Chắc chắn trong lòng người dân Việt, nhứt là người Việt ở miền Bắc đã phải gánh chịu cái tai ách ấy trong suốt 3 năm trời vẫn còn bàng hoàng khi nhắc đến CCRĐ. Ngày nay đảng cộng sản còn đây thì tất cả những hành động diệt chủng của họ còn được che đậy, nhưng mai kia khi đảng cộng sản bị tiêu diệt rồi thì mọi người dân sẽ thắp nén nhang, lập đàn tràng giải oan cho bao nhiêu vong hồn uổng tử đã bị giết oan và bắt kẻ gây án phải đền tội dù họ còn sống hay đã chết.

1 – Cải cách ruộng đất:

Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân(1954-1982) kể lại trong chuyện “Bí mật HCM” cho chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của đảng CSVN) như thế nào.

“Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…

“Mùa hè năm 1952, sau khi đi Trung quốc và Liên xô về, bác chuẩn bị cho hội nghị cán bộ đầu năm 1953, quyết định CCRĐ. Đoàn cố vấn CCRĐ do Kiều Hiếu Quang làm trưởng đoàn. Kiều là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây. Họ muốn qua CCRĐ để chỉnh đốn lại đảng ta. Thời gian từ lúc tiến hành CCRĐ đến lúc dừng là 3 năm”. (Đàn chim Việt online ngày 4-7-2010)

Ông Nguyễn Minh Cần, người được thành ủy Hà nội giao cho trách nhiệm sửa sai trong việc CCRĐ ở ngoại thành Hà Nội đã kể lại qua bài “Xin đừng quên bài học CCRĐ nửa thế kỷ truớc”.

“Ngày 4-12-1953, Quốc hội nhất trí thông qua luật CCRĐ. Sau đó, chủ tịch HCM đã ra sắc lệnh ban hành luật CCRĐ. Từ đó, bắt đầu các đợt CCRĐ, mà đợt đầu tiến hành ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên và 6 xã tỉnh Thanh Hoá, sau đó tràn lan trên khắp miền Bắc, trừ các vùng miền núi…

“Do sự phẫn nộ của quần chúng đã bùng lên dữ dội, nhiều cuộc nổi dậy ở Bùi Chu, Phát Diệm, nên về sau, trung ương đảng Lao Động VN chỉ tiến hành cái gọi là “Cải cách Dân chủ” ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ phong kiến địa phương mà không dùng bạo lực quá mạnh vì sợ dân chúng chạy sang Trung quốc, Lào…”

(Người Việt ngày 4 đến 11-2-2006)

Nguyễn Minh Cần trong bài “Xin đừng quên bài học CCRĐ nửa thế kỷ trước” nói về cái tỷ lệ giết người như sau:

“Cái tỷ lệ quái gở 5% đó kèm thêm những “kết luận” quái đản khác…Cái phương châm “thà sai hơn bỏ sót”, cộng thêm với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến”…

“Tóm lại, những con số về người thiệt mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác nhận được. Dù thế nào chăng nữa, với những con số ước tính đã cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác chống nhân loại”. (Người Việt ngày 6-2-2006)

Trong chiến dịch CCRĐ giết người có chỉ tiêu rõ ràng, cái chỉ tiêu ác độc ấy phải giết địa chủ ở mỗi xã cho đủ 5% dân số hoặc nhiều hơn càng tốt, càng được khen thưởng. Theo nhà văn Tô Hoài:

“Thế mà vượt hết, thắng lợi lớn, toàn đoàn truy được hơn năm trăm địa chủ lọt lưới, đến bước ba đưa tỷ lệ 5% lên 7,24% đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ về chính trị cũng như về kinh tế”. (Ba người khác- trang 206)

Nhà văn Trần Mạnh hảo, rất bức xúc với cái tỷ lệ giết người trong chiến dịch CCRĐ ở làng của ông cao hơn các nơi khác:

“Làng tôi là làng công giáo Bùi Chu Phát Diệm, là làng tề, làng bị gọi là ác ôn, nên chỉ tiêu địa chủ trên giao nặng nhất: phải bắt cho được 15% địa chủ là Bình Hải Đoài. Nghĩa là cứ 100 người dân thì phải nộp cho bác và đảng 15 tên địa chủ”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)

Chính vì các đội cải cách thi đua lập thành tích cho nên con số người dân vô tội đã bị giết một cách dã man đưa con số lên đến hàng trăm ngàn:

“Ông Bùi Tín, một người bất đồng quan điểm với chính phủ Việt nam cũng nêu lên con số nạn nhân là 500.000 người do Michel Tauriac, nhà văn người Pháp đưa ra. Bùi Tín cho rằng con số nầy cũng hợp lý nếu kể cả người bị giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự tử” (Wikipedia tiếng Việt online ngày 19-5-2006)

“Một ý kiến cực đoan là của Hoàng văn Chí, người tin rằng 5% dân số miền Bắc (675.000 người đã chết). Cuốn sách From Colonialism to Communism của ông nầy đã có tác động mạnh đến cuộc tranh luận về vấn đề con số” (BBC online ngày 28-12-2006)

Trong bài “Cuộc CCRĐ 50 năm trước đây” của phóng viên Nguyễn văn An, đài RFA thì:

“Thống kê của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế tập 2 cho biết đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kể thu của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị án tù rồi chết trong nhà giam. Con số nầy có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân không thể thấp hơn thế được…

“Bản thống kê chính thức cho biết là trong 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông trong CCRĐ thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 76,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế”. (RFA online ngày 15-5-2006)

Chiến dịch CCRĐ đã tàn sát người dân vô tội, máu đã chảy tràn lan khắp nơi, tiếng oán than ngút trời, lúc bấy giờ ông HCM mới chịu cho dừng tay bắn giết và ông Nguyễn Minh Cần, người được thành ủy Hà nội đề cử làm nhiệm vụ sửa sai tại Hà Nội kể:

“Trung ương đảng buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ và chủ trương sửa sai. Tại hội nghị, Trung ương đã thi hành kỷ luật như sau: Trường Chinh, mất chức tổng bí thư, chỉ còn làm Ủy viên BCT, còn Hoàng Quốc Việt và Lê văn Lương mất chức Ủy viên BCT, Hồ Viết Thắng, bị đưa ra khỏi TƯ/đảng LĐVN…

“Hồi đó chúng tôi được giải thích: “Bác đến không tiện”, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra “chịu trận” thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước dân chúng”. (Người Việt ngày 4-2-2006)

2 – Hành động diệt chủng:

Trong khi thi hành CCRĐ đảng Lao Động Việt Nam đã đưa ra một phương châm hành động thật là sắt máu, họ chỉ có biết giết và giết.

“Cái phương châm “Thà sai hơn bỏ sót”, cộng thêm với việc “Thi đua lập thành tích chống phong kiến” đã gây tình trạng “kích thành phần”, “nống thành tích”, cố tìm ra nhiều địa chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá… để có được bằng khen, huân chương, để ngoi lên địa vị cao hơn…

“Các đội CCRĐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”,“tìm ra của chìm”, ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố chồng”, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” kẻ ban ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau (cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái “đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con cái)…

“Những người bị quy là địa chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con…

“Còn khi hành quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của người ấy, từ gìa cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận mắt cảnh tượng đó! Đúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo”.

(Người Việt ngày 4 đến 11-2-2006)

Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, trả lời báo Quê Mẹ khi du lịch sang Pháp sau năm 1975, ông nói:

“Trong lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự nhúng tay của cố vấn Trung cộng. Điều đó cho thấy chính quyền HCM lệ thuộc ngoại bang như thế nào”. (Người Việt ngày 7-9-2004)

Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý thường vụ Viện Tăng thống,Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN trong cuốn “Nhận định về những sai lầm tai hại của đảng CSVN đối với Dân tộc và Phật giáo Việt Nam”, đoạn nói về CCRĐ, ngài viết như sau:

“Những kẻ thù bên trong ấy là ai. Đó là “Trí, Phú, Địa, Hào, Tôn giáo, Lưu manh” và phải “đào tận gốc trố tận rễ”có nghĩa là phải tiêu diệt cho bằng hết. Và cuộc căm thù đấu tranh giai cấp ấy đã diễn ra năm 1956, dưới hình thức CCRĐ và “ôn nghèo giợi khổ” kéo dài suốt sáu tháng trời…

“Khẩu hiệu của đội cải cách là “Nhất đội nhì trời”. Cũng như trong miền Nam năm 1975, cộng sản đang trong khí thế “thừa thắng xông lên”, tại các công trường làm thuỷ lợi, cộng sản trương khẩu hiệu “thằng trời đứng qua một bên, để cho thuỷ lợi đứng lên thay trời” và “vắt đất ra nước thay trời làm mưa”, còn gì ngông cuồng hơn…

“Có nhiều trường hợp con tố cha, vợ tố chồng, trò tố thầy, anh em họ hàng tố lẫn nhau vì những nguyên nhân bất hòa trong gia đình trước kia. Tố xong, tòa án nhân dân luận tội và kết án tử hình, tất cả đám đông ở dưới phải hô to ba lần “tử hình; tử hình; tử hình” vừa hô vừa đấm lên hư không ba cái. Thế rồi khổ chủ bị bịt mắt lại đưa đến trói vào cây cột đã được dựng sẳn và đội hành quyết gồm 5 người đứng nhắm bắn, khổ chủ gục đầu xuống và kết liểu một cuộc đời”.

(ĐốiThoại online ngày 21-9-2007)

Để cổ vỏ cho phong trào diệt chủng, hai nhà “đại thi nô” miền Bắc lúc bấy giờ thi nhau làm thơ cổ động chiến dịch một cách hiếu sát như sau:

1. Tố Hữu:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghĩ
Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin…bất diệt”
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 37)

2. Xuân Diệu:

“Anh em ơi! quyết chung lòng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tư thù
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi”.
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 38)

3. Những vụ án thời CCRĐ:

Vụ án đầu tiên trong chiến dịch CCRĐ là thí điểm ở đồng bằng và chọn đồn điền bà Nguyễn thị Năm tức Cát Thành Long được ông Hoàng Tùng viết trong “Bí mật Hồ chí Minh” như sau:

“Nguyễn thị Năm tức Cát Thành Long có một người con làm trung đoàn trưởng ở cục chính trị của Văn Tiến Dũng. Gia đình bà trong dịp Tuần lễ Vàng có hiến 100 lượng vàng. Bà còn tham gia công tác của Hội Phụ nữ từ năm 1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần nào, các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường hay ăn cơm ở nhà bà. Gia đình Nguyễn thị Năm cũng giống như các gia đình Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô giúp đỡ nhiều cho cách mạng. Chọn địa chủ Nguyễn thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung quốc. Họp bộ chính trị bác nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”. Sau cố vấn Trung quốc là La Quý Ba đề nghị mãi, bác nói:“Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. Và họ cứ thế làm. Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức khác của đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền, các đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng tháng 8 thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng ta. May mà đến năm 1956 ta kịp thời dừng lại…

“Đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung quốc đề ra. Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ, điều đó chỉ đúng một phần nào, còn là do ta làm vội, làm ẩu, đánh tràn hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng đánh. Đảng viên nhiều người tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải cách lúc đó là như thế”. (Đàn chim Việt online ngày 4-7-2010)

Nhà văn Vũ Thư Hiên, con của cụ Vũ Đình Huỳnh, bí thư của ông HCM. Cả hai cha con ông Vũ Thư Hiên đã từng ở tù về tội “Xét lại chống đảng”. Trong quyễn “Đêm giữa ban ngày” ông Hiên viết về CCRĐ như sau:

“Từ tinh mơ đoàn người rầm rập trên các nẻo đường làng còn tối đất, khản tiếng hô vang những khẩu hiệu có mùi máu. Dân chúng ùn ùn đổ về những sân đình, những bãi rộng, nơi sẽ diễn ra những cuộc đấu tố bọn địa chủ cường hào gian ác…

“Đấu tố diễn ra liên miên, ngày một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước, được đảng phóng tay phát động, vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá trong niềm vui hành hạ đồng loại. Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi: nườm nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không biết để chiến đấu với quân xâm lược mà với chính đồng bào mình…

“Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì hấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết: “Ơi cụ Hồ ơi, cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân cụ thế này đây!”

“Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi mới được người ta hạ xuống.

“Cha bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước năm 1945, bị tống giam vì bị vu là đảng viên Quốc Dân đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh: “Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ, với đảng. Tôi không phản bội. HCM muôn năm!”

“Người ta lấy gai bưởi cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta tội gì, có thể cô ta là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn những cái gai sâu thêm một chút làm cho cô gái rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói”. (ĐGBN- trang 30-31)

Ông Nguyễn văn Thủ, quê ở tỉnh Hưng Yên khi trả lời phỏng vấn của đài RFA thì đang ở Hà Nội kể lại chuyện gia đình ông bị đấu tố hồi CCRĐ như sau:

“Gia đình tôi, cụ (ông nội) công tác tốt, đến lúc ấy tự nhiên quy cho cụ tôi là thành phần đối kháng, bắt cụ đi đấu tố, gia sản bị tịch thu hết. Tôi bị coi là con nhà địa chủ, khổ lắm, đi ra ngoài đường là phải chào ông bà nông dân. Dù nó là con là cháu mình, cũng phải gọi nó là “Ông” là “Bà”… của cải mất hết, chả còn gì cả…

“Lúc ấy, tự nhiên nó như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà tôi, người ta như muốn ăn thịt luôn, họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy, người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử hình, bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu”. (RFA online ngày 19-5-2006)

Nhạc sĩ Trịnh Hưng, hiện đang ở bên Pháp, là người bạn thân vừa về thăm thi sĩ Hữu Loan và kể lại câu chuyện có liên quan đến tác gỉa bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim như sau:

“Ông ấy kể tôi nghe là: Lúc ấy, ông ấy là trưởng Ban Tuyên huấn của Đoàn 304, do tướng Nguyễn Sơn phụ trách, quân đội thì đói khổ lắm, chỉ có ăn khoai, ăn sắn, không có gạo mà ăn… Ông địa chủ đó thì giàu, tháng nào cũng đem gạo đến, để nuôi quân cho… Chính tướng Nguyễn Sơn tháng nào cũng làm lễ vinh danh cho ông ta, ban thưởng huân chương.

“Năm 1953, bị đấu tố, lan đến Thanh Hoá, ông bà địa chủ ấy bị giết chết. Nhà thì chỉ có một cô con gái thôi. Nó cấm tất cả mọi người, con trai, hay con gái, không được kết hôn với con nhà địa chủ, không được nuôi con nhà địa chủ.

“Ông ấy (nhà thơ Hữu Loan) thấy bực quá, mới bỏ về làng, đi qua làng ấy, ông ghé vào thăm, ông biết rằng ông bà cụ bị giết rồi, cô con gái không ai nuôi cả, cô ấy phải đi mót sắn, mót khoai ở ngoài đồng, ăn sống, để sống thôi, quần áo rách rưới bẩn thỉu lắm, ngủ ở đường, ở đình làng, ông thấy thế, thương hại và đem về nhà nuôi… và bây giờ là vợ ông ấy!” (RFA online ngày 19-5-2006)

Nhà văn Trần Mạnh Hảo, người bị đuổi ra khỏi đảng CSVN năm 1989 và đuổi khỏi biên chế nhà nước viết cuốn “Ly thân” có bài “Độc quyền chân lý là thủ tiêu chân lý”, đoạn ông viết về CCRĐ:

“Ông đội (tên gọi cán bộ CCRĐ từ trung ương phái về) từ trên bàn xử án xông tới sát ông Luân bị trói, bị chôn chân tới đầu gối trong chiếc “hố đấu tố”, đoạn hét: “mày có hô CCRĐ muôn năm không?” Ông Luân trợn mắt, đôi mắt sưng tấy, lòi cả con ngươi ra…

“Sau đó, ông đội lên bàn xử án, tuyên bố thay mặt đảng và bác vĩ đại, tuyên án xử tử hình gián điệp Quốc Dân đảng Luân, lệnh du kích xã lên đạn rốp rốp thị uy; đoạn trói nghiến ông Luân vào cọc bắn trên ruộng cạn mùa đông đang rét…

“Ông Luân bị bắn bằng bốn cây súng trường. Bốn phát đạn cùng lúc đều trúng vào ngực ông Luân phụt máu, khiến ông gục xuống liền, cái giẻ nhét miệng ông bị máu trào ra, rơi bịch xuống như một cục máu đông, hay một mảnh phổi vở tràn ra ngoài”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)

Dưới đây là chuyện của cựu trung tá QĐND Trần Anh Kim, hiện đang ngồi tù 5 năm rưởi về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” đã trả lời phỏng vấn của Việt Hùng, phóng viên đài RFA kể về hoàn cảnh của gia đình ông bị xử một cách dã man trong chiến dịch CCRĐ như sau:

“Đến CCRĐ, sau năm 1954 giải phóng, sau đó giảm tô, đến CCRĐ thì người ta quy cho ông tôi là địa chủ, và quy cho bố tôi là QD đảng. Bố tôi là Phó bí thư QD đảng và bác tôi là Bí thư QD đảng. Bác tôi bị bắn luôn, ông ấy nhận thì bị bắn luôn. Còn bố tôi thì kiên quyết không nhận. Không nhận thì người ta tra tấn, người ta thắt hai dây thừng vào hai ngón chân cái rồi người ta kéo lên sàn nhà, bố tôi đau quá, kêu khóc xin thả xuống. Kêu khóc quá to thì người ta, lấy rơm, lấy rạ nhét vào mồm…

“Địa chủ ngày đó là địa chủ “phân” anh ạ. Thí dụ mỗi thôn là mấy địa chủ thì cứ thế mà người ta đưa lên thôi. Cuối cùng cũng bị tù không án hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi đi tù nhiều. Tức là tay thì trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi”.

(RFA online ngày 19-5-2006)

4. Dư luận về CCRĐ:

Học gỉa Hoàng Xuân Hãn nói lên cái nhận định của mình về chiến dịch CCRĐ khi trả lời phỏng vấn của Thuỵ Khuê trên đài RFA:

“Cái mất mát lớn bởi sai lầm trong CCRĐ là nó phá vỡ mất cái nông thôn Việt Nam và phá vỡ mất lòng tin. Cái nguy hại của CCRĐ là ở chỗ nó phá vỡ một tế bào quan trọng vào bậc nhất của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là làng quê”.

(Người Việt ngày 7-9-2004)

Cố thủ tướng CSVN Võ văn Kiệt, người có nhiều trăn trở trong việc làm của mình đã qua, ông cũng nói lên quan điểm của mình về chiến dịch CCRĐ sau khi đã không còn chức vụ gì trong chính phủ:

“Năm 2005, ông Võ văn Kiệt, nguyên thủ tướngViệt Nam, nhìn nhận “Trong các chiến dịch CCRĐ và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế” nhằm khẳng định đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh của đất nước”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 19-5-2006)

Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân, trả lời phỏng vấn của BBC, ông nói còn nhiều vấn đề trong lịch sử Việt Nam nữa thế kỷ trước tiếp tục là kiêng kị, chưa được bàn thảo sòng phẳng:

“Trong xã hội Việt Nam lâu nay, xung quanh đề tài CCRĐ, dư luận buộc phải im lặng. Sự kiện CCRĐ, khi xảy ra, đã làm đảo lộn đời sống nông thôn miền Bắc; nó đi vào lịch sử như một vết thương. Có thể nói đó là vết đen lớn đầu tiên mà phong trào của những người cộng sản khi lên cầm quyền đã để lại trong xã hội Việt Nam”. (BBC online ngày 14-1- 2007)

Ông Đoàn Duy Thành, nguyên phó thủ tướng chính phủ, người đã từng kể về mật lệnh Z 30 tịch thu nhà hai tầng trở lên hồi sau năm 1975 viết về CCRĐ trong cuốn “Lý luận HCM” ông nói lên cái nhận định của mình về cái chiến dịch này:

“Những sai lầm của CCRĐ đã để lại hậu quả lâu dài cho dân tộc, cho đất nước, là sự hận thù, sự lừa dối, xảo trá, vu khống như: tố điêu, ép cung, bịa chuyện…gây tai họa cho bao gia đình, làm mất đi những truyền thống tốt đẹp về gia đình, họ hàng, làng xóm, mà cha ông ta đã dày công xây dựng hàng nghìn năm…

“Những sai lầm trong việc đấu tố không chỉ có trong CCRĐ, mà cũng phổ biến trong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, nhưng cải tạo công thương chỉ làm ở một số thành phố và tiến hành sau CCRĐ nên phần nào giảm bớt sai lầm, khuyết điểm, tác hại của nó cũng chỉ thu hẹp trong một số thành phố”.

(Bauxite Việt Nam online ngày 16-11-2010)

Cụ Nguyễn văn Trấn, một lão thành cách mạng nổi tiếng của miền Nam trong quyễn “Viết cho Mẹ và Quốc hội” cho chúng ta thấy được rõ ràng sự nô lệ của chính phủ Hồ chí Minh trước đế quốc Trung cộng là như thế nào. Họ ngữa tay nhận viện trợ của Trung cộng để đánh Pháp, Mỹ giải phóng dân tộc (?), nhưng lại tròng vào cổ dân tộc một ách thống trị nguy hiểm hơn, tàn bạo hơn và lâu dài hơn.

“Ác hết sức là cố vấn Trung quốc hiến cho cái kế Phóng tay. Phóng tay! Nói nôm na (theo Nam bộ) là “cứ việc làm mạnh thả cửa”. Và họ dẫn lời vàng ngọc nguỵ biện,“à la” Mao Trạch Đông.

“Kiểu uông tất tu quá chỉnh”. Có nghĩa là: muốn uốn khúc cây cong, ắt phải kéo nó quá chiều.

“Trời ơi! đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó trở lại giết chết bao vạn sanh linh…

“Có lần anh chị em Nam bộ “Đại biểu tôi đến gặp ông gìa Tôn mà hỏi, tại sao ổng để cho CCRĐ giết người như vậy?”

“Bác Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi, liền đứng dậy bước ra khỏi ghế, vừa đi và nói: “Đụ mẹ, tao cũng sợ nó, mầy biểu tao còn dám nói cái gì?

“Quả thật, lúc CCRĐ còn nghe theo Chệt mà phóng tay phát động ai mà có ý kiến với nó thì sẽ bị quy là có tư tưởng địa chủ”. (VCMVQH- trang 266-267)

Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, một nhà trí thức trẻ lớp hậu sinh góp lời nhận định về công cuộc CCRĐ của HCM khi trả lời phỏng vấn của Duy Ái đài VOA:

“Theo tôi cột mốc rõ nhất cho sự phi dân chủ hóa để trở thành độc tài toàn trị của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một cái tên rất dân chủ, là việc đảng Lao Động VN phát động CCRĐ, được cụ Hồ gọi là cách “mạng long trời lỡ đất”, vào năm 1953. Bao trùm toàn bộ “cách mạng” này là sự tuỳ tiện của chính phủ cụ Hồ trong việc bắt giữ, hành hạ, bắn giết, tịch thu gia sản đối với hàng trăm nghìn người Việt Nam. Các thủ tục tư pháp thông thường đã có từ thời thực dân Pháp hay các quy định phải tôn trọng pháp luật và quyền con người được ghi trong Hiến pháp 1946 đều không được đếm xỉa trong CCRĐ”. (VOA online ngày 15-9-2010)

Để kết luận bài viết này, tôi xin mượn lời của cố giáo sư Nguyễn Mạnh Tường trích trong bài diễn văn “Qua những sai lầm trong CCRĐ” đọc trong phiên họp của MTTQ tại Hà nội ngày 30-10-1956 với tư cách là một thành viên của MTTQ. Và cũng chính vì bài diễn văn này mà ông đã bị tước hết chức vụ và danh vị nghề nghiệp và sống một cuộc đời bị bạc đải cho đến chết.

“… tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc CCRĐ. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội bị chết oan, không phải vì bàn tay của kẻ địch mà chính của ta…

“Trong CCRĐ chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết một cách thê thảm”. (Người Việt ngày 9-5-2005)

© Đại Nghĩa
(sưu tầm)

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Sun Feb 06, 2022 5:05 pm

Cải Cách Ruộng Ðất và các di sản

Nguyễn Hưng Quốc
(Nguồn: VOA)

Lần đầu tiên, cuộc Cải Cách Ruộng Ðất của Ðảng Cộng Sản ở miền Bắc được triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội vào đầu tháng 9 vừa rồi. Bản thân cuộc Cải Cách Ruộng Ðất đã đầy tai tiếng. Cuộc triển lãm nhân kỷ niệm 60 năm của cái gọi là vận động Cải Cách Ruộng Ðất ấy cũng đầy tai tiếng. Trên rất nhiều diễn đàn, nhất là các diễn đàn mạng, người ta ôn lại những kỷ niệm kinh hoàng về chiến dịch đầy máu và nước mắt ấy.

Chính sách Cải Cách Ruộng Ðất được Ðảng Cộng Sản tung ra vào năm 1946, tức một năm sau khi giành được chính quyền và cũng là năm đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc Ðảng Cộng Sản chỉ chiếm các vùng nông thôn và rừng núi. Giai đoạn đầu, Cộng Sản chỉ tịch thu đất đai của Pháp và một số người bị coi là tay sai của Pháp để cấp cho nông dân nghèo. Giai đoạn sau, từ 1950-1953, họ cắt giảm địa tô, bãi bỏ tiền thuê ruộng và đánh thuế nặng các địa chủ. Giai đoạn thứ ba, từ năm 1954 đến 1957, mới thực sự là Cải Cách Ruộng Ðất theo đường lối của Mao Trạch Ðông.

Nội dung chính của Cải Cách Ruộng Ðất giai đoạn thứ ba này không phải chỉ là tịch thu ruộng đất của địa chủ để cấp cho nông dân hay giảm tô, giảm tức như giai đoạn trước. Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất lần này còn nhắm đến mục tiêu tiêu diệt những thành phần họ cho là địa chủ, cường hào ác bá, những kẻ vừa theo giặc (Pháp) vừa bóc lột dân nghèo. Hình thức chính của cuộc cải cách là đấu tố và sau đó, xử tội hoặc tù giam hoặc tử hình.

Ở đây, có mấy điều đáng nói.

máy móc số lượng địa chủ chiếm 5.68% dân số ở nông thôn. Bởi vậy, ở nhiều địa phương nghèo khổ, những gia đình có một hai con heo (lợn) và một khoảnh ruộng nho nhỏ đã bị liệt vào thành phần địa chủ hay phú nông.

Thứ hai, trong việc xét xử, người ta không dừng lại ở phạm vi kinh tế mà còn mở rộng sang lãnh vực chính trị: Nếu những người gọi là địa chủ hay phú nông ấy có chút quan hệ với chính quyền Pháp lúc bấy giờ, họ bị vu tội phản quốc hay phản động bên cạnh tội bóc lột. Ðể luận tội, người ta không cần điều tra; người ta chỉ xúi giục những người được xem là bần nông hay cố nông lên tố cáo và hạch tội. Dựa trên các lời hạch tội và tố cáo ấy, người ta sẽ xử tội tội nhân.

Thứ ba, hình thức xử tội rất dã man: Có nơi xử bắn, có nơi chôn sống hoặc bắt nhịn đói nhịn khát đến chết.

Bàn về cuộc Cải Cách Ruộng Ðất ở miền Bắc, lâu nay, người ta chỉ tập trung vào tội ác của Ðảng Cộng Sản trong việc giết oan nhiều người dân vô tội. Nạn nhân tiêu biểu nhất, được nhiều người nhắc đến nhất là bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Hanh Long ở Hà Nội. Bà giàu, ừ, rất giàu. Nhưng bà lại là người ủng hộ Ðảng Cộng Sản và Việt Minh một cách nhiệt tình và tích cực. Ngay sau Cách Mạng Tháng Tám, vì thiếu ngân sách, Ðảng Cộng Sản tung ra chiến dịch “Tuần lễ vàng” và kêu gọi dân chúng tham gia, riêng bà Năm tặng đến mấy trăm lượng, chưa kể nhà cửa và thực phẩm. Bà cũng giúp đỡ rất nhiều cán bộ lãnh đạo của Cộng Sản. Cả Trường Chinh, Phạm Ðồng và Lê Ðức Thọ đều được bà xem như con nuôi. Ngoài ra, bà có người con ruột tham gia Việt Minh, vào bộ đội, và lên đến chức trung đoàn trưởng. Vậy mà bà vẫn bị giết. Chỉ vì những lời tố cáo vẩn vơ đâu đó.

Bên cạnh sự độc ác, Ðảng Cộng Sản còn mắc một lỗi khác: quá lệ thuộc vào Trung Quốc. Thời ấy, các đoàn cố vấn của Trung Quốc tấp nập sang Việt Nam (miền Bắc) để huấn luyện cán bộ Việt Nam, thậm chí, để chỉ đạo giới lãnh đạo Việt Nam. Tỉ lệ hơn 5% dân số ở nông thôn là địa chủ là do các cố vấn Trung Quốc đặt ra. Nhiều người còn tiết lộ, trong vụ xử tội bà Nguyễn Thị Năm, giới lãnh đạo miền Bắc, kể cả Hồ Chí Minh, đều biết các lời tố cáo là sai, nhưng dưới sức ép của các cố vấn Trung Quốc, họ vẫn nhắm mắt để mặc cho bà Nguyễn Thị Năm chết một cách thảm khốc và oan ức.

Theo tôi, ngoài hai vấn đề độc ác và lệ thuộc Trung Quốc nêu trên, có một khía cạnh khác quan trọng không kém trong các di sản của cuộc Cải Cách Ruộng Ðất ở miền Bắc: Nó phá nát đạo lý truyền thống Việt Nam, trước, trong quan hệ làng xã, sau, ngay trong phạm vi gia đình.

Tất cả các nhà nghiên cứu văn hóa truyền thống Việt Nam đều nhận định giống nhau: làng xã là một đơn vị đặc biệt mang dấu ấn rất Việt Nam. Trong làng, dĩ nhiên có người giàu và người nghèo, vẫn có bóc lột và áp bức, nhưng dù vậy, quan hệ giữa người với người, nói chung vẫn tốt đẹp. Họ đoàn kết với nhau trong việc bảo vệ quyền lợi của làng cũng như trong việc duy trì những truyền thống văn hóa tốt đẹp của làng.

Chính vì vậy, rất ít người muốn đi xa khỏi làng. Người ta quyến luyến làng và tự hào về làng. Trong cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, tất cả những quan hệ và tình tự ấy đều bị phá vỡ. Những người dân nghèo được các cán bộ xúi đứng ra tố cáo những người giàu có. Có khi là tố cáo những tội thật. Nhưng phần lớn, căn cứ trên con số trên dưới 80% xử oan, chỉ là những lời bịa đặt do các cán bộ từ trên xuống mớm vào miệng họ.
Qua các cuộc tố cáo và hành quyết dã man ấy, mọi người trở thành kẻ thù của nhau. Không ai còn tin tưởng ai nữa. Nhà có con gà chết dịch, muốn làm thịt ăn, người ta cũng phải ăn giấu ăn giếm, lông phải chôn thật kỹ, để khỏi bị tố cáo là địa chủ hay phú nông.

Không những phá vỡ quan hệ trong làng, các cuộc vận động Cải Cách Ruộng Ðất còn phá vỡ quan hệ trong gia đình với cảnh con tố cha, vợ tố chồng. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, để bảo vệ truyền thống đạo lý trong gia đình, vua chúa thường ra lệnh cấm không cho cảnh vợ tố chồng hay con cái tố cáo cha mẹ. Ở miền Bắc, ngược lại, ngay sau khi vừa nắm chính quyền, Ðảng Cộng Sản đã xúi giục những người thân nhất trong gia đình tố cáo nhau. Cuối cùng, không ai còn tin tưởng ai nữa.

Theo tôi, một công trình nghiên cứu nghiêm túc về các di sản của cuộc Cải Cách Ruộng Ðất ở miền Bắc trong mấy năm, từ 1954 đến 1957, là điều rất cần thiết. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết tổng số các nạn nhân bị giết chết cũng như tổng số những người bị bắt bỏ tù và tịch thu tài sản. Chúng ta cũng chưa biết thật rõ những tác hại tinh thần của nó trong đời sống xã hội cũng như trong quan hệ giữa người và người.

Còn có rất nhiều điều chúng ta chưa biết.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Sun Feb 06, 2022 5:11 pm

ĐỒNG-CHÍ CỦA TÔI
Văn Cao
Người ta các đồng-chí của tôi
Treo tôi lên một cái cây
Đợi một loạt đạn nổ
Tôi sẽ dẫy như một con nai con
Ở đầu sợi dây
Giống như một nữ đồng-chí
Một anh-hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải kêu lên
Như mọi chiến-sĩ bị địch bắn
Đảng Lao-động Việt-Nam muôn năm
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng-viên
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam
Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ
đã nuôi cách-mạng
Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi
dẫy chết
Có mẹ tôi
Ba lần mang cơm đến nhà tù
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng-chí bắn tôi
Tôi sợ các cụ già không sống được
Bao năm nữa
Để nhìn thấy xã-hội chủ-nghĩa
Của chúng ta.
Chết đi mang theo hình đứa con
Bị bắn
Tôi sợ các em còn nhỏ quá
Sẽ nhớ đến bao giờ
Đến bao giờ các em hết nhớ
Hình-ảnh tôi bị treo trên cây
Bị bắn
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng-chí bắn tôi…
Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Đảng Lao-động Việt-Nam muôn năm
Đảng Lao-động…
(1956)

~

Cải-cách ruộng đất
ĐĂNG NGÀY: 13.09.2014

VRNs(13.09.2014) – Mấy hôm nay trên các trang báo, các đài truyền hình, các websites, các blog và facebook nổ tung một lượng thông tin rất lớn về cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất (1946 – 1955 tại Hà Nội, cơn bão thông tin như xới lên vết đau mà lâu lắm rồi, 60 năm tưởng chìm vào quên lãng, chí ít là cũng tạm ngủ yên vì không mấy ai nhắc đến nữa. Bao nhiêu cảm xúc được phơi bày cho thấy, quả thật là một cuộc “cách mạng long trời lở đất” trong quá khứ còn hằn dấu cho đến hôm nay. Phản ứng mạnh và sâu rộng như thế này không biết đến bao giờ biến cố tang tóc này mới lắng xuống và trôi vào dĩ vãng?

Cuộc cải cách ruộng đất những năm ấy ghi một dấu ấn sâu đậm vào cuộc sống gia đình tôi, cách riêng cha tôi, mà cho đến giờ chết ông vẫn còn chưa nguôi ngoai nỗi đau buồn. Không riêng gì nhà tôi, hầu hết các gia đình ở miền Bắc đa phần đều hứng chịu, người cách này kẻ cách khác, kẻ cả những gia đình đã vào Nam trước nhưng vẫn có liên hệ với họ hàng thân thuộc ở lại miền Bắc.

Năm 1945, khi Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền, cha tôi, đang còn là một thanh niên, vội vàng bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con ở miền quê nghèo nàn của mình, trốn lên thành thị để tránh bị ruồng bắt. Cha tôi chẳng làm gì để phải mắc “nợ máu” với nhân dân, nhưng ông bị tìm bắt chỉ vì đã là chánh hội Nam Thanh (hội Thanh-Niên Công-Giáo trong Giáo-Xứ thời bấy giờ), bị xem là lực lượng đối kháng với họ. Mẹ tôi kể “Bố vừa thoát ra khỏi nhà ban chiều, lúc sập tối, thì nửa đêm họ ập vào nhà lục soát tra khảo mẹ”.
Sau cái đêm kinh hoàng ấy, mẹ tôi đã tìm cách đưa đứa con trai đầu lòng trốn lên thành Nam theo bố, ông Nội tôi thì giữ bằng được đứa con trai thứ hai ở lại quê để “hương khói tổ tiên”. Mẹ tôi sẽ tìm cách trở về làng “đánh tháo” đứa con này của mình, cha tôi sẽ đạo diễn “chiến dịch” ly kỳ ấy, vì không chịu được cảnh “cứ xới cơm lên là mẹ lại khóc vì mất con”.

Cuộc “bắt cóc” đứa con trai được thực hiện đúng ngày lễ Đức Mẹ lên Trời, bổn mạng của Giáo Họ, mọi người vui vẻ tham gia cuộc rước kiệu, ông Nội tôi mải mê đọc kinh đi theo kiệu, anh tôi thoát ra sau mật lệnh của thím út, hai mẹ con gặp nhau ở bãi tha ma rồi cắm đầu chạy. Cuộc đào thoát diễn ra ban đêm, hai mẹ con băng qua các cánh đồng chứ không dám chạy trên mặt lộ sợ bị bắt lại. Khi đến được nơi an toàn là bến đò, hai mẹ con xuống núp ở một canô chở chiếu đi buôn. Lúc này mẹ tôi mới phát hiện ra túi bánh kẹo cha tôi mua, dặn trao cho thím út mang về làm quà cho mọi người, vẫn còn đeo nguyên bên người… Sau này, năm 1975, các anh tôi phải đi tù cải tạo xa, nhiều tháng ngày không tin tức, một lần nữa mẹ tôi lại nhiều phen băng rừng tìm con, bà lồng lộn lên như con thú bị mất con, quyết tâm giành lại cho bằng được.

Di cư vào miền Nam rồi, ngày được tin ông Nội tôi mất, cả nhà bao trùm một bầu khí thê lương. Bố tôi ngồi rầu rĩ không nói gì, mấy ngày trôi qua trong im lặng đáng sợ, chỉ có tiếng thở dài của bố và của mẹ, thỉnh thoảng các chú tôi đến nhà, mấy anh em lại ngồi vò đầu thở dài với nhau. Mấy ngày sau bố tôi tổ chức phát tang rồi đi dâng lễ ở Nhà Thờ, tối tối đọc kinh trong nỗi buồn hiu hắt. Sau này nhờ Ủy Hội Quốc Tế, các danh thiếp liên lạc Bắc – Nam cho chúng tôi biết rõ hơn về cái chết của ông. Sau 30 tháng 4, chính cô tôi vào Nam kể lại nhiều chi tiết đau xót hơn nữa.

Ông tôi, một nông dân nghèo, sở hữu 2 công ruộng, bị xếp loại địa chủ lôi ra đầu tố. Cả cuộc đời chân lấm tay bùn, cày cấy trên chính mảnh ruộng của mình còn không đủ ăn lấy ruộng đâu ra mà cho tá điền làm thuê? Tính tình ông nhân hậu, cho người hàng xóm mượn vài yến thóc, thế cũng đủ là nguyên nhân để bị kết tội địa chủ. Người ta vin vào việc ông có thóc cho vay, chính người hàng xóm từng được vay thóc đã quay ngược lại vu cáo ông tôi, rồi mấy người trong xóm theo phong trào, nhảy dựng lên mà kể tội, bảo “lắm của nhiều bạc nên mới phè phỡn sáng chiều chỉ mỗi một việc đến nhà thờ đọc kinh”!?!

Tòa Án Nhân Dân quyết định xử tử hình ông tôi. Đêm trước ngày thi hành án, cô tôi nắm một nắm cơm bò vào sân đình nơi nhốt ông tôi để ông ăn đỡ đói, khi bò vào đến nơi trói ông tôi, sờ vào người thì ông tôi đã mất rồi, người cứng đờ không còn biết gì nữa, cô tôi sợ quá không dám phản ứng gì, lẳng lặng bò ra. Hôm sau họ đem xác ông ra vùi ngoài bãi tha ma, đến con ruột cũng không dám thắp nén hương cho bố, mãi sau này mới đem cải táng về chung trong lăng mộ của gia tộc.

Cũng sau năm 75, người hàng xóm từng cầm đầu đám đông đứng lên đấu tố ông tôi tìm vào Nam, ông ta tìm đến thăm gia đình tôi và ngỏ lời xin lỗi, cha tôi lẳng lặng không một lời trách cứ. Sau bữa cơm mời khách, cha tôi bảo mẹ tôi cho họ ít tiền xe.

Khách về rồi, cha mẹ tôi bùng nổ xung đột, khi có khách bà nhịn không nói, khách đi rồi, bà bảo sao lại có thể dọn cơm đãi đằng kẻ đã vô ơn bất nghĩa, đã góp phần làm hại cha của mình cơ chứ. Cha tôi vẫn không một lời, gương mặt ông hằn lên nỗi đau khổ. Sau này khi ông đau nặng, những ngày tôi kề cận bên ông, nghe ông tâm sự, tôi mới hiểu ông bị dằn vặt về tội bất hiếu, đã vắng mặt trong những ngày khốn khổ của cha mình.

Không ai có thể đo được sự tàn phá của một chính sách tàn ác và sai lầm, nỗi đau len lỏi vào tận từng tâm hồn con người nạn nhân, di chứng đến nhiều thế hệ. Cái cách thi hành chính sách “cải cách ruộng đất” làm sụp đổ cả một hệ thống đạo đức xã hội, phá tan tình làng nghĩa xóm, gia đình anh em họ hàng ruột thịt, nó cắt nghĩa tại sao tội ác về sau này sẽ hoành hành hung tợn, con người sẽ chém giết nhau không gớm tay.

Người tin vào Chúa đứng trước thách đố vô cùng to lớn, nếu thật sự vững tin vào Chúa, phải chứng minh được rằng Tin Mừng có sức hàn gắn, chữa lành và thay đổi mọi sự. Mỗi người tùy theo lương tâm mách bảo mà dấn thân cho sự sống của dân tộc mình, dấn thân để không chỉ mang lại sự sống, nhưng còn là Sự Sống dồi dào bất diệt (x. Ga 10, 10).

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 13.9.2014
http://www.chuacuuthe.com/2014/09/cai-cach-ruong-dat/

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Sun Feb 06, 2022 5:18 pm

Vài khía cạnh của vụ “Cải Cách Ruộng Ðất” (Kim Nguyên)

Posted by Lê Thy

Lý thuyết và thực hành cách xa một trời một vực trong thế giới CS, nhất là qua vụ “cải cách ruộng đất” ở Bắc Việt trong các năm 1953-1956-1958. Ðây là một cảnh tượng hãi hùng mà người Việt Nam chưa từng thấy xảy ra trong lịch sử cận đại của dân tộc. Ngoài số thiệt hại lớn về nhân mạng, người ta còn thấy một sự hủy diệt về tình cảm, phong tục, tập quán và cả bản chất hiền hòa muôn đời của người nông dân VN.

Ngọn lửa thù hận giai cấp do đảng CSVN khơi mào đã thổi qua các đồng lúa miền Bắc và làm sụp đổ nền tảng kinh tế và phong tục, văn hóa của đất nước nhỏ bé này. Kể từ ngày chế độ CS xuất hiện, không một quốc gia nào “đón nhận” nó mà không bị thiệt hại nặng nề về lâu về dài ở đủ mọi ph+ơng diện. Cho dù mới đây, tại VNCS, từ 1986, sự “đổi mới kinh tê” đã đem lại chút đỉnh tiến bộ, nhưng mức độ tàn phá đất nước về người và của của CS trong mấy chục năm qua đã quá sâu xa tới nổi “đổi mới” vẫn không kéo lại nổi sự sung túc thật sự cho dân Việt Với GNP gia tăng vào khoảng hơn 8% môĩ năm mà VN vẫn nghèo, trong khi các quốc gia Ðông Nam Á chỉ cần 2.5% gia tăng là có thể được gọi là trù phú. Tại sao ? Lý do dễ hiểu là ngoài do sự thiệt hại nói trên, còn có nguyên nhân khác nửa, đó là cấu trúc CS còn tồn tại : nó đã bòn rút tiền tài và vật lực của đất nước, nó chính là trở ngại duy nhất cho tiến bộ và giàu có do nền kinh tế thị trường đem lại.

Một trong những thiệt hại đầu tiên do CS gây ra khi họ nắm chính quyền (“dành độc lập”) vào năm 1954 ở đất Bắc là vụ “cải cách ruộng đất”. Hậu quả và tai tiếng của nó vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, vì một số người bị đưa đi “cải tạo” vẫn còn sống chưa được tự dọ

Khi Hồ Chí Minh nêu ra tiêu lịnh cho Trường Chinh Ðặng Xuân Khu, Tổng Bí Thư Ðảng CS, phải phát động phong trào cải cách ruộng đất để tiêu diệt lớp điền chủ và trung nông — nói chung là những người có 2 mẫu ruộng trở lên — để cướp ruộng đất, tài sản, của cải của họ, thì Trường Chinh đã không làm một cách giản dị. Chinh đã được học qua cuộc cải cách này từ “chiến dịch Mao Trạch Ðông” – một cuộc cải cách ruộng đất của Mao vài năm trước đó. Chinh đã gởi Hồ Viết Thắng, Thứ trưởng phụ trách Cải Cách Ruộng Ðất, qua Trung Cộng để học hỏi thêm về chiến dịch này. Sau đó, Chinh ra lịnh tổ chức hàng ngàn “Ðội Cải cách ruộng đất” để đi khắp các làng, các tổng, các huyện để với “sát lịnh tuyệt đối”, tổ chức các cuộc “đấu tố” tiêu diệt phú nông và thành phần nông dân khá giả mà Hồ và Chinh gọi là “cường hào, ác bá, địa chủ tàn ác” để cả nước có thể tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc tới chủ nghĩa xã hội.

“Ðấu tố” có nghĩa là tiêu diệt giai cấp trí thức, phú nông, công thần, kẻ khá giả hay là tất cả những người không thuộc giai cấp bần cố nông. Khi tiêu diệt những giai cấp “khá hơn” giai cấp bần cố nông thì tự nhiên tài sản ruộng đất của họ “thuộc về” đảng CS quang vinh và Nhà Nước xã hội chủ nghĩa. Cướp của giết người giữa ban ngày trên qui mô rộng lớn của cả miền Bắc với hàng triệu người bằng “lệnh” của “Bác Hồ” và Ðảng CS là như thế. Hồ cũng cao tay là đã làm cho người Việt còn sống sót thấy “chỉ làm chủ” một mảnh ruộng nhỏ mà còn bị Bác Hồ ưu ái đấu tố giết chết thì “bố thằng nào” dám tính chuyện sở hữu hay tư hữu !

Nhưng các địa chủ không có tội tình gì thì sao ? Lại còn một số không phải là địa chủ mà chỉ làm chủ một vài sào ruộng thì sao ? Tên trưởng đội cải cách đến một làng nào thì được dân làng đó coi như ác quỷ hiện hình. Tên này liệt kê các thành phần nông dân, lưng chừng, công thần, không tích cực ủng hộ Việt Minh, v.v… Tất cả đều có thể được coi là địa chủ. Tên đội trưởng đội đấu tố coi như được Bác Hồ và cụ Trường Chinh cho toàn quyền sinh sát. Y muốn cho ai lên danh sách bị đấu tố thì chọ Y bắt cả làng phải “học tập” về các “tội ác do cụ Hồ bày biểu bịa đặt” cho yï Y đã học thuộc để khi mang những người nông dân xấu số này ra “đấu trường” thì mọi người phải đứng ra kể tội.

Sự kể tội này mà y gọi là “đấu tố địa chủ”. “Tội” có nhiều thứ bỉ ổi mà chỉ có Bác Hồ kính yêu mới có thể bày ra vì chính Bác Hồ kính mến mới có khả năng bày ra, chỉ vẻ khá rành rẽ cho đến khi Bác chết. Phần nhiều các “tội” được “kể lể” ra và nạn nhân bị xỉa xói, nhổ nước bọt vào mặt với những câu như : “Con này, thằng kia ngày xưa mày hãm hiếp bà, mày đè bà hãm hiếp ngoài đồng, mày cho vay lãi cắt cổ, mày bắt bà phải ngủ với mày để trừ nợ, mày đến nhà bà mày bắt con bà về làm nông nô cho mày để trừ nợ, v.v…” Nhiều khi người bị chửi đã quá già và người chửi quá trẻ, không thể có những chuyện như vậy.

Thật là một cảnh tượng rùng rợn của địa ngục trần gian mà chỉ có CS mới có thể tạo ra như vậy. Ðội đấu tố là ác quỉ. Ðội trưởng là “thượng quỉ”. Nhân dân thì xanh lè mặt mũi vì không biết ngày mai sẽ đến lượt mình hay ai khác. Cuộc đấu tố ở mỗi làng kéo dài hàng năm cho đến khi giết hết những đối tượng nhân dân mà 2 cụ Hồ và Chinh muốn họ ra đị

Muốn cho sự kể tội được xôm trò, tên đội trưởng đội cải cách bắt luôn cả con cái nông dân ra xỉa xói chửi bới kể những “tội bịa đặt” vào mặt cha hay mẹ chúng, có khi cả cha lẫn mẹ, cho đến khi mọi ngườ đều hết hơi, mỏi mệt.

Các nông dân “địa chủ” bị buộc phải kêu mọi người bằng “ông” và “bà” và xưng là “con” kể cả với con cái mình. Lúc đó tên đội trưởng mới phán quyết bản án của y : tử hình, giết ngay tại chỗ bằng bừa đứt đầu hay bắn súng, v.v… Nhà cửa bị tịch thu và gỡ ra chia cho Ðội trưởng đội cải cách và Ủy ban nhân dân xã. Con cái địa chủ sau khi bị bắt buộc đấu tố chửi bới cha mẹ của chúng xong cũng bị đuổi ra sống nơi bờ sông bãi xú và vĩnh viễn không được đi học, không được thu nhận làm cán bộ hay công nhân viên nhà nước. Về việc đấu tố này, ông Nguyễn Chí Thiện có làm bài thơ sau đây :

Ðược nghe Bà kể khổ
Con thấy đời con thực là đáng chết !
Con đã đi bốc lột để nuôi Bà !
Con bây giờ không dám nhận là cha
Dù Bà là do con đẻ ra !
Con, thành phần địa chủ thối tha
Trước Nhân Dân, trước Ðảng, trước Bà
Xin thành khẩn cúi đầu chịu tội !
Ðó là lời của một cụ đồ ở ngoại thành Hà Nội
Trước đấu trường giăng giối với con !

Nguyễn Chí Thiện

Ông Nguyễn Chí Thiện cũng tả Hồ Chí Minh và Trường Chinh trong chiến dịch đấu tố trong bài thơ vịnh khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của tên trùm Việt gian CS Hồ Chí Minh :

Không có gì quý hơn độc lập tự do

…”Nó”, gọi Tầu, Nga là cha anh “nó”
Và tình nguyện làm con chó nhỏ
Xông xáo giữ nhà gác ngõ cho cha anh !
Nó tận thu từ quả trứng, quả chanh !
Cuộc chiến tranh chết vội hết thanh niên
Ðương diễn ra triền miên ghê gớm đó
Cũng là do Nga giật, Tầu co
Tiếp nhiên liệu gây mồ cho nó !
Súng, tăng, tên lửa, tầu bay !
Nếu không, nó đánh bằng tay ?
Ôi thứ độc lập không có gì quý hơn của nó !
Tôi biết rõ, đồng bào miền Bắc này biết rõ
Việc nó làm, tội phạm nó ra sao ?
Nó là tên trùm đao phủ năm nào
Hồi cải cách đã đem tù đem bắn
Ðộ nửa triệu nông dân rồi bảo là nhầm lẫn !
Ðường nó đi trùng điệp bất nhân !
Hầm hập trời đêm nguyên thủy !
Ðói khổ dựng cờ đại súy !
Con cá, lá rau nát nhầu quản lý !
Tiếng thớt, tiếng dao vọng từ hồi ký !
Tiếng thở lời than đan họa úp vào thân !
Nó tập trung (cải tạo) hàng chục vạn ngụy quân
Nạn nhân của đường lối khoan hồng chí nhân của nó…
Nguyễn Chí Thiện

HCM ra lịnh đấu tố, Truờng Chinh chỉ hành sự. Chinh giao cho các Ðội trưởng đội đấu tố toàn quyền đấu tố và giết bất cứ ai theo kiểu “tiền trảm hậu tấu”. Dụng ý khác của Hồ là chỉ thị cho Trường Chinh tiêu diệt hết các chiến sĩ và gia đình có công với kháng chiến chống Pháp không thuộc giai cấp bần cố nông. Hồ sợ những người này sẽ phẫn uất vì không được thưởng công lao vào sinh ra tử chiến đấu trong vòng 10 năm chống Pháp với Hồ. Giờ đây, khi mục đích đã đạt, Hồ và Chinh lại gọi những người này là “mắc bịnh công thần” và sợ họ nổi dậy chống lại. Hồ muốn quịt công họ và đã giết họ. Theo lời của Bùi Tín thì ít nhất 11,000 sĩ quan và binh sĩ thuộc loại này đã bị Hồ cho đi mò tôm…

Cái hiểm độc ở đây còn là việc Hồ và Chinh buộc nhân dân phải bất hiếu chửi mắng kể tội cha mẹ của mình. Ðiều nầy dân miền Nam sau 30/4/1975 đã bắt đầu hiểu được khi con cái của họ được đoàn ngũ hóa trong nhóm “thiếu nhi quàng khăn đỏ”. Các em bé này nghe lịnh “cô, thầy” ở trường để dòm ngó cha mẹ chúng.

Làm xong vụ này, Hồ cũng thấy “hối hận” lắm. Năm 1958, nhân dân miền Bắc phẫn nộ muốn làm loạn vì thấy Hồ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Ðồng cứ nhỡn nhợ Hồ thấy nhân dân nổi giận liền mắng (đóng kịch) Chinh là “sai” và trừng phạt Chinh bằng cách “đày” làm Chủ tịch Quốc Hội, kiêm Chủ tịch Thường vụ Quốc hội, kiêm luôn cả chức vụ chỉ định các bộ trưởng chính phủ cho tới khi chết, gần khảng 30 năm saụ Sau đó, Hồ liền ra lịnh ngưng đấu tố và bắt đầu “sửa sai”. Sau “sửa sai” là chiến dịch “hợp tác hoá” nông nghiệp , biến đảng thành chủ điền lớn nhất nước. Các giai đoạn đấu tố – sửa sai – hợp tác hoá nông nghiệp thực ra đều là các giai đoạn mà Mao Trạch Ðông đã nghĩ ra từ “Chiến dịch Mao Trạch Ðông”. Hồ, Chinh, Ðồng, Giáp và đảng đã biết từ trước họ sẽ làm gì và đối xử ra sao với dân miền Bắc để đạt tới mô hình XHCN. Dĩ nhiên dân miền Bắc làm gì thấy được mưu sâu của họ. “Sửa sai” để làm gì khi hàng trăm ngàn người đã ngỏm củ tì từ khuyạ Sửa sai hay không thì biết bao oan hồn đã bay đi quanh quất khắp miền Bắc. Sửa sai để làm gì vì rốt cuộc ruộng đất không bao giờ trở về tay của các nông dân bị kết án saị Trong vụ “cải cách” này, Hồ đã bắt khoảng 100,000 người cho đi cải tạo. Sau vụ sửa sai và lời “xin lỗi” của Hồ, số được thả đã trở về quê “làm thịt” lại những người bịa đặt đổ tội lên đầu họ. Thế là máu lại chảy rạ..

Sống trong thời giam u ám này cũng như những thời gian sau đó, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện không khỏi thốt ra những dòng thơ sau đây :

Ðồng lầy

Ngày ấy, tuy xa mà như còn đấy
Tuổi hai mươi, tuổi bước vào đời
Hồn lộng cao, gió thổi chơi vơi
Bốn phía bao la chỉ thấy
Chân mây, rộng mới tuyệt vời !
Ngất ngây, làm sao ngờ tới
Bùn đọng hồ ao mạn dưới phục chờ !
Tuổi hai mươi, tuổi của không ngờ
Không sợ !
Viển vông đẹp tựa bài thơ
Mơ ước
Ðợi chờ
Vĩ đại …

Nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại
Tuổi hai mươi mất nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ
Tô thắm màu xứ sở yêu thương.
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông
Mật trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng
Ôi tiếc thương bao mùa lúa vun trồng
Một mùa thu nước lũ
Trở thành bùn nước mênh mông
Lớp lớp sóng hồng man dại
Chìm trôi quá khứ tương lai
Máu, lệ, mồ hôi, rớt rãi
Ði về ai nhận ra ai !
Khiếp sợ, sững sờ, tê dại !
Lịch sử quay tít vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn rết công khai
Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai
Ðúng lúc đất trời nhợt nhạt
Bọn giết người giảo hoạt
Nâng cốc mừng thắng lợi liên hoan
Ðiệu nhạc cơ hàn thăm thẳm miên man
Ðiệp khúc lìa tan thúc dục
Ngục tù cất bước oan khiên
Thành thị thôn quê sơn hải trăm miền
Hội tụ !
Bãi sú, bờ lau, rừng rú
Thây người vun bón nuôi cây,
Ðạo lý tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa thầy, phản bạn
Và tuyệt đối trung thành vô hạn
Với Ðảng, với Ðoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Hạt thóc, hạt ngô phút hóa xích xiềng
Họa, phúc toàn quyền của Ðảng
Dần dà năm tháng
Mắt ngả sắc vàng, da sắc xám
Ði về ai nhận ra ai ?
Ôi ngàn hoa run tái !
Ðáng thương giữa chốn đồng lầy
Sậy úa lau gầy, lạc loài thảm hại
Rồi đây, khi mặt trời thức dậy
Chắc là hoa đã tàn phai
Chẳng còn được thấy !
Tôi vẫn ngồi yên mơ màng như vậy
Mặc cho đàn muỗi quấy rầy
Bóng tối lan đầy khắp lối
Không còn phân biệt nổi
Trâu hay người lặn lội phía bờ xa
Gai ốc nổi trên da
Cái họa áo cơm không chừa ai hết !
Buồn nghĩ tới chuyện xưa Thần chết
Cùng lão tiều đốn củi già nua
Tôi ngước trông xem có một ngôi chùa
Ngôi chùa đã trở thành huyễn mộng.

Con ác điểu hoài nghi xù đôi cánh rộng
Truy lùng mồ mả cha ông
Thánh thất miếu đường xáo động
Con thuyền chở đạo nghiêng chao
Sóng gió thét gào, man rợ
Tiếng sinh linh nức nở, âm thầm
Mặt đất tím bầm, tiết đọng
Lá cờ lật lọng
Nhân buổi dương tàn âm thịnh cao bay !
Thần tượng cuồng quay, hình thay lốt rũ
Hang Pắc-Bó hoá thành hang ác thú
Bác Hồ già hoá dạng bác Hồ Ly
Ðôi dép lốp nặng bằng trăm đôi dép sắt
Bộ ka-ki vàng, vàng như mắt dân đen
Qủy quái, đê hèn, lừa đảo !
Gia tài tra khảo cướp trơn tay
Từ buổi Qủy vương hớn hở mặt mày
Ðứng trước Ðảng kỳ trịnh trọng
Ðọc lời khai mạc thủa hoang sơ
Tụ tập đảng viên đại hội dưới cờ
Nguyện đem cuộc đời hơi thở
Ðạp bằng, phá vỡ
Ngàn năm văn hiến ông chạ
Ảo vọng dựng lên một thứ sơn hà
Mê muội, nặng nề không hề nghiêng ngả
Nó lùa, nó thả
Lũ mặt người dạ thú xông ra
Khiến đồng xa
Nơi mấp mô mồ mả
Các hồn ma cũng hả vong linh
Vì thấy địa ngục của mình
Còn ít nhục hình hơn dương thế !
Mạng sống không bằng con giun con dế
Ðầu ngửng lên tuy nhìn thấy trời xanh
Mà chân không thể nào rút khỏi
Vũng lầy man mọi hôi tanh
Ma qủy rình canh, nghiệt ngã
Rau cháo cầm hơi, mồ hôi tầm tã
Bọn sậy lau đã chán cả chờ trông
Hầu cam phận sống trong bùn xám
Ðời càng u ám
Quỷ vương càng đình đám liên hồi
Ôi, dần dà tôi không phải là tôi
Một khối rũ mòn nhức nhối
Mang đầy mộng ước thiu ôị
Nếu tôi đổ mồ hôi
Mồ hôi sẽ hòa máu phổi
Nhưng những niêu cơm quá vơi mà Ðảng đem phân phối
Không nhường thịt gân một chỗ để đàn hồi !
Bao đêm rồi tôi nguyện luyện hồn tôi
Trút bỏ buồn đau tiếc hối
Nén dập hờn câm dữ dội
Ngày đêm dìm luộc thân tôi
Nhão nhừ, nóng hổi !
Nhưng làm sao trút và nén nổi
Nhưng làm sao điếc, mù, câm nổi
Khi con người chưa sống được bao nhiêu
Cũng như khi chưa yêu mến thật nhiều
Làm sao biết ghét !
Chỉ quả bóng xì hơi đã bẹp
Mới để cho Người – Ðịnh mệnh – dẫm lên trên
Còn những đại dương sóng dậy vang rền
Chỉ dịu lắng khi mệt vì bão táp !
Tôi ngồi yên nghe thời gian chậm chạp
Mang tâm hồn thấm hết cảnh trăng xuông
Trên đồng không nước lội sương buông
Cây cỏ lạnh mờ, hoang vắng
Ôi những bờ xa, lời xanh nhạc nắng
Nếu có kẻ cho đời là cay đắng
Hãy vào đây nếm thử vị đồng lầy
Cho dạ dầy, óc, tim, lưỡi, cổ
Biết biệt phân tân khổ ngọt bùi !
Giữa biển vui không hiểu tiếng cười
Là những kẻ cuộc đời chưa dậy sóng
Trời cao biển rộng có cũng như không !
Một tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồng
Tôi tỉnh hẳn, trở về cơn ác mộng
Muỗi nhơn nhơn từng đàn vang tiếng động
Những con cưng của ngừng đọng tối tăm
Chúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm
Nên chúng tưởng màn đen là ánh sáng !
Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cáng
Chửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đen
Lũ sậy lau còm cõi đứng chen
Hơi có gió là cúi đầu rạp hết
Bát ngát xung quanh một mầu khô chết
Ðồng lầy mỏi mệt
Lặng câm, lũ kiến đi về
Ôi, cuộc đời hay một cơn mê
Mà người, ngựa, trâu, bò giống nhau đến thế !
Những chiếc sơ mi bỏ ngoài để che bụng phệ
Ði về chễm chệ xe “dim”
Lúc vuốt xoa
Lúc hăm dọa
Lúc gật gù
Với một lũ lù lù rác rơm ẩm mốc
Những loài thảo mộc
Ngu ngốc, ù lì, nhẫn nhục
Nằm đợi ngày tàn mục thối tha
Mặc cuốc kêu thê thảm đêm ngày
Xác gầy, khổ não !
Bọn gỗ đó phải chờ giông bão
Mới chịu ào ào nhổ rễ đứng lên
Nhưng hình như Trời đã bỏ quên
Mảnh đất đồng lầy xám ngắt
Như tôi vẫn ngồi đây héo hắt
Mắt thâm quầng trông ngóng trời xanh
Bốn chung quanh ếch nhái vẫn đồng thanh
La ó mong làm hỏng tim hư óc.
Ðể trai tráng say mùi chết chóc
Ðể người già yên vui tang tóc
Tóm lại là để tình nguyện ly tan
Nhưng mặt trời mùa thu mà như tiết đại hàn
Súng ống từng đoàn run run, nhớn nhác
Ðảng lùa đi tan tác thương vong
Mái ngói, mái gianh lệ thảm ròng ròng
Nhỏ xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng
Ðảng dữ thét gào, hóc xương ngang họng
Giọng thều thào, gượng gạo hung hăng
Lưới thép nền chuyên chính tung quăng
Khốc liệt, bậy xằng, ức oan,cay đắng
Dân đen tay trắng cam đành
Từ rừng núi hoang vu tới phố xá thị thành
Từ hải đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát
Màu áo vàng cảnh sát
Tràn lan, nhợt nhạt cả màu xanh
Cuộc sống đồng lầy rợp rát, nhoét tanh
Bom đạn chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm
hại
Cái cảnh mười đi, hai ba trở lại
Cái cảnh một trai giành nhau chín gái
Ðương diễn ra và sẽ còn diễn mãi
Nếu Ðảng còn nắm vận mạng tương laị
Lũ sậy lau xưa chỉ biết thở dài
Cũng phải ngước trông đất trời, vấn hỏi ?

Trăng lặn… sao tàn …
Bình minh không mong mỏi
Từ từ xuất hiện trong sương
Một bình minh héo hắt thảm thương
Ðẩy dân tộc trên giường xuống đất
Hãy lắng nghe một điều chân thật !
Bình minh đây đau khổ nhất địa cầu
Nó báo hiệu một ngày không một phút
Thảnh thơi, thoải mái, ngẩng đầu.
Bình minh đấy muôn thủa một mầu
Nó báo hiệu mồ hôi kiệt quệ
Những con người, không, những chiếc máy thảm thê
Không dầu, không mỡ
Hỏng vỡ trước thời gian
Hãy coi chừng phải giữ vẻ hân hoan
Tiếng khóc, tiếng than làm yêu ma run sợ
Tội chúng phạm vô cùng man rợ
Lộ ra, ai để chúng sinh tồn ?
Nên lo âu, hốt hoảng, bồn chồn
Chúng nghe ngóng, bỏ tù tiếng nói
Hỡi tất cả những chân trời sáng chói !
Hãy hiểu rằng yên lặng nơi đây
Giữa chốn đồng lầy
Là tiếng gọi lâm ly đầy tuyệt vọng
Biết bao giờ mùa thu lật lọng
Bị lôi lên dàn lửa trời hè !
Tôi vẫn chờ trông muôn vạn tiếng ve
Dạo khúc tưng bừng báo trước
Mùa hè khắp nơi đang tiến bước
Tiêu diệt thu đông
Lấy lại sắc hồng
Phá cũi sổ lồng cho đàn chim bất hạnh
Nhưng giờ đây thu lạnh
Vẫn thỏa sức tung hoành
Giết hại màu xanh
Sặc sụa mùi tanh
Nó dùng máu hãm những hàng nước mất
Vắt những giọt mồ hôi
Bịt tiếng người câm bặt
Mong bốn phương lặng ngắt giữa cơ hàn !
Ðể nó tự do vang dạo khúc đàn
Yêu ma !
Lừa bịp người xa
Buốt óc người gần
Trời đất ơi, nếu có quỷ thần
Qủy thần sao dung tha mãi nó?
Ðôi lúc nghe mơ hồ trong gió
Tiếng đời qua sóng đỏ vọng về đây
Bao ước mơ chìm chết đã lâu ngày
Lại nghẹn ngào trỗi dậy
Ðau xót, thương tâm.
Bên ngoài kia cuộc sống vang ầm
Sao đây mãi âm thầm trong nấm mộ?
Phẫn nộ oằn lên, bao khổ !
Không gian hỡi, hãy tan tành sụp đổ
Cho thời gian đừng làm khổ con người
Cho đười ươi, khỉ đột hết reo cười
Trong tối đen đầy đọa
Ôi, cái buổi đất trời giáng họa
Cũng là ngày hể hả trái tim đau !
Nhưng gió kể làm gì chuyện bốn bể năm châu
Chuyện những chân trời bấy lâu yêu dấu
Tuyết ấm rơi, lòng người đôn hậu
Ðảo thần ngời sáng ngọc châụ
Gió hãy thương kẻ bị đóng trên tọa độ thảm sầu
Giấc chân trời mòn mỏi thương đau
Bốn phía trước sau toàn bóng
Những người trâu đầm mình trong bùn đọng
Hoặc trong hầm trong xưởng rũa gân xương
Ðể tối về theo lệnh Diêm Vương
Vác bụng đói tới nghe bầy quỷ dữ
Giả danh nghĩa là những vì thiên xứ
Ðặt chương trình hút máu mài xương
Nhưng lấy tên xây dựng thiên đường
Ðể mong mộ thêm nhiều nô lệ mới.
Tôi không hiểu loài ễnh ương ca ngợi
Cái thiên đường khủng khiếp của ma yêu
Ðược chúng cho công xá bao nhiêu
Mà đêm tối to mồm, đinh nhức óc
Ấy cơm cá ma vương đầy xương hóc
Hãy coi chừng kẻo nuốt khó trôi qua
Cứ ca đi, hơi lạc điệu bài ca
Là Ðảng ném toàn gia vào hỏa ngục !
Tháng năm trôi mùa thu ô nhục
Vẫn kéo dài ngang nửa dãy Trường Sơn.
Chúng tôi tuy chìm ngụp giữa bùn trơn
Song sức sống con người hơn tất cả
Trước sau sẽ vùng lên quật ngã
Lũ qủy yêu xuống tận đáy đồng lầy
Huyệt chôn vùi thu nhục nhã là đây
Hè xuân sẽ huy hoàng đứng dậy
Dù chúng tôi hẩm hiu không được thấy
Màu hè xuân thì đời của chúng tôi
Cũng làm cho nhân loại đổ mồ hôi
Khi tưởng tới bóng cờ ma đỏ ối !
Mặt trời lên cao, lòng tôi nhức nhối
Muốn cắt ngay cái phần hôi thối
Trên thân mình dằng dặc của thời gian
Nhưng nổi tiếng lì gan
Thời gian thản nhiên từ khước
Tháng năm lặng nề lê bước
Xót xa, ô nhục, đọa đầy.
Tôi muốn kêu to trong câm lặng đen dày
Cho nhân loại trăm miền nghe thấy
Ồ ạt đổ về đây
Lấp hộ đồng lầy
Diệt bầy muỗi độc
Ngày đêm phá hủy hồng cầu
Nhưng giữa bùn sâu ngập cổ ngập đầu
Tiếng kêu cứu khò khè trong cuống họng !
Trong khi ấy những lời lật lọng
Của muôn ngàn ếch nhái vẫn vang ngân
Bịp bợm xa gần
Năm châu bốn bể
Tôi biết thế, nên càng không thể để
Cho thời gian trì trệ nhấc tôi lên
Tôi xiết rên, quằn quại, tự tìm đường
Dù có phải bồi thường bằng xương thịt
Tôi không thể an tâm nằm hít
Mùi bùn đen tanh tưởi khiếp kinh
Bốn chung quanh yêu quỷ nấp canh rình
Súng ống sẵn sàng nhả đạn
Con người tôi tiêu điều nứt rạn
Có sợ gì viên đạn oan khiên
Giải thoát bao đau khổ triền miên
Hồn tôi tới trời quên bay bổng
Màn thép kia dù không lỗ hổng
Tôi sẽ dùng răng cắn đứt một khâu
Dù qủy yêu bắt được quẳng vạc dầu
Tôi vẫn sẽ lao đầu không hối hận
Dưới bùn sâu, người trâu lận đận
Ðuổi bắt mặt trời theo lệnh ma vương
Lũ tiểu yêu ngang dọc đầy đường
Ðốc thúc, nghe rình lời than tiếng thở
Thằng này, sao mặt mày không hớn hở ?
Thằng kia, sao dám thở dài ?
Lũ chúng bay phải làm việc bằng hai
Ðể qủy chúa mừng sống dai trăm tuổi
Giữa thời gian muôn người đương chết đuối
Lòng cầu sao nhanh chóng khắp địa cầu
Ðứng đều lên, ồ tới đánh toang đầu
Con rắn đỏ vô cùng hung hiểm
Nó sinh ra lớn lên nhờ súc siểm
Nhả nọc hận thù, phờ phỉnh công phu
Khéo léo đầu cơ lòng yêu nước đui mù
Lạy lục Tầu Nga không nề điếm nhục
Ðủ hơi sức nó hiện hình phản phúc
Ngóc đầu, phì rít, bất nhân
Cắn cổ lê dân, quăng quật mộ phần
Phá đạo, phá đời, uống khô sông suối !
Ôi thằng Tây mà trước kia người dân không tiếc máu
xương đánh đuổi
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hoá ra êm ả !
Lòng ái quốc bị lừa còn đương nằm buồn bã
Ðảng gian ma mong kiếm chác thêm gì?
Bay tha hồ viện tới Lý, Trần, Lê
Người dân đã chán chê với cái trò hề chiến tranh
cách mạng
Cái họ được là khăn tang và nạng
Cái mất đi ánh sáng cuộc đời
Ðảng bắt câm, bắt nói, bắt khóc, bắt cười
Bắt đói, bắt làm, hé răng oán thán
Là tù ngục mục xương độc đoán
Phải chăng đó giá công lao huyết hãn
Mấy ngàn ngày đánh Pháp những năm xưa ?
Biết là bao ô uế, lọc lừa
Người dân đã có thừa kinh nghiệm
Bùa phép yêu ma không còn linh nghie^.m
Bạo lực đen ngòm trắng nhởn nhe nanh
Trại lính, trại tù xây lũy thép vây quanh
Song bạo lực cũng đành bất lực
Trước sự chán chường tột bực của nhân tâm !
Có những con người giả đui điếc thầm câm
Song rất thính và nhìn xa rất tốt
Ðã thấy rõ ngày đồng lầy mai một
Con rắn hồng dù lột xác cũng không
Thoát khỏi lưới Trời lồng lộng mênh mông !
Lẽ cùng thông huyền bí vô chừng
Giờ phút lâm chung qủy yêu làm sao ngờ nổi !
Rồi đây
Khi đất trời gió nổi
Tàn hung ơi, bão lửa, trốn vào đâu ? Bám vào đâu ?
Lũ chúng bay dù cho có điên đầu
Lo âu, phòng bị
Bàn bạc cùng nhau
Chính đám sậy lau
Sẽ thiêu tất lũ bay thành tro xám !
Học thuyết Mác, một linh hồn u ám
Không gốc rễ gì trên mảnh đất ông cha
Mấy chục năm phá nước, phá nhà
Ðã tới lúc tông đồ phải lôi ra pháp trường tất cả !
Song bay vẫn tiệc tùng nhật dạ
Tưởng loài cây to khoẻ chặt đi rồi
Không gì nghi ngại nữa !
Bay có hay sậy lau gặp lửa
Còn bùng to hơn cả đề, đa
Những con người chỉ có xương da
Sức bật lật nhào, tung hết !

Hoa cuộc sống Ðảng xéo dày, mong nát chết
Nhưng mà không, sông núi vẫn lưu hương
Mỗi bờ tre, góc phố, vạn nẻo đường
Hương yêu dấu còn thầm vương thấm thiết
Nếu tất cả những tâm hồn rên xiết
Không cúi đầu cam chịu sống đau thương
Nếu chúng ta quyết định một con đường
Con đường máu, con đường giải thoát
Dù có phải xương tan thịt nát
Trong lửa thiêng trừng phạt bọn gian ma
Dù chết chưa trông thấy nở mùa hoa
Thì cũng sống cuộc đời không nhục nhã
Thì cũng sống cuộc đời oanh liệt đã !
Nếu chúng ta đồng tâm tất cả
Lấy máu đào tươi thắm tưới cho hoa
Máu ươm hoa, hoa máu chan hòa
Hoa sẽ nở muôn nhà muôn vạn đóa
Hoa hạnh phúc tự do vô giá,
Máu căm hờn phun đẫm mới đâm bông !
Ðất nước sa vào trong một hầm chông
Không phải một ngày thoát ra được đó
Con thuyền ra khơi phải chờ lộng gió
Phá xích, phá xiềng phải sức búa đao
Còn chúng ta phải lấy xác làm bè
Lấy máu trút ra tạo thành sóng nước
Mới mong nổi lên vùng lầy tàn ngược
Nắm lấy cây sào cứu nạn trên cao
Tiếp súng, tiếp gươm bè bạn viện vào
Phá núi, vén mây, đón chào bão lộng
Mới có thể tiến vào hang động
Tiêu diệt yêu ma, thu lại đất trời
Thu lại màu xanh, ánh sáng, cuộc đời.
Chuyện lâu dài, sự sống ngắn, chao ơi !
Nỗi chờ mong thấm thiết mãi trong tôị
Tôi mong mãi một tiếng gì như biển ầm vang dội
Một tiếng gì sôi nổi con tim
Ðã bao năm rồi teo chết nằm im
Trong những quan tài hình hài hèn đớn
Âm tiếng đó dội lan qua các trại tù, trại tập trung
rùng rợn
Làm suy nghĩ lũ quân thù trâu lợn
Tái tạo niềm tin cho tất cả những ai
Ðã gần như tuyệt vọng ở ngày mai
Lũ lau gầy, sậy úa, cỏ tàn phai
Náo nức, reo hò, trông ngó
Âm tiếng đó gây thành giông gió
Khắp đại dương cùng khổ âm u
Chớp xé trời đen, báo hiệu lũ quân thù
Giờ hủy thể !
Tôi mong mãi một tiếng gì như tiếng ầm vang của bể
Ðồng bào tôi cũng mong như thế
Tôi lắng nghe
Hình như tiếng đó đã bất đầu
Nhưng tôi hiểu rằng đó là tiếng của lịch sử dài
lâụ
Nên trời đêm dù thăm thẳm ngòm sâu
Dường như vô giới hạn ở trên đầu,
Tôi vẫn nguyện cầu
Vẫn sống, và tin
Bình minh tới, bình minh sẽ tới.
Cờ vô đạo đương ngang trời phấp phới
Tôi vẫn mơ chân lý tận xa vời
Tôi lùa tan ngàn vực tối trên đời
Trong hào quang dữ dội hiển linh !
Muôn ầm ầm chấn động trời thinh
Báo hiệu bình minh sét nổ
Ôi, ghê sợ cả một trời phẫn nộ
Cả một trời đau khổ khôn lường
Ðã bao ngày nén xuống thảm thương
Dưới tận đáy đồng lầy tủi hổ
Sẽ tràn dâng như sóng gầm thác đổ
Bọn qủy yêu sẽ tới ngày tận số
Xác lũ bay sẽ ngập đường ngập phố
Máu lũ bay hoen ố cả nền trời
Kèn tự do đắc thắng nơi nơi
Khai mạc bình minh khôi phục cuộc đời.
Ôi tôi sống và tôi chờ đợi
Ngày triệu triệu trái tim bùng nổ tung trời !
Ðêm đồng lầy lõm bõm sương rơi
Cú rúc, Trăng buồn
Rười rượi …

Nguyễn Chí Thiện, 1972

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Mon Feb 07, 2022 5:59 pm

VII - Những ngày 'Cải Cách Ruộng Đất' kinh hoàng trên quê ngoại của tôi

Đặng Huy Văn (Danlambao)

1- Quê ngoại Phú Minh yêu dấu của tôi

Tôi lững thững đi theo anh cả về quê ngoại vào một buổi sáng cuối đông lạnh lẽo. Hai bên đường số Một, nhiều ruộng lúa chiêm đã cấy xong, ngọn lúa xanh mơn mởn ngút ngát cánh đồng. Những đàn cò trắng bay ngang lưng trời thong thả sải cánh. Thỉnh thoảng một vài đàn cò hạ cánh xuống những ruộng lúa vừa mới cấy xong bắt tôm bắt cá.

Đường từ nhà ba mẹ tôi đến quê ngoại dài tới hơn ba mươi cây số nên chúng tôi cứ đi bộ thủng thẳng vừa đi vừa nghỉ. Đối với một cậu bé mới hơn mười tuổi đầu gần hai tháng trời nay phải chịu đói chịu khát như tôi thì đây là một chặng đường quá sức. Nhưng cứ nghĩ đến việc về quê ngoại sẽ được ăn no là tôi lại phấn chấn bước trên đường.

Qua thị trấn Nghèn của huyện Can Lộc rẽ tay phải chừng 3 cây số là đã đến xã Phú Minh, quê ngoại của tôi. Khác hẳn với quê nội tôi toàn nhà tranh vách đất, quê ngoại Phú Minh có rất nhiều nhà xây gạch lợp ngói. Quê ngoại hiện dần ra trước mắt chúng tôi là một vùng quê thanh bình bên con đường cái rộng thẳng tắp đến tận chân núi Hồng Lĩnh nối với con đường tam cấp lên tới Chùa Hương Tích trên lưng chừng núi ở độ cao 650 mét so với mặt biển. Dọc bên phải con đường cái lớn là một dòng suối nước trong veo từ trên đỉnh núi chảy về khá nhiều cá rô, cá bống.

Cụ ngoại của chúng tôi, cụ Bang Hoành là một vị thân sĩ chống Pháp nổi tiếng trong phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng. Cụ có nhiều người con đỗ đạt học rộng tài cao trong đó có nhà chí sĩ yêu nước Võ Liêm Sơn là ông bác ngoại đã nuôi mẹ tôi từ nhỏ nên chúng tôi vẫn gọi cụ Võ Liêm Sơn là ông ngoại, bởi ông ngoại ruột của tôi mất lúc mẹ tôi còn bé. Các cháu của cụ Bang Hoành và con cháu của cụ Võ Liêm Sơn chúng tôi đều gọi bằng cậu, bằng dì và ai cũng giàu có, nhà xây lợp ngói mấy tòa.

Mấy lần trước về quê ngoại, tôi ấn tượng nhất là ngôi nhà thờ của cụ Bang nay do một người cháu nội của cụ, cậu Chắt Thiện thờ phụng. Ngôi nhà thờ này đã có từ lâu đời rồi nên rất thâm nghiêm. Năm 1930, quê ngoại Phú Minh của tôi là một cơ sở của Xô Viết Nghệ Tĩnh nên nhà của cụ Võ Liêm Sơn và các ông bà bên ngoại của tôi đều bị bọn Pháp đốt phá và cướp hết tài sản vì họ là những người tham gia chống Pháp rất nổi tiếng. Nhưng riêng ngôi nhà thờ của cụ Bang thì hoàn toàn không bị giặc Pháp động tới. (Vậy mà trong CCRĐ vào mùa hè năm 1955, ngôi nhà thờ họ Võ của cụ Bang đã bị đập phá tan tành, toàn bộ đồ thờ cúng cùng các hoành phi câu đối đã bị đội CCRĐ đem chia quả thực cho bần cố nông trong xã.

Năm 1949 sau khi cụ Võ Liêm Sơn qua đời, cạnh bàn thờ của cụ còn dựng thêm một chiếc gậy tay cầm bằng ngà voi có khắc dòng chữ Hán của Hồ chủ tịch đề tặng. Nghe nói hồi ở Huế, cụ Võ Liêm Sơn đã học trước Nguyễn Tất Thành một lớp. Nhưng sự học của Tất Thành không được đến nơi đến chốn vì người cha làm quan phạm tội say rượu đánh chết người nên đã bị triều đình Huế thải hồi. Bởi vậy, ông ngoại tôi rất thương và đã có một thời gian cưu mang giúp đỡ. Đầu năm 1948, Hồ chủ tịch đã biên thư mời cụ Võ Liêm Sơn lên Việt Bắc gặp gỡ đàm đạo một tuần rồi tặng cụ cái gậy đó. Nhưng nghe nói trong khi đàm đạo, cụ Võ Liêm Sơn đã tỏ ra không tán thành việc Hồ chủ tịch đã quá lệ thuộc dựa dẫm vào người Tàu để đánh Pháp nên cụ nhất định đòi về. Trở về đến quê chỉ khoảng một thời gian sau là ông ngoại tôi đã bị lâm bệnh nặng rồi mất. Đó có lẽ cũng là một cái chết bí ẩn vì trước khi lên Việt Bắc, ông ngoại tôi vẫn còn khỏe mạnh bình thường. (Cái gậy Hồ chủ tịch tặng cụ Võ Liêm Sơn này cũng đã được đội CCRĐ chia quả thực cho một người cố nông mang đi chăn bò trên núi Hồng Lĩnh, sau này đã được đưa về bảo tàng Hồ Chí Minh tại tp Vinh, Nghệ An).

Đang vừa đi vừa suy nghĩ miên man như thế để cho quên chuyện đôi chân bấy giờ càng lúc càng díu lại thì cổng nhà cậu Thành, một người em ruột cùng cha khác mẹ của mẹ tôi đã hiện ra. Lúc đó đã xẩm tối nên cậu mợ tôi đã không nhận ra được hai đứa cháu xác xơ gần như ăn mày này đang ngồi bệt trước bậc thềm cổng. Mợ tôi liền hỏi vọng ra:

- Các cháu cần gì? Nhà còn khoai khô có lấy không?

Chờ mãi không thấy trả lời, cậu tôi phải ra tận cổng thì mới nhận ra chúng tôi đang vừa đói vừa mệt. Lúc đó mợ tôi mới chạy ra vừa mở cổng vừa khóc:

- Mợ xin lỗi các cháu! Vì ngày nào cũng có hàng đoàn con cháu địa chủ đi ăn xin ngồi trước cổng nên mợ không nhận ra các cháu. Trời ơi! Sao đứa nào cũng gầy xanh hốc hác thế này?

- Dạ, chúng cháu chào cậu mợ ạ! Nhà mẹ cháu bị quy địa chủ, thóc gạo khoai sắn đã bị tịch thu hết rồi. Hai tháng trời qua chúng cháu đã đi ăn xin nhiều nơi nhưng đi đâu cũng bị dân quân xua đuổi, nay không còn gì để ăn nữa. Cháu đưa thằng Văn về đi chăn trâu cho cậu mợ để kiếm cái ăn, thưa mợ!

Anh cả tôi lễ phép nói với cậu mợ Thành khi vừa vào tới trong nhà. Cậu Thành tôi lúc đó mới rơm rớm nước mắt, hỏi:

- Em út của các cháu nay mới hơn hai tuổi giờ biết lấy cái gì mà ăn để sống? Lần này thằng cả cố gắng mang gạo về để nấu cháo cho em út ăn nhé! Mẹ và các em cháu có ai làm sao không?

- Chúng cháu cám ơn cậu mợ, mọi người chỉ đói thôi ạ!

Anh cả tôi vừa nói vừa nhặt rau giúp mợ tôi chuẩn bị cơm tối. Tội nghiệp cậu mợ Thành lấy nhau đã bảy, tám năm rồi mà chưa có con nên nhà vắng tiếng trẻ con. Buồn lắm! Có mấy lần, cậu mợ Thành đã ngỏ lời xin mẹ tôi thằng em út của chúng tôi về nuôi nhưng mẹ tôi chưa đồng ý. Cậu mợ Thành ít ruộng nên không bị quy là phú nông hay địa chủ nhưng cuộc sống cũng dư dả. Lần này thấy chúng tôi về chơi lại còn xin ở lại thì mừng lắm.

Sáng hôm sau, hai anh em tôi cùng cậu Thành đã đi thăm nhà dì Quý, một người chị ruột cùng cha cùng mẹ của mẹ tôi. Ở Hà Tĩnh, các anh và các em trai của mẹ đều được gọi bằng cậu. Còn chị hay em gái của mẹ thì đều được gọi bằng dì, chứ không phân biệt chị thì gọi bằng bác, em mới gọi bằng dì như ở ngoài Bắc. Nhà dì Quý ở xóm khác nhưng không xa lắm. Nhà dì dượng Quý tôi nghèo, ít ruộng nhưng cũng đủ ăn, được quy là bần nông nên không bị đội giảm tô o ép gì cả. Gặp chúng tôi, dì đã khóc:

- Trời ơi, bấy lâu nay các cháu đói lắm phải không? Mẹ các cháu, các em cháu lấy gì mà ăn? Bảo mẹ đưa thằng út ra đây dì dượng nuôi cho không để nó chết đói mất đó! Thôi trưa nay mời cả cậu Thành ở lại để dì dượng thịt con gà cho các cháu ăn nhé!

- Chúng cháu cám ơn dì. Dì đừng bày đặt, chúng cháu ăn gì cũng được mà. Anh cả tôi nói thế nhưng nghe nói đến thịt gà thì mắt đã bừng sáng lên rồi.

Ăn cơm xong, dì Quý còn cho chục cân gạo để anh cả mang về quê. Buổi chiều cậu mợ Thành cũng cho chục cân gạo nữa mang về cho mẹ tôi để nuôi thằng út. Sáng hôm sau, cậu Thành lấy xe đạp chở anh cả tôi cùng hai chục cân gạo về tận quê nhưng còn ban ngày nên không vào nhà gặp mẹ tôi được.

Sau khi anh cả tôi về quê nội, cậu Thành mới dẫn tôi đi chào các cậu họ hàng thân thích bên mẹ tôi, nhưng không thể đến được các nhà đã bị quy là địa chủ vì đội giảm tô nghiêm cấm. Các cậu họ mà chúng tôi được đến chỉ là những gia đình mới bị quy thành phần phú nông thôi. Thóc lúa sắn khoai đã bị trưng thu để thoái tô cho tá điền rồi nên tất cả họ đều chịu cảnh thiếu ăn.

Đi loanh quanh cả buổi sáng thăm và chào hỏi các cậu Cháu Dị, cậu Chu, cậu Huấn, cậu Trì… Đi đến đâu, các cậu tôi cũng rất buồn, hỏi thăm mẹ tôi sức khỏe ra sao, ba tôi có về không… Đến thăm nhà cậu Chu, cậu ấy nói:

- Tội nghiệp mẹ cháu quá! Chưa đầy 10 tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nếu ngày đó không có cụ Võ Liêm Sơn và bà Hàn ở Phát Não nuôi lớn thì không biết mẹ cháu sẽ thế nào. Cũng may mẹ cháu đã gặp được gia đình ông bà nội cháu là người phúc đức, thương yêu mẹ cháu như con đẻ. Nhà ba mẹ cháu nghèo vậy mà cũng bị quy là địa chủ thì đúng là hết chỗ nói rồi! Tội nghiệp anh em các cháu, nay biết lấy gì ăn để mà sống qua ngày đây?

Đến nhà cậu Huấn, thấy nhà cửa tan hoang. Chưa kịp ngồi xuống ghế, cậu ấy đã hỏi:

- Ông bà nội cháu bây giờ ra sao? Có khỏe không?

- Dạ bà nội cháu vừa bị ngã què chân mấy tháng nay nhưng ông nội cháu vẫn còn chống gậy đi ăn xin được, cậu ạ! Tôi nói lí nhí như sợ bị cậu ấy mắng vì thấy cậu có vẻ đang bực bội điều gì đó.

- Cậu đã mấy lần nói với ba cháu rồi. Đi làm cách mạng như ba cháu chỉ tổ làm khổ ông bà nội và mẹ cháu chứ có được ích gì cho người thân không? Có nuôi được các con không? Ủy viên thường vụ tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa thì mỗi tháng được phát mấy cân gạo nuôi con, hả? Cứ đi biền biệt như thế, ở nhà ruộng không ai cày cấy, phải phát canh thu tô nên bị quy là địa chủ phải bán hết mọi thứ trong nhà đi để thoái tô... Nhục quá! Chính ba các cháu là người đã rước voi về giày mã tổ đó, cháu có hiểu không?

- Thôi mà anh! Cháu còn nhỏ dại, anh đừng nói như thế làm cháu nó tủi thân anh Huấn ạ! Cậu Thành tôi nói vậy rồi bảo tôi chào cậu Huấn và dắt tôi đi sang nhà khác.

2- Các cậu tôi nói về chủ trương CCRĐ của Hồ chủ tịch

Cuối buổi sáng ấy, chúng tôi đến thăm cậu Chắt Thiện, người thờ phụng nhà thờ họ Võ thì tôi đã thực sự bị sốc. Cậu Chắt nhìn đứa cháu vừa gầy vừa xanh rồi quay sang cậu Thành vẻ bức xúc nói:

- Tôi không ngờ Hồ chủ tịch lại ác như thế! Ông ta đã ra tay tiêu diệt những ai? Tất cả những người đã dốc lòng ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm theo lời kêu gọi của ông ta, có đúng vậy không? Bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên còn ủng hộ kháng chiến cả trăm cây vàng, bao nhiêu là tiền bạc, thóc gạo, còn cho cả hai thằng con đi bộ đội nữa…Vậy mà chính tay Hồ chủ tịch với bút danh C.B. đã viết bài báo “Địa chủ ác ghê” để vu cáo bà Năm những tội ác mà bà ấy không hề phạm để lấp liếm cho cái vụ xử tử hình một cách dã man người phụ nữ nhân hậu và yêu nước ấy! Thế mà nghe nói ông ta còn tìm mọi cớ để đổ lỗi cho các cố vấn Trung Quốc đã giết bà Năm! Các cố vấn Tàu do ông ta mời sang giúp, làm sao lại có thể vượt quyền chủ nhà được? Đó là luận điệu lừa bịp bọn trẻ con, lừa dối lũ nông dân mù chữ chứ làm sao bịp được thiên hạ, hả chú?

Cậu Thành tôi sợ xung quanh nghe thấy nên nhỏ nhẹ nói với cậu Chắt:

- Năm 1953 anh đang dạy học ở Thái Nguyên phải không? Anh Chắt có đi dự và chứng kiến vụ xử tử bà Nguyễn Thị Năm không mà anh nói mạnh mồm như thế? Theo tôi, chuyện này phức tạp lắm vì nó liên quan đến các cố vấn Trung Quốc, anh ạ. Biết đâu vụ án này do bọn Tàu xúi dục thì sao? Hồ chủ tịch là vị cha già của dân tộc! Có vị cha già nào lại nỡ giết oan cô con gái ngoan của mình không? Anh thử nghĩ mà xem!

- Đứa nào tôn vinh Hồ chủ tịch là cha già dân tộc, hả? Cha già dân tộc là người đã sinh ra cả dân tộc Việt Nam này à? Sinh ra cả Lạc Long Quân, sinh ra cả các Vua Hùng... và sinh ra cả bác Võ Liêm Sơn của chúng ta, người đã từng cưu mang ông ta trong lúc hoạn nạn ấy à? Hay Hồ chủ tịch còn là người đã đẻ ra cả cụ Nguyễn Sinh Sắc nát rượu từng đánh chết người ngày xưa ấy?

Cậu Thành tôi cố tìm cách ghìm cơn giận đang dâng trào trong cậu Chắt lại:

- Trần Dân Tiên là người đã tôn vinh Hồ chủ tịch “là cha già dân tộc” trong cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” viết bằng chữ Hán anh đã đọc rồi còn gì nữa. Còn Trần Dân Tiên là ai thì lịch sử sẽ làm sáng tỏ. Nhưng theo tôi, chắc chắn hắn không phải là một người đàng hoàng. Bởi hắn viết như thế là phỉ báng cả dân tộc Việt Nam của chúng ta. Không chừng Trần Dân Tiên là một tên người Tàu cũng nên? Điều tôi muốn hỏi anh là, khi trực tiếp dự các buổi đấu tố bà Năm, anh thấy có điều gì bất thường không cơ?

- Khi nhìn thấy những kẻ đang hùng hổ đấu tố bà Năm, một bà láng giềng của bà Năm đã nói khẽ vào tai tôi: “Chúng là bọn lưu manh trong xã tôi đó. Năm đói 1945, thậm chí còn được ăn cháo phát chẩn của bà Năm nữa đấy. Nhưng tôi xin cam đoan với thầy Thiện là bà Năm không bao giờ thuê mướn bọn lưu manh này làm việc trong các đồn điền của bà ta đâu. Tất cả là bịa đặt, vu khống, thầy ạ! Chúng được ông đội trưởng đội CCRĐ hứa, ai đấu tố càng hăng sẽ được chia càng nhiều quả thực. Thế thôi!”

- Anh Chắt ơi, tôi biết anh không bao giờ nói dối. Nhưng những điều anh vừa nói là rất nguy hiểm cho tính mạng của anh và cả gia đình anh nữa. Ngày nào cũng có người rình mò quanh nhà của chúng ta. Nên nếu nhỡ chúng nghe được rồi báo cáo lên đội giảm tô thì sao? Tôi lạy anh! Anh đừng để cho thằng cháu nhà chị Trung phải nghe những điều như thế, nhỡ trẻ con dại miệng nói ra thì nó cũng sẽ bị chết oan đó anh ạ!

Khi về đến nhà, cậu Thành còn cho tôi biết thêm, cậu Chắt từng đỗ tú tài Tây toàn phần thời Pháp thuộc nhưng không ra làm quan mà xin đi dạy học. Cậu theo kháng chiến 9 năm nên cũng đã có 5 năm dạy bổ túc công nông cho kháng chiến tại huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Tại đó cậu Chắt đã có một thời gian kết thân với bà Nguyễn Thị Năm. Do đó sau khi bà Năm bị hành hình, cậu ấy đã bỏ hẳn nghề dạy học về nhà cày ruộng. Hễ có dịp gặp người thân là cậu ấy lại nhắc đến vụ án đau thương đó bằng nỗi phẫn uất không kiềm chế được. Rồi cậu Thành xoa đầu tôi căn dặn:

- Người giận quá có thể hóa mất khôn! Cậu không biết trong cái câu chuyện mà cậu Chắt đã kể cho cậu cháu ta nghe hôm nay đã có bao nhiêu phần đúng, bao nhiêu phần sai. Nhưng việc cậu Chắt đã nói động chạm đến Hồ chủ tịch như vậy là không nên! Vì tay chân của Hồ chủ tịch có ở khắp nơi, nếu chúng tình cờ nghe được có phải là thiệt mạng rồi không? Cháu chớ có dại mồm kể lại cho bất cứ ai nghe chuyện này nhé. Tội chết đó cháu ạ!

Khoảng hơn chục ngày sau, cậu Viên Trạch ở bên thị trấn Nghèn sang chơi. Cậu Viên là một người cháu họ của cụ Ngô Đức Kế. Nghe nói anh em tôi từ Đức Lâm ra chơi nên cậu ấy sang để hỏi thăm về mẹ tôi. Đêm đó, cậu Viên đã ngủ lại nhà cậu Thành tâm sự suốt đêm. Đêm khuya tĩnh lặng, hai cậu nói chuyện với nhau rất khẽ nhưng tôi cứ cố lắng nghe nên không tài nào ngủ được. Đầu tiên, cậu Viên kể:

- Hôm nọ anh Xuân Diệu về quê chơi có ngủ ở nhà tôi một đêm. Tôi nói với anh ấy thế này: “Phần lớn con cháu của cụ Ngô Đức Kế nhà mình đều bị quy là địa chủ và phú nông rồi. Địa chủ thì khổ lắm vì không ai được tiếp tế cả. Cho nhau củ sắn, củ khoai, bát gạo cũng đều phải dấm giúi vào ban đêm. Tôi chưa thấy có thời đại nào lại tàn ác đến như thế, anh ạ. Anh xem cả dưới thời Pháp thuộc, người ta cũng đâu có dã man đến như thế! Bọn Pháp chỉ đàn áp người nào chống đối chúng. Còn thời cụ Hồ thì lại đi đàn áp tất cả những người đã từng ủng hộ cách mạng mới lạ đời chứ! Thật không thể nào tưởng tượng được. Nghe nói cụ Hồ đã ăn phải bã của bọn Tàu nên mới đổ đốn ra như thế! Hay cụ đã nghe theo lời Mao Trạch Đông chống lại cả dân tộc Việt Nam? Ở gần trung ương anh có biết gì hơn không? Hay cụ Hồ đang gặp phải sai lầm, hả anh?” Chú có biết Xuân Diệu đã nói sao không? Anh ấy nói:

- Đối với cụ Hồ, theo tôi mọi cái cụ đều đã tính kỹ. Tất cả mọi sự việc đều được diễn ra theo ý đồ của cụ từ đầu chí cuối nên không hề có cái được gọi là sai lầm đâu, chú Viên ạ! Tại sao cụ biết quá rõ bà Nguyễn Thị Năm là một người đã có công rất lớn đối với cách mạng mà cụ vẫn cho bắn? Tại sao biết bao nhiêu cán bộ đảng viên đã từng vào tù ra tội vì cách mạng mà cụ vẫn cho quy là “quốc dân đảng” rồi bỏ tù hoặc xử bắn? Vì cụ muốn thể hiện cho Liên Xô và Trung Quốc thấy, cụ cũng là một vị lãnh tụ cộng sản vĩ đại! Thắng thực dân Pháp mới chỉ là lãnh tụ giải phóng dân tộc thôi. Nay cụ còn muốn mình sẽ trở thành một vị lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế lỗi lạc hơn cả Mao Trạch Đông và Stalin nữa cơ! Chú cứ nhìn vào đôi mắt Hồ chủ tịch mà xem. Đó là đôi mắt của một kẻ vĩ cuồng tham vọng tột độ. Tôi làm thơ nên tôi hay quan sát đôi mắt, cửa sổ của tâm hồn mà. Với những kẻ tham vọng tột độ như thế thì dù có bắn chết vài vạn người chứ có bắn chết cả một dân tộc để đạt được mục đích của họ thì họ cũng sẽ sẵn sàng!

- Những lời thì thầm ấy của Xuân Diệu làm tôi hoang mang quá chú Thành ạ! Cậu Viên nói tiếp: - Tôi đã bức xúc hỏi Xuân Diệu: “Vậy có hàng vạn người bị bắn oan ở các địa phương như thế, liệu cụ Hồ có biết không anh?”

Lúc đó, Xuân Diệu đã trả lời:

- Cụ Hồ biết chứ! Mỗi ngày có tới hàng trăm lá thư kêu oan gửi cho cụ, bọn thư ký đọc rồi báo cáo lại cho cụ nên cụ biết hết! Nhưng cụ Hồ không phản hồi vụ nào cả vì cụ thấy nó đang diễn ra theo ý đồ của cụ. Giả sử cụ Ngô Đức Kế, cụ Võ Liêm Sơn của chúng ta sống đến giờ và cũng bị đội CCRĐ bắn chết thì cụ Hồ cũng sẽ không can thiệp. Vì đối với những kẻ cuồng vọng như Hitler, như Stalin, như Mao Trạch Đông, như Kim Nhật Thành…thì mạng sống của người khác chỉ là như con sâu con kiến mà thôi, chú ạ!

Cậu Viên thổn thức kể tiếp:

- Tôi quá ngạc nhiên trước những đánh giá về Hồ chủ tịch của Xuân Diệu nên mới hỏi anh ấy: “Tôi nghe nói cụ Hồ quý anh và Cù Huy Cận lắm, mà sao anh lại đánh giá về cụ Hồ như thế?” Lúc đó Xuân Diệu mới phân bua:

- Ngoài Tố Hữu và một số văn nghệ sĩ cơ hội ra, cụ Hồ rất dị ứng với những văn nghệ sĩ chính trực nên làm gì có chuyện cụ Hồ quý chúng tôi! Chú biết vì sao không? Vì cụ sợ bọn văn nghệ sĩ sẽ đọc được những ý nghĩ thâm hiểm của cụ. Cụ Hồ là người không có tình yêu gia đình, không có tình bạn thuở ấu thơ, không có tình yêu nam nữ và thiếu thốn cả rất nhiều thứ tình yêu khác. Cụ duy nhất chỉ có một thứ tình yêu tột độ, đó là muốn được trở thành vị lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp vô sản thế giới, nhưng cụ đã cố che đậy rất khéo. Cụ rất sợ những ai có thể đọc được thứ tình yêu sâu thẳm đó của cụ.

Cuối cùng, không ngờ cậu Viên Trạch đã nói với cậu Thành như những lời khẳng định:

- Những điều anh Xuân Diệu đã nói với tôi về Hồ chủ tịch tôi không tin lắm vì giới văn nghệ sĩ đôi khi rất đồng bóng. Khi yêu ai thì họ tâng người ta lên tận mây xanh còn khi ghét ai thì lại bôi nhọ người ta xấu xa hơn cả Việt gian bán nước, mặc dù họ chẳng có lấy một cứ liệu xác đáng nào cả.

Hôm sau tôi phải đi chăn trâu sớm nên không rõ cậu Viên Trạch đã ra về lúc nào. Trong quá trình đi chăn trâu trên quê ngoại, tôi đã quen một cô bé tên là Võ Thị Tần con gái lớn của ông Võ Nhân Cung ở xóm Năm vừa đẹp người vừa đẹp nết. Bé Tần cũng gọi cậu Thành của tôi bằng chú nên chỉ một thời gian ngắn sau là chúng tôi đã khá thân nhau.

3 - Đội CCRĐ đã về trên quê ngoại của tôi

Cậu mợ Thành biết đội CCRĐ cùng với cố vấn Trung Quốc đã về phát động nông dân tại quê ngoại của tôi cả tháng nay nhưng tôi và Tần không hề hay biết. Xã Thiên Lộc là tên mới của xã Phú Minh do đội CCRĐ vừa đặt. Đó là tên ghép của hai đảng viên đảng cộng sản Đông Dương đã bị Pháp xử tử hình ngay tại Phú Minh năm 1930. Thiên là tên một người quê ở Nghệ An, còn Lộc chính là tên người chú ruột Võ Quê thân yêu của mẹ tôi.

Phú Minh là một trong những cái nôi của Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 nên các cố vấn Trung Quốc đã rất đặc biệt chú ý. Họ đã hướng dẫn đội cải cách ruộng đất cách tìm rễ, xâu chuỗi để âm thầm phát động quần chúng. Sau này tôi mới được biết, việc đầu tiên của đội CCRĐ là giải tán các tổ chức chính quyền tại địa phương rồi họ sẽ lập ra các tổ chức của chính quyền mới nằm dưới quyền kiểm soát của đội CCRĐ. Họ sẽ không dựa vào toàn dân mà chỉ dựa vào đội ngũ cốt cán, chuỗi rễ được chọn ra từ những gia đình cố nông không có ruộng đất, càng cầu bơ cầu bất lưu manh trộm cắp càng tốt. Còn các cán bộ cũ của xã trong cuộc kháng chiến 9 năm, người thì bị bắt, người thì bị đuổi việc vì nghe nói họ đều theo quốc dân đảng phản động cả.

Và cái ngày phải đến đã đến. Một buổi tối mùa hè năm 1955, UBND xã Thiên Lộc đã long trọng tổ chức một buổi mít tinh để phát động cuộc CCRĐ long trời lở đất này. Ông chủ tịch mới của xã do đội CCRĐ vừa chỉ định đã lên đọc diễn văn. Ông này người gốc xã khác, bao năm nay dân làng không biết họ tên nên vẫn quen gọi là Chôm. Chôm theo tiếng địa phương có nghĩa là “chôm chỉa” vì hắn chuyên ăn trộm gà vịt nổi tiếng cả xã. Hắn bắt trộm gà vịt rất giỏi nhưng mồm mép tép nhảy, có bắt được quả tang hắn cũng chối bay chối biến ngay được. Thậm chí cái tên Chôm cũng đã được UB xã dùng chính thức bằng văn bản để gọi đi khám bộ đội hoặc đi dân công hỏa tuyến. Lần này lên chức chủ tịch xã, hắn được đổi tên thành Chồm. Chồm chủ tịch cha mẹ mất sớm, chỉ đi làm thuê cuốc mướn và ăn trộm gà vịt rồi cũng có một ả tên là thị Lan góa chồng ở cuối xóm Năm lấy làm chồng. Nguyên là vào một đêm trời mưa rả rích, Chôm đến ăn trộm gà nhà ả. Gã đã bắt được gà trong tay nhưng không ngờ ả còn thức chạy ra giằng được áo gã. Gã đã nhanh trí ném con gà vào bóng đêm rồi ôm chầm lấy ả. Thế rồi trong một đêm khát tình, thị Lan đã trao thân cho gã và từ đó hai người đã về sống với nhau như vợ chồng không cần cưới hỏi hôn thú gì cả. Thị Lan đẹp nhưng nghèo, đã có một đứa con trai còn chồng thị thì đã chết cách đó vài năm. Thế mà lại bỗng dưng có người đòi lấy làm vợ đã là phúc tổ bảy mươi đời rồi. Dân làng còn rỉ tai nhau, không biết cái việc Chôm được làm chủ tịch xã có phải là do thị Lan đã trổ tài “ngoại giao” với ông đội trưởng đội CCRĐ hay không nữa?

Đứng trên cái sân khấu mới dựng đầu sân vận động và trước hàng trăm người dân trong xã bị đội cải cách bắt đến dự, Chồm chủ tịch mới học xong lớp “xóa nạn mù chữ” âm a đọc mấy câu đã được ông đội trưởng viết sẵn: “Xã Thiên Lộc của chúng ta nhiệt liệt chào mừng đội CCRĐ do bác Hồ cử về để đòi lại ruộng đất cho dân cày từ tay bọn địa chủ cường hào gian ác. Trong đợt phát động quần chúng giảm tô, xã ta đã quy được một số tên địa chủ nhưng theo các cố vấn Trung Quốc thì xã ta còn bỏ sót nhiều lắm. Vậy trong đợt này, đội đề nghị bà con bần cố nông, cốt cán, chuỗi rễ hãy tìm thêm ra, tố thêm ra những tên địa chủ bóc lột gian ác mà xã ta còn bỏ sót”. Rồi Chồm chủ tịch chỉ tay lên trời hô lớn:

- Hồ chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm!
- Đả đảo bọn địa chủ cường hào gian ác!
- Có khổ nói khổ, nông dân vùng lên!
- Ruộng đất phải về tay dân cày!
- Thà đánh nhầm còn hơn bỏ sót!...

Các cụ già trong làng chưa quen hô khẩu hiệu nên chỉ nhìn cái mồm của Chồm chủ tịch mà than: “Thằng Chồm mà làm chủ tịch xã thì dân xã mình sẽ biến thành lưu manh tất! Không hiểu vì sao ông Võ Ký Sơn, cháu cụ Võ Liêm Sơn, bao nhiêu năm làm chủ tịch xã tốt như thế mà nay lại bị bắt? Nghe đồn ông ta đã đi theo bọn quốc dân đảng phản động gì gì đó thì phải!”

Từ hôm đó trở đi, xã Thiên Lộc bỗng tưng bừng một khí thế long trời lở đất đến khắp mọi đường làng, ngõ xóm. Đêm nào cũng đánh trống ngũ liên hết hồi này đến hồi khác. Rồi từng đoàn người lớn, trẻ con hàng trăm, hàng ngàn người kéo đi hết làng trên xóm dưới đánh trống cà rùng, mang cả thanh la não bạt và soong chảo vừa gõ cheng cheng vừa hô to các khẩu hiệu mà Chồm chủ tịch đã đọc trong buổi mít tinh chào mừng đội CCRĐ và các cố vấn Trung Quốc đã về xã Thiên Lộc của chúng tôi. Đặc biệt những hôm đầu, đêm nào cũng chiếu phim “Bạch mao nữ” của Trung Quốc không bán vé ngoài sân vận động đã làm cho khí thế căm thù địa chủ của nông dân bốc lên ngùn ngụt. Tiếp theo là bắt đầu các buổi diễn tập đấu tố trong một số nhà bần cố nông cốt cán của xã do ông đội trưởng hoặc các đội viên chủ chốt trực tiếp huấn luyện. Chỉ tiếc rằng tôi là trẻ lạ nên không được đến xem.

Đã vào hè nên học sinh các trường được nghỉ học. Chúng cứ vô tư tung tăng đi viết khẩu hiệu, treo cờ đỏ sao vàng khắp các cổng nhà dân ven đường trục chính của làng. Đêm đến chúng lại tập trung học hát hoặc xem phim “Bạch mao nữ” của Trung Quốc và các phim tài liệu về CCRĐ ở các tỉnh khác tại sân vận động của xã. Những đêm khác thì đi biểu tình cùng dân làng và đi xem các buổi diễn tập đấu tố địa chủ hoặc đấu tố thật tại các xóm do đội cải cách tổ chức cho các cốt cán chuỗi rễ. Một tuần sau khi được nghỉ hè vẫn không thấy Tần đi chăn nghé mà chỉ thấy em trai cô ấy đi chăn thay. Tôi không dám hỏi nhưng đồ rằng cô ấy đã bị ốm. Hóa ra cô ấy đã bận những việc như thế của đội thiếu niên nhi đồng của xã. Tôi không phải là thiếu niên của xã nên không được phép tham gia bất cứ một hoạt động nào cả. Đến hôm Tần đi chăn nghé trở lại, gặp tôi cô ta mừng ra mặt. Tôi lo lắng hỏi:

- Dạo này đang nghỉ hè, em ốm hay bận gì mà không đi chăn nghé?

- Bấy nay em bận đi xem các buổi diễn tập đấu tố địa chủ và các buổi đấu tố thật sự tại các xóm. Cha mẹ em là thành phần bần nông nên em đến xem ở đâu và lúc nào cũng được. Em sẽ kể cho anh nghe nhiều chuyện hay lắm.

Thế rồi Tần đã kể cho tôi nghe về các buổi diễn tập và đấu tố thật đó. Cô ấy nói: “Chú Hòa của em là cố nông vì không có ruộng nên được đội xâu chuỗi. Nhà chú em lợp tranh nhưng khá rộng nên được chọn làm một trong những nơi diễn tập. Hôm thì chú em đóng vai địa chủ để người khác lên đấu tố mình, hôm thì chú em là người đấu tố còn bác họ em hay một người khác đóng vai địa chủ. Mọi lời tố khổ địa chủ đều do cán bộ đội chỉ bảo tỉ mỉ nhưng cách nói, cách vạch mặt địa chủ như thế nào thì nhiều người phải làm đi làm lại chục lần mà vẫn còn nhầm lẫn. Các bà hay xắn váy quai cồng chửi đường chửi chợ tiếp thu và vào diễn tập rất hoàn hảo. Bà nào càng ngoa ngoắt hay xưng xưng mọc khẩu đặt điều cho người khác càng được ông đội khen ngợi. Đàn ông những người nào du thủ du thực hay kiếm chuyện chửi hàng xóm láng giềng thì khi diễn tập, ông đội rất hài lòng. Thậm chí có lần một tay say rượu lên diễn tập đấu chú em còn lỡ tay tát cả vào mặt chú Hòa chảy máu mũi nhưng ông đội cũng không nhắc nhở gì cả. Ông đội còn nói: “Ai đấu tố càng hăng thì sẽ được càng nhiều quả thực như trâu bò, lợn gà, nhà cửa, ruộng vườn, bàn ghế vật dụng trong nhà… bà con rõ chưa?”

Tần cứ thế nói tiếp: “Từ ngày đội về, cách gọi tên và xưng hô cũng khác hẳn. Có lần ông đội gọi cha em: “Võ Nhân Cung!” Cha em thưa: “Gì thế ạ?” Ông đội nói trả lời như thế là không được mà phải nói ngay: “Có tôi!” Rồi ông ấy đã giải thích: “Đây là tác phong mới do bác Hồ đào tạo từ ngày bác còn chỉ đạo vụ án bà Nguyễn Thị Năm ở Đại Từ, Thái Nguyên đấy. Bác Hồ đã dạy, nông dân ngày nay phải khôn ngoan, phải can đảm đứng lên dứt khoát đạp đổ giai cấp địa chủ phong kiến. Dù có phải nói quá lên mà có thể đánh đổ được bọn chúng, thì đều đáng được hoan nghênh”. Nhưng đấu địa chủ mà như lời ông đội nói, toàn đặt điều vu khống như thế thì ác quá! Không biết là rồi kết cục sẽ đi đến đâu, hả anh?” Tần lo lắng hỏi tôi.

Nhớ lại lời cậu Thành đã có lần dặn “Động đến cụ Hồ là phạm tội chết đó, cháu rõ không?” nên tôi đã phải lựa lời để nói cho Tần được yên lòng:

- Tần ơi, em phải tin tưởng vào bác Hồ chứ! Những gì mà bác Hồ đã dạy bảo thì chỉ có đúng thôi! Bác Hồ là cha già của dân tộc Việt Nam cơ mà. Cha già làm sao lại dạy sai được, hả em?

Nhưng cô ấy vẫn lo lắng và tiếp tục hỏi:

- Nhưng trong các buổi đấu tố địa chủ thật sự tại các xóm, nhiều lần em đã nghe ông đội khẽ nhắc “Phải dồn bọn địa chủ vào chân tường. Khi không quy kết được chúng vào tội gì nữa thì phải hét vào mặt chúng: Mày là một tên quốc dân đảng phản động ngoan cố, mày có nhận tội để được đội CCRĐ khoan hồng không? Hay là mày muốn chết, hả?” Vậy “quốc dân đảng phản động” là gì mà lại được “khoan hồng”, anh Văn có biết không?

- Cái này thì anh cũng chưa biết, để về anh hỏi lại cậu Thành của anh đã nhé! Hẹn em vài hôm nữa, anh sẽ trả lời cho em, có được không?

Tối hôm đó tôi về hỏi cậu Thành. Do cậu ấy từng có mấy năm liền làm việc tại Mặt Trận Liên Việt của huyện nên cậu đã giải thích cho tôi rành rẽ: “Quốc Dân Đảng là một tổ chức yêu nước do ông Nguyễn Thái Học lãnh đạo đã đứng lên chống Pháp bằng cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Dù đã 25 năm qua rồi nhưng nhân dân Việt Nam vẫn còn nhớ và yêu mến. Còn hai chữ “phản động” có lẽ là do đội cải cách cố tình nối thêm vào để làm một cái bẫy. Ai không chú ý tới hai chữ “phản động” đã được nối thêm vào đó, lập tức sẽ bị sập bẫy. Nghe nói đây là ý kiến chỉ đạo của đoàn cố vấn Trung Quốc và ông Hồ Viết Thắng phó ban CCRĐ từ trên trung ương xuống. Vì ở bên Trung Quốc, bọn địa chủ đều theo quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Sau năm 1949, Trung Quốc đã tiến hành CCRĐ thì cố nhiên làng nào, xã nào cũng có thể tìm ra được các địa chủ theo quốc dân đảng phản động. Còn ở Hà Tĩnh mình từ sau 1930, chỉ có đảng cộng sản chứ làm gì còn Quốc Dân Đảng của ông Nguyễn Thái Học nữa. Nhưng nông dân ta phần lớn là mù chữ nên bất cứ ai là đảng viên, họ cũng đều xem là “quốc dân đảng phản động”. Cán bộ, đảng viên của Miền Bắc qua 2 năm CCRĐ đã có tới hàng vạn người bị xử bắn hoặc bị tù oan cũng vì sự chỉ đạo mập mờ này của Hồ Viết Thắng và các cố vấn Trung Quốc đó, cháu ạ!

Rồi nhờ những lời kể chân thật của Tần mà tôi đã biết được, song song với các buổi đấu tố diễn tập là các buổi đấu tố thật sự tại các xóm. Trong lúc đấu, các địa chủ của từng xóm lần lượt bị các cốt cán chuỗi rễ trắng trợn dựng đứng lên các tội mà họ không hề phạm nhằm thể hiện những điều vừa được học từ các buổi đào tạo diễn tập của các ông đội. Đồng thời qua các cuộc đấu tố đó còn nhằm tố khống thêm các địa chủ mới và những tên quốc dân đảng phản động mới. Thời gian này ở Thiên Lộc có xóm phải mất tới mươi, mười lăm ngày đêm. Với tinh thần ai vu cáo được càng nhiều tội của địa chủ thì càng được chia nhiều quả thực, nên các bần cố nông đêm nào cũng tích cực đi đấu tố địa chủ như đi trẩy hội. Chính nhờ các cuộc đấu xóm này mà xã Thiên Lộc đã phát hiện thêm được hàng chục gia đình địa chủ bóc lột và quốc dân đảng phản động còn bị lọt lưới.

4- Những cuộc đấu địa chủ kinh hoàng trên quê ngoại

Xong các vụ đấu xóm rồi đến các cuộc đấu xã và liên xã ác liệt và kinh thiên động địa mà sau này lớn lên tôi mới hiểu được rằng, có lẽ chỉ ở các nước độc tài như Đức Quốc Xã, Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam DCCH…mới xẩy ra. Bởi tôi chưa từng biết có một nơi nào khác mà các cuộc xử án và bắn người đã không hề được xét xử theo tình tự của luật pháp. Đặc biệt các vụ xử tử hình đều chỉ căn cứ vào sự chỉ đạo áp đặt theo tỷ lệ phần trăm của các cố vấn Trung Quốc. Các vụ đấu xóm, đấu xã và liên xã này dù ở địa phương nào trên Miền Bắc cũng đều na ná giống vụ án xử bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên do Hồ chủ tịch trực tiếp chỉ đạo như một khuôn mẫu. Quý vị có thể tìm thấy những miêu tả chi tiết các vụ án như thế trong các tiểu thuyết đã in thành sách như “Ác Mộng” của nhà văn Ngô Ngọc Bội, “Ba người khác” của nhà văn Tô Hoài, “Ngày long trời lở đất” của nhà văn Trần Thế Nhân hay gần đây nhất là hồi ký “Đèn cù” đăng trên mạng của nhà báo Trần Đĩnh. Vì trong phạm vi của những trang viết ngắn, tôi không thể nào mô tả chi tiết các cuộc đấu tố đó được. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc lại một vài tình tiết đặc biệt trong cuộc đấu tố cấp xã của người cậu kính yêu, cậu Chắt Thiện của tôi mà tôi đã được trực tiếp chứng kiến mà thôi.

Mới lưng lửng chiều, mặt trời còn mấy cây sào nữa mới khuất non Hồng mà bọn trẻ con chăn trâu bò đã hối hả dong trâu bò về làng. Chúng vừa về vừa dục nhau: “Về nhanh lên để còn tìm chỗ ngồi vì có tới hàng ngàn người dự. Chiều nay mở màn vụ đấu xã tên Võ Thiện Sơn, chúng bay đã biết chưa?” Cha mẹ Tần cũng từng cấy rẽ ruộng của cậu Chắt Thiện nên sau khi nghe bọn trẻ trâu nói vậy, người Tần co rúm lại rồi vừa run vừa lau nước mắt:

- Chúng ta đừng đi anh ạ. Đến đó cũng chỉ phải nghe người ta dựng chuyện vu cáo thôi. Cả xã này ai chẳng biết cậu Chắt Thiện của anh là một người thầy giáo hiền lành như Bụt. Cậu ấy còn có bao nhiêu đóng góp cho cách mạng từ năm 1930 đến nay nữa. Chiều nay còn lâu mới hết buổi, anh hãy nán lại nói cho em biết “quốc dân đảng phản động” là gì, có được không?

- Anh phải đi vì cậu Chắt là người thân yêu của anh, Tần ạ. Còn “quốc dân đảng phản động” là gì thì cậu Thành đã giải thích cho anh rồi, để mai mốt anh sẽ nói cho em rõ, Tần nhé! Anh còn được cùng chăn trâu với em lâu mà!

Khi tôi và Tần về tới sân vân động thì cuộc đấu cậu Chắt Thiện đã bắt đầu một lúc rồi. Từ xa chúng tôi đã nghe thấy những tiếng hô dậy trời:

- Đã đảo địa chủ Võ Thiện Sơn ngoan cố!
- Hồ chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm!

Những tiếng hô “đã đảo” và “muôn năm” của hàng ngàn người cứ thế kéo dài, lan xa tới cả núi Hồng Lĩnh rồi vọng lại. Cậu Chắt Thiện của tôi mới bị đôn lên địa chủ từ các cuộc đấu xóm gần đây vì nhà cậu ấy cũng nghèo. Ngoài cái nhà thờ họ Võ bề thế của cụ Bang để lại ra thì nhà cửa của cậu ấy cũng tuềnh toàng. Cậu ấy suốt đời đi dạy học đâu biết tới ruộng vườn, hai người con của cậu mợ ấy còn nhỏ và mợ Chắt lại đau yếu luôn.

Không còn kịp dắt trâu về nhà, tôi và Tần vội buộc trâu và nghé vào một bờ cây gần sân vận động rồi cả hai đứa leo lên một cây lộc vừng cạnh sân đấu để nhìn xuống vì người đông quá đứng tràn ra cả ngoài sân vận động. Sau khi đã tìm được một chỗ ngồi vững chắc trên cành chạc ba của cây lộc vừng, chúng tôi nhìn xuống sân đấu thấy cậu Chắt đang quỳ dưới đất, trông xa tưởng là một vị Phật sống đang thiền định. Xung quanh chỗ cậu ấy quỳ là một khoảng đất trống rộng hình tròn có đặt hai bộ bàn ghế, một cho ông đội trưởng và đội phó đội cải cách ngồi. Bàn còn lại giành cho Chồm chủ tịch và hai người thư ký của cuộc đấu. Cạnh chiếc bàn của Chồm chủ tịch ngồi là ba anh dân quân cầm súng chĩa thẳng vào chỗ Cậu Chắt đang quỳ. Rồi vòng quanh khoảng đất trống đó là hàng ngàn người phía trước ngồi, phía sau đứng bừng bừng khí thế. Khi chúng tôi đến thì cuộc đấu tố cậu Chắt đã diễn ra được một lúc nên lúc này đang tiếp tục. Tiếng ông đội trưởng sang sảng:

- Xin mời cốt cán Hòa ở xóm Năm lên đấu!

Tần bất ngờ thấy ông chú của mình lên đấu thì lo thót cả tim, mồm cứ lẩm bẩm “Chú ơi, thầy Chắt Thiện làm gì có tội mà chú lên đấu tố người ta?” Ông chú của Tần cứ đi như chạy tiến về phía địa chủ Chắt rồi bất ngờ ngã lăn quay ngay giữa sân đấu như đã bị vướng phải một vật gì đó. Ông Hòa đang lóp ngóp bò dậy thì bỗng nghe tiếng ông đội trưởng như bị nghẹt lại:

- Ông bị ngã đau chứ? Ông còn nhớ tối qua tôi đã dặn ông những gì không?

- Thưa ông đội trưởng! Những lời ông dặn tôi phải đấu địa chủ Chắt như thế nào thì đêm qua tôi đã học thuộc lòng. Nhưng vừa rồi do bị ngã nên tôi đã quên hết rồi, ông ạ. Vậy tôi kính xin được ông đội trưởng tha tội!

Những người đến dự buổi đấu hôm ấy buồn cười quá nhưng không dám cười thành tiếng, còn Tần thì hởi lòng hởi dạ: “Cháu rất cám ơn chú Hòa nhân hậu và khôn ngoan của cháu!”

Ông đội trưởng lại tiếp tục nói như ra lệnh:

- Xin mời cốt cán Doan ở xóm Ba lên đấu!

Một người phụ nữ tuổi sồn sồn ngoài bốn mươi lả lướt bước lên. Cốt cán Doan mặt rỗ, hai cái gò má thì cao quá mang tai, mấy cái răng cửa của ả vẩu chìa ra ngoài trông vừa thâm vừa ác. Nhưng bù lại ả biết ăn diện, dáng đi gợi tình, đôi mắt biết cười và tài ăn nói của ả thì hết chê. Vừa giáp mặt cậu Chắt, ả đã chỉ tay vào mặt cậu tôi quát lớn:

- Địa chủ Võ Thiện Sơn! Mày có biết tao là ai không, hả?

- Là bà Doan ạ! Năm 1948, bà có bế con gái hộ vợ chồng con mấy tháng ạ!

- Vậy mày có nhớ là mày đã cưỡng hiếp tao mấy lần rồi không, hả?

- Con chưa bao giờ cưỡng hiếp ai, đặc biệt với những phụ nữ nhan sắc như bà thì lại càng không. Xin bà nhớ lại cho, chắc là bà đã có sự nhầm lẫn?

- Tao không nhầm đâu. Này nhé, hè năm 1952 trong khi vợ mày đi chợ, mày đã đè tao ra giường sàm sở rồi làm cái chuyện ấy, mày còn chối nữa không?

- Năm 1952, con đang dạy học ở Thái Nguyên suốt cả năm không về nhà thì làm sao con có thể đè bà ra giường được khi ở cách bà tới hơn 4 trăm cây số? Bà cứ hỏi bà con láng giềng xem năm đó con có về nhà không?

- Ừ thì cứ cho là tao đã nhớ nhầm năm. Nhưng hè 1953 mày đã về nhà nghỉ hè rồi hiếp tao ở nhà bếp hai lần trong khi vợ mày về bên ngoại, mày còn chối được nữa không hỡi cái đồ ăn có nói không Võ Thiện Sơn kia?

- Hè năm 1953 con phải ở lại Thái Nguyên để theo dõi vụ đấu tố địa chủ Nguyễn Thị Năm ở Đồng Bẩm, Đại Từ nên không được về. Vậy làm sao con lại có thể hiếp bà ở dưới bếp được. Hay là bà đã nhầm con với ông Thám ở xóm Năm, thưa bà?

- Mày đừng có lắm chuyện! Đời đàn bà của tao chỉ duy nhất một mình mày đã làm hại thôi chứ chẳng có ai vào đây cả! Còn tháng Năm 1954, mày hiếp tao trong nhà thờ cụ Bang khi mày lừa tao vào đó để lau dọn nhà thờ, nhớ chưa? Sau vụ đó về tao đã có chửa. Bây giờ mày còn chối được nữa không?

- Tháng Năm năm ngoái, 1954, con phải đi phiên dịch lấy khẩu cung của tù binh Pháp ở Điện Biên Phủ đến tháng Chín mới được về nên dịp đó con không có mặt ở nhà, chắc bà lại nhầm nữa rồi!

- À thằng này khốn nạn! Vậy năm ngoái tao có chửa, thằng con của tao vừa đẻ ra đã giống hệt mày mà mày còn dám chối, hả? Bà con ơi, nó là một tên địa chủ khốn nạn định gắp lửa bỏ tay người. Con nó rành rành ra đấy mà nó còn ngoan cố không chịu nhận để định đổ thừa cho người khác, phải không?

- Thưa bà Doan, con biết ngày nay nhất đội nhì trời! Nhưng trên tất cả chúng ta vẫn còn có Đức Phật và Thánh Thần. Bà có chửa với ai không phải là việc của con, nhưng Đức Phật và Thánh Thần sẽ chứng giám cho con là con chưa bao giờ động chạm vào thân thể ngọc ngà của bà. Vậy đứa con đó hoàn toàn không phải là của con. Nếu con nói sai, xin Đức Phật và Thánh Thần hãy trị tội con! Nam Mô A Di Đà Phật!

- Đã đảo địa chủ cường hào gian ác Võ Thiện Sơn ngoan cố! Kiên quyết bắt nó phải nhận là cha đẻ của con trai cốt cán Doan!

Chồm chủ tịch liền đứng dậy hô lớn và hàng ngàn tiếng hô “Đã đảo! Đã đảo! Đã Đảo!”, “Kiên quyết! Kiên quyết! Kiên quyết!” cứ thế vang xa mãi.

Trong khi hàng ngàn người đang bận hô khẩu hiệu thì Tần tranh thủ nói qua về cốt cán Doan cho tôi nghe. Cốt cán Doan chuyên đi bế trẻ thuê, đã có một đời chồng và một đứa con gái nhưng năm 1951 chồng ả say rượu rồi cảm chết. Tưởng mẹ góa con côi thì khổ nhưng ả có tài cưa trai để kiếm cái này cái nọ. Ba năm nay, ả đi lại với ông Thám ở xóm Năm. Ông này thọt chân bị vợ bỏ nhưng làm nghề thợ rèn nên kiếm được khá tiền. Cũng phải xài tiền của ông Thám thoải mái vài năm rồi ả mới có chửa. Được đứa con trai, ông Thám mừng lắm nhưng ả kiên quyết không nhận ông Thám là cha đẻ của con ả mà đi đâu ả cũng rêu rao đó là con của cậu Chắt. Vì ả mê cậu Chắt như điếu đổ từ lâu rồi. Ả mê cậu Chắt bởi cậu là người hiền lành, đẹp trai lại có học nhất xã. Vì thế, ông đội trưởng đã dùng ả để quyết đánh gục cậu Chắt, bởi đàn ông ai bị tố cáo chuyện mình đi hiếp dâm thì sẽ xấu hổ không dám cãi lại. Nào ngờ, cậu Chắt là người đã ngộ Phật nên cậu đã bình tĩnh vạch được bộ mặt gian trá của ả Doan. Quá bất ngờ, ông đội trưởng lại phải dùng tới con bài khác.

Tiếng ông đội trưởng lại vang lên:

- Xin mời cốt cán Được lên đấu!

Cốt cán Được vốn là thợ cày của nhà cậu Chắt, tính hiền lành, cha mẹ mất sớm nên cậu mợ Chắt đã đứng ra cưới vợ làm nhà cho Được ở ngay phía sau nhà cậu. Ông đội trưởng liền chọn Được làm cốt cán và giao nhiệm vụ cho Được “ngày đêm phải theo dõi địa chủ Chắt và các khách khứa đến thăm vì nó là một tên trùm phản động nguy hiểm”. Lúc đầu, Được không dám nhận lời, nhưng ông đội nói: “Hoặc là anh giúp đội, đội sẽ chia cho anh nhiều quả thực, hoặc là anh từ chối thì anh sẽ bị đi tù cùng với địa chủ Chắt”. Vì sợ ông đội trưởng bắt đi tù nên Được đã nhận lời theo dõi cậu Chắt.

- Địa chủ Chắt! Mà..à..y có biết ta…o…o là ai không?

- Dạ, con biết ông là ông Được, một người thợ cày hiền lành ạ!

- Mày có nhận rằng, hễ có ai đến chơi nhà, mày lại đưa chuyện địa chủ Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên bị bác Hồ xử bắn oan ra kể không?

- Không! Con chỉ nói vụ án địa chủ Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên là do Hồ chủ tịch trực chỉ đạo thôi ạ!

- Mày nói như thế là đã xúc phạm đến bác Hồ rồi, mày có nhận không?

- Con chỉ nói cái sự thật mà con biết thôi chứ không dám xúc phạm ai cả ạ!

Ông đội trưởng hơi thất vọng bởi cốt cán Được đã gần như quên hết những lời ông đã dạy trong buổi đấu tố diễn tập, nên ông đã quyết định phải dùng tới con bài cực độc của mình. Sau khi đã trấn tĩnh, ông đội lại dõng dạc gọi:

- Mời cốt cán Chồm lên đấu!

- Có tôi! Tôi sẽ cho địa chủ Chắt biết thế nào là lễ độ ạ!

Tần rỉ vào tai tôi, Chồm chủ tịch ngày xưa đã có lần bắt trộm cả chuồng gà nhà cậu Chắt đang vỗ béo để ăn Tết. Chẳng may bị người nhà cậu Chắt bắt được nên hắn đã bị dẫn ra trụ sở UB xã. Tại đó hắn đã bị ông Võ Ký Sơn lúc đó đang làm chủ tịch xã trói lại rồi cho người giải đi vòng quanh khắp làng để nhắc nhở bà con cảnh giác với hắn. Biết đây là thời cơ để trả mối thù đó cho nên hắn đã nhận lời với ông đội trưởng sẽ quyết đấu địa chủ Chắt đến cùng. Đứng sát trước mặt cậu Chắt của tôi, cốt cán Chồm hét lớn:

- Địa chủ Võ Thiện Sơn! Mày có biết tao là ai không?

- Dạ thưa, ông là Chồm chủ tịch của xã ta ạ!

- Tốt! Tao nghe nói năm 1930, mày đã đưa bọn quốc dân đảng phản động về xã ta lập ra làng Xô Viết Nghệ Tĩnh để giày xéo quê hương mình, đúng không? Mày có nhận tội để được hưởng khoan hồng không, hả?

- Không đúng! Ngày đó tôi đã đưa các đảng viên đảng cộng sản Đông Dương về xã để lập ra làng Xô Viết Nghệ Tĩnh chứ không phải quốc dân đảng phản động đâu ạ!

- Câm ngay mồm! Đảng cộng sản Đông Dương chính là quốc dân đảng phản động mà mày còn cãi à? Nước ta chỉ có duy nhất một đảng là đảng lao động Việt Nam chứ làm gì có đảng cộng sản Đông Dương, hả? Rồi năm 1945, mày lại đưa bọn quốc dân đảng phản động về xã ta để dựng ra cái chính quyền thối nát này và mày đã giao cho thằng em Võ Ký Sơn của mày làm chủ tịch. Chính tên Võ Ký Sơn đã bắt dân xã ta phải đóng thuế nông nghiệp quá cao, có gia đình phải bán cả nhà đi mới đủ tiền để đóng thuế. Tên Võ Ký Sơn còn bắt dân xã ta phải đi bộ đội, đi dân công hỏa tuyến làm bao bà mẹ phải mất con, bao người vợ phải mất chồng, mày còn dám cãi nữa không?

- Thưa ông, ngày đó tôi theo Việt Minh. Tôi đã đưa Việt Minh về lập ra chính quyền này chứ không phải là bọn quốc dân đảng phản động lập đâu ạ!

- Mày còn dám cãi cùn hả? Chính Việt Minh là bọn quốc dân đảng phản động đấy! Chỉ có bọn quốc dân đảng phản động như Việt Minh mới bắt dân làng đóng thuế nông nghiệp cắt cổ như thế! Chỉ có bọn quốc dân đảng phản động Việt Minh mới bày trò tặng bằng liệt sỹ cho các gia đình mất chồng mất con. Mạng người mà chúng bay chỉ đổi cho họ bởi một mảnh giấy mỏng như thế thôi sao? Trả lời đi hỡi tên quốc dân đảng phản động Võ Thiện Sơn!

- Thưa ông, đó là do sự lãnh đạo của Hồ chủ tịch từ trung ương chứ không phải do chủ tịch Võ Ký Sơn tự ý bày ra đâu ạ! Kính mong ông suy xét lại!

- Câm cái mồm thối của mày lại ngay! Lại Hồ chủ tịch! Cái gì mày cũng đổ lỗi cho Hồ chủ tịch, thuế nông nghiệp cắt cổ cũng do Hồ chủ tịch, giết con Năm ở Thái Nguyên cũng do Hồ chủ tịch… Mày là thằng quốc dân đảng phản động hết thuốc chữa rồi. Tôi khẩn thiết đề nghị ông đội trưởng và các đồng chí cố vấn Trung Quốc hãy xử tử hình tên Võ Thiện Sơn ngoan cố này!

- Tôi vô tội! Tôi vô tội! Cứu tôi với bà con ơi!

- Cứu này! Cứu này! Chồm chủ tịch vừa nói vừa đấm một cái trời giáng vào mặt cậu Chắt làm cho cậu ấy gẫy mất mấy cái răng, hộc cả máu mồm, máu mũi và từ từ ngã gục xuống. Rồi bỗng ai đó đã buột mồm hô lớn:

- Chồm chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm! Chồm đứng thẳng lên ngửng cao đầu hãnh nhìn hàng ngàn người dân trong xã đang tung hô mình.

Thấy cậu Chắt bị đánh trọng thương, Tần sợ quá ôm chặt lấy tôi khóc nấc lên, bảo tôi dìu cô ấy xuống gốc cây rồi ngất đi. Tôi chật vật lắm mới đưa được cô ấy lên nằm trên lưng trâu, rồi tôi đã dắt cả trâu lẫn nghé về tận nhà ông Cung. Mẹ của Tần vừa khóc vừa bế cô ấy từ trên lưng trâu xuống rồi nhìn tôi âu yếm như đang thầm cám ơn tôi.

Còn nhiều cuộc đấu xã kinh hoàng như thế ngày nối đêm được diễn ra trên sân vận động của xã đối với các cậu của tôi như cậu Cháu Dị, cậu Trì, cậu Chu, cậu Huấn vừa mới bị đôn lên địa chủ trong đợt vừa rồi và nhiều địa chủ khác nữa. Nhưng Tần nhất định không đi dự các cuộc đấu xã nữa vì theo cô ấy “Dựng ngược lên vu cáo người ta như thế mà cũng có tới hàng ngàn người hưởng ứng thì không thể nào chấp nhận được!” Cô ấy vừa nói vừa khóc. Lúc đó tôi đã muốn giải thích cho Tần hiểu được rằng, chỉ có một số ít người vì tham lam quả thực hoặc chức này tước nọ mới ủng hộ các cuộc đấu tố vô nhân đạo đó chứ không phải hàng ngàn người dân trong xã ta đâu! Nhưng đứng trước một cô bé vô tư và trong sáng như Tần thì mọi lời giải thích đều vô nghĩa vì trái tim nhân ái của cô ấy đã bị rỉ máu mất rồi!

Và một điều bất ngờ ngoài dự đoán đã ập đến. Sau khi cậu Chắt Thiện và các cậu khác của tôi bị đấu xã thì cậu Thành của tôi cũng bị bắt và đưa ra đấu xã vì cậu ấy đã bị quy là địa chủ phản động mặc dù nhà cậu ấy cũng nghèo và ít ruộng. Mấy hôm sau nữa đi chăn trâu thì tôi mới gặp lại Tần, nhưng Tần chỉ chơi với lũ trẻ chăn trâu con nông dân chứ không đến chuyện trò với tôi như trước nữa. Tôi nghĩ chắc do cậu Thành đã bị quy là địa chủ phản động nên ông bà Cung sợ bị liên lụy đã không cho Tần chơi với tôi nữa. Khoảng gần trưa, bỗng một thằng bé chăn bò con nhà nông dân hô lên:

- Hãy đánh chết thằng Văn con cháu nhà tên địa chủ Thành đi bay ơi!

Thằng đó vừa dứt lời thì có bốn đứa khác xấn lại đánh vào đầu tôi túi bụi. Tôi chưa kịp trở tay thì chính cái thằng hô đòi đánh tôi đó đã xô tôi ngã xuống một cái vực khá rộng và sâu cạnh đường cái. Tôi bị choáng nên không bơi được nữa và đã bắt đầu uống nước thì một cành cây khô được ném xuống và thấy Tần cũng nhảy xuống ôm lấy cành cây bơi nhanh về phía tôi. Rồi Tần bám vào cành cây dìu tôi vào bờ. Vừa trèo lên được trên bờ, Tần nói khẽ vào tai tôi: “Anh hãy dong trâu về nhà thay quần áo ngay đi!” Tôi nhìn thấy Tần cũng ướt như chuột lột mà sao cô ấy chỉ lo cho mình tôi? Tôi vừa dong trâu về nhà vừa băn khoăn không hiểu vì sao Tần đã liều mạng để cứu tôi? Và cái ơn cứu mạng này biết đến bao giờ tôi mới trả được cho em?

Tôi về đến nhà thì đã xế trưa. Sau khi thay quần áo và ăn trưa xong thì bỗng thấy hàng chục người hùng hổ tiến vào sân có cả hai dân quân mang súng. Một người mặc quần áo đại cán, đội mũ cát quát lớn:

- Cô Thành là ai ra đây ngay! Chúng tôi nhân danh đội CCRĐ hôm nay sẽ tịch thu tài sản của địa chủ Thành phản động. Cô hãy trao cho bà con toàn bộ chìa khóa nhà và các loại chìa khóa hòm tủ mau lên!

Lú đó mợ tôi mới nói như van xin:

- Ông đội ơi, nhà tôi nghèo mong ông đội tha cho vợ chồng tôi!

Mợ tôi chưa dứt lời nói thì họ đã khênh hết bàn ghế, giường tủ ra sân rồi. Một mụ tầm tuổi mợ tôi đã giằng chiếc chìa khóa buồng từ tay mợ tôi và kéo mấy người nữa vào trong buồng khênh ra mấy cái hòm cũ đựng quần áo và các thứ linh tinh khác mặc cho mợ tôi đang ngồi bệt xuống sân khóc thảm thiết. Chỉ chưa đầy nửa tiếng đồng hồ, toàn bộ ngôi nhà đã trống không kể cả thóc gạo khoai sắn họ cũng đã lấy sạch. Ông đội còn tuyên bố:

- Ngôi nhà này và con trâu kia đã có chủ! Cô phải có trách nhiệm giữ gìn cẩn thận! Vài hôm nữa người chủ mới của ngôi nhà và con trâu sẽ đến. Nếu có gì sơ suất thì địa chủ Thành sẽ phạm tội chết, cô rõ chưa?

Như một cơn lốc xoáy, đoàn người đã mang vác hết mọi thứ đi ra đường cái rồi đi về đâu tôi không rõ, mặc cho mợ tôi khóc gào hết cả nước mắt:

- Rồi mợ cháu mình lấy gì mà ăn Văn ơi? Biết lấy gì để nuôi cậu trong trại giam cháu ơi! Kiếp trước chúng con đã phạm tội gì mà trời đã phạt vợ chồng con như thế, trời ơi!

Thấy mợ tôi mệt quá, tôi vội quét nhà, trải manh chiếu rách xuống nền nhà cho mợ tôi nằm tạm rồi tôi thấy mợ tôi cứ thế nằm thiếp đi. Tôi đi tìm lọ dầu để bôi cho mợ nhưng lọ dầu khuynh diệp người ta cũng đã lấy đi rồi!

Tối hôm đó, tôi mò ra phía sau vườn đào củ dong riềng để luộc ăn tối cho đỡ đói. Đào cả tiếng đồng hồ mới được nửa rổ khoai, tôi mang xuống hồ rửa sạch cạo vỏ ngoài rồi luộc lên thơm phức. Lúc đó đã khuya lắm, hai mợ cháu tôi đang ngồi ăn dong riềng luộc thì nghe như có ai đó ngoài cổng. Tôi chạy ra thì thấy dì Quý dúi qua cổng vài cân gạo rồi đi ngay không nói với tôi một lời nào. Tôi biết là dì dượng Quý của tôi cũng đang bị theo dõi. Vì mặc dù là thành phần bần nông nhưng cũng có thể trở thành một tên “quốc dân đảng phản động” bất cứ lúc nào nếu có người tố cáo và ông đội muốn.

Sáng hôm sau rồi hôm sau nữa tôi không dám dong trâu lên đồng cỏ ven núi Hồng Lĩnh nữa vì sợ sẽ bị bọn con nông dân lại đánh mà chỉ dong trâu ăn lòng vòng ở khu ruộng hoang gần làng. Nhưng ngày nào tôi cũng mong được gặp Tần để cám ơn về cái hôm được Tần cứu mạng ấy. Hôm đó trời đã về chiều, tôi đang đói nên nằm trên lưng trâu ngủ thiếp đi. Bỗng có ai đó cầm chân tôi gọi khẽ: “Anh Văn, em bảo cái này!” Tôi choàng tỉnh dậy thì đã thấy Tần đứng ngay bên cạnh. Tôi nhảy xuống rồi hai đứa cùng ngồi bệt xuống bãi cỏ. Tần vừa mở một gói gì đó ra vừa nói:

- Anh đói lắm phải không? Ăn đi này! Em mang oản chùa Hương Tích về cho anh đây. Hôm nay là ngày Rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan và là ngày xóa tội vong nhân mà anh không nhớ nữa sao? Anh quên lời hẹn cùng đi thăm chùa Hương Tích với em rồi à? Em đi cùng mẹ nhưng đã cố đi nhanh về trước để mong gặp được anh đấy. Tần chưa nói dứt lời thì đã đầm đìa nước mắt.

Tần đang vừa lau nước mắt vừa nhìn tôi ăn oản thì bỗng nghe một tiếng kêu thất thanh cùng những tiếng roi vun vút đập vào lưng Tần:

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Mon Feb 07, 2022 6:00 pm

Cái con ranh này! Cha mẹ đã dặn con không được trò chuyện với cái thằng con địa chủ ấy nữa mà con dám cãi lời cha mẹ hả? Đi về nhà ngay! Chuyện này ông đội mà biết được thì bố con sẽ thành “quốc dân đảng phản động” đi tù mọt gông, con có biết không? Bà Cung vừa réo vừa cầm tay Tần lôi đi.

- Mẹ ơi, mẹ buông tay con ra! Anh Văn đang là trẻ con mà mẹ!

- Trẻ con gì! Chính vì phát hiện ra nó là con trai của một đại địa chủ ở Đức Lâm mà chú Thành con mới bị quy là địa chủ phản động đó con ạ! Nó là một thằng hủi, con hãy tránh xa nó ra nếu không muốn cha con cũng phải đi tù, rõ chưa? Mẹ của Tần vừa la vừa đánh roi vun vút vào người Tần làm tim tôi như bị thắt lại. Tần là con gái lớn nên được ông bà Cung cưng chiều lắm. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, Tần đã bị mẹ trừng phạt nặng đến thế.

Cứ thế, Tần vừa bị đánh roi vừa bị lôi đi không còn dám quay đầu lại nhìn tôi nữa. Và những tiếng kêu thất thanh “Mẹ ơi, mẹ buông tay con ra!” cứ xa dần, xa dần…rồi mãi mãi đã chôn sâu vào trong ký ức tuổi thơ của tôi.

Vì sợ liên lụy tới cha mẹ Tần, nên ngay đêm đó, Rằm tháng Bảy năm Ất Mùi ấy, tôi đã xin mợ Thành cho tôi được một mình quay trở về Đức Lâm. Dưới ánh trăng sáng, tôi đã đi bộ suốt đêm qua ba cái cầu bắc qua ba con sông rộng. Qua cầu nhìn xuống lòng sông tôi chỉ thấy bóng trăng nơi đáy nước chứ không thấy một con ma nào cả. Về đến nhà gặp lại thằng em trai út 3 tuổi, tôi vẫn còn một cái oản chùa Hương của Tần cho để làm quà tặng em trai nữa. Và từ đó, do bận về CCRĐ bên quê nội nên tôi không còn hay biết gì về những điều đã xẩy ra sau đó bên quê ngoại Phú Minh của tôi nữa.

Mười ba năm sau, Tần cũng lại bị trừng phạt một lần nữa nhưng có lẽ đó là lần bị trừng phạt cuối cùng của cuộc đời cô! Nghe nói hôm trước, tiểu đội TNXP của Tần đã bị một thiếu sót nhỏ nào đó, nên chiều 24/7/1968, tiểu đội của cô đã bị trừng phạt, bị bắt phải ra san đường sớm hơn một giờ đồng hồ trước khi mặt trời lặn như mọi ngày. Lo lắng cho sự an toàn về tính mạng của đồng đội, Tần đã xin được ra mặt đường muộn hơn một tiếng nhưng ông đại đội trưởng chỉ nghĩ tới thành tích “san đường bất chấp lửa đạn” của đại đội TNXP của mình, nên đã không đồng ý! Và các cô ấy đã phải ra mặt đường vào lúc còn mặt trời nên đã bị máy bay của Mỹ phát hiện.

Và thời điểm 5h15 chiều ngày 24/7/1968 oan nghiệt ấy đã cướp đi mười cô gái chưa chồng tại Ngã Ba Đồng Lộc trong đó có Võ Thị Tần, một người bạn tuổi thần tiên yêu dấu của tôi (*). Những tượng đài, tháp chuông, bia mộ lộng lẫy nơi khu tưởng niệm Ngã Ba Đồng Lộc chỉ để giành cho những kẻ cơ hội chạy chức chạy quyền thôi! Còn đối với Tần và các đồng đội của cô ấy bây giờ đây tất cả đều đã trở thành hư không. Lúc đang sống, Tần luôn muốn được lên thăm chùa Hương Tích nên tôi chỉ có một mơ ước, là một ngày nào đó tôi sẽ được rước mười vong của các cô gái Ngã Ba Đồng Lộc về vãng sanh nơi cõi Phật tại chùa Hương Tích trên quê ngoại Thiên Lộc mến yêu của tôi.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Hà Nội, Hè 2015

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by LDN Mon Feb 07, 2022 6:13 pm

Non Sông Gấm Vóc

Chuyện cải cách ruộng đất ở Liên Xô


Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là một đề tài vốn nhạy cảm, và cũng đã được nhiều người tìm hiểu. Tuy nhiên chúng ta lại biết rất ít về CCRĐ ở Liên Xô. Chúng tôi xin giới thiệu một đoạn trích trong tiểu thuyết “Những miền trái chín” của Ephgêni Eptusencô, do nhà xuất bản Tác phẩm mới phát hành năm 1990, để bạn đọc tham khảo.

Trích từ tiểu thuyết “Những miền trái chín” của Ephgêni Eptusencô

… Chuyện xảy ra đã từ lâu lắm rồi. Bấy giờ một tốp thanh niên cộng sản, trong đó có bác, được phái lên vùng thượng nguồn sông Lena làm công tác tiêu diệt giai cấp phú nông ở trên đấy. Chàng trai Tisa (tức bác Tikhôn bây giờ) lúc ấy chỉ là cậu công nhân tra dầu mỡ ở xí nghiệp đường sắt tại nhà ga thị trấn Dima. Khi nhận công tác thanh toán giai cấp phú nông, anh cảm thấy hãnh diện được trở thành đại diện cho giai cấp vô sản. Anh quên bẵng mất mình vốn gốc rễ nông dân. Một cán bộ có cặp mắt sưng vù lên giọng nghiêm nghị báo cho Tisa rằng đối với phú nông, sau khi phân loại sẽ phải phát vãng, không cho họ được tiếp tục cư trú tại nơi cũ nữa. Do hoàn cảnh đặc biệt của miền  Xibia, không thể phát vãng họ đi xa hơn được. (chẳng lẽ lại đưa họ đến vùng trung tâm Radan hay Xmôlenxcơ?). Người ta đành chỉ thay đổi nơi cư trú của họ trong phạm vi Xibia. Dọc triền sông Lena, bọn phú nông ở hạ lưu được phát vãng lên vùng thượng lưu và ngược lại, bọn phú nông ở thượng lưu được phát vãng xuống vùng hạ lưu. Họ được chở đi bằng sà - lan, có người áp giải.

Khi đến nơi cư trú mới, họ phải kí giấy cam đoan không được đi đâu khỏi khu vực quy định. Nhưng vì vẫn ôm hi vọng có ngày được trở về bản quán, nên những kẻ bị phát vãng không thiết gì sinh cơ lập nghiệp ở nơi cư trú mới. Cho nên nhiều phú nông ở hạ lưu đã chết và được chôn cất trên thượng nguồn. Ngược lại nhiều phú nông ở thượng nguồn đã chết và được chôn cất dưới hạ lưu. Cả hai trường hợp bọn họ đều nằm ở nghĩa trang bên cạnh tổ tiên của người khác.

Trong toàn bộ cuộc đấu tranh giai cấp ấy, chàng trai vô sản hai mươi tuổi đất Xibia là Tisa đã tham gia một cách tích cực. Khi ấy anh còn là một thanh niên ngực nở, bụng thon, chiếc thắt lưng đeo vũ khí bó chặt ngang người. Tuy tinh thần tiễu trừ phú nông lên rất cao, Tisa và đồng đội không sao vét nỗi cho đủ số phú nông như cấp trên quy định. Tất nhiên có những tên phú nông thực thụ. Chúng bóc lột bần cố nông tàn tệ. Những tên như thế, Tisa không hề thương xót. Anh thấy rõ trừng trị chúng là cần thiết cho xã hội. Nhưng những tên như vậy chỉ có rất ít. Trong những vùng ven sông Lena mà Tisa đã đến, bất cứ người dân nào, khi cần, cũng có thể săn bắt, đánh cá hoặc đào bới và đãi quặng. Hầu như không có ai là cố nông. Do đấy cũng không có mấy phú nông. Trong việc tìm tòi, lùng kiếm phú nông, gay go nhất cho Tisa là thời gian đội đến làng Têtêrêpca, một làng nhỏ xíu trên thượng nguồn sông Lena. Cả làng chỉ có một trăm hai chục người dân và đau khổ thay, không có một phú nông nào.

Một cốt cán địa phương có tên là Xpirin, do quá tích cực, tha thiết muốn được giúp đỡ đội công tác, đã cung cấp một đối tượng thích hợp cho cuộc vận động thanh toán phú nông, đấy là tên Dalôghin. Nhưng Xpirin làm việc này với một vẻ hằn học, khiến Tisa lại thấy khinh bỉ.

Ngôi nhà của Dalôghin ở bìa làng. Một dinh cơ khá lớn. Khắp làng Têtêrêpca duy nhất có nhà này lợp tôn, lèo cửa sổ gỗ chạm trỗ cầu kỳ, cánh cửa sổ sơn mầu xanh biếc và đục thành những hình quả tim. Sáu cửa sổ trông ra đường làng thì đều có bầy trên bậu cửa những thùng sắt tây trồng thiên trúc quỳ, hoa mầu hồng nhạt, những chiếc hộp từ thời trước cách mạng vốn để đựng kẹo cứng. Tối đến các cánh cửa sổ đều được đóng lại và cài lại bằng những cái chốt to và nặng.  Hàng rào quanh nhà được ken bằng những tấm ván thuyền với những lỗ cọc ván đều dặn. Cổng rất rộng, hai bên là hai chiếc cột to, đầu đẽo thành hình bác giác, trông có vẻ kiên cố, và chắc là làm anh cốt cán Xpirin ngứa mắt, vì nhà của anh ta chỉ là một chiếc lều lụp xụp, mái dột và hàng rào chung quanh thì xiêu vẹo.

Hôm ấy, trong khi khảo sát đời sống của dân làng Têtêrêpca, Tisa đến nhà Dalôghin. Mọi người đi vắng chỉ có mỗi cô con gái út của ông già Xêvátchian tên là Đasa, cô đang nhào bột để làm mằn thắn, và cắt bột bằng một chiếc cốc. Hai cánh tay cô dính đầy bột. Bột mì bám vào làm trắng cả khoảng da vốn xạm nắng giữa hai bầu vú, ló ra sau chiếc cổ áo khoét rộng của chiếc áo liền váy không tay. Cả đôi má đỏ ửng có lúm đồng tiền cũng được phủ một lớp bột trắng. Cặp mắt cô gái Đasa xanh biếc, giống như hai hạt ngọc.

_  Anh vào đây nhào bột làm bánh mằn thắn với em nào! – Đssa gọi giọng nghịch ngợm. – Hay là các ông chỉ huy Hồng quân không biết làm bánh?

Theo quan niệm của Đasa, cái người thắt cái thắt lưng to bản từ trên huyện cử xuống kia tất phải là một cán bộ chỉ huy đầy quyền uy. Nhưng cô muốn tỏ ra không sợ anh ta.

_ Sao lại không biết? – Tisa mỉm cười, quay cái trục cán, cầm cái cốc ấn mạnh vào thỏi bột, cắt thành một hình tròn khá đẹp. Anh bốc một nhúm thịt đỏ tươi đặt lên làm nhân, dùng ngón tay bóp các cạnh lại. Tisa cố làm đúng như mẹ anh đã dạy, để chiếc bánh có hình như chiếc tai trẻ con trong suốt. Anh đưa chiếc bánh cho Đasa xem.
_ Thế này chứ gì?
_ Đúng. Nhưng cũng chưa thật đúng .. – Đasa cười phá lên. Bột chưa mịn vì em đã cán kĩ đâu nào. Đến lúc hấp nhân sẽ lồi ra cho mà xem.
_ Còn cô thì cả người lồ lộ ra hết … Tisa đối đáp lại. Lúc ấy cô gái lại đứng đúng vào chỗ có nắng chiếu vào. Bụi bột và các thứ bụi khác bay lượn khiến chiếc áo liền váy của Đasa lấp loáng, bập bềnh như một vật sống. Và bên dưới cái ánh lấp loáng ấy, thân thể cô hiện ra thành một hình màu sẫm lộ rõ những đường cong mềm mại.

Toàn thân Đasa toát lên mùi bột, mùi hành, mùi thịt và cả một mùi hương của tuổi trẻ đang khao khát yêu đương. Tisa tin chắc vào ưu thế của chiếc thắt lưng to bản anh đeo ngang người. Anh ôm ngang lưng cô gái, định kéo lại sát mình, nhưng bị luôn một cái tát, nhẹ thôi nhưng đầy hàm ý.
_ Đi đâu mà vội vã thế, đồng chí chỉ huy Hồng quân? … Đasa mỉm một nụ cười hiền hậu.

Vừa lúc ấy người cửa có tiếng chân người, tiếng cọ đế ủng vào bậc thềm để bùn đất rơi ra, tiếng cười nói ồn ào. Đasa bước nhanh đến sát Tisa, giật chiếc khăn quàng trên đầu cô ra, lau vội vết bột hình bàn tay in trên má anh. Cái cử chỉ vội vã và vụng trộm ấy lập tức tạo nên mối quan hệ đồng lõa giữa hai người.

Ông già Xêvátchian cùng với bà vợ, ba người con trai, mấy cô con dâu bước vào. Theo sau là cả một lũ trẻ con. Và căn phòng, mới lúc nãy còn rộng thênh thang bỗng trở nên chật chội. Họ vừa ở ngoài đồng về. Đasa bèn gạt những chiếc bánh mằn thắn vào nồi nước trên bếp đang sôi sùng sục.

_ Tôi đến để điều tra … - trước những cặp mắt chờ đợi của những người trong gia đình Dalôghin, Tisa thở dài nặng nhọc và vừa nói vừa móc trong túi quần ngựa ra cuốn sổ có kẹp chiếc bút chì.
_  Đasa! Sao con không mời khách ngồi? – ông già Xêvátchian cau mày mắng con gái. Chắc ông đã nhìn thấy Tisa trong làng Têtêrêpca, vì cả làng chỉ có mỗi một xóm nhỏ, làm sao không nhìn thấy được? Và ông cũng đã biết anh thanh niên này đến đay nhằm mục đích gì rồi.
_ Xin mời cậu ngồi, - bà vợ ông già nói, giọng không một chút niềm nở.

Dù sao Tisa cũng là người địa phương, anh biết rằng tục lệ tiếp khách ở đây đầu tiên là hãy đánh chén đã. Những chiếc bánh mằn thắn được múc trong nồi gang ra và được bày vào một cái chậu to vẽ hoa đặt giữa bàn. Đasa cầm chai rót ra các cốc một thứ rượu ngang trong vắt như sương móc.

_ Cụ nấu rượu này bằng gì?- Tisa buồn bã hỏi.
_ Bằng lúa mì cậu ạ, - ông già Xêvátchian đáp, - dùng lúa mì thì rượu mới ngon thế này.
_ Nghĩa là cụ có cả ống ruột gà và các thiết bị khác nữa chứ?- Tisa hỏi tiếp và nỗi buồn lúc nãy lại tăng thêm.
_  Đã đành là phải có tất cả những thứ ấy rồi, - ông già Xêvátchian đáp vẻ tự  hào, rồi đưa ngón tay nhót một chiếc bánh mằn thắn đặt vào dưới chòm râu.

_  Cụ phải nộp thôi, Tisa nói, nốc cạn cốc rượu và khoan khoái cảm thấy cổ họng hơi nóng lên.
_  Tôi sẽ nộp nếu có lệnh của trên.
_  Có lệnh từ lâu rồi, - Tisa nói và rót thêm cốc thứ hai.
_  Lệnh ở trên về chúng tôi chậm lắm, phải một thời gian rất lâu mới về đến cái làng này. – ông già Xêvátchian cau mày. - Dòng sông Lena này dài lắm. còn việc nộp lương thực cho nhà nước thì cậu yên tâm. Đasa con đem giấy biên lai ra đây. Bố để sau bức tượng thánh ấy.

Tisa xem kỹ những tờ biên lai. Đúng thủ tục cả, không có gì có thể hoạnh họe được.
_  Ngày mai cụ đem tất cả các thiết bị ra trụ sở ủy ban xã rồi nộp tiền phạt, - Tisa nói.
_  Nếu vậy thì những nhà khác cũng phải đem chứ? – bà vợ nói chen vào.
_  Còn những ai cũng có những thiết bị nấu rượu như thế này nữa? – Tisa nhất bút chì lên.
_  Dòng họ Dalôghin chưa ai có thói đi tố giác người khác bao giờ, - ông già Xêvátchian trừng mắt nhìn bà vợ, - cậu hãy tự đi điều tra từng nhà xem. Chứ chúng tôi sẽ không mách gì thêm nữa đâu.
_  Gia súc của cụ có bao nhiêu đầu con? – Tisa hỏi.
_  Ơn chúa có ba ngựa và ba bò thôi.
_  Còn lợn và cừu?
_  Mỗi thứ một chục con. Có cả một con dê nữa, nếu cũng tính nó là gia súc.
_  Gà và ngỗng thì bao nhiêu?
_  Đếm làm sao nổi? Gia đình tôi đông con cháu, ở chung một nhà chật ních. Thỉnh thoảng cũng làm bữa tươi cải thiện, cho nên gà trống gà mái cũng bớt đi. Với lại làng chúng tôi đây chỉ có một xóm. Gà ngỗng các nhà cứ lẫn lộn với nhau hết. Có hôm nhà tôi bắt một con ngỗng đem thịt mà chẳng biết có phải ngỗng của nhà mình không hay của người láng giềng … ông già Xêvátchian chau mày.
_  Nhà cụ phong lưu thật, - Tisa lấy đầu bút chì gãi gãi vào chỗ sau tai.
_  Chẳng lẽ sống phong lưu lại không được hay sao? – ông già lạnh lùng nói. – Cũng chẳng phải tôi được phong lưu như thế này từ thuở nhỏ đâu. Tôi cũng đã từng làm chân chèo thuyền trên sông Lena, rồi làm công nhật cho người ta. Nhưng chính tôi lại chưa hề thuê ai làm công cho tôi bao giờ! Tất cả những thứ tôi có trong cái nhà này đều do hai bàn tay của tôi làm nên. Cậu nhìn bàn tay tôi đây này. Bánh mằn thắn đang nóng còn bốc khói, ấy thế mà tôi vẫn cầm dược, không hề bị bỏng. Do làm lụng cực nhọc nên da tay tôi đã dày cộm lên.
_  Thế trong thời kì nội chiến, ông theo bên nào? – Tisa hỏi trong lòng thầm hy vọng.
_  Tôi không theo bên nào cả. Già rồi. Hồi ấy tôi cũng đã ngoài sáu chục tuổi đầu rồi còn gì.
_  Sao ông lại bảo không theo bên nào? – bà cụ lại nói chen vào câu chuyện. – Ông quên rồi à? Nhà mình chả đã giấu bộ đội Hồng quân bị thương là gì? …
_  Đấy là vì họ bị thương. Vì mấy anh bị thương nên chúng tôi giúp đỡ chứ không phải vì họ là bộ đội Hồng quân, - ông già nói giọng cáu kỉnh.
Khi Tisa về, cô gái Đasa chạy theo ra đến sân ngoài, để giữ con chó vừa mới sổng ra. Cô đột nhiên nói khẽ vào tai anh:
_  Trưa mai anh đến chỗ dốc Xiên nhé … em sẽ hái anh đào dại ở chỗ ấy …

Anh đào dại trên dốc Xiên thật đặc sắc! Cây nào cũng trĩu những quả chín mọng màu đen sẫm. Mưa đêm làm chúng rụng xuống đầy mặt đất. Chỉ cần bứt một chùm to, bỏ vào miệng, dùng lưỡi nhằn bỏ hột thì lập tức cả vòm miệng phía trên bị một lớp keo ngọt lịm bít kín. Tisa vịn các cành xuống thấp để Đasa hái quả được dễ dàng. Thỉnh thoảng cô gái lại rú lên một cách rất trẻ con, khi những giọt nước mưa đêm qua còn đọng lại trên đám cành lá rơi xuống người, chui vào cổ áo của chiếc áo liền váy không tay, rồi lăn xuống lưng, tạo cảm giác nhột nhột. Chỉ một loáng hai giỏ đã đầy ắp.
_  Còn lẫn nhiều lá quá! Đasa thở dài, - Đành phải nhặt ra vậy.

Bỗng nhiên cô bước đến sát Tisa, đặt hai tay lên vai anh kéo lại. Cặp mắt xanh lục của Đasa  gần mắt anh đến nỗi, Tisa nhìn thấy trong mắt cô gái cả những tia máu nhỏ xíu, giống như những đường gân trong đá ngọc xanh …

Rồi họ nằm xuống bên cạnh nhau, giữa hai cái giỏ đầy ắp anh đào dại. Do lỡ tay, Tisa làm nghiêng một cái giỏ. Anh đào đổ tung tóe lên giữa bộ ngực trần của Đasa, và Tisa đã đớp những quả anh đào nằm trên đó.

Đasa và anh còn gặp nhau nhiều lần nữa, khi ở trong rừng anh đào dại, khi trong rừng sơn trà, và lúc chia tay nhau bao giờ họ cũng về mỗi người một hướng để khỏi ai biết mối tình của họ.
_  Anh sẽ không làm phiền gia đình của em chứ?- một hôm Đasa hỏi người yêu. – Phú nông gì nhà em cơ chứ, phải không, anh Tisa?

Ngay lúc ấy trong óc Tisa bỗng nảy ra một ý nghĩ tồi tệ: hay là lão Xêvátchian phái con gái đến mua chuộc mình, để làm cho mình mất cảnh giác chăng? Dù sao lão ta cũng mắc tội nấu rượu lậu mặc dù đã đập vỡ nồi cất và đã nộp tiền phạt. Nhưng liệu lão ta có giấu một cái nồi khác nữa không? Với lại tuy lão ta không thuê người làm công nhưng so với người khác, lão rất giầu. Tisa cố gạt đi mối nghi kỵ về Đasa, nhưng thỉnh thoảng nó lại trỗi dậy: vì đấy là một ý nghĩ tiện lợi.

Tisa được người thủ trưởng có cặp mắt sưng tấy gọi lên huyện. Anh ta không tiếc lời phê phán thái độ nhân nhượng của Tisa với các phần tử phú nông. Vừa nó, anh ta vừa gõ báng khẩu súng lục lên mặt chiếc bàn gỗ hồng sắc tịch thu được ở đâu đó. Mặt bàn đầy vết sức sẹo, chắc do anh ta gõ báng súng lên nhiều quá.

_  Chúng tôi không đòi hỏi cậu phải làm gì nhiều, mà chỉ yêu cầu cậu thực hiện đầy đủ những điều đã quy định. Ở làng Xưtsôpca cậu có tìm ra được phú nông không? Có chứ gì? Rồi ở Krutơgorie nữa? Có chứ gì? Vậy tại sao ở làng Têtêrêpca này cậu lại không tìm ra được? Chẳng lẽ ở đây lại không có phú nông? Chẳng lẽ Têtêrêpca lại là một thiên đường một xã hội không giai cấp? Cậu phải mở to mắt ra … Cậu đã ở đây một tháng trời. Hay là cuộc sống ở đấy đã làm cậu rã rời?

Người thủ trưởng luôn miệng ho do hút thuốc lá liên tục. Anh ta kéo bình nước lại gần định rót, nhưng bỗng nhiên anh ta chững người lại: cái bình rỗng không và bên trong, một con ruồi đang vo ve, đập cánh vào bình thủy tinh. Người thủ trưởng nổi khùng lên với Tisa, vì anh đã chứng kiến sự bất lực của cấp trên dù chỉ trong một việc hết sức nhỏ. Người thủ trưởng cau có hỏi:
_  Hay chính cậu là dòng dõi phú nông? Phải kiểm tra cậu mới được.

Vào thời kì ấy, một câu nói kiểu như vậy là một lời đe dọa khủng khiếp. Sau cuộc tẩy não ấy, về đến Têtêrêpca, Tisa vội vã họp với hai cốt cán địa phương. Cốt cán thứ nhất là Êrughin. Anh đã từng là đội viên du kích đỏ và hiện nay là một trong những người nghèo nhất làng, do anh bị cụt một chân và lại dộc thân. Tuy nhiên cái nghèo không làm anh hằn học, ghen ghét với những người khá giả hơn, như thường thấy ở những kẻ nghèo do lười biếng chứ không phải do hoàn cảnh rủi ro. Cốt cán thứ hai là Xpirin, chính thuộc loại người mà trong đáy lòng luôn có một nỗi ghen ghét với những ai giầu hơn. Anh cũng là thương binh trong cuộc nội chiến. Một viên đạn xuyên qua cánh tay trái, khiến cho các ngón tay bên trái không co duỗi được nữa. Có người nói, chính anh đã tự bắn vào mình. Anh theo Hồng quân, nhưng chỉ mới tham gia được ít bữa, anh đã bị thương. Khi chính quyền Xô-viết thắng lợi, anh lập tức ưỡn ngực lên, khiến người ta tưởng như tên tướng Bạch vệ Côntsắc bị đập tan chính do công lao của anh, của Xpirin vậy. Bao quanh một lũ con đông đúc, đứa lớn chỉ cao hơn đứa bé một ngón tay, với một chị vợ lúc nào cũng bụng to, quần áo quanh năm xốc xếch, Xpirin luôn luôn cáu kỉnh. Anh ta oán giận cuộc đời đã không ban cho anh những thứ anh thèm muốn.

Tisa đặt lên bàn bản danh sách dân làng Têtêrêpca rồi nói giọng buồn bã nhưng kiên quyết:

_  Nào, ta hãy cố tìm xem ai là phú nông.

(Còn tiếp)

Trích từ tiểu thuyết “Những miền trái chín” của Ephgêni Eptusencô
Nhà xuất bản Tác phẩm mới - Hà Nội.  năm 1990.
Chuyển ngữ: Vũ Đình Phòng

Cải cách ruộng đất ở Việt Nam


Lần đầu tiên một đề tài vốn nhạy cảm trở thành chủ đề triển lãm được khai mạc hôm 8/9 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội về "Cải cách ruộng đất 1946 -1957".
Theo thông cáo báo chí của Bảo tàng thì mục đích của triển lãm là "Nhằm giúp công chúng tiếp cận với những tài liệu, hiện vật gốc và có cách nhìn thực tiễn, khoa học, khách quan về cuộc vận động cách mạng ruộng đất trong tiến trình lịch sử dân tộc" trong giai đoạn 1946-1957 nhân 69 năm ngày Việt Nam độc lập và kỷ niệm 60 năm "cuộc vận động cách mạng cải cách ruộng đất".

Trả lời BBC Việt Ngữ, ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, cho biết chủ đề triển lãm nói về những thành quả của cải cách ruộng đất như "mang lại tư liệu sản xuất cho người lao động" theo khẩu hiệu "người cày có ruộng".

Ông cũng cho biết tại triển lãm này còn có cả những tư liệu về những sai lầm và sửa sai liên quan chiến dịch cải cách ruộng đất của giới lãnh đạo Việt Nam.

Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953–1956. Cải cách ruộng đất tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông; đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ. Cải cách ruộng đất đi kèm với phong trào chỉnh đốn Đảng lúc đó.

Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Dựa theo mô hình "thổ địa cải cách" của Trung Quốc (1946–1949), cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc.
Chiến dịch càng lên cao điểm càng mất kiểm soát dẫn đến tình trạng vô chính phủ, nhiều oan sai và cô lập, đối xử nhục hình với gia đình người bị đấu tố. Hơn 70% người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là quy sai. Điển hình như:

Trường hợp tử hình bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, có con trai một là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong "Tuần Lễ Vàng", gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập.

Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, việc áp đặt giáo điều các biện pháp dập khuôn từ cải cách ruộng đất của Trung Quốc đã gây ra nhiều phương hại và tổn thất. Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, gây tác hại đến sự đoàn kết dân tộc của người Việt, ảnh hưởng tới niềm tin của một số tầng lớp nhân dân với Đảng Lao Động Việt Nam. Suốt 1 năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.

Tổng số cán bộ, đảng viên bị xử lý, sau khi chỉnh đốn là 84.000 người, chiếm tỷ lệ hơn 55%. Nhiều chi bộ tốt bị coi là chi bộ phản động, bí thư hoặc chi ủy viên chịu hình phạt nặng nề: tù hoặc bắn. Tình hình chỉnh đốn ở cấp huyện và cấp tỉnh cũng rất bi đát. Số cán bộ lãnh đạo các cấp này bị xử lý oan sai cũng chiếm tỷ lệ lớn. Hà Tĩnh là tỉnh cá biệt, có 19 cán bộ tỉnh ủy viên, công an, huyện đội dự chỉnh đốn đều bị xử lý.

Tổng cộng chiến dịch Cải cách ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha.
Số lượng người bị giết trong chương trình Cái cách ruộng đất là không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải tìm cho ra tỷ lệ 5,68%  địa chủ,  "Việt gian" để mang ra đấu tố thì con số sẽ không ít.

Tuy nhiên, ở một góc độ khác việc thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả vô cùng to lớn. Đã có rất nhiều người bị đấu tố oan. Mức 5,68% địa chủ trong dân số địa phương là cao hơn rất nhiều so với thực tế. Tổng số người bị quy trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172.008 người; số người bị oan sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71,66%. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đã được đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, đã làm Đảng Cộng sản Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach

Người ăn chay - Han Kang

https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN

LDN


Back to top Go down

Confused Re: Cải cách ruộng đất: Quỳnh Lưu anh dũng dám chống lại

Post by Sponsored content



Sponsored content


Back to top Go down

Page 1 of 2 1, 2  Next

View previous topic View next topic Back to top

- Similar topics

Permissions in this forum:
You can reply to topics in this forum