Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
Page 4 of 4 • Share
Page 4 of 4 • 1, 2, 3, 4
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 15
Hôm sau, vẫn ở phòng chấp pháp khu B, tôi làm việc với chấp pháp số 7. Tôi... đi khách lần thứ bẩy. Chấp pháp số 7 giống hệt tên lái buôn thô lỗ. Mà tôi, nàng Kiều chưa thể chuyên nghiệp.
- Hôm nay anh viết tự khai.
- Tôì đã viết bên Sở hai lần.
- Sở là sở, Trại là trại. Với Trại, mọi chuyện bắt đầu.
- Tôi đã viết thêm một lần ở Trại.
- Anh chưa làm việc với tôi.
Chấp pháp số 7 móc thuốc Vàm Cỏ và hộp diêm Samasa đặt trên bàn:
- Anh tự do hút thuốc. Hết thì sẽ có thêm. Anh được uống cà-phê. Lát nữa, quản giáo đem tới.
Từ nửa tháng nay, đề lao cấm chỉ cà-phê, trà. Vì có phòng bị phát hiện nấu nước sôi bằng lon sữa bò và túi ni lông bện lại nhóm lửa. Cà-phê, trà bị cấm. Sữa đặc bị khui ra đổ vào keo nhựa hay túi ni-lông rồi mới cho vô phòng. Ở tù phiền lắm. Một người vi phạm nội quy, ngàn người vạ lây. Cách mạng có dịp diễn tả sự tử tế: “Chúng tôi không cấm đoán các anh, mọi khó khăn do chính các anh tạo ra”.
Chấp pháp số 7 chưa phát giấy bút. Hắn... mạn đàm:
- Tôi nhắc lại: Anh viết tự khai.
- Tôi hiểu.
- Tốt. Trong các anh, nhiều người chướng lắm. Lố lăng nhất là thằng Trần Dạ Từ. Bảo viết tự khai, nó làm thơ chéo.
Tôi chưa biết thơ chéo ra sao.
- Nó đòi làm việc với nhà văn miền Bắc! Công an bắt nó mà nó mơ mộng. Cuối cùng, nó vẫn làm tự khai.
Chấp pháp số 7 dằn mặt tôi. Hắn lôi người không ở chung phòng tôi ra dẫn chứng. Đây là đòn công an. Như gã chấp pháp xứ Nghệ đã “bỏ nhỏ” Nguyễn Mạnh Côn khai về tôi “không lấy gì làm đẹp”. Cộng sản dùng kế ly gián để chúng tôi bôi lẫn nhau cả những chuyện không liên can tới văn nghệ phản động. Tôi biết chắc họ đã đem tôi ra “bỏ nhỏ” với người này, người kia. Công an chế độ nào cũng giống nhau. Công an và an ninh quân đội. Đòn ly gián rất ếp-phê. “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp đã áp dụng thủ thuật khốn kiếp này. Muốn bêu tôi, ông ta gửi về tặng Dương Hùng Cường gói thuốc tây, kèm theo cái thư có đoạn “bỏ nhỏ”: Này, thằng Duyên Anh đang ở Paris, nó uống rượu tối ngày, nó chửi mày dữ quá! Dương Hùng Cường sẽ nổi điên, nghĩ rằng thật, nó sang Pháp sung sướng còn nỡ chửi anh em. Bèn hài tội Duyên Anh, thêu dệt đủ tội. Khi người ta phẫn nộ thì ghê lắm, “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp, gốc an ninh quân đội, chớp được thư nhà, phô-tô cóp-pi vung vít mà gửi khắp quần hào. Cái tác phong ngụy tiểu nhân của cớm sớm muộn nó cũng lòi ra. Bọn bất tài vô tướng thường chơi thủ thuật. Chừng thủ thuật hết thiêng, chúng nó lêu bêu như lũ chó ghẻ già nua.
Chấp pháp số 7 nói tiếp:
- Cái thằng Như Phong Lê Văn Tiến vẫn ngoan cố. Bầy đặt tuyệt thực. Thời đại của Thiệu đã cáo chung. Đứa nào muốn chết cháv, cứ tự nhiên. Gia đình nó sẽ đóng thuế ngu cho nó. Rốt cuộc, Như Phong đành tự khai. Các anh không kiên trì bằng người cộng sản. Các anh là đá, chúng tôi là nước. Nước chảy đá mòn. Các anh là sắt, chúng tôi là át-xít. Át-xít gặm mòn sắt. Chúng tôi có giai đoạn rõ rệt. Kiên trì rồi kiên quyết. Khoan hồng rồi trấn áp. Các anh thích làm anh hùng, chúng tôi biến thành anh hèn ngay. Khẩn trương, đột xuất.
Hắn đánh phủ đầu tới tấp. Nhờ hắn tiết lộ, tôi tin chuyện Như Phong đã khước từ cơm tù 41 ngày mà anh em C-2 kể cho tôi nghe khi anh em chuyển sang C-l, chung phòng tôi, mấy tháng sau. Như Phong “yoga” ở cachot. Anh không viết tự khai, không làm tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhà quân sự Phải Gió uống nước chanh đường mà yoga. Mức yoga của Như Phong đến bậc thượng thừa. Đề lao biết anh... tuyệt thực, cứ giả vờ như không biết. Ô cửa gió mở. Quản giáo thường xuyên theo rõi. Bấy giờ, Trưởng trại T-20 tức Giám thị đề lao Gia Định là thiếu tá công an Tuấn, Phó trại là Tư Long, tên nằm vùng bán vé xe đò bến Saigon – Đà Lạt cho hãng xe Minh Trung. Tư Long đeo quân hàm đại úy. Ngày thứ 41, Tư Long cúp ống dẫn nước vào cachot. Quân sư Như Phong kềnh ngay lập tức. Người ta khuân anh ra Phòng Y Tế. Người ta chích nước biển. Như Phong còn đủ sức co tay, Tư Long xỉ vả anh. Như Phong thều thào: “Anh nên lễ độ, tôi chấp nhận cái chết”. Bác sĩ Quang năn nỉ Như Phong: “Xin anh cho tôi làm bổn phận y sĩ”. Người ta đè anh, trói chân anh, tay anh trên giường. Và vào nước biển tiếp sức. Như Phong được đề lao bồi dưỡng một thùng sữa đặc, trở thành tù nhân de luxe của đề lao. Anh ra phòng tập thể C-2, ngày ngày đi mạn đàm với chấp pháp. Rồi anh viết tự khai...
Chấp pháp số 7 đã đưa giấy bút cho tôi.
- Anh viết khẩn trương vì tôi sẽ về Hà Nội công tác đột xuất. Tự khai lần này khác.
Tôi hỏi:
- Tôi sẽ viết thế nào?
Hắn đáp:
- Cuộc đời anh từ năm anh 10 tuổi đến ngày anh bị bắt. Thật chi tiết. Chính xác ngày, tháng, năm.
- Làm sao tôi nhớ ngày tháng?
- Cố nhớ đến đâu hay đến đó. Anh hay khoe anh có trí nhớ tốt mà.
- Chỉ vậy?
- Anh tóm tắt mỗi cuốn sách của anh, khai rõ cảm hứng nào anh viết, anh viết nhằm mục đích gì, ai thuê anh viết, mỗi cuốn giá bao nhiêu... Anh đừng quên những bài báo của anh trên những tờ báo anh cộng tác.
- Tôi viết cả 10 ngàn bài dài ngắn.
- Cố nhớ.
Bạn thấy hệ lụy văn chương của những nhà văn ở lại bị bắt chưa? Tôi muốn ông “nhà xuất bản” Đại Nam và các ông “nhà báo” viết thuê cho ông Đại Nam chửi bới tôi đọc Nhà Tù. Hy vọng lương tri các ông ấy thức tỉnh. Tôi cũng muốn độc giả thân mến của tôi tỏ thái độ quyết liệt với những kẻ sống trên lưng nhà văn, sống trên nỗi thống khổ mà nhà văn phải chịu đựng vì hệ lụy văn chương của mình. Cái công trình mồ hôi, nước mắt, tim óc của chúng tôi đã bị chà đạp ở quê nhà, còn bị ăn cướp ở quê người. Và những kẻ cướp đó lại là người Việt Nam, nạn nhân của cộng sản như chúng tôi, nhưng may mắn hơn chúng tôi. Tôi sắp chịu cực hình, đau đớn trên mọi tra tấn. Là tóm tắt 50 cuốn sách của tôi. Và phát biểu cảm tưởng về chữ nghĩa dĩ vãng. Và bôi nhục nó. Và nguyền rủa nó. Ôi, văn chương, nó đã đưa tôi lên và nó đã dìm tôi xuống. Không, cộng sản đã dìm tôi và văn chương của tôi. Hai chúng tôi đang “chết đuối trên cạn”, đang sặc sụa, đang đạp dẫy.
- Tôi nói để anh chuẩn bị tư tưởng: Anh phải tranh thủ thời gian.
Gã quản giáo đã đem ca cà-phê đá tới. Tôi bắt đầu viết tự khai, bắt đầu chơi lại một trò chơi quái đản của ý thức hệ. Trò chơi khốn kiếp này, tôi đã chơi và đã thể hiện ở một tiểu thuyết mới nhất của tôi. 1 Xin trích một đoạn:
- “Tôi đã viết ba lần.
- Ba lần anh viết khác nhau. Tôi chỉ yêu cầu hai lần giống nhau là đủ. Anh viết ba lần ba cuộc đời của ba con người!
- Cô cho phép tôi đọc cả ba bản để cô so sánh.
- James, anh đã biết điều, nên tiếp tục biết điều. Tù nhân không được quyền yêu sách. Anh được đọc nội quy nhà tù chưa?
- Chưa.
- “Triệt để thi hành mệnh lệnh của cán bộ”. Anh viết lại tự khai.
- Bắt đầu?
- Phải, từ năm anh mười tuổi đến khi anh bị bắt.
James viết tự khai lần thứ tư. James viết tự khai lần thứ năm. Lần thứ sáu. Lần thứ bảy. Lần thứ tám. Lần thứ chín. Lần thứ mười, về cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt. Đến lần thứ ba mươi, ấu thơ chàng, niên thiếu chàng, thanh xuân chàng, kỷ niệm chàng, tình yêu chàng, mơ ước chàng, hạnh phúc chàng, gia đình chàng, trường lớp chàng, thầy cô chàng, bạn bè chàng, nơi chôn rau cắt rốn chàng, dòng sông chàng, cánh đồng chàng, khu rừng chàng, ngọn núi chàng, sân cỏ chàng... ngậm ngùi lếch thếch dắt díu nhau lên trên những trang tự khai quái đản. Dĩ vãng đi. Dĩ vãng về. Dĩ vãng bò. Dĩ vãng lết. Dĩ vãng nhẩy. Dĩ văng chạy. Dĩ vãng vấp. Dĩ vãng ngã. Dĩ vãng tới. Dĩ vãng lui. Dĩ vãng nằm nghiêng. Dĩ vãng nằm ngửa. Tuổi hồng của James bị bầm vặp. Tháng ngày đẹp nhất đời người của James bị đâm chém. James sợ hãi, James kinh hoàng viết về dĩ vãng, về ấu thơ, về gia đình, về trường lớp, về tình yêu. Người lính Mỹ tên là James Fisher tâm hồn thánh thiện, biểu tượng sáng chói của cái thật, cái tốt, cái đẹp của dân tộc Mỹ, tham dự chiến tranh ở Việt Nam không hề mang theo ý thức hệ, không hề nhân danh chủ nghĩa tư bản, chỉ đáp theo tiếng gọi của tổ quốc yếu dấu, đang bị quay chóng mặt trong trò chơi của ý thức hệ. Và trò chơi mang tên tự khai, một kiểu tra tấn tinh thần tinh vi nhất, độc ác nhất trong thời đại mà bóng tối đã phủ kín lương trí loài người.
James Fisher bơ phờ, hốc hác. Chúa Jesus không bị viết tự khai như James Fisher nên ngài mới bình thản nói: “Đừng lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo lắng cho ngày mai”, James đã thấm đòn tự khai. Chàng lo lắng ngày mai vô cùng. Chàng sợ hãi ngày mai. Ngày mai quằn quại hơn hôm nay. Ngày mai, chàng nhìn rõ móng vuốt nó nhọn hoắt cào cấu đầu óc chàng; chàng nhìn rõ răng nó sắc bén gậm nhắm thần kinh chàng. Trên những trang giấy hãi hùng. Một cây bút, một xấp giấy. Nhỏ bé và êm ái. Thế mà bút và giấy đã khiến chàng bấn loạn điên khùng. James chỉ muốn chết để khỏi viết tự khai. Bây giờ chàng mới hiểu nhà tù cộng sản và sự khoan hồng, nhân đạo cộng sản. Tám năm chịu đựng thống khổ dưới hầm đá, trong các cachots, James đã chịu đựng nổi và sẽ chịu đựng hoài cho tới ngày nhận “phần thưởng trên trời”. Nhưng tự khai, chàng không hứa hẹn lần “no đủ sự công nghĩa”, dẫu tự khai cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt.
Nàng Chi Mai chẳng thèm xúc động. Chàng viết tự khai lần thứ năm mươi thì ba mươi trang giấy thừa quá nhiều. “Tôi rất tiếc James ạ”! James không thể viết tự khai nữa. Thần kinh của chàng căng thẳng. Chi Mai không tha chàng, không mảy may trắc ẩn. Nàng bày thêm chi tiết của trò chơi. James sắp ăn, nàng gọi lên viết tự khai. James đang ngủ, nàng gọi lên viết tự khai. James mệt mỏi, nàng gọi lên viết tự khai. James ốm đau, nàng gọi lên viết tự khai. Rồi James hết thèm ăn, chán ngủ, James gầy gò, xanh xao. Mắt James thâm quầng. Râu ria James tua tủa. James chẳng còn biết chàng đã viết gì. James mất tự chủ. James hôn mê khi viết tự khai. James viết bậy bạ. James viết thư cho cha mẹ. James viết những lời thương nhớ Susan McCareen. James viết lời quốc ca. James vẽ bản đồ nước Mỹ. James làm thơ. James gọi Thượng Đế. James cầu cứu Chúa Jésus. Vào đúng lúc James tê liệt dễ sai khiến nhất, bảo sao làm vậy miễn là đừng bắt viết tự khai cuộc đời mình từ năm mười tuổi đến ngày bị bắt thì Chi Mai gọi chàng lên văn phòng của nàng.
- James, anh viết bao nhiêu lần rồi, nhớ không?
- Bẩy mươi.
- Sai.
- Sáu mươi.
- Sai. Cố nhớ đi!
- Tôi không nhớ.
- Một trăm mười hai lần!
Chi Mai nhoẻn miệng cười:
- Chưa phải là kỷ lục tự khai.
James hồi hộp chờ đợi một câu nói mà chàng sợ hãi nghe. Nàng cố tình nín thinh. Nàng khoái kéo dài sự lo lắng của James Fisher. Con sói cái muốn vờn con cừu non mềm nhũn, ngã qụy rồi mới rút ruột.
- James!
- Tôi nghe.
- Tôi rất tiếc James ạ!
James Fisher choáng váng.
- Tôi rất tiếc những lần sau cùng anh viết lung tung. Anh mệt mỏi, anh rã rượi rồi, hả?
Chàng thành thật:
- Phải, tôi rã rượi rồi."
......
Thật sự, nhân vật tiểu thuyết của tôi chưa rã rượi bằng tôi. Tôi đã nói tôi sợ tôi không đủ khả năng diễn tả một buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định. Thì làm sao tôi viết hết nổi cảm giác nhục nhằn của tự khai. Nhân vật tiếu thuyết của tôi chi phải tự khai từ năm 10 tuổi đến ngày bị bắt. Còn tôi, tôi phải truy nã hồi tưởng mà tự khai 50 cuốn sách và 10 ngàn bài báo của 15 năm viết lách mưu sinh. Năm 1937, Nguyễn Vĩ than vãn:
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bủt viết văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết.
Nỗi khổ “kiết vẫn kiết” thấm gì với nỗi khổ tự khai của nhà văn Việt Nam năm 1976. Không có hình phạt nào thảm thê bằng hình phạt tự khai. Mọi thống khổ ngục tù trại tập trung là cỏ hèn dưới chân đại thụ tự khai sừng sững. Tự khai của các nhà văn, cuộc truy nã thân phận mình, sự nghiệp mình và kết tội mình. Tự khai của các nhà văn, niềm đau đớn tổng hợp niềm đau đớn của chữ nghĩa cổ kim, Đông Tây. Đó là một tra tấn tổng hợp những tra tấn của loài người ác độc. Tôi đã cố gắng ghi chép:
Người ta đưa cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
anh có thể gạch xóa nhiều hàng
nhưng cấm anh xé bỏ
tư tưởng anh bị soi kính hiển vi từng cái chấm nhỏ
Viết gì
Tự khai
Tự khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Người ta đưa thêm cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi viết rồi
Viết nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Người ta lại đưa cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi đã viết hai lần
Viết thêm nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Anh phải viết ngày này qua tháng nọ
viết đến khi anh phờ phạc dại khờ
dĩ vãng hiện tại anh đảo lộn mập mờ
Viết đến khi anh đớn đau chết ngất
Đó là lúc người ta tìm ra sự thật
để kết án anh dù anh chẳng có tội chi
Này bạn
Bạn sẽ chép lại được mấy lần bức thư tình đã viết
Riêng tôi rất oanh liệt
Viết bốn trăm lần một bản tự khai 2
Những nhà văn bị nhốt ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định đều bị tra tấn theo cung cách này. Tất cả đều chóng mặt. Tất cả đều rã rượi. Tất cả đều bị chữ nghĩa tự khai xoáy mòn xương thịt. Ở những giây phút hôn mê ấy, chỉ có tù nhân và chấp pháp. Đôi khi, chỉ có một tù nhân trong căn phòng nhỏ. Nhà văn cô đơn sáng tạo. Nhà văn cô đơn tự khai. Chắc chắn, không có lão Toan Ánh đứng ngoài nhìn trộm và nghe lén qua khe cửa để bịa đặt tin bẩn, thứ tin chó dại ngoạm vào nỗi thống khổ của người oan khổ dưới bút hiệu Lã Vi. Và, chắc chắn, chỉ một gã chủ báo chưa vỡ nghĩa “người đi đường và con chó” của Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng mới tự phóng uế lên lương tâm mình mà toa rập với “người đi đường” khốn kiếp và ác độc. Không ai biết được nỗi đau đớn, không ai biết được lòng quả cảm và sự hèn mọn ở không gian tự khai cả. Người cộng sản tim thép không xúc động. Họ lại có thú vui nhìn con người quằn quại. Người nhà văn viết tự khai “phờ phạc dại khờ”, “dĩ vãng hiện tại đảo lộn”, chẳng còn hiểu nổi cả sự hiện hữu của bản thân mình. Nhưng tôi, tôi dám thách thức cộng sản Việt Nam xuất bản Tự Khai dầy ngót 2000 trang viết tay giòng thưa của tôi. Tôi thách thức cộng sản Việt Nam công bố một sự thật về tôi có dấu tích thủ bút của tôi ở đề lao Gia Định, nơi tôi đã viết tự khai ròng rã 40 ngày đêm, nếu họ can đảm bằng không, họ nên chấm dứt cái điệp vụ văn hoá rẻ tiền nhằm hạ uy tín chống cộng của tôi, nhằm làm tê liệt sự phản kháng của tôi, nhằm cô lập tôi với đồng bào của tôi. Trò chơi này đã quê kệch và mất ép-phê. Ép-phê ngược là đằng khác. Sau ba năm trở lại nghề viết và hiên ngang sống bằng chữ nghĩa, tính từ tháng 4-1984 đến tháng 4-1987 tôi được phép ngạo mạn ngồi lên mặt cộng sản và những kẻ a dua cộng sản bêu nhục tôi. Tôi đã không chết. Tôi đã không cúi mặt. Tôi vẫn ngẩng mặt. Tôi mãi mãi phong phú sinh lực sáng tạo. Để chiến đấu và để góp phần tạo hạnh phúc cho cả cộng sản lam lũ, bần hàn.
Như nhân vật James Fisher, trong tiểu thuyết mới nhất mang nhan đề tiếng Việt Một định nghĩa tình yêu của tôi mà nhà xuất bản Belford muốn đặt là Un prisonnier américain au Vietnam, tôi đã viết tự khai vào những giờ giấc toan tính của chấp pháp số 7. Hắn chỉ thị quản giáo rình mò tôi. Buổi sáng, nước sôi vào phòng, tôi pha mì vụn điểm tâm, chưa kịp ăn, hắn đã gọi tôi ra viết tự khai. Tôi ngồi viết một chập, hắn cho về ăn lót dạ. Mì chương đầy ca, tôi không muốn ăn. Hắn lại gọi ra. Qua bữa ăn trưa, hắn cho về. Tôi nhấm nhá cầm hơi. Nằm nghỉ chưa kịp nhắm mắt, hắn gọi ra. Tối hắn gọi ra. Đêm hắn gọi ra. Tranh thủ thời gian.Viết ngày không đủ, tranh thủ viết đêm. Tôi mất ăn, mất ngủ. Tôi ngẩn ngơ quên cả ghẻ nước, ghẻ mủ. Phép lạ hay niềm tin đã giúp tôi đủ sức cầm cự đòn tra tấn thần kinh tự khai? Tôi chẳng biết anh em có bị tra tấn như tôi. Nhà văn, nhà báo đã bị cách ly. Nhà văn còn bị cách ly với cả các tù nhân cùng phòng, thời gian viết tự khai. Tại tôi mệt lử cò bọ, về phòng là nằm bất động, các bạn trẻ không thích quấy rầy tôi hay họ bị ra lệnh cấm liên hệ với tôi? Đêm thứ 40, tôi nhớ rõ, tôi đánh số trang 1780, sang phần tự khai những tờ báo tôi viết thuê, tôi làm chủ bút, chủ nhiệm và những bài báo tôi đã ký một lô bút hiệu Thương Sinh, Thập Nguyên, Mõ Báo, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ... Hạnh phúc cho tôi là tôi được ngưng ở trang 1780.
- Anh tạm nghi. Sáng mai tôi về Hà Nội.
Chấp pháp số 7 nói:
- Chúng ta sẽ tiếp tục làm việc. Có một dấu hiệu chứng tỏ anh thiếu thành khẩn.
Hắn giải thich ngay:
- Năm trang tự khai của anh mới bằng một trang bản thảo tiểu thuyết của anh. Anh viết ngoài thói quen viết sít hàng, chữ nhỏ li ti của anh. Ngoài thói quen là ngoài ý muốn. Tư tưởng thể hiện hành động. Anh thiếu thiện chí cải tạo.
Thiện chí cải tạo! Bạn hiểu chưa? Ở xã hội cộng sản, xã hội ưu việt của loài người, con người còn cần biểu lộ thiện chí vào tù, thiện chí chịu đựng đau khổ, thiện chí lãnh đòn tra tấn tinh thần.
Chấp pháp số 7 lôi từ xặc-cột của hắn ra một trang bản thảo tiểu thuyết Người con gái ngồi đợi mộí chuyến tàu về 3 mà đám côn quang đã lục xét, tịch thu tại nhà tôi đêm 8-4-1976. Bản thảo của tôi sạch, đẹp, ít bôi chữa, viết chữ thật nhỏ, dòng thật khít. Đó là thói quen. Tôi lại thích viết bằng giấy in nhật báo. Vì nó mềm và thấm mực bút nguyên tử. Ở tòa soạn, tôi thường viết những bài báo đằng sau bản tin Việt Tấn Xã in một mặt. Tôi không hiểu tại sao chấp pháp số 7 chọn trang thứ nhất của bản thảo Người con gái ngồi đợi một chuyến tầu về là trang tôi viết nhỏ nhất, sít dòng nhất mà so sánh. Hắn đã cho tôi viết tự khai trên pelure mỏng, thứ giấy pelure sản xuất tại Việt Trì mầu như mầu giấy dầu.
- Với cách mạng, anh không thể dấu diếm nổi tư tưởng thầm kín của anh đâu, cách hành văn tự khai của anh như người mới tập viết. Anh bẻ dừa bẻ ngô, râu ria thừa thãi.
Phê bình văn chương tự khai của tôi một lúc, hắn đưa tôi về phòng I C-1. Tôi có những ngày ăn ngủ điều hòa. Cộng sản đã tính sức chịu đựng của tôi. Thêm nữa, tôi sẽ chết gục trên tự khai. Họ chỉ cần hành hạ tôi chứ cần gì tôi tóm tắt toàn bộ tác phẩm của tôi. Họ đã đọc hết, đọc từ lâu. Tôi chờ đợi chấp pháp số 7 trở lại Sàigòn.
--------------------------------
1 Un prisonnier Americain au Vietnam, cuốn thứ ba của Duyên Anh viết cho nhà Belfond. Giao kèo của Belfond yêu cầu Duyên Anh viết cho họ 5 cuốn.
2 La Torture (Tra Tấn) trong tập Poèmes de prison do Les Éditions de Caux, Thụy Sĩ xuất bản.
3 Tiểu thuyết này đăng được 10 chương trên tạp chí Tuổi Ngọc thì dang dở vì cộng sản thôn tính miền Nam.
Hôm sau, vẫn ở phòng chấp pháp khu B, tôi làm việc với chấp pháp số 7. Tôi... đi khách lần thứ bẩy. Chấp pháp số 7 giống hệt tên lái buôn thô lỗ. Mà tôi, nàng Kiều chưa thể chuyên nghiệp.
- Hôm nay anh viết tự khai.
- Tôì đã viết bên Sở hai lần.
- Sở là sở, Trại là trại. Với Trại, mọi chuyện bắt đầu.
- Tôi đã viết thêm một lần ở Trại.
- Anh chưa làm việc với tôi.
Chấp pháp số 7 móc thuốc Vàm Cỏ và hộp diêm Samasa đặt trên bàn:
- Anh tự do hút thuốc. Hết thì sẽ có thêm. Anh được uống cà-phê. Lát nữa, quản giáo đem tới.
Từ nửa tháng nay, đề lao cấm chỉ cà-phê, trà. Vì có phòng bị phát hiện nấu nước sôi bằng lon sữa bò và túi ni lông bện lại nhóm lửa. Cà-phê, trà bị cấm. Sữa đặc bị khui ra đổ vào keo nhựa hay túi ni-lông rồi mới cho vô phòng. Ở tù phiền lắm. Một người vi phạm nội quy, ngàn người vạ lây. Cách mạng có dịp diễn tả sự tử tế: “Chúng tôi không cấm đoán các anh, mọi khó khăn do chính các anh tạo ra”.
Chấp pháp số 7 chưa phát giấy bút. Hắn... mạn đàm:
- Tôi nhắc lại: Anh viết tự khai.
- Tôi hiểu.
- Tốt. Trong các anh, nhiều người chướng lắm. Lố lăng nhất là thằng Trần Dạ Từ. Bảo viết tự khai, nó làm thơ chéo.
Tôi chưa biết thơ chéo ra sao.
- Nó đòi làm việc với nhà văn miền Bắc! Công an bắt nó mà nó mơ mộng. Cuối cùng, nó vẫn làm tự khai.
Chấp pháp số 7 dằn mặt tôi. Hắn lôi người không ở chung phòng tôi ra dẫn chứng. Đây là đòn công an. Như gã chấp pháp xứ Nghệ đã “bỏ nhỏ” Nguyễn Mạnh Côn khai về tôi “không lấy gì làm đẹp”. Cộng sản dùng kế ly gián để chúng tôi bôi lẫn nhau cả những chuyện không liên can tới văn nghệ phản động. Tôi biết chắc họ đã đem tôi ra “bỏ nhỏ” với người này, người kia. Công an chế độ nào cũng giống nhau. Công an và an ninh quân đội. Đòn ly gián rất ếp-phê. “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp đã áp dụng thủ thuật khốn kiếp này. Muốn bêu tôi, ông ta gửi về tặng Dương Hùng Cường gói thuốc tây, kèm theo cái thư có đoạn “bỏ nhỏ”: Này, thằng Duyên Anh đang ở Paris, nó uống rượu tối ngày, nó chửi mày dữ quá! Dương Hùng Cường sẽ nổi điên, nghĩ rằng thật, nó sang Pháp sung sướng còn nỡ chửi anh em. Bèn hài tội Duyên Anh, thêu dệt đủ tội. Khi người ta phẫn nộ thì ghê lắm, “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp, gốc an ninh quân đội, chớp được thư nhà, phô-tô cóp-pi vung vít mà gửi khắp quần hào. Cái tác phong ngụy tiểu nhân của cớm sớm muộn nó cũng lòi ra. Bọn bất tài vô tướng thường chơi thủ thuật. Chừng thủ thuật hết thiêng, chúng nó lêu bêu như lũ chó ghẻ già nua.
Chấp pháp số 7 nói tiếp:
- Cái thằng Như Phong Lê Văn Tiến vẫn ngoan cố. Bầy đặt tuyệt thực. Thời đại của Thiệu đã cáo chung. Đứa nào muốn chết cháv, cứ tự nhiên. Gia đình nó sẽ đóng thuế ngu cho nó. Rốt cuộc, Như Phong đành tự khai. Các anh không kiên trì bằng người cộng sản. Các anh là đá, chúng tôi là nước. Nước chảy đá mòn. Các anh là sắt, chúng tôi là át-xít. Át-xít gặm mòn sắt. Chúng tôi có giai đoạn rõ rệt. Kiên trì rồi kiên quyết. Khoan hồng rồi trấn áp. Các anh thích làm anh hùng, chúng tôi biến thành anh hèn ngay. Khẩn trương, đột xuất.
Hắn đánh phủ đầu tới tấp. Nhờ hắn tiết lộ, tôi tin chuyện Như Phong đã khước từ cơm tù 41 ngày mà anh em C-2 kể cho tôi nghe khi anh em chuyển sang C-l, chung phòng tôi, mấy tháng sau. Như Phong “yoga” ở cachot. Anh không viết tự khai, không làm tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhà quân sự Phải Gió uống nước chanh đường mà yoga. Mức yoga của Như Phong đến bậc thượng thừa. Đề lao biết anh... tuyệt thực, cứ giả vờ như không biết. Ô cửa gió mở. Quản giáo thường xuyên theo rõi. Bấy giờ, Trưởng trại T-20 tức Giám thị đề lao Gia Định là thiếu tá công an Tuấn, Phó trại là Tư Long, tên nằm vùng bán vé xe đò bến Saigon – Đà Lạt cho hãng xe Minh Trung. Tư Long đeo quân hàm đại úy. Ngày thứ 41, Tư Long cúp ống dẫn nước vào cachot. Quân sư Như Phong kềnh ngay lập tức. Người ta khuân anh ra Phòng Y Tế. Người ta chích nước biển. Như Phong còn đủ sức co tay, Tư Long xỉ vả anh. Như Phong thều thào: “Anh nên lễ độ, tôi chấp nhận cái chết”. Bác sĩ Quang năn nỉ Như Phong: “Xin anh cho tôi làm bổn phận y sĩ”. Người ta đè anh, trói chân anh, tay anh trên giường. Và vào nước biển tiếp sức. Như Phong được đề lao bồi dưỡng một thùng sữa đặc, trở thành tù nhân de luxe của đề lao. Anh ra phòng tập thể C-2, ngày ngày đi mạn đàm với chấp pháp. Rồi anh viết tự khai...
Chấp pháp số 7 đã đưa giấy bút cho tôi.
- Anh viết khẩn trương vì tôi sẽ về Hà Nội công tác đột xuất. Tự khai lần này khác.
Tôi hỏi:
- Tôi sẽ viết thế nào?
Hắn đáp:
- Cuộc đời anh từ năm anh 10 tuổi đến ngày anh bị bắt. Thật chi tiết. Chính xác ngày, tháng, năm.
- Làm sao tôi nhớ ngày tháng?
- Cố nhớ đến đâu hay đến đó. Anh hay khoe anh có trí nhớ tốt mà.
- Chỉ vậy?
- Anh tóm tắt mỗi cuốn sách của anh, khai rõ cảm hứng nào anh viết, anh viết nhằm mục đích gì, ai thuê anh viết, mỗi cuốn giá bao nhiêu... Anh đừng quên những bài báo của anh trên những tờ báo anh cộng tác.
- Tôi viết cả 10 ngàn bài dài ngắn.
- Cố nhớ.
Bạn thấy hệ lụy văn chương của những nhà văn ở lại bị bắt chưa? Tôi muốn ông “nhà xuất bản” Đại Nam và các ông “nhà báo” viết thuê cho ông Đại Nam chửi bới tôi đọc Nhà Tù. Hy vọng lương tri các ông ấy thức tỉnh. Tôi cũng muốn độc giả thân mến của tôi tỏ thái độ quyết liệt với những kẻ sống trên lưng nhà văn, sống trên nỗi thống khổ mà nhà văn phải chịu đựng vì hệ lụy văn chương của mình. Cái công trình mồ hôi, nước mắt, tim óc của chúng tôi đã bị chà đạp ở quê nhà, còn bị ăn cướp ở quê người. Và những kẻ cướp đó lại là người Việt Nam, nạn nhân của cộng sản như chúng tôi, nhưng may mắn hơn chúng tôi. Tôi sắp chịu cực hình, đau đớn trên mọi tra tấn. Là tóm tắt 50 cuốn sách của tôi. Và phát biểu cảm tưởng về chữ nghĩa dĩ vãng. Và bôi nhục nó. Và nguyền rủa nó. Ôi, văn chương, nó đã đưa tôi lên và nó đã dìm tôi xuống. Không, cộng sản đã dìm tôi và văn chương của tôi. Hai chúng tôi đang “chết đuối trên cạn”, đang sặc sụa, đang đạp dẫy.
- Tôi nói để anh chuẩn bị tư tưởng: Anh phải tranh thủ thời gian.
Gã quản giáo đã đem ca cà-phê đá tới. Tôi bắt đầu viết tự khai, bắt đầu chơi lại một trò chơi quái đản của ý thức hệ. Trò chơi khốn kiếp này, tôi đã chơi và đã thể hiện ở một tiểu thuyết mới nhất của tôi. 1 Xin trích một đoạn:
- “Tôi đã viết ba lần.
- Ba lần anh viết khác nhau. Tôi chỉ yêu cầu hai lần giống nhau là đủ. Anh viết ba lần ba cuộc đời của ba con người!
- Cô cho phép tôi đọc cả ba bản để cô so sánh.
- James, anh đã biết điều, nên tiếp tục biết điều. Tù nhân không được quyền yêu sách. Anh được đọc nội quy nhà tù chưa?
- Chưa.
- “Triệt để thi hành mệnh lệnh của cán bộ”. Anh viết lại tự khai.
- Bắt đầu?
- Phải, từ năm anh mười tuổi đến khi anh bị bắt.
James viết tự khai lần thứ tư. James viết tự khai lần thứ năm. Lần thứ sáu. Lần thứ bảy. Lần thứ tám. Lần thứ chín. Lần thứ mười, về cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt. Đến lần thứ ba mươi, ấu thơ chàng, niên thiếu chàng, thanh xuân chàng, kỷ niệm chàng, tình yêu chàng, mơ ước chàng, hạnh phúc chàng, gia đình chàng, trường lớp chàng, thầy cô chàng, bạn bè chàng, nơi chôn rau cắt rốn chàng, dòng sông chàng, cánh đồng chàng, khu rừng chàng, ngọn núi chàng, sân cỏ chàng... ngậm ngùi lếch thếch dắt díu nhau lên trên những trang tự khai quái đản. Dĩ vãng đi. Dĩ vãng về. Dĩ vãng bò. Dĩ vãng lết. Dĩ vãng nhẩy. Dĩ văng chạy. Dĩ vãng vấp. Dĩ vãng ngã. Dĩ vãng tới. Dĩ vãng lui. Dĩ vãng nằm nghiêng. Dĩ vãng nằm ngửa. Tuổi hồng của James bị bầm vặp. Tháng ngày đẹp nhất đời người của James bị đâm chém. James sợ hãi, James kinh hoàng viết về dĩ vãng, về ấu thơ, về gia đình, về trường lớp, về tình yêu. Người lính Mỹ tên là James Fisher tâm hồn thánh thiện, biểu tượng sáng chói của cái thật, cái tốt, cái đẹp của dân tộc Mỹ, tham dự chiến tranh ở Việt Nam không hề mang theo ý thức hệ, không hề nhân danh chủ nghĩa tư bản, chỉ đáp theo tiếng gọi của tổ quốc yếu dấu, đang bị quay chóng mặt trong trò chơi của ý thức hệ. Và trò chơi mang tên tự khai, một kiểu tra tấn tinh thần tinh vi nhất, độc ác nhất trong thời đại mà bóng tối đã phủ kín lương trí loài người.
James Fisher bơ phờ, hốc hác. Chúa Jesus không bị viết tự khai như James Fisher nên ngài mới bình thản nói: “Đừng lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo lắng cho ngày mai”, James đã thấm đòn tự khai. Chàng lo lắng ngày mai vô cùng. Chàng sợ hãi ngày mai. Ngày mai quằn quại hơn hôm nay. Ngày mai, chàng nhìn rõ móng vuốt nó nhọn hoắt cào cấu đầu óc chàng; chàng nhìn rõ răng nó sắc bén gậm nhắm thần kinh chàng. Trên những trang giấy hãi hùng. Một cây bút, một xấp giấy. Nhỏ bé và êm ái. Thế mà bút và giấy đã khiến chàng bấn loạn điên khùng. James chỉ muốn chết để khỏi viết tự khai. Bây giờ chàng mới hiểu nhà tù cộng sản và sự khoan hồng, nhân đạo cộng sản. Tám năm chịu đựng thống khổ dưới hầm đá, trong các cachots, James đã chịu đựng nổi và sẽ chịu đựng hoài cho tới ngày nhận “phần thưởng trên trời”. Nhưng tự khai, chàng không hứa hẹn lần “no đủ sự công nghĩa”, dẫu tự khai cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt.
Nàng Chi Mai chẳng thèm xúc động. Chàng viết tự khai lần thứ năm mươi thì ba mươi trang giấy thừa quá nhiều. “Tôi rất tiếc James ạ”! James không thể viết tự khai nữa. Thần kinh của chàng căng thẳng. Chi Mai không tha chàng, không mảy may trắc ẩn. Nàng bày thêm chi tiết của trò chơi. James sắp ăn, nàng gọi lên viết tự khai. James đang ngủ, nàng gọi lên viết tự khai. James mệt mỏi, nàng gọi lên viết tự khai. James ốm đau, nàng gọi lên viết tự khai. Rồi James hết thèm ăn, chán ngủ, James gầy gò, xanh xao. Mắt James thâm quầng. Râu ria James tua tủa. James chẳng còn biết chàng đã viết gì. James mất tự chủ. James hôn mê khi viết tự khai. James viết bậy bạ. James viết thư cho cha mẹ. James viết những lời thương nhớ Susan McCareen. James viết lời quốc ca. James vẽ bản đồ nước Mỹ. James làm thơ. James gọi Thượng Đế. James cầu cứu Chúa Jésus. Vào đúng lúc James tê liệt dễ sai khiến nhất, bảo sao làm vậy miễn là đừng bắt viết tự khai cuộc đời mình từ năm mười tuổi đến ngày bị bắt thì Chi Mai gọi chàng lên văn phòng của nàng.
- James, anh viết bao nhiêu lần rồi, nhớ không?
- Bẩy mươi.
- Sai.
- Sáu mươi.
- Sai. Cố nhớ đi!
- Tôi không nhớ.
- Một trăm mười hai lần!
Chi Mai nhoẻn miệng cười:
- Chưa phải là kỷ lục tự khai.
James hồi hộp chờ đợi một câu nói mà chàng sợ hãi nghe. Nàng cố tình nín thinh. Nàng khoái kéo dài sự lo lắng của James Fisher. Con sói cái muốn vờn con cừu non mềm nhũn, ngã qụy rồi mới rút ruột.
- James!
- Tôi nghe.
- Tôi rất tiếc James ạ!
James Fisher choáng váng.
- Tôi rất tiếc những lần sau cùng anh viết lung tung. Anh mệt mỏi, anh rã rượi rồi, hả?
Chàng thành thật:
- Phải, tôi rã rượi rồi."
......
Thật sự, nhân vật tiểu thuyết của tôi chưa rã rượi bằng tôi. Tôi đã nói tôi sợ tôi không đủ khả năng diễn tả một buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định. Thì làm sao tôi viết hết nổi cảm giác nhục nhằn của tự khai. Nhân vật tiếu thuyết của tôi chi phải tự khai từ năm 10 tuổi đến ngày bị bắt. Còn tôi, tôi phải truy nã hồi tưởng mà tự khai 50 cuốn sách và 10 ngàn bài báo của 15 năm viết lách mưu sinh. Năm 1937, Nguyễn Vĩ than vãn:
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bủt viết văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết.
Nỗi khổ “kiết vẫn kiết” thấm gì với nỗi khổ tự khai của nhà văn Việt Nam năm 1976. Không có hình phạt nào thảm thê bằng hình phạt tự khai. Mọi thống khổ ngục tù trại tập trung là cỏ hèn dưới chân đại thụ tự khai sừng sững. Tự khai của các nhà văn, cuộc truy nã thân phận mình, sự nghiệp mình và kết tội mình. Tự khai của các nhà văn, niềm đau đớn tổng hợp niềm đau đớn của chữ nghĩa cổ kim, Đông Tây. Đó là một tra tấn tổng hợp những tra tấn của loài người ác độc. Tôi đã cố gắng ghi chép:
Người ta đưa cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
anh có thể gạch xóa nhiều hàng
nhưng cấm anh xé bỏ
tư tưởng anh bị soi kính hiển vi từng cái chấm nhỏ
Viết gì
Tự khai
Tự khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Người ta đưa thêm cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi viết rồi
Viết nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Người ta lại đưa cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi đã viết hai lần
Viết thêm nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Anh phải viết ngày này qua tháng nọ
viết đến khi anh phờ phạc dại khờ
dĩ vãng hiện tại anh đảo lộn mập mờ
Viết đến khi anh đớn đau chết ngất
Đó là lúc người ta tìm ra sự thật
để kết án anh dù anh chẳng có tội chi
Này bạn
Bạn sẽ chép lại được mấy lần bức thư tình đã viết
Riêng tôi rất oanh liệt
Viết bốn trăm lần một bản tự khai 2
Những nhà văn bị nhốt ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định đều bị tra tấn theo cung cách này. Tất cả đều chóng mặt. Tất cả đều rã rượi. Tất cả đều bị chữ nghĩa tự khai xoáy mòn xương thịt. Ở những giây phút hôn mê ấy, chỉ có tù nhân và chấp pháp. Đôi khi, chỉ có một tù nhân trong căn phòng nhỏ. Nhà văn cô đơn sáng tạo. Nhà văn cô đơn tự khai. Chắc chắn, không có lão Toan Ánh đứng ngoài nhìn trộm và nghe lén qua khe cửa để bịa đặt tin bẩn, thứ tin chó dại ngoạm vào nỗi thống khổ của người oan khổ dưới bút hiệu Lã Vi. Và, chắc chắn, chỉ một gã chủ báo chưa vỡ nghĩa “người đi đường và con chó” của Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng mới tự phóng uế lên lương tâm mình mà toa rập với “người đi đường” khốn kiếp và ác độc. Không ai biết được nỗi đau đớn, không ai biết được lòng quả cảm và sự hèn mọn ở không gian tự khai cả. Người cộng sản tim thép không xúc động. Họ lại có thú vui nhìn con người quằn quại. Người nhà văn viết tự khai “phờ phạc dại khờ”, “dĩ vãng hiện tại đảo lộn”, chẳng còn hiểu nổi cả sự hiện hữu của bản thân mình. Nhưng tôi, tôi dám thách thức cộng sản Việt Nam xuất bản Tự Khai dầy ngót 2000 trang viết tay giòng thưa của tôi. Tôi thách thức cộng sản Việt Nam công bố một sự thật về tôi có dấu tích thủ bút của tôi ở đề lao Gia Định, nơi tôi đã viết tự khai ròng rã 40 ngày đêm, nếu họ can đảm bằng không, họ nên chấm dứt cái điệp vụ văn hoá rẻ tiền nhằm hạ uy tín chống cộng của tôi, nhằm làm tê liệt sự phản kháng của tôi, nhằm cô lập tôi với đồng bào của tôi. Trò chơi này đã quê kệch và mất ép-phê. Ép-phê ngược là đằng khác. Sau ba năm trở lại nghề viết và hiên ngang sống bằng chữ nghĩa, tính từ tháng 4-1984 đến tháng 4-1987 tôi được phép ngạo mạn ngồi lên mặt cộng sản và những kẻ a dua cộng sản bêu nhục tôi. Tôi đã không chết. Tôi đã không cúi mặt. Tôi vẫn ngẩng mặt. Tôi mãi mãi phong phú sinh lực sáng tạo. Để chiến đấu và để góp phần tạo hạnh phúc cho cả cộng sản lam lũ, bần hàn.
Như nhân vật James Fisher, trong tiểu thuyết mới nhất mang nhan đề tiếng Việt Một định nghĩa tình yêu của tôi mà nhà xuất bản Belford muốn đặt là Un prisonnier américain au Vietnam, tôi đã viết tự khai vào những giờ giấc toan tính của chấp pháp số 7. Hắn chỉ thị quản giáo rình mò tôi. Buổi sáng, nước sôi vào phòng, tôi pha mì vụn điểm tâm, chưa kịp ăn, hắn đã gọi tôi ra viết tự khai. Tôi ngồi viết một chập, hắn cho về ăn lót dạ. Mì chương đầy ca, tôi không muốn ăn. Hắn lại gọi ra. Qua bữa ăn trưa, hắn cho về. Tôi nhấm nhá cầm hơi. Nằm nghỉ chưa kịp nhắm mắt, hắn gọi ra. Tối hắn gọi ra. Đêm hắn gọi ra. Tranh thủ thời gian.Viết ngày không đủ, tranh thủ viết đêm. Tôi mất ăn, mất ngủ. Tôi ngẩn ngơ quên cả ghẻ nước, ghẻ mủ. Phép lạ hay niềm tin đã giúp tôi đủ sức cầm cự đòn tra tấn thần kinh tự khai? Tôi chẳng biết anh em có bị tra tấn như tôi. Nhà văn, nhà báo đã bị cách ly. Nhà văn còn bị cách ly với cả các tù nhân cùng phòng, thời gian viết tự khai. Tại tôi mệt lử cò bọ, về phòng là nằm bất động, các bạn trẻ không thích quấy rầy tôi hay họ bị ra lệnh cấm liên hệ với tôi? Đêm thứ 40, tôi nhớ rõ, tôi đánh số trang 1780, sang phần tự khai những tờ báo tôi viết thuê, tôi làm chủ bút, chủ nhiệm và những bài báo tôi đã ký một lô bút hiệu Thương Sinh, Thập Nguyên, Mõ Báo, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ... Hạnh phúc cho tôi là tôi được ngưng ở trang 1780.
- Anh tạm nghi. Sáng mai tôi về Hà Nội.
Chấp pháp số 7 nói:
- Chúng ta sẽ tiếp tục làm việc. Có một dấu hiệu chứng tỏ anh thiếu thành khẩn.
Hắn giải thich ngay:
- Năm trang tự khai của anh mới bằng một trang bản thảo tiểu thuyết của anh. Anh viết ngoài thói quen viết sít hàng, chữ nhỏ li ti của anh. Ngoài thói quen là ngoài ý muốn. Tư tưởng thể hiện hành động. Anh thiếu thiện chí cải tạo.
Thiện chí cải tạo! Bạn hiểu chưa? Ở xã hội cộng sản, xã hội ưu việt của loài người, con người còn cần biểu lộ thiện chí vào tù, thiện chí chịu đựng đau khổ, thiện chí lãnh đòn tra tấn tinh thần.
Chấp pháp số 7 lôi từ xặc-cột của hắn ra một trang bản thảo tiểu thuyết Người con gái ngồi đợi mộí chuyến tàu về 3 mà đám côn quang đã lục xét, tịch thu tại nhà tôi đêm 8-4-1976. Bản thảo của tôi sạch, đẹp, ít bôi chữa, viết chữ thật nhỏ, dòng thật khít. Đó là thói quen. Tôi lại thích viết bằng giấy in nhật báo. Vì nó mềm và thấm mực bút nguyên tử. Ở tòa soạn, tôi thường viết những bài báo đằng sau bản tin Việt Tấn Xã in một mặt. Tôi không hiểu tại sao chấp pháp số 7 chọn trang thứ nhất của bản thảo Người con gái ngồi đợi một chuyến tầu về là trang tôi viết nhỏ nhất, sít dòng nhất mà so sánh. Hắn đã cho tôi viết tự khai trên pelure mỏng, thứ giấy pelure sản xuất tại Việt Trì mầu như mầu giấy dầu.
- Với cách mạng, anh không thể dấu diếm nổi tư tưởng thầm kín của anh đâu, cách hành văn tự khai của anh như người mới tập viết. Anh bẻ dừa bẻ ngô, râu ria thừa thãi.
Phê bình văn chương tự khai của tôi một lúc, hắn đưa tôi về phòng I C-1. Tôi có những ngày ăn ngủ điều hòa. Cộng sản đã tính sức chịu đựng của tôi. Thêm nữa, tôi sẽ chết gục trên tự khai. Họ chỉ cần hành hạ tôi chứ cần gì tôi tóm tắt toàn bộ tác phẩm của tôi. Họ đã đọc hết, đọc từ lâu. Tôi chờ đợi chấp pháp số 7 trở lại Sàigòn.
--------------------------------
1 Un prisonnier Americain au Vietnam, cuốn thứ ba của Duyên Anh viết cho nhà Belfond. Giao kèo của Belfond yêu cầu Duyên Anh viết cho họ 5 cuốn.
2 La Torture (Tra Tấn) trong tập Poèmes de prison do Les Éditions de Caux, Thụy Sĩ xuất bản.
3 Tiểu thuyết này đăng được 10 chương trên tạp chí Tuổi Ngọc thì dang dở vì cộng sản thôn tính miền Nam.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 16
Đầu tháng 10, tôi bị gọi ra. Thời gian này, đề lao chỉ còn cho nhận quà hai tuần một lần. 1 C- 1 đã nhiều thay đổi. Người cũ đổi phòng. Người mới nhập phòng. Vài anh được thả, lệnh tha đọc tại chỗ. Nhân vật của 1 C-1 bây giờ là Bí thư của thủ tướng Trần Văn Hương. Thêm ông giáo sư trường nữ Sương Nguyệt Ánh bị học trò tố cáo phản động. Đám tư sản mại bản Chợ Lớn đã từ các nhà tù thành phố về tập trung tại 2 C-1. Có mặt vua kẽm gai Hoàng Kim Quy. Tôi được đưa vào phòng chấp pháp đầu khu C-l. Công an chấp pháp số 8 tự giới thiệu.
- Gọi tôi là Hai Nghiêm.
Lần đầu tiên một chấp pháp xưng bí danh. Bí danh Hai Nghiêm, một bí danh hãi hùng. Hai Nghiêm đã cho nhiều anh em của tôi vào cachot nếm các kiểu còng, xích. Hai Nghiêm đang chiếu cố tôi. Hắn ta dân Quảng Bình, ăn mặc luộm thuộm, có cái xe đạp cũ rích dựng trước cửa phòng. Kinh nghiệm nhà tù Cộng sản dạy tôi bài học này.
Một công an miền Bắc vào Saigon vẫn giữ tác phong miền Bắc là một công an còn nguyên “phẩm chất cách mạng”. Và tù nhân nên lo sợ. Bài học này nữa: Tất cả công an ở những vùng bị không lực Mỹ oanh tạc, đều trút thù hận xuống tù nhân tư tưởng, tù nhân chính trị miền Nam. Hai Nghiêm hội đủ hai bài học của chính sách học tập cải tạo của Cộng sản.
- Hôm nay, anh làm việc với tôi.
Tôi đã bẽ bàng nghe hai tiếng làm việc. Thôi rồi, tôi sắp viết tự khai. Hai Nghiêm pha ấm trà Thái Nguyên. Hắn ta hút thuốc rê. Móc gói thuốc và giấy vấn, hắn hỏi tôi:
- Anh biết hút thuốc rê chứ?
- Biết
- Vậy tự do vấn mà hút.
Tôi vấn thuốc. Hai Nghiêm đã rót trà. Nâng ly của mình trước, hắn bảo tôi:
- Uống đi, anh Duyên Anh.
Sau tuần trà tù, Hai Nghiêm nhìn tôi, gật gù:
- Trường hợp của anh là trường hợp đáng nghiên cứu.
Hai Nghiêm đặt lên bàn tờ Chỉ Đạo do Bộ quốc phòng xuất bản năm 1960 số đăng truyện ngắn đầu tay của tôi: Hoa thiên lý. Hắn lật từng trang và ngưng lại dí ngón tay xuống cái slogan đóng khung “Tố Cộng là yêu nước”. Rồi lật tiếp đến trang Hoa thiên lý.
- Giàn thiên lý của mẹ anh còn nguyên ở làng Trường An. Mẹ anh đã chết, không phải chết vì héo hắt thương nhớ anh. Mà chết vì bom Mỹ năm 1969, anh biết chứ?
- Tôi biết, bố tôi cho tôi biết.
- Thằng Mai Thảo viết bài cổ võ dội bom lên miền Bắc. Nó hò hét “dội bom lên đầu chúng nó”. Anh cũng cổ võ dội bom xuống đầu mẹ anh.
- Tôi không cổ võ.
- Anh chống Cộng sản. Các anh ăn lương Mỹ chống Cộng sản. Thằng Nguyễn Mạnh Côn đã công khai viết mỗi bài viết thuê nó nhận bao nhiêu tiền. (Anh Côn đã viết, đã đăng báo trước 1975. Anh ta rất hãnh diện nói thật, tất cả những điều cần dấu điếm, những điều người khác sợ hãi. Thí dụ anh ấy hiên ngang viết anh ấy nghiện thuốc phiện. Cộng sản đã dầy công nghiên cứu văn học Sàigòn. Họ rõ chúng tôi từng chi tiết vụn vặt).
- Tôi không ăn lương chống Cộng.
- Thế anh mới nguy hiểm. Những thằng chống Cộng tự nguyện như thằng Dương Nghiễm Mậu, thằng Phan Nhật Nam, thằng Thanh Tâm Tuyền, thằng Doãn Quốc Sĩ và anh toàn là những thằng nguy hiểm. Các anh đã phá hại Đảng, đã huyễn hoặc nhân dân bằng sự tự nguyện của các anh. Nhân dân không tin bọn chống Cộng lãnh lương nhưng tin các anh. Các anh đầu độc tư tưởng nhân dân.
Tôi là thằng chống Cộng nguy hiểm? Thế mà, trước 1975 thiếu gì đứa làm nghề viết báo miệt thị tôi chống Cộng thô bỉ vì ngôn ngữ sống sượng của tôi đã lố bịch Bác của chúng nó. Tôi nhớ năm 1969, năm Hồ Chí Minh “băng hà”, trên mục Phù Thế của báo Công Luận, tôi định viết loạt bài dài, nhan đề Cây đại thụ đổ gục, bọn Lê Hiền nói nhỏ nói to: Thằng Duyên Anh mà dám viết về chủ tịch Hồ Chí Minh ư? Tôi chán quá, cúp ngang loạt bài này.
- Cái giọng hài hước đểu cáng của anh đã khiến nhân dân khinh nhờn lãnh tụ. Anh sâu sắc lắm, anh chia đối tượng mà tuyên truyền. Bình dân thì anh trào phúng. Trí thức thì anh nghiêm chỉnh. Con nít thì anh đá giò lái, phục kích những câu đối thoại ác độc.
Hai Nghiêm kết tội tôi nặng quá. Tôi đã “đi” chấp pháp bẩy lần, “bẩy chữ” của ‘Vành ngoài” đã quen, mặc kệ Hai Nghiêm nguyền rủa. Hắn ta có quyền. Vì hắn ta chiến thắng. Tôi chiến bại. Tự nhiên, tôi nhớ nhân vật Trần Cung của La Quán Trung. Bạn đọc Tam Quốc Chí chứ? Trần Cung chê Tào Tháo gian ác, bỏ lỡ cơ hội giết Tào Tháo, ra đi. Tưởng phò ai, lại phò Lã Bố là thằng chỉ ham rượu và gái, và phản thầy. Rốt cuộc, Trần Cung bị Tào Tháo sát hại. Chuyện có khác nhiều với chúng tôi. Những Lã Bố di tản qua Mỹ phè phỡn. Chúng tôi chống Cộng ở lại vào tù, nghe Cộng sản chửi rủa.
- Anh vô sản mà ngu dốt chống giai cấp của anh. Anh chống bố anh, chống các em của anh.
Chán chưa? Cộng sản cứ nằng nặc gắn lên tôi nhãn hiệu vô sản. Như tất cả những tên công an, chấp pháp đầy thủ thuật, Hai Nghiêm châm thêm nước cho tôi và chuyển đoạn:
- Anh biết Mai Thảo ở đâu không?
- Không!
- Nó nằm ở Chí Hòa. 1 Vì nó trốn nên nó không được hưởng quy chế như các anh.
Câu này rất thấm thía về mặt khôi hài đen.
- Anh Duyên Anh.
- Tôi nghe rõ.
- Anh nói thật nhé?
- Tôi nói thật.
- Ở miền Nam anh phục nhất ai?
Đang nói về Mai Thảo, Hai Nghiêm rẽ sang chuyện khác cái rụp. Tôi chới với, phải thú nhận là tôi không kịp chuẩn bị câu trả lời:
- Tôi không phục ai cả.
- Anh có thể trả lời anh phục một người.
- Không, tôi không phục ai.
- Có.
- Không.
- Đinh Xuân Cầu!
Hai Nghiêm mỉm cười:
- Thần tượng của anh.
Tôi lặng người. Hai Nghiêm nhả khói thuốc:
- Kể ra, Đinh Xuân cầu xứng đáng là mẫu người hùng của anh. Thằng này bị bắt cứ ngoan cố khai cái tên giả. Chúng tôi biết tỏng, mặc kệ xem nó đóng kịch bao lâu. Chúng tôi còng tay, xích chân nó cho đến hôm chúng tôi mời đồng chí Trưởng trại Lý Bá Sơ vào thăm nó. Lúc ấy nó mới chịu nhận nó là Đinh Xuân cầu, thần tượng chống Cộng của anh.
Tôí nín thinh.
- Thằng Đinh Xuân Cầu ngạo mạn lắm. Tôi làm việc với nó. Bị bắt mà còn xấc láo nói: “Tôi không làm thủ tướng thì ai làm thủ tướng”! Cái mặt thằng Cầu mà đòi làm thủ tướng à? Anh Duyên Anh này, thằng Trương Phiên đang nằm ở khu B.
Hắn hất hàm:
- Lá cờ Bảo Quốc nó ra sao?
Tôi đáp:
- Tôi chưa hề thấy.
Hai Nghiêm gằn giọng:
- Đó là cờ bịp. Cả lũ các anh bị bịp. Từ Đinh Xuân Cầu, Nguyễn Thiện Ngọ, Hà Tường Các, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Tiến Hỷ bị bịp.
Hai Nghiêm dẫn tôi sang khu B. Đến trước cửa một phòng giam, hắn gọi:
- Trương Phiên.
Trương Phiên “có” thật lớn. Ông ta chạy ra cưa. Tôi đã nhận diện Trương Phiên. Tôi còn thấy Nguyễn Mạnh Côn nữa. Anh ta đã lại từ Sở Công An về đề lao Gia Định. Gặp tôi, Trương Phiên giật mình. Quả nhiên, Trương Phiên là tên bịp, một đạo diễn tài ba của vở kịch Chống Cộng cuối mùa. Tôi đau điếng. Những gì tôi cố dấu đã bị lật tẩy. Hai Nghiêm đưa tôi về khu C. Tôi phải làm lại tự khai từ năm mười tuổi đến ngày tôi bị bắt. Hai Nghiêm chỉ yêu cầu thế. Hai Nghiêm không hành hạ tôi như chấp pháp số 7. Tôi viết tự khai tại phòng của Hai Nghiêm đúng giờ giấc hành chính. Mất nửa tháng mới xong. Vào ngày chấm dứt tự khai, Hai Nghiêm cho vợ tôi gặp tôi ở phòng của hắn. Hắn ngồi giám sát. Thấy tôi hốc hác, hai tay ghẻ lở kềnh càng, vợ tôi đã khóc. Tôi bảo đừng khóc, vợ tôi vẫn khóc. Các con tôỉ ngồi đợi ngoài cổng. Vợ tôi xin Hai Nghiêm “cho các cháu gặp bố chúng”, Hai Nghiêm từ chổi. Hắn nói hắn mời vợ tôi đến làm việc. Đây không phải là chỗ thăm nuôi và hắn không dám qua mặt lãnh đạo của hắn. Hai Nghiêm chỉ cho tôi nhận thuốc lá và không được đem về phòng. Tôi gặp vợ tôi hơn mười phút. Mười phút ngắm nghía dung nhan tiều tụy của vợ để mường tượng sự ngơ ngác của ba đứa con mất bố, tôi muốn điên lên. Tôi không được cầm tay vợ tôi và quên hỏi nồi cháo thịt chiều 8-4 có bị khét. Sự chống Cộng tự nguyện của tôi đã phải trả giá não nề. Tại sao tôi phải chống Cộng nhỉ? Vì tôi chống Cộng, tôi đã chống đủ thứ để chính nghĩa chống Cộng sáng tỏ. Và vì thế, Cộng sản không tha quốc gia không dung. Tội nghiệp thay là người cầm bút có chính kiến!
Tôi về phòng, tâm hồn bấn loạn. Cái đòn tình cảm của Hai Nghiêm đã xoáy vào tim tôi những mũi kiếm nhọn hoắt. Buổi chiều, Hai Nghiêm đem cho tôi ba gói thuốc Vàm Cỏ. Hắn chia ra đưa dần. Ngay sáng hôm sau hắn gọi tôi ra, pha trà mời tôi uống, lấy thuốc của vợ tôi cho tôi hút.
- Anh có vẻ trách tôi? Hắn mở đầu câu chuyện.
- Tôi không có quyền trách móc ai. Có lẽ, tôi đã trách móc tôi làm phiền vợ con tôi. Nhưng tôi tin rằng vợ con tôi sẽ hiểu sự vinh nhục trong đời sống.
- Anh nên nhớ là chỉ có Trưởng phòng chấp pháp của Sở mới đủ khả năng cho phép vợ con anh thăm anh khi anh đang làm việc. Tôi mời vợ anh tới với tư cách nhân chứng để anh gặp vợ anh.
- Cám ơn anh.
- Tôi hứa với anh, làm việc xong, tôi cho anh gặp vợ con anh thoải mái.
- Cám ơn anh.
- Anh tin tôi chứ?
- Tôi sẽ tin.
- Phải, anh sẽ tin.
Hai Nghiêm đưa tôi về phòng. Câu chuyện buổi sáng ngắn ngủi. Buổi trưa, hắn gọi tôi ra, mời tôi uống trà và ăn kẹo Hà Nội.
- Cần kết thúc hồ sơ của anh.
Hắn nói và căn cứ vào những câu, những đoạn trong Tự khai ngót 30 trang vắn tắt cuộc đời tôi từ năm mười tuổi đến ngày tôi bị bắt mà hẳn đã gạch dưới đỏ chói, Hai Nghiêm thẩm vấn tôi. Hẳn bắt đầu ở đoạn tôi lưu lạc Saigon. Hai Nghiêm hỏi thật kỹ chuỗi ngày tôi hoạt động với Duy Dân trên Ban Mê Thuột. Tôi thú thật tôi chưa tuyên thệ, mới chỉ là cảm tình viên. Tuy nhiên tôi rất mê thơ của Lý Đông A, những bài tùy bút chan chứa tình yêu nước. Hai Nghiêm không ngắt lời tôi. Hắn cũng chẳng thèm ghi chép. Sau đó là đoạn đời văn chương báo chí. Và kết thúc ở những ngày tôi theo Đinh Xuân Cầu chống Cộng hoàng hôn. Hai Nghiêm không truy nã những nơi và những người dung dưỡng tôi. Đúng một tuần lễ, tôi trả lời hàng trăm câu hỏi của Hai Nghiêm. Tôi đợi hắn tống tôi vào cachot. Nhưng hắn bỏ rơi tôi. Cuối tháng 10, Hai Nghiêm gọi tôi ra.
- Bản tự khai anh làm việc với tôi là bản tự khai quyết định thời gian anh cải tạo, anh thấy cần bổ sung không?
- Không.
- Anh không ân hận chứ?
- Không,
Hai Nghiêm đọc cho tôi nghe những trang hắn thẩm vấn tôi. Tôi ngạc nhiên vô cùng. Hắn đã chửi tôi như tát nước vào mặt. Hắn lừng danh cứng rắn với anh em tôi. Và hắn đã lập một cái hồ sơ thật nhẹ nhàng về tội trạng của tôi. Đảng của Hai Nghiêm chỉ thị hắn hay Thượng Đế của tôi đã nhập vào linh hồn Hai Nghiêm? Hắn đề nghị cho tôi đi lao động cải tạo một thời gian. Hai Nghiêm đưa tôi đọc lại. Rồi bảo tôi ký tên vào mỗi trang hắn viết. Cuối cùng, hắn ghi ngày, tháng, năm và ký tên hắn. Bạn biết không, với tù nhân, chấp pháp là Thượng Đế. Hai Phận nói thế. Chấp pháp đủ quyền hành đề nghị bạn nằm tù dài hạn hay ngắn hạn, tống bạn vào cachot hay lôi bạn ra, còng bạn hay không còng bạn. Chấp pháp còn có quyền nhốt cả quản giáo và cai ngục. Ở đề lao Gia Định, cai ngục không dám đánh tù nhân vì sợ chấp pháp.
- Anh không phải làm việc nữa. Hồ sơ của anh đã kết thúc. Chúng ta có thể mạn đàm thoải mái.
Hai Nghiệm pha ấm trà mới.
- Những kẻ chống Cộng quả quyết rằng người Cộng sản thiếu lương tâm. Điều này không tuyệt đối đâu. Bởi vì cả những kẻ chống Cộng sản cũng vẫn thiếu lương tâm. Tôi có chút cảm tình với anh nhờ tôi đã đọc truyện Đại dương trong lòng con ốc nhỏ của anh. Tôi vốn con nhà nghèo, bố tôi giống hệt người bố ở truyện của anh. Giá anh chi viết loại truyện đó. Anh còn cơ hội làm lại.
Mạn đàm trời trăng mây gió chán, Hai Nghiêm nói:
- Nếu đề nghị của tôi được lãnh đạo chấp thuận, anh sẽ đi lao động 3 năm tính từ hôm anh bị bắt.
Hai Nghiêm cười:
- Ba năm không dài chứ?
Tôi đáp:
- Vâng, không dài nếu thật sự chỉ là ba năm.
Hai Nghiêm nhìn tôi:
- Cái nguyện vọng anh viết cuối tự khai không thể thoả mãn.
Tôi đã viết: Nếu được tha sớm, tôi xin viết cuốn sách tố cáo những tổ chức, những lãnh tụ phản động bịp để khỏi còn ai vào tù vì tội phản động, mất tiền, mất tình 2
- Tại sao?
- Anh ngây thơ lắm. Chúng tôi cần những thằng chống Cộng bịp để bắt những thằng chống Cộng lương thiện, những thằng như Nguyễn Thiện Ngọ, Nguyễn Đan Quế, Phan Vô Kỵ và bọn sinh viên, học sinh bất mãn chế độ...
° ° °
Nhưng hồ sơ chưa kết thúc. Trung tuần tháng 11, tôi bị gọi ra làm việc. Lại làm việc. Ở phòng Haỉ Nghiêm.
Hai nhân vật đợi tôi. Một người đeo kính trắng gọng vàng, cao ráo, mặt mũi sáng sủa. Rất trí thức. Hắn ăn mặc như dân Saigon. Hai Nghiêm giới thiệu: “Đây là đồng chí Phó Giám Đốc ở sở Công An thành phố”. Một người tóc hoa râm, khuôn mặt phong trần, trán cao, mắt sáng, ăn mặc giản dị. Hai Nghiêm giới thiệu: “Đây là đồng chí ở Viện Kiểm Sát Nhân Dân, từ Hà Nội vào”. Tôi đụng độ thứ dữ. Hai Nghiêm cung kính chào hai đồng chí lãnh đạo và rời phòng. Phó giám đốc Sở Công An nói:
- Anh sẽ làm việc với cán bộ trung ương một thời gian.
Tôi nói:
- Hồ sơ của tôi đã kết thúc.
Phó giám đốc nói:
- Vụ này ngoài hồ sơ.
Phó giám đốc bắt tay cán bộ trung ương ra về. Còn tôi với... trung ương và tôi gọi hắn là chấp pháp Hà Nội.Tôi mơ hồ thấy chuyện gì bất ổn cho tôi. Chấp pháp Hà Nộí mời tôi ngồi.
- Tôi công tác lưu động, sẽ chỉ làm phiền anh vài ngày thôi.
A, chấp pháp Hà Nội nhã nhặn quá. Chức tước càng lớn càng lịch sự.
- Đảng và Nhà Nước có khuyết điểm là giam giữ các anh. Chuyện này ngoài ý muốn, sẽ giải quyết nhanh. Mong anh thông cảm.
Tôi im lặng. Ông ta – tôi không thể thiếu nhã nhặn với người nhã nhặn – hỏi tôi:
- Anh điểm tâm chưa?
- Thưa ông chưa.
- Gọi tôi bằng anh,
- Nếu ông cho phép.
- Tại sao không? Rồi anh sẽ trở về và chúng ta sẽ gặp nhau.
- Cám ơn anh.
- Sao điểm tâm muộn thế?
- Vì phải chờ nước sôi.
Tôi kể tình trạng sinh hoạt của tù nbân. Ông ta bảo tôi về phòng đem mì ra. Quản giáo khúm núm trước mặt cán bộ trung ương. Tôi mang ca nhựa đựng mì vụn và cái muỗng nhựa, ông ta lôi từ ba-lô cái ấm nấu nước cắm điện và gói trà. Ăn mì xong, tôi được quản giáo dẫn đi rửa ca muỗng, rửa mặt, rửa tay. Tôi... de luxe quá.
- Nhà không gửi đồ nhôm à?
- Đề lao cấm kim khí.
Sau tuần trà, chấp pháp Hà Nội vào việc:
- Yêu cầu của tôi là anh viết tất cả những lần anh tiếp xúc với anh em văn nghệ Hà Nội vào. Các anh đã đến đâu, ăn uống chỗ nào, trao đổi chuyện chi. Vân vân... Anh không chịu bất cứ một trách nhiệm gì về những lời khai của anh cả.
Tôi hỏi:
- Tại sao anh chọn tôi?
Chấp pháp Hà Nội đáp:
- Vì anh em văn nghệ Hà Nội vào Saigon, khi về đều viết tự kiểm. Họ nhắc tên anh và nhiều anh em khác. Tôi được giao công tác này. Và tôi đã làm phiền các anh em văn nghệ Saigon ngoài đời, bây giờ, tới lượt làm phiền anh em bị tạm giữ. Mong anh giúp đỡ tôi.
Chấp pháp Hà Nội, cán bộ gộc của Viện Kiểm Sát Trung Ương, một cơ quan ngồi trên công an, muốn tôi viết tự khai. Ông ta đã tế nhị "làm phiền” tôi. Văn Nghệ chế độ miền Nam hay văn nghệ chế độ miền Bắc đều không khá, kể cả những anh đã “lột người” như Xuân Diệu. Nó bắt tự khai, ta đành tự khai. Nó không tin tự kiểm “phe ta”. Nó muốn đối chiếu tự khai “phe địch”. Tự khai hay tự kiểm đều bố láo cả, với nhà văn. Huỳnh Bá Thành nhận xét đúng: “Bọn nhà văn là bọn biết dấu diếm những gì cần dấu diếm trong đầu óc chúng”. Anh em chẳng dại gì khai thật. Ta ngu sao khai thật. Vậy thì tôi đã viết những lần gặp gỡ một số nhà văn trẻ Hà Nội tìm gặp tôi, những buổi ăn uống và nhứng câu chuyện văn chương. Tuyệt nhiên không đả động gì đến chính trị, bất mãn hay phản kháng. Chấp pháp Hà Nội khác hẳn tên chấp pháp sổ 7. Ông ta hỏi tôi mấy giờ ăn cơm trưa, mấy giờ ăn cơm chiều. Luôn luôn, ông ta dục tôi về phòng trước bữa ăn và luôn luôn, pha tặng tôi ấm trà đổ vào ca nhựa cho tôi mang về. Sang hôm thứ hai, ông ta hỏi:
- Anh muốn nhờ tôi việc gì không?
- Việc gì, thưa anh?
- Việc thuộc phạm vi tình cảm.
- Trại đã cấm cà-phê. Nếu có thể, anh ghé qua nhà tôi ở sổ 225 Bis đường Công Lý cũ, bảo vợ tôi mua cho nửa kỷ cà-phê.
- Dễ thôi.
Buổi sáng ngày thứ ba, ông ta đưa tôi gói cà-phê:
- Tôi đã qua nhà anh rồi ngại không dám vào. Một cán bộ vào nhà một nhà văn bị tạm giữ sẽ xẩy ra nhiều dị nghị cho cả hai. Tôi mua tặng anh hai lạng.
Tôi nói:
- Tôi xin phép gửi lại tiền anh.
Ông ta lắc đầu:
- Anh quên tôi là cán bộ và anh là người bị tạm giữ. Trên tất cả vẫn là con người.
Tôi đã làm việc với ông Mai Chí Thọ. Bây giờ, với cán bộ Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Tôi thấy cả hai đều ngọt ngào. Và tôi cũng hiểu, càng ngọt ngào càng đáng sợ. Nhưng tôi bằng lòng sự ngọt ngào. Ít ra, tôi đỡ phải khinh bỉ họ đã cậy quyền bắt tôi và át giọng tôi. Người chấp pháp miền Nam đã dạy tôi rằng, ở tù không tin ai cả.
- Cám ơn anh.
Lúc quản giáo dẫn tôi về phòng, ông ta chỉ thị: “Tôi cho phép anh Vũ Mộng Long đem cà-phê vào”. Buổi chiều, tôi chấm dứt bản tự khai. Ông ta không đọc, không chấp pháp mà cất vào ba-lô.
- Thế là xong rồi, anh Duyên Anh ạ!
Ông ta bưng ly trà mời tôi:
- Anh tin tôi đi, mọi việc sẽ tốt đẹp.
Giọng ông ta trầm xuống.
- Đất nước ta còn thiếu nhiều nhân tài, mọi mặt. Anh là một nhân tài của đất nước. Anh cố gắng giữ gìn súc khỏe để mai này phục vụ đất nước.
Ông ta đứng dậy, bắt tay tôi:
- Giữ gìn sức khoẻ.
Tôi bắt tay ông ta. Lần đầu tiên và là lần duy nhất người của Đảng bắt tay tù nhân, chúc sức khoẻ tù nhân. Tôi nói:
- Cám ơn anh câu nói “Trên tất cả là tình người”. Cám ơn anh câu chúc "‘Cố gắng giữ gìn sức khoẻ để mai này phục vụ đất nước”. Tôi rất mong, rất thèm phục vụ đất nước, mai này...
Ông ta chào từ biệt tôi lần cuối. Từ đó, trên đường tù, tôi không còn được gặp người nào như ông ta nữa.
--------------------------------
1 Mai Thảo vẫn trốn cho tới ngày vượt biên. Hai Nghiêm tung hỏa mù. Tôi bán tín bán nghi.
2 Ở cuốn Trại Tập Trung, độc giả sẽ biết rõ tên tuổi những lãnh tụ bịp này và sẽ ngậm ngùi cho sự nghiệp chống Cộng.
Đầu tháng 10, tôi bị gọi ra. Thời gian này, đề lao chỉ còn cho nhận quà hai tuần một lần. 1 C- 1 đã nhiều thay đổi. Người cũ đổi phòng. Người mới nhập phòng. Vài anh được thả, lệnh tha đọc tại chỗ. Nhân vật của 1 C-1 bây giờ là Bí thư của thủ tướng Trần Văn Hương. Thêm ông giáo sư trường nữ Sương Nguyệt Ánh bị học trò tố cáo phản động. Đám tư sản mại bản Chợ Lớn đã từ các nhà tù thành phố về tập trung tại 2 C-1. Có mặt vua kẽm gai Hoàng Kim Quy. Tôi được đưa vào phòng chấp pháp đầu khu C-l. Công an chấp pháp số 8 tự giới thiệu.
- Gọi tôi là Hai Nghiêm.
Lần đầu tiên một chấp pháp xưng bí danh. Bí danh Hai Nghiêm, một bí danh hãi hùng. Hai Nghiêm đã cho nhiều anh em của tôi vào cachot nếm các kiểu còng, xích. Hai Nghiêm đang chiếu cố tôi. Hắn ta dân Quảng Bình, ăn mặc luộm thuộm, có cái xe đạp cũ rích dựng trước cửa phòng. Kinh nghiệm nhà tù Cộng sản dạy tôi bài học này.
Một công an miền Bắc vào Saigon vẫn giữ tác phong miền Bắc là một công an còn nguyên “phẩm chất cách mạng”. Và tù nhân nên lo sợ. Bài học này nữa: Tất cả công an ở những vùng bị không lực Mỹ oanh tạc, đều trút thù hận xuống tù nhân tư tưởng, tù nhân chính trị miền Nam. Hai Nghiêm hội đủ hai bài học của chính sách học tập cải tạo của Cộng sản.
- Hôm nay, anh làm việc với tôi.
Tôi đã bẽ bàng nghe hai tiếng làm việc. Thôi rồi, tôi sắp viết tự khai. Hai Nghiêm pha ấm trà Thái Nguyên. Hắn ta hút thuốc rê. Móc gói thuốc và giấy vấn, hắn hỏi tôi:
- Anh biết hút thuốc rê chứ?
- Biết
- Vậy tự do vấn mà hút.
Tôi vấn thuốc. Hai Nghiêm đã rót trà. Nâng ly của mình trước, hắn bảo tôi:
- Uống đi, anh Duyên Anh.
Sau tuần trà tù, Hai Nghiêm nhìn tôi, gật gù:
- Trường hợp của anh là trường hợp đáng nghiên cứu.
Hai Nghiêm đặt lên bàn tờ Chỉ Đạo do Bộ quốc phòng xuất bản năm 1960 số đăng truyện ngắn đầu tay của tôi: Hoa thiên lý. Hắn lật từng trang và ngưng lại dí ngón tay xuống cái slogan đóng khung “Tố Cộng là yêu nước”. Rồi lật tiếp đến trang Hoa thiên lý.
- Giàn thiên lý của mẹ anh còn nguyên ở làng Trường An. Mẹ anh đã chết, không phải chết vì héo hắt thương nhớ anh. Mà chết vì bom Mỹ năm 1969, anh biết chứ?
- Tôi biết, bố tôi cho tôi biết.
- Thằng Mai Thảo viết bài cổ võ dội bom lên miền Bắc. Nó hò hét “dội bom lên đầu chúng nó”. Anh cũng cổ võ dội bom xuống đầu mẹ anh.
- Tôi không cổ võ.
- Anh chống Cộng sản. Các anh ăn lương Mỹ chống Cộng sản. Thằng Nguyễn Mạnh Côn đã công khai viết mỗi bài viết thuê nó nhận bao nhiêu tiền. (Anh Côn đã viết, đã đăng báo trước 1975. Anh ta rất hãnh diện nói thật, tất cả những điều cần dấu điếm, những điều người khác sợ hãi. Thí dụ anh ấy hiên ngang viết anh ấy nghiện thuốc phiện. Cộng sản đã dầy công nghiên cứu văn học Sàigòn. Họ rõ chúng tôi từng chi tiết vụn vặt).
- Tôi không ăn lương chống Cộng.
- Thế anh mới nguy hiểm. Những thằng chống Cộng tự nguyện như thằng Dương Nghiễm Mậu, thằng Phan Nhật Nam, thằng Thanh Tâm Tuyền, thằng Doãn Quốc Sĩ và anh toàn là những thằng nguy hiểm. Các anh đã phá hại Đảng, đã huyễn hoặc nhân dân bằng sự tự nguyện của các anh. Nhân dân không tin bọn chống Cộng lãnh lương nhưng tin các anh. Các anh đầu độc tư tưởng nhân dân.
Tôi là thằng chống Cộng nguy hiểm? Thế mà, trước 1975 thiếu gì đứa làm nghề viết báo miệt thị tôi chống Cộng thô bỉ vì ngôn ngữ sống sượng của tôi đã lố bịch Bác của chúng nó. Tôi nhớ năm 1969, năm Hồ Chí Minh “băng hà”, trên mục Phù Thế của báo Công Luận, tôi định viết loạt bài dài, nhan đề Cây đại thụ đổ gục, bọn Lê Hiền nói nhỏ nói to: Thằng Duyên Anh mà dám viết về chủ tịch Hồ Chí Minh ư? Tôi chán quá, cúp ngang loạt bài này.
- Cái giọng hài hước đểu cáng của anh đã khiến nhân dân khinh nhờn lãnh tụ. Anh sâu sắc lắm, anh chia đối tượng mà tuyên truyền. Bình dân thì anh trào phúng. Trí thức thì anh nghiêm chỉnh. Con nít thì anh đá giò lái, phục kích những câu đối thoại ác độc.
Hai Nghiêm kết tội tôi nặng quá. Tôi đã “đi” chấp pháp bẩy lần, “bẩy chữ” của ‘Vành ngoài” đã quen, mặc kệ Hai Nghiêm nguyền rủa. Hắn ta có quyền. Vì hắn ta chiến thắng. Tôi chiến bại. Tự nhiên, tôi nhớ nhân vật Trần Cung của La Quán Trung. Bạn đọc Tam Quốc Chí chứ? Trần Cung chê Tào Tháo gian ác, bỏ lỡ cơ hội giết Tào Tháo, ra đi. Tưởng phò ai, lại phò Lã Bố là thằng chỉ ham rượu và gái, và phản thầy. Rốt cuộc, Trần Cung bị Tào Tháo sát hại. Chuyện có khác nhiều với chúng tôi. Những Lã Bố di tản qua Mỹ phè phỡn. Chúng tôi chống Cộng ở lại vào tù, nghe Cộng sản chửi rủa.
- Anh vô sản mà ngu dốt chống giai cấp của anh. Anh chống bố anh, chống các em của anh.
Chán chưa? Cộng sản cứ nằng nặc gắn lên tôi nhãn hiệu vô sản. Như tất cả những tên công an, chấp pháp đầy thủ thuật, Hai Nghiêm châm thêm nước cho tôi và chuyển đoạn:
- Anh biết Mai Thảo ở đâu không?
- Không!
- Nó nằm ở Chí Hòa. 1 Vì nó trốn nên nó không được hưởng quy chế như các anh.
Câu này rất thấm thía về mặt khôi hài đen.
- Anh Duyên Anh.
- Tôi nghe rõ.
- Anh nói thật nhé?
- Tôi nói thật.
- Ở miền Nam anh phục nhất ai?
Đang nói về Mai Thảo, Hai Nghiêm rẽ sang chuyện khác cái rụp. Tôi chới với, phải thú nhận là tôi không kịp chuẩn bị câu trả lời:
- Tôi không phục ai cả.
- Anh có thể trả lời anh phục một người.
- Không, tôi không phục ai.
- Có.
- Không.
- Đinh Xuân Cầu!
Hai Nghiêm mỉm cười:
- Thần tượng của anh.
Tôi lặng người. Hai Nghiêm nhả khói thuốc:
- Kể ra, Đinh Xuân cầu xứng đáng là mẫu người hùng của anh. Thằng này bị bắt cứ ngoan cố khai cái tên giả. Chúng tôi biết tỏng, mặc kệ xem nó đóng kịch bao lâu. Chúng tôi còng tay, xích chân nó cho đến hôm chúng tôi mời đồng chí Trưởng trại Lý Bá Sơ vào thăm nó. Lúc ấy nó mới chịu nhận nó là Đinh Xuân cầu, thần tượng chống Cộng của anh.
Tôí nín thinh.
- Thằng Đinh Xuân Cầu ngạo mạn lắm. Tôi làm việc với nó. Bị bắt mà còn xấc láo nói: “Tôi không làm thủ tướng thì ai làm thủ tướng”! Cái mặt thằng Cầu mà đòi làm thủ tướng à? Anh Duyên Anh này, thằng Trương Phiên đang nằm ở khu B.
Hắn hất hàm:
- Lá cờ Bảo Quốc nó ra sao?
Tôi đáp:
- Tôi chưa hề thấy.
Hai Nghiêm gằn giọng:
- Đó là cờ bịp. Cả lũ các anh bị bịp. Từ Đinh Xuân Cầu, Nguyễn Thiện Ngọ, Hà Tường Các, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Tiến Hỷ bị bịp.
Hai Nghiêm dẫn tôi sang khu B. Đến trước cửa một phòng giam, hắn gọi:
- Trương Phiên.
Trương Phiên “có” thật lớn. Ông ta chạy ra cưa. Tôi đã nhận diện Trương Phiên. Tôi còn thấy Nguyễn Mạnh Côn nữa. Anh ta đã lại từ Sở Công An về đề lao Gia Định. Gặp tôi, Trương Phiên giật mình. Quả nhiên, Trương Phiên là tên bịp, một đạo diễn tài ba của vở kịch Chống Cộng cuối mùa. Tôi đau điếng. Những gì tôi cố dấu đã bị lật tẩy. Hai Nghiêm đưa tôi về khu C. Tôi phải làm lại tự khai từ năm mười tuổi đến ngày tôi bị bắt. Hai Nghiêm chỉ yêu cầu thế. Hai Nghiêm không hành hạ tôi như chấp pháp số 7. Tôi viết tự khai tại phòng của Hai Nghiêm đúng giờ giấc hành chính. Mất nửa tháng mới xong. Vào ngày chấm dứt tự khai, Hai Nghiêm cho vợ tôi gặp tôi ở phòng của hắn. Hắn ngồi giám sát. Thấy tôi hốc hác, hai tay ghẻ lở kềnh càng, vợ tôi đã khóc. Tôi bảo đừng khóc, vợ tôi vẫn khóc. Các con tôỉ ngồi đợi ngoài cổng. Vợ tôi xin Hai Nghiêm “cho các cháu gặp bố chúng”, Hai Nghiêm từ chổi. Hắn nói hắn mời vợ tôi đến làm việc. Đây không phải là chỗ thăm nuôi và hắn không dám qua mặt lãnh đạo của hắn. Hai Nghiêm chỉ cho tôi nhận thuốc lá và không được đem về phòng. Tôi gặp vợ tôi hơn mười phút. Mười phút ngắm nghía dung nhan tiều tụy của vợ để mường tượng sự ngơ ngác của ba đứa con mất bố, tôi muốn điên lên. Tôi không được cầm tay vợ tôi và quên hỏi nồi cháo thịt chiều 8-4 có bị khét. Sự chống Cộng tự nguyện của tôi đã phải trả giá não nề. Tại sao tôi phải chống Cộng nhỉ? Vì tôi chống Cộng, tôi đã chống đủ thứ để chính nghĩa chống Cộng sáng tỏ. Và vì thế, Cộng sản không tha quốc gia không dung. Tội nghiệp thay là người cầm bút có chính kiến!
Tôi về phòng, tâm hồn bấn loạn. Cái đòn tình cảm của Hai Nghiêm đã xoáy vào tim tôi những mũi kiếm nhọn hoắt. Buổi chiều, Hai Nghiêm đem cho tôi ba gói thuốc Vàm Cỏ. Hắn chia ra đưa dần. Ngay sáng hôm sau hắn gọi tôi ra, pha trà mời tôi uống, lấy thuốc của vợ tôi cho tôi hút.
- Anh có vẻ trách tôi? Hắn mở đầu câu chuyện.
- Tôi không có quyền trách móc ai. Có lẽ, tôi đã trách móc tôi làm phiền vợ con tôi. Nhưng tôi tin rằng vợ con tôi sẽ hiểu sự vinh nhục trong đời sống.
- Anh nên nhớ là chỉ có Trưởng phòng chấp pháp của Sở mới đủ khả năng cho phép vợ con anh thăm anh khi anh đang làm việc. Tôi mời vợ anh tới với tư cách nhân chứng để anh gặp vợ anh.
- Cám ơn anh.
- Tôi hứa với anh, làm việc xong, tôi cho anh gặp vợ con anh thoải mái.
- Cám ơn anh.
- Anh tin tôi chứ?
- Tôi sẽ tin.
- Phải, anh sẽ tin.
Hai Nghiêm đưa tôi về phòng. Câu chuyện buổi sáng ngắn ngủi. Buổi trưa, hắn gọi tôi ra, mời tôi uống trà và ăn kẹo Hà Nội.
- Cần kết thúc hồ sơ của anh.
Hắn nói và căn cứ vào những câu, những đoạn trong Tự khai ngót 30 trang vắn tắt cuộc đời tôi từ năm mười tuổi đến ngày tôi bị bắt mà hẳn đã gạch dưới đỏ chói, Hai Nghiêm thẩm vấn tôi. Hẳn bắt đầu ở đoạn tôi lưu lạc Saigon. Hai Nghiêm hỏi thật kỹ chuỗi ngày tôi hoạt động với Duy Dân trên Ban Mê Thuột. Tôi thú thật tôi chưa tuyên thệ, mới chỉ là cảm tình viên. Tuy nhiên tôi rất mê thơ của Lý Đông A, những bài tùy bút chan chứa tình yêu nước. Hai Nghiêm không ngắt lời tôi. Hắn cũng chẳng thèm ghi chép. Sau đó là đoạn đời văn chương báo chí. Và kết thúc ở những ngày tôi theo Đinh Xuân Cầu chống Cộng hoàng hôn. Hai Nghiêm không truy nã những nơi và những người dung dưỡng tôi. Đúng một tuần lễ, tôi trả lời hàng trăm câu hỏi của Hai Nghiêm. Tôi đợi hắn tống tôi vào cachot. Nhưng hắn bỏ rơi tôi. Cuối tháng 10, Hai Nghiêm gọi tôi ra.
- Bản tự khai anh làm việc với tôi là bản tự khai quyết định thời gian anh cải tạo, anh thấy cần bổ sung không?
- Không.
- Anh không ân hận chứ?
- Không,
Hai Nghiêm đọc cho tôi nghe những trang hắn thẩm vấn tôi. Tôi ngạc nhiên vô cùng. Hắn đã chửi tôi như tát nước vào mặt. Hắn lừng danh cứng rắn với anh em tôi. Và hắn đã lập một cái hồ sơ thật nhẹ nhàng về tội trạng của tôi. Đảng của Hai Nghiêm chỉ thị hắn hay Thượng Đế của tôi đã nhập vào linh hồn Hai Nghiêm? Hắn đề nghị cho tôi đi lao động cải tạo một thời gian. Hai Nghiêm đưa tôi đọc lại. Rồi bảo tôi ký tên vào mỗi trang hắn viết. Cuối cùng, hắn ghi ngày, tháng, năm và ký tên hắn. Bạn biết không, với tù nhân, chấp pháp là Thượng Đế. Hai Phận nói thế. Chấp pháp đủ quyền hành đề nghị bạn nằm tù dài hạn hay ngắn hạn, tống bạn vào cachot hay lôi bạn ra, còng bạn hay không còng bạn. Chấp pháp còn có quyền nhốt cả quản giáo và cai ngục. Ở đề lao Gia Định, cai ngục không dám đánh tù nhân vì sợ chấp pháp.
- Anh không phải làm việc nữa. Hồ sơ của anh đã kết thúc. Chúng ta có thể mạn đàm thoải mái.
Hai Nghiệm pha ấm trà mới.
- Những kẻ chống Cộng quả quyết rằng người Cộng sản thiếu lương tâm. Điều này không tuyệt đối đâu. Bởi vì cả những kẻ chống Cộng sản cũng vẫn thiếu lương tâm. Tôi có chút cảm tình với anh nhờ tôi đã đọc truyện Đại dương trong lòng con ốc nhỏ của anh. Tôi vốn con nhà nghèo, bố tôi giống hệt người bố ở truyện của anh. Giá anh chi viết loại truyện đó. Anh còn cơ hội làm lại.
Mạn đàm trời trăng mây gió chán, Hai Nghiêm nói:
- Nếu đề nghị của tôi được lãnh đạo chấp thuận, anh sẽ đi lao động 3 năm tính từ hôm anh bị bắt.
Hai Nghiêm cười:
- Ba năm không dài chứ?
Tôi đáp:
- Vâng, không dài nếu thật sự chỉ là ba năm.
Hai Nghiêm nhìn tôi:
- Cái nguyện vọng anh viết cuối tự khai không thể thoả mãn.
Tôi đã viết: Nếu được tha sớm, tôi xin viết cuốn sách tố cáo những tổ chức, những lãnh tụ phản động bịp để khỏi còn ai vào tù vì tội phản động, mất tiền, mất tình 2
- Tại sao?
- Anh ngây thơ lắm. Chúng tôi cần những thằng chống Cộng bịp để bắt những thằng chống Cộng lương thiện, những thằng như Nguyễn Thiện Ngọ, Nguyễn Đan Quế, Phan Vô Kỵ và bọn sinh viên, học sinh bất mãn chế độ...
° ° °
Nhưng hồ sơ chưa kết thúc. Trung tuần tháng 11, tôi bị gọi ra làm việc. Lại làm việc. Ở phòng Haỉ Nghiêm.
Hai nhân vật đợi tôi. Một người đeo kính trắng gọng vàng, cao ráo, mặt mũi sáng sủa. Rất trí thức. Hắn ăn mặc như dân Saigon. Hai Nghiêm giới thiệu: “Đây là đồng chí Phó Giám Đốc ở sở Công An thành phố”. Một người tóc hoa râm, khuôn mặt phong trần, trán cao, mắt sáng, ăn mặc giản dị. Hai Nghiêm giới thiệu: “Đây là đồng chí ở Viện Kiểm Sát Nhân Dân, từ Hà Nội vào”. Tôi đụng độ thứ dữ. Hai Nghiêm cung kính chào hai đồng chí lãnh đạo và rời phòng. Phó giám đốc Sở Công An nói:
- Anh sẽ làm việc với cán bộ trung ương một thời gian.
Tôi nói:
- Hồ sơ của tôi đã kết thúc.
Phó giám đốc nói:
- Vụ này ngoài hồ sơ.
Phó giám đốc bắt tay cán bộ trung ương ra về. Còn tôi với... trung ương và tôi gọi hắn là chấp pháp Hà Nội.Tôi mơ hồ thấy chuyện gì bất ổn cho tôi. Chấp pháp Hà Nộí mời tôi ngồi.
- Tôi công tác lưu động, sẽ chỉ làm phiền anh vài ngày thôi.
A, chấp pháp Hà Nội nhã nhặn quá. Chức tước càng lớn càng lịch sự.
- Đảng và Nhà Nước có khuyết điểm là giam giữ các anh. Chuyện này ngoài ý muốn, sẽ giải quyết nhanh. Mong anh thông cảm.
Tôi im lặng. Ông ta – tôi không thể thiếu nhã nhặn với người nhã nhặn – hỏi tôi:
- Anh điểm tâm chưa?
- Thưa ông chưa.
- Gọi tôi bằng anh,
- Nếu ông cho phép.
- Tại sao không? Rồi anh sẽ trở về và chúng ta sẽ gặp nhau.
- Cám ơn anh.
- Sao điểm tâm muộn thế?
- Vì phải chờ nước sôi.
Tôi kể tình trạng sinh hoạt của tù nbân. Ông ta bảo tôi về phòng đem mì ra. Quản giáo khúm núm trước mặt cán bộ trung ương. Tôi mang ca nhựa đựng mì vụn và cái muỗng nhựa, ông ta lôi từ ba-lô cái ấm nấu nước cắm điện và gói trà. Ăn mì xong, tôi được quản giáo dẫn đi rửa ca muỗng, rửa mặt, rửa tay. Tôi... de luxe quá.
- Nhà không gửi đồ nhôm à?
- Đề lao cấm kim khí.
Sau tuần trà, chấp pháp Hà Nội vào việc:
- Yêu cầu của tôi là anh viết tất cả những lần anh tiếp xúc với anh em văn nghệ Hà Nội vào. Các anh đã đến đâu, ăn uống chỗ nào, trao đổi chuyện chi. Vân vân... Anh không chịu bất cứ một trách nhiệm gì về những lời khai của anh cả.
Tôi hỏi:
- Tại sao anh chọn tôi?
Chấp pháp Hà Nội đáp:
- Vì anh em văn nghệ Hà Nội vào Saigon, khi về đều viết tự kiểm. Họ nhắc tên anh và nhiều anh em khác. Tôi được giao công tác này. Và tôi đã làm phiền các anh em văn nghệ Saigon ngoài đời, bây giờ, tới lượt làm phiền anh em bị tạm giữ. Mong anh giúp đỡ tôi.
Chấp pháp Hà Nội, cán bộ gộc của Viện Kiểm Sát Trung Ương, một cơ quan ngồi trên công an, muốn tôi viết tự khai. Ông ta đã tế nhị "làm phiền” tôi. Văn Nghệ chế độ miền Nam hay văn nghệ chế độ miền Bắc đều không khá, kể cả những anh đã “lột người” như Xuân Diệu. Nó bắt tự khai, ta đành tự khai. Nó không tin tự kiểm “phe ta”. Nó muốn đối chiếu tự khai “phe địch”. Tự khai hay tự kiểm đều bố láo cả, với nhà văn. Huỳnh Bá Thành nhận xét đúng: “Bọn nhà văn là bọn biết dấu diếm những gì cần dấu diếm trong đầu óc chúng”. Anh em chẳng dại gì khai thật. Ta ngu sao khai thật. Vậy thì tôi đã viết những lần gặp gỡ một số nhà văn trẻ Hà Nội tìm gặp tôi, những buổi ăn uống và nhứng câu chuyện văn chương. Tuyệt nhiên không đả động gì đến chính trị, bất mãn hay phản kháng. Chấp pháp Hà Nội khác hẳn tên chấp pháp sổ 7. Ông ta hỏi tôi mấy giờ ăn cơm trưa, mấy giờ ăn cơm chiều. Luôn luôn, ông ta dục tôi về phòng trước bữa ăn và luôn luôn, pha tặng tôi ấm trà đổ vào ca nhựa cho tôi mang về. Sang hôm thứ hai, ông ta hỏi:
- Anh muốn nhờ tôi việc gì không?
- Việc gì, thưa anh?
- Việc thuộc phạm vi tình cảm.
- Trại đã cấm cà-phê. Nếu có thể, anh ghé qua nhà tôi ở sổ 225 Bis đường Công Lý cũ, bảo vợ tôi mua cho nửa kỷ cà-phê.
- Dễ thôi.
Buổi sáng ngày thứ ba, ông ta đưa tôi gói cà-phê:
- Tôi đã qua nhà anh rồi ngại không dám vào. Một cán bộ vào nhà một nhà văn bị tạm giữ sẽ xẩy ra nhiều dị nghị cho cả hai. Tôi mua tặng anh hai lạng.
Tôi nói:
- Tôi xin phép gửi lại tiền anh.
Ông ta lắc đầu:
- Anh quên tôi là cán bộ và anh là người bị tạm giữ. Trên tất cả vẫn là con người.
Tôi đã làm việc với ông Mai Chí Thọ. Bây giờ, với cán bộ Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Tôi thấy cả hai đều ngọt ngào. Và tôi cũng hiểu, càng ngọt ngào càng đáng sợ. Nhưng tôi bằng lòng sự ngọt ngào. Ít ra, tôi đỡ phải khinh bỉ họ đã cậy quyền bắt tôi và át giọng tôi. Người chấp pháp miền Nam đã dạy tôi rằng, ở tù không tin ai cả.
- Cám ơn anh.
Lúc quản giáo dẫn tôi về phòng, ông ta chỉ thị: “Tôi cho phép anh Vũ Mộng Long đem cà-phê vào”. Buổi chiều, tôi chấm dứt bản tự khai. Ông ta không đọc, không chấp pháp mà cất vào ba-lô.
- Thế là xong rồi, anh Duyên Anh ạ!
Ông ta bưng ly trà mời tôi:
- Anh tin tôi đi, mọi việc sẽ tốt đẹp.
Giọng ông ta trầm xuống.
- Đất nước ta còn thiếu nhiều nhân tài, mọi mặt. Anh là một nhân tài của đất nước. Anh cố gắng giữ gìn súc khỏe để mai này phục vụ đất nước.
Ông ta đứng dậy, bắt tay tôi:
- Giữ gìn sức khoẻ.
Tôi bắt tay ông ta. Lần đầu tiên và là lần duy nhất người của Đảng bắt tay tù nhân, chúc sức khoẻ tù nhân. Tôi nói:
- Cám ơn anh câu nói “Trên tất cả là tình người”. Cám ơn anh câu chúc "‘Cố gắng giữ gìn sức khoẻ để mai này phục vụ đất nước”. Tôi rất mong, rất thèm phục vụ đất nước, mai này...
Ông ta chào từ biệt tôi lần cuối. Từ đó, trên đường tù, tôi không còn được gặp người nào như ông ta nữa.
--------------------------------
1 Mai Thảo vẫn trốn cho tới ngày vượt biên. Hai Nghiêm tung hỏa mù. Tôi bán tín bán nghi.
2 Ở cuốn Trại Tập Trung, độc giả sẽ biết rõ tên tuổi những lãnh tụ bịp này và sẽ ngậm ngùi cho sự nghiệp chống Cộng.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 17
Hai lạng cà-phê của chấp pháp Hà Nội tặng, uống vừa hết thì quản giáo gọi ra làm việc. Tôi chưa hết làm việc. Hồ sơ của tôi chưa kết thúc. Tôi có nhiều hồ sơ. Mỗi chấp pháp là một hồ sơ chăng? Và mỗi hồ sơ là một thời gian lao động cải tạo chăng? Chấp pháp số 10 đón tôi ở đầu khu C-1 và dẫn tôi sang khu B. Hắn ta dân Bắc kỳ, khuôn mặt lạnh lùng. Gói thuốc Vàm Cỏ và hộp quẹt đẩy sát chỗ tôi, chấp pháp số 10 nói:
- Anh hút thuốc đi rồi chúng ta làm việc.
- Tôi tưởng hồ sơ đã kết thúc.
- Bổ sung hồ sơ.
Hắn cười:
- Một sự làm việc hoàn toàn mới. Anh cần đổi không khí. Không viết tự khai nữa. Anh chán viết tự khai hả?
Tôi đáp:
- Anh thừa hiểu điều này.
Hắn nhìn tôi ranh mãnh:
- Anh có trí nhớ tốt lắm. Bản tự khai nào của anh cũng giống nhau, không sai từng dấu chấm. Anh viết... hấp dẫn vô cùng!
Nỗi khổ tự khai của một nhà văn bị còng tay vào tù ngục đã làm người Cộng sản thích thú. Tạp chí Nghệ Thuật Công An, số ra tháng 4-1981, cùng chiến dịch tái tổng càn quét ảnh hưởng văn hoá Mỹ Ngụy trên các đài truyền thanh, truyền hình, báo chí nhà nước và các buổi học tập ở đại học, trung học, phường, khóm, đã rao rêu: “Duyên Anh viết tự khai nhiều nhất. Nó viết tốn cả bó bút Bic và hàng ngàn tờ giấy”. Người Cộng sản bắt tôi viết ngày viết đêm, viết đói, viết mệt lả, dại khờ về quá trình 50 tác phẩm của tôi. Họ bắt tôi tóm tắt cốt truyện, ghi lại các nhân vật tiểu thuyết, nói rõ cá tính của nhân vật. Rồi bắt tôi phê bình tôi. Phê bình xong, họ bắt tôi trung thực tự kiểm viết theo cảm hứng nào, nhằm mục đích gì, nhận tiền Mỹ bao nhiêu. Một mặt, họ bảo tôi nguy hiểm, chống cộng tự nguyện. Một mặt, họ bảo tôi viết ăn lương CIA. Nghĩ mà bẽ bàng cho cái thân phận tôi. Bẽ bàng hơn, hôm nay, Cộng sản chưa ngớt nhục mạ tôi, có phần họ còn nhục mạ nghiệt ngã gấp bội, sau khi, tôi đã trả lời họ, trả lời một cách ngạo nghễ “Thế giới đã đọc sách của tôi”. Nhưng khi ấy không ít những thằng ngu, những con tôm, mắt mờ vì đố kỵ, hồn đục vì ganh ghét, nhận mình là quốc gia, chụp mũ Cộng sản lên đầu tôi. Tôi chiến đấu bằng chữ nghĩa. Chữ nghĩa sừng sững không thèm chối cãi. Những kẻ chiến đấu bằng mồm dễ chối cãi nhất. Những tên núp xó tối sủa bậy càng dễ chối cãi.
Chúng sẽ cúi mặt: Tôi đâu có chữ để viết. Những tên núp xó tối sủa bậy đó đây, vẫn nhiều. Chúng tiếp tay Cộng sản hạ gục uy tín của những tài năng chống Cộng sản, những thủ đoạn vặt của ngụy quốc gia, đã hết hiệu quả. Tôi đã dẫm lên những hèn mọn của chúng, đi mãi không bao giờ mệt mỏi, cùng dân tộc tôi chiến đấu cho ngày mai hạnh phúc đoàn tụ, thương yêu, tự do, dân chủ.
- Chúng ta bắt đầu nhé?
- Tùy anh.
- Tôi hỏi, anh trả lời.
- Được.
- Trả lời thôi.
- Được.
- Nguyễn Cao Kỳ gọi anh làm chủ bút báo Chí Trai của Bộ Thanh Niên Ngụy?
- Không.
- Ai?
- Đỗ Tiến Đức.
Đố Tiến Đức là bạn hàn vi của tôi thuở di cư Nhà Hát Tây, Saigon. Năm 1964 cãi nhau với Tổng giám đốc Nguyễn Ngọc Tú, tôi bỏ Bộ Thanh Niên. Thời Nguyễn Tấn Hồng làm tổng trưởng, Đỗ Tiến Đức làm Giám đốc. Anh ta mời tôi giữ chức chủ bút tạp chí Chí Trai. Bị một ông nhà văn công cán ủy viên “bỏ nhỏ” chi đó, Đổng lý Trần Đỗ Cung, “vua cơm heo” gọi về Bộ trách báo ra chậm và hỏi tôi “có nghiện thuốc phiện” không. Tôi nổi giận trả lời: Tôi làm việc với Đỗ Tiến Đức và chỉ cần biết Đỗ Tiến Đức. Và tôi trả lại chức chủ bút cho Đỗ Tiến Đức. Từ đó, tôi không thèm dính dáng đến nhà nước nữa. Nhà nước động đến tài của tôi, phải chi thật nặng. Tôi lấy tác quyền của Nguyễn Văn Hảo 2 triệu viết vẩn vơ trong Hình ảnh kỉnh tế Việt Nam, còn đòi trả lại tiền lấy lại bài xé đi vì cố vấn Nguyễn Cao Hách ghi nhận xét lên bài của tôi. Tôi lấy tác quyền 2 triệu làm đặc san Cách Mạng Xanh cho Nguyễn Văn Hảo. Chính Nguyễn Xuân Nghĩa trả trước 1 triệu. Vì chưa kịp phát hành Cách Mạng Xanh thì Ban Mê Thuột thất thủ, Ngày Nông Dân bị hủy bỏ, nên Nguyễn Văn Hảo vẫn nợ tôi 1 triệu.Tôi đã trả tác quyền một bản nhạc in báo cho Phạm Duy 50 ngàn, một bài thơ cũ của Hà Huyền Chi 5 ngàn, một bài tạp ghi cũ của ký giả Lô-Răng 40 ngàn. Vân vân... Thời kỳ này, giá biểu viết phơi-ơ-tông nhật báo một tháng 15 ngàn. Ông nhà văn công cán ủy viên huyết thống cách mạng tưởng là gì ghê gớm. Cải tạo ở Kà Tum về sớm, ông ta viết một bài “vĩ đại” trên tạp chí Đứng Dậy của Nguyễn Ngọc Lan ca ngợi cách mạng tưng bừng, ông ta sắp sang Mỹ đấy. Chắc chắn, ông ta sẽ quên “Giáng sinh ở Kà Tum".
- Chủng tôi sẽ hỏi Đỗ Tiến Đức.
- Anh cứ hỏi.
- Minh Vồ khai anh nắm hết tuần báo Con Ong. Đúng chứ?
- Đúng.
- Anh viết bài ký tên nó?
- Đúng.
- Nhất định đúng, văn của anh dễ nhận và Minh Vồ viết lý lịch mình không nổi. Miền Nam có nhiều chủ báo lạ nhi? Tự do thật, tự do ngu dốt.
- Anh hỏi và tôi trả lời.
- Tôi được bình luận, anh thì không.
- Anh có đủ quyền hành.
- Anh thích thi sĩ nào?
- Hoàng Anh Tuấn.
- Tại sao?
- Vì nó làm thơ xong là vất đi.
- Anh đã viết trong cuốn Lứa tuổi thích ô mai. Anh không thích thi sĩ cách mạng?
- Tôi chưa đọc.
- CIA đỡ đầu anh viết cuốn Điệu ru nước mắt hả?
- Không ai đỡ đầu cả.
- Không có CIA đỡ đầu mà anh dám viết bạo và được xuất bản à?
- Do Sở Phối Hợp Nghệ Thuật cho phép.
- Do CIA
- Cũng được, tùy anh.
- Anh nhận tiền của ai viết Bò sữa gặm cỏ cháy?
- Của nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng.
- Anh âm mưu “trồng người” chống chúng tôi. Cuốn này nguy hiểm nhất, ác độc nhất.
Nguy hiểm nhất, ác độc nhất đối với Cộng sản, Bò sữa gặm cỏ cháy của tôi. Thế mà nó đã bị om ở Phủ tổng thống mấy tháng, bị tự ý kiểm duyệt. Và chẳng đứa nào của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đọc cả. Tôi nhớ buổi tiếp tân của Nhã Ca ở Trung tâm Văn Bút Việt Nam nói về cuốn Vi ơi, bước tới mà Barry Hilton sẽ dịch sang Anh Ngữ. Bấy giở, Phủ đặc trách văn hóa được trao vào tay nhà khuyến lệ cổ ca Đỗ Văn Rỡ. Linh mục Thanh Lãng đã nồng nhiệt giới thiệu tôi với ông già Đỗ Văn Rỡ. Ông ta đưa cho tôi tấm danh thiếp, mời tôi ghé Phủ của ông ta đàm đạo văn hóa. Tôi bèn hỏi: “Thế ngài đã đọc cuốn sách nào của tôi chưa”? Rất thành thật, nhà văn hóa đáp: “Chưa!” Tôi bèn gửi lại nhà văn hóa cái danh thiếp của ông ta. Làm văn hóa mà chỉ biết khuyến lệ cổ ca Nam phần thì hỏng quá! Rốt cuộc, nhà văn vào tù. Và tôi viết Bò sữa gặm cỏ cháy cho... Cộng sản đọc. Để họ kết án tôi nặng nề.
- Anh yên tâm, Nguyễn Văn Thiệu không đọc đâu.
- May là nó không đọc. May là nó coi thường tác dụng mãnh liệt của văn nghệ. Nếu không, chúng tôi còn phải hy sinh nhiều nữa, gian khổ nhiều nữa. Thằng Thiệu ngu. Anh cũng ngu. Anh giai cấp vô sản lại viết sách dạy ngụy quyền huấn luyện nhi đồng thành giai cấp tiểu tư sản.
Một sự làm việc hoàn toàn mới của chấp pháp số 10 đấy. Nó chửi rủa tôi ngu. Mà tôi không dám chửi lại nó. Mà ai dám chửi lại nó, ở địa vị một tù nhân như tôi? Tôi có thể viết, hôm nay, những trang rất hào hùng của người quốc gia trong ngục tù Cộng sản. Ở tiểu thuyết thôi và chỉ xẩy ra với bầy sư tử lãng mạn. Cá nhân tôi, lặng thinh nghe chúa ngục Cộng sản chửi mình, không lạy nó đừng chửi mình, đã khá rồi. Cứ ba hoa nói phét mình chửi lại, mình ăn thua đủ thì không khá. Và mình sẽ xấu hổ, nếu mình còn liêm sỉ. Lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh đã thú nhận ở tù, ông bị dắt đi như trâu bò. Tôi đã hân hạnh gặp những người Cộng sản trung kiên bị nhốt tại quân lao Nha Trang, hồi ông Lê Khánh làm tỉnh trướng Khánh Hòa. Nhân vụ giáo sư Trần Vinh Anh bị một thí sinh tú tài đâm chết. Tôi phải đóng vai ủy viên Quân đoàn 2 vào thăm quân lao để phỏng vấn mấy cậu học trò tạm nhốt ở đây. Vậy thì ông ủy viên rởm thăm một phòng nhốt Cộng sản. Tù nhân Cộng sản đứng nghiêm răm rắp. Ủy viên rởm vẫy tay chào. “Anh em ngồi xuống”. Cộng sản ngoan ngoãn ngồi. “Anh em đang làm gì vậy”? Lãnh tụ tù Cộng sản đáp: “Thưa, chúng tôi đang học tập chính nghĩa quốc gia ạ”! Phải biết sau 30-4-75, vị lãnh tụ tù này sẽ nói phét đấu tranh trong ngục tù Mỹ Ngụy dường nào. Tôi là nhà văn. Tôi trung thực. Tôi viết đúng vì, có lần, theo sự đổi đời, tôi đã đứng nghiêm trong một nhà giam chào đón một cán bộ trung ương. Và Trưởng phòng của tôi đã nói: “Thưa chúng tôi đang học tập cái thế tất thắng của cách mạng ạ”! Bạn ơi, ở tù nào cũng khổ. Ở tù Cộng sản khổ hơn, dĩ nhiên. Bạn phải nhịn nhục cả những đứa không đáng gì. Theo tôi, biết nhịn những kẻ mạt hạng mới là thái độ anh hùng, thái độ kẻ cả. Bạn đừng hy vọng, ở tù Cộng sản, bạn được bầy tỏ lòng can đảm với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Ở tù Cộng sản chỉ có một cách chết là chết dưới lỗ chân trâu. Những ai muốn tìm cho mình một cách chết xứng đáng với sự chịu đựng thống khổ, đều khước từ cái chết ở lỗ chân trâu. Và muốn thế, người ta phải thẩm thấu triết lý sống chết, phải soi sáng trí tuệ vào oan khiên, phải hiểu tận cùng rằng “có một thời im lặng và một thời lên tiếng”, phải biết “xếp tàn y lại để dành hơi”.
Chấp pháp số 10 khoái “bình luận”. Hắn chuyên chế... bình luận.Thằng này ham chửi rủa.
- Anh đã gài mìn?
- Tôi đâu biết gài mìn.
- Chính anh gài mìn khúc đường Trung Lương – Cai Lậy. Anh bịa đặt, đổ vạ cho Cộng sản hại dân lành.
Hắn muốn đề cập cuốn Hưng Mập.
- Anh đầu độc tâm hồn thiếu nhi nông thôn.
Tôi nhiều tội quá. Mỗi cuốn sách của tôi là một trọng tội. Tôi có cảm tướng, chấp pháp số 10 bổ xung chấp pháp số 7. Một đứa bắt tôi viết, một đứa bắt tôi nói. Tôi bị chấp pháp số 10 quần thảo năm ngày về sách rồi về báo. Hắn chửi tôi kỹ nhất thời gỉan tôi cộng tác với nhật báo Xây Dựng.
- Những tờ báo có tiếng nói là những tờ báo chống cộng có trọng lượng. Xây Dựng có hậu thuẫn rõ rệt. Nó đã tạo đoàn kết thiên chúa giáo vụ Đặng Sĩ. Nó đã lãnh đạo vụ đuổi cổ thằng Cabot Lodge. Rồi nó cấu kết với hết Kỳ Loan lại cấu kết với Thiệu Bình.
Tôi không tin nhật báo Xây Dựng có trọng lượng ghê gớm thế. Nhưng cá nhân ông chủ nhiệm của nó, linh mục Nguyễn Quang Lãm, là người thích bám nhà cầm quyền. Như một số linh mục Bùi Chu, Phát Diệm, kẻ khoái làm giầu như ông Trần Đức Huynh, kẻ ham chính trị như ông Hoàng Quỳnh, ông Lãm mê giật giây thống trị và làm đảo điên thống trị. Bước đầu mon men làm quen nhà cầm quyền của ông Lãm là mấy chai rượu lễ nhờ ông Minh Vồ biếu ông Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Phạm Văn Liễu. Ông Liễu không ưa cần Lao nhân vị cách mạng đảng, không ưa cố đạo, ông đã cho tôi uống hết. Ông Lãm chống ông Liễu, ông Thi và nhờ vậy, rất thân với ông Loan, ông Kỳ. Vụ Mậu Thân 1968, nhà ông Lãm có máy truyền tin do ông Loan cấp để theo rõi báo cáo tình hình. Ông Kỳ, ông Loan thất thế, ông Lãm tìm đường đến ông Thiệu, ông Bình. Bị chê, ông ta chống Thiệu dữ dội. Ông Lãm đã xúi dục hàng Giáo Phẩm chống ông Phan Huy Quát, ông Bùi Diễm, ông Lãm đã gài Mặc Giao vào quốc hội. Vân vân.... Không oanh liệt như linh mục Thanh Lãng có quyền chỉ định Tổng trưởng, nhưng ông Lãm đã là con lươn của chính trường Saigon một thuở. 1-5-1975, ông xuất bản nhật báo Xây Dựng 2 trang chửi gỡ Nguyễn Văn Thiệu lập công với Cộng sản. Bị cấm ngay, cả hai ông Lãng và Lãm đều không bị Cộng sản bắt. Chỉ có bọn đã viết báo Xây Dựng bị nằm tù, bị viết tự khai, bị hạch hỏi về báo của ông Nguyễn Quang Lãm.
- Báo Xây Dựng trả anh nhiều tiền lắm, phải không?
- Báo nhà chùa và báo nhà chúa bóc lột nhất nước.
- Tôi không tin nó bóc lột anh.
- Tùy anh. Tôi đã từng bỏ Xây Dựng sau một lần tranh đấu lương tháng 13 cho anh em thất bại.
- Anh đã lĩnh lương tháng... 14?
- Tháng 20. Không có nhà văn nào “ăn khách” mà không biết yêu sách chủ báo. Tôi yêu sách đúng công lao của tôi, tôi không để bị bóc lột.
- Báo nào anh lĩnh lương nhiều nhất?
- Công Luận.
- Bao nhiêu mỗi tháng?
- Hai trăm ngàn, tiền giá năm 1968.
- Cả công viết hồi ký bố láo cho thằng Đính?
- Phải.
Quay tôi tít con mòng mòng về văn, về báo, hắn hỏi tội tôi viết bình luận ở Đài Saigon giáo dục Cảnh Sát công lộ thời Phạm Văn Liễu.
- Bao nhiêu tiền một bài đọc 5 phút?
- Năm ngàn.
- Anh viết bao nhiêu bài?
- Bốn.
- Tại sao nghỉ?
- Vì ông Phạm Văn Liễu kêu đắt và vì tôi không chịu ký tên Ổi, tên Xoài lĩnh tiền.
- Tại sao?
- Tôi bán bài đọc trên đài phát thanh, không bán tin tức mật.
- Liễu cho anh những gì?
- Cái máy đánh chữ Remington trước khi ông ta tử chức.
Vụ giao du với Phạm Văn Liễu, Phạm Huy sảnh, Nguyễn Hoàng Đạt, tôi không khai mà chấp pháp số 10 biết rõ ngọn ngành. Tôi biết người khác đã khai. Cho nên, những gì đã trở thành sự kiện, bạn đừng hòng dấu diếm công an, bất cứ công an của chế độ nào. Bạn chỉ có thể dấu kỹ tư tưởng và ước mơ của bạn.
Sau mười ba ngày làm cái chong chóng trước gió chấp pháp số 10, tôi bị bỏ rơi. Hai Phận thay đổi vài sinh hoạt ở các phòng giam C-1. Hắn bắt tù nhân điểm danh hai lần một ngày. Có hàng ngàn chuyện xẩy ra giữa các tù nhân. Vì khốn quẫn. Vì tù túng. Vì dồn nén. Vì bệnh hoạn. Vì tuyệt vọng. Toàn là những “chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Tù nhân “con bà phước” – những người không được thân nhân tiếp tế thực phẩm, thuốc men – được phát một bộ quần áo tù may bằng vải sô và... một cái hột gà tươi duy nhất! Thế thôi, đã đủ kèn cựa và bóng gió sỉ nhục nhau.
Thấm thoát, tôi nằm đề lao Gia Định đã 6 tháng. Đầu năm 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả giam nhốt rải rác các phòng bốn khu được tập trung tại khu A học tập một tháng để được thả về ăn Tết. Vào thời gian này, tự nhiên, điều tôi mong muốn đã tới: Tôi bị tống vào cachot khu B không lý do báo trước. Tôi thích được biệt giam. Tôi chán sống chung đụng với tù nhân ô hợp đủ tội trạng. Nhưng hạnh phúc đời tù thật ngắn ngủi với tôi. Được đúng hai tuần, tôi ra phòng tập thể 5 C-2. Ở đây, tôi gặp Đoàn Kế Tường và linh mục Thiên, Dòng Chúa Cứu Thế. Ở đây, tôi biết, đối diện phòng tôi là cachot nhốt luật sư Vũ Đăng Dung, thủ lãnh luật sư đoàn Huế. Cạnh luật sư Dung là cachot nhốt một tử tù vụ đánh cướp nhà băng quốc doanh gây sôi nổi ở đại lộ Hàm Nghi. Ở đây, tôi biết Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân (Bẩy Bốp, Phạm Thái) học tập cải tạo trở về đã bị bắt lại và đang nằm chung với hai cuốn tự điến Như Phong, Lâm Văn Thế. Nguyễn Ngọc Tân cũng là... tự điển Đại Việt, người Xứ ủy miền Nam này đã ra Hà Nội làm việc ở căn nhà phố Hàng Quạt, nơi Hồ Chí Minh viết Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945; người Xứ ủy này đã chiến đấu tại chiến khu Nam Ngãi, đã bị lưu đầy thời ông Diệm. Tôi ở 5 C-2 có bốn ngày, được Hai Phận vĩ đại “giáo dục” một bài học nhân vụ linh mục Phạm Minh Thiện "làm lễ” trưa chủ nhật với đám con chiên bị ngay con chiên ghẻ tố cáo.
- Trong tù không có thánh, chẳng có thần. Thần tượng của các anh là chấp pháp. Nói cho các anh rõ, Chúa Giêsu nằm tù, tôi cũng còng tay tống cổ vào cachot.
Hai Phận biểu diễn quyền uy Cộng sản. Bạn cần suy nghĩ câu nói của Hai Phận vĩ đại. Và bạn sẽ nhận diện những vị anh hùng tù ngục Cộng sản thoát ra ngoại quốc ồn ào. Một trong những vị anh hùng phét lác ấy là Đoàn Văn Toại, người đã làm... kiến nghị và lấy chữ ký của hàng trăm tù nhân!
Bốn ngày ở 5 C-2 chưa quen hết tù nhân, tôi bị trở lại 1 C-1. Rồi vừa mới treo xong hành lý, tôi lại được gọi: “Vũ Mộng Long, chuẩn bị rời phòng. Khẩn trương”. Tôi sang 3 C-2 với Nguyễn Hữu Miên. Ở đây, tôi gặp nhóm Trịnh Hùng Dần, Thịnh, Dũng cận và Mai Viết Dũng vượt biên đường bộ bị bắt tại Quảng Trị. Các bạn trẻ kể tôi nghe những nhà tù dọc quốc lộ số 1. Ở đây tôi gặp người anh kết nghĩa Khai Trí. Ở đây, thú vị nhất, tôi gặp Lê Xuyên và Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh. Chức sắc của 3 C-2 nghiêm chỉnh, đúng ý Nội quy. 3 C-2 không có can phạm hình sự. Đa số là can phạm vượt biên. Khu C-2 bí hơn C-1. Tường xây sát khít mái tôn, bít kín lối vào của dưỡng khí. Thời gian này, đề lao tiếp nhận thêm can phạm từ các quận gửi tới. Con số tù nhân ở mỗi phòng trên 50. 50 ổ bánh mì trong lò. 50 con cá mòi trong hộp sắt.
Tôi được an ủi nhiều nhờ nằm cạnh Lê Xuyên. Tác giả Rặng trâm bầu đã nằm đề lao Gia Định thời cách mang Nhân Vị. Anh bị ông Diệm bắt về tội Đại Việt và tuần báo Tự Quyết. Người quốc gia bắt nhốt người quốc gia. Cần Lao bắt nhốt Đại Việt. Bây giờ, Cộng sản bắt nhốt hết. Ra tù cách mạng Nhân Vị, Lê Xuyên viết Chú Tư Cầu trên nhật báo Saigon Mai sau chính biến 1960. Anh nổi tiếng từ đó. Và từ đó, anh mưu sinh bằng nghề văn, nghề báo, rời bỏ chính trị. Lê Xuyên hiền lành, thành thật, ít nói và... nhút nhát, khác hẳn những sôi nổi tình dục trong tiểu thuyết của anh. “Văn là người”, câu này không đúng với trường hợp Lê Xuyên. Nó đã chẳng đúng với trường hợp Vũ Trọng Phụng. Nó không đúng với nhiều nhà văn Việt Nam. Lê Xuyên dạy tôi bài học này: “Công việc là công việc. Bất cứ công việc nào, ở bất cứ đâu, một là không thèm làm, khước từ nó đến nơi đến chốn hoặc là làm việc đến nơi đến chốn. Đứng nghĩ ai giao phó công việc, hãy nghĩ việc làm. Việc nhỏ, việc bị cưỡng bức làm chu đáo sẽ làm nổi những việc lớn, những việc tự nguyện”. Lê Xuyên đã trung thành với lời anh nói. Anh là người thư ký toà soạn mẫn cán nhất, gương mẫu nhất Việt Nam: Đến sớm, về muộn, bám sát toà soạn. Anh là người tù biết sống đời tù: Thà ngồi bó gối dựa lưng, không nằm ngủ; trực sinh lau rửa cầu tiêu sạch nhất phòng. Kẻng báo thức sáng, Lê Xuyên dậy giũ chiếu đợi trực sinh quét bục nằm. Rồi anh tắm gội. Và ngồi bó gối. Lê Xuyên chỉ nằm vào giờ ngủ, dẫu không ai bắt anh ngồi- Anh vấn thuốc rê bằng giấy báo, hút liên miên. Người tù thản nhiên Lê Xuyên không bao giờ thở dài, không hề nôn nóng ngày thăm nuôi. Nhận quà sớm, anh bảo “Vợ tôi thắng bài bữa nay”. Nhận quà muộn, anh bảo “Vợ tôi thua bài bữa nay”. Luôn luôn, chú Tư Cầu nhận quà vào giờ chót.
- Nó bắt anh làm việc chưa, Lê Xuyên?
- Nó quên tôi rồi.
Tôi kể cho Lê Xuyên nghe chuyện làm việc của tôi. Anh lắc đầu:
- Ông bị... sao vàng chiếu kỹ. Từ ngày bị bắt, nó chưa gọi tôi lần nào.
- Tự khai?
- Chưa.
- Chụp hình, lăn tay?
- Một lần, bên Sở. Nó bảo tôi viết lý lịch. Thế thôi.
Lê Xuyên không thắc mắc. Cuối tháng 1-1977, tôi tạm biệt anh, chuyển phòng. Cuối tháng 9- 1981, hay tin tôi được tha, vợ chồng Lê Xuyên đến thăm tôi. Hỏi chuyện cũ, anh kể:
- Ngày các ông sang Chí Hoà, tôi biết. Sau ngày đó, Hai Nghiêm gọi tôi ra. Nó hỏi tôi: “Anh viết bao nhiêu cuốn sách”? Tôi nói tổng số. Nó dọa tôi: “Mỗi cuốn sách của anh là 2 năm tù, anh về suy nghĩ đi”! Tôi về. Hôm sau, tôi nhận Giấy ra trại. Ông thấy ly kỳ chưa?
Ly kỳ thật. Nhưng đó là chuyện 1981. Chúng tôi đang ở 3C-2 tháng 1 năm 1977. Người buồn bã đến rã rượi là Nguyễn Viết Khánh, nguyên Tổng thư ký Việt Tấn Xã, chuyên viên bình luận thời sự quốc tế. Anh ta đã cai thuốc phiện từ lâu và hút lại từ 1-5-1975 và yêu cô học trò báo chí. Anh giã từ cả Phù Dung tiên nữ lẫn người tình cuối đời mà vào tù cởi trần mặc xà lỏn, ăn cơm hẩm với canh rau muống già nấu với muối. Nguyễn Viết Khánh người không bao giờ sang được nước Mỹ, vẫn cay cú cái danh sách nhà văn, nhà báo xin di tản lập tại Usis Saigon đã lọt vào tay Sở Công An. Và Hai Nghiêm đã cầm danh sách đó, chỉ mặt từng nhà văn nhà báo mà hắn làm việc mà kết tội tay sai của CIA. Để quên rã rượi, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh “quay phim” cho anh em nghe. Nghề này của Hoàng Anh Tuấn 1. Anh Khánh đọc nhiều truyện khoa học giả tưởng, anh kể rất hấp dẫn. Với tôi, anh thuật những kỷ niệm, những cuộc tình của anh ở Nhật, ở Saigon.
Người sầu não vẫn là Khai Trí Nguyễn Văn Trương. Anh ta gửi mua cả quầy chuối treo sát tường. Vốn cao lớn và hơi hơi gù, anh ta giống con gấu. Khai Trí dựa lưng vào tường, quầy chuối trên đầu anh, chân anh duỗi dài, tav anh chống bục nằm. Sức nóng của phòng giam làm chuối mau chín. Và chuối đã lần lượt rụng xuống bụng anh khi anh nhắm mắt. Cái nghĩa của phù ảo được sáng tỏ ở đây. Chuối rụng mà trái sầu vẫn xanh. Vương Khải vào tù. Thạch Sùng vào tù. Thiên hạ còn kèn cựa nhau, còn bước qua xác nhau làm giầu, chẳng bao giờ nghĩ cái bất ngờ 30-4-1975 không hứa hẹn chỉ một lần trong đời sống.
Người ta đã thả hai phần ba nhà văn, nhà báo bị bắt trong chiến dịch 2-4-1976 về ăn Tết Giải Phóng năm thứ hai.
Những người còn nằm lại:
Doãn Quốc Sĩ
Như Phong
Lê Xuyên
Nguyễn Mạnh Côn
Trịnh Viết Thành
Tô Ngọc
Đằng Giao
Trần Dạ Từ
Nguyễn Hải Chí
Hồ Văn Đồng
Thái Thủy
Mặc Thu
Thanh Thương Hoàng
Mộc Linh
Duyên Anh
Thế Viên
Nguyễn Sĩ Tế
Nguyễn Viết Khánh
Mai Đức Khôi
Cùng với tin vui này, nhóm Trịnh Hùng Dần và Nguyễn Hữu Miên đi lao động cải tạo. Chế độ bắt thêm Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thụy Long. Thủy có mặt ở cachot khu B. Toàn có mặt ở 4 C-2. Long bị nhốt ở nơi khác. Tôi lại bị tống về 1 C-1. Bây giờ, 1 C-1 hoàn toàn mới với các tù nhân mới tôi chưa từng ở chung phòng. I C-1 với tôi nhiều duyên nợ. Về 1 C-1 lần này, tôi gặp gỡ nhiều khuôn mặt. Hoàng tử cachot đề lao là Dương Đức Dũng, trung úy, sĩ quan báo chí Quân đoàn 4, khước từ diện học tập cải tạo, thành lập nhóm chống cách mạng với Đoàn Kế Tường, Lương Việt Cương, có cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Nhóm bị Đỗ Hữu Cảnh, luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng lùa vào với Mai Chí Thọ trọn ổ.
Dũng kể cho tôi nghe những cachots, những kiểu còng anh ta đã chịu đựng. Anh ta biết” tôi là... Bộ trưởng (!) của “nội các” Đinh Xuân Cầu". Tôi không muốn làm anh ta thất vọng nên im lặng chuyện tôi bị Trương Phiên bịp. Ngoài Dương Đức Dũng là vô số sinh viên, học sinh can tội phản động. Được sống với họ rất thú vị. Tôi chợt nẩy mầm mơ ước viết về họ, mai này. Những Đặng Cơ Bản, Ngô Tỵ, Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Khánh Long, Hoàng Sơn Trường, Đinh Cường... Tôi nằm cạnh nhà tỷ phú Phạm Quang Khai với ông cháu không thích ông bác chúa tầu. Có thêm “giáo sư” hồi chánh Phạm Thành Tài và người Cộng sản nằm vùng mất phẩm chất Nguyễn Văn Nha ở 1 C-1.
Thời gian này, Doãn Quốc Sĩ đã chuyển cachot. Cachot số 1 khu C-l nhốt Nguyễn Việt Hưng. Từ cachot 1 đến cachot 7 dành riêng cho can phạm vụ Vinh Sơn. Ali Hùng nằm cachot số 3. Đinh Xuân Cầu bị xích chân, còng tay “trụ trì” cahot số 8.
Tôi ăn Tết Giải Phóng năm thứ hai tại 1C-1. Năm ngoái, các bạn trẻ kể, ngày mồng một, đề lao cho phép tù nhân đi các khu chúc tụng nhau. Các bạn trẻ đã ôm đàn guitare hát những bản chính huấn 2 nuôi chí phục hận. Rút kinh nghiệm, năm nay, khu nào gặp khu ấy và cấm đàn, cấm hát, cấm chào cờ... Cửa gió cachot mở hết. Vệ binh ôm súng canh ở đầu khu. Tù nhân được tự do trò chuyện 10 phút. Tôi đã lợi dụng lúc ồn ào, tấp nập, “mừng tuổi” ông Đinh Xuân Cầu 10 đồng và cho ông ta biết tôi đã gặp mặt Trương Phiên, ông Cầu xin lỗi tôi. Ông bảo Trương Phiên đã được thả và quả là nó đã bịp nhiều người. Tôi lại có phen đi chống Cộng với một anh ngây thơ và một thằng bịp trong hoàng hôn chống Cộng. Từ đấy, tôi nghi ngờ tất cả những hạng lãnh tụ chống Cộng già nua. Ở bất cứ nơi nào họ tá túc trên trái đất, họ nên chấm dứt cái “sứ mạng” của họ đi. Họ đã trải dài cái “sứ mạng” mọc rêu của họ ròng rã mấy chục năm, rốt cuộc, Đất đã ủng và Nước đã tù. Họ đầy rẫy mặc cảm thua kém Cộng sản và đầy rẫy tội lỗi, tội ác với dân tộc, nên rút vào bóng tối. Cuộc chiến đấu tiêu diệt chủ nghĩa Cộng sản giải thoát quê hương hôm nay phải là của tuổi trẻ, của sư tử sừng sững, không mảy may tự tị mặc cảm khi đương đầu kẻ thù, không mảy may tội lỗi với tổ quốc. Phải để mặt trời tuổi trẻ đốt cháy dĩ vãng bệnh hoạn, mở đường tương lai cho dân tộc. Và tuổi trẻ cần phóng lên phía trước, cần nắm chặt vận mệnh đất nước mình. Giờ cáo chung của lãnh tụ già đã điểm hồi 10 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuổi trẻ không đuợc phép để bị lãnh tụ khốn kiếp lửa gạt niềm tin, bịp bợm thiện chí. Tuổi trẻ phải biết phóng lên bầu trời những tín hiệu chống Cộng mới. 1986 năm trước, Jesus đã phán: “Cỏ dại chỉ phá hại mùa màng. Thì nhổ hết lên mà đốt để có mùa gặt hái tốt”. Cỏ dại chính là bọn lãnh tù già nua chống Cộng của nước Việt Nam. Họ không có kinh nghiệm gì cả. Kinh nghiệm của họ là chạy dài chạy dài, chạy dài từ 1945 đến 1975. Những kẻ chưa một lần thắng, không có quyền nói kinh nghiệm thua, Nhưng có một thứ kinh nghiệm bịp! Đã đến lúc tuổi trẻ làm mũ đội lên đầu mình chưa? Hay vẫn cứ thích làm guốc cho lãnh tụ cỏ dại?
Tôi về phòng nằm dài suy nghĩ về sự “xin lỗi” của ông Đinh Xuân cầu. Tôi bỗng khen tôi có mấy câu thơ hay trong bài thơ dài mà tôi không nhớ hết. Đại ỷ của bài thơ 3 “Thằng bé tôi nhà quê, mong Tết để có nhiều tiền mừng tuổi. Thằng bé mặc quần áo mới lên đình chơi xuân. Gặp chiếu bầu cua tôm cá. Nhập cuộc. Bị cò mồi dụ vào cửa của nó. Thằng nhỏ rồi cháy túi. Thằng bé lớn lên, học đòi làm chính trị. Bị cò mồi vét cạn niềm tin. Tôi khen tôi để vỗ về tôi:
Tổ guốc mình đó em
Anh đi làm lịch sử
Với bọn cò mồi hèn
Thấy thiên đường đổ vỡ
Anh còn gì đâu em
Anh còn gì cho em
Cái “Còn gì” chỉ là niềm bất mãn chung thân tạo ra những ngộ nhận khiến vàng vọt tâm sự, hắt hiu đời mình.
--------------------------------
1 Hoàng Anh Tuấn giết thì giờ bằng cách kể lại những phim anh đã coi cho các bạn trẻ nghe.
2 Những bài ca của Cục Chính Huấn Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
3 Đăng trên báo Sống số Tết 1965.
Hai lạng cà-phê của chấp pháp Hà Nội tặng, uống vừa hết thì quản giáo gọi ra làm việc. Tôi chưa hết làm việc. Hồ sơ của tôi chưa kết thúc. Tôi có nhiều hồ sơ. Mỗi chấp pháp là một hồ sơ chăng? Và mỗi hồ sơ là một thời gian lao động cải tạo chăng? Chấp pháp số 10 đón tôi ở đầu khu C-1 và dẫn tôi sang khu B. Hắn ta dân Bắc kỳ, khuôn mặt lạnh lùng. Gói thuốc Vàm Cỏ và hộp quẹt đẩy sát chỗ tôi, chấp pháp số 10 nói:
- Anh hút thuốc đi rồi chúng ta làm việc.
- Tôi tưởng hồ sơ đã kết thúc.
- Bổ sung hồ sơ.
Hắn cười:
- Một sự làm việc hoàn toàn mới. Anh cần đổi không khí. Không viết tự khai nữa. Anh chán viết tự khai hả?
Tôi đáp:
- Anh thừa hiểu điều này.
Hắn nhìn tôi ranh mãnh:
- Anh có trí nhớ tốt lắm. Bản tự khai nào của anh cũng giống nhau, không sai từng dấu chấm. Anh viết... hấp dẫn vô cùng!
Nỗi khổ tự khai của một nhà văn bị còng tay vào tù ngục đã làm người Cộng sản thích thú. Tạp chí Nghệ Thuật Công An, số ra tháng 4-1981, cùng chiến dịch tái tổng càn quét ảnh hưởng văn hoá Mỹ Ngụy trên các đài truyền thanh, truyền hình, báo chí nhà nước và các buổi học tập ở đại học, trung học, phường, khóm, đã rao rêu: “Duyên Anh viết tự khai nhiều nhất. Nó viết tốn cả bó bút Bic và hàng ngàn tờ giấy”. Người Cộng sản bắt tôi viết ngày viết đêm, viết đói, viết mệt lả, dại khờ về quá trình 50 tác phẩm của tôi. Họ bắt tôi tóm tắt cốt truyện, ghi lại các nhân vật tiểu thuyết, nói rõ cá tính của nhân vật. Rồi bắt tôi phê bình tôi. Phê bình xong, họ bắt tôi trung thực tự kiểm viết theo cảm hứng nào, nhằm mục đích gì, nhận tiền Mỹ bao nhiêu. Một mặt, họ bảo tôi nguy hiểm, chống cộng tự nguyện. Một mặt, họ bảo tôi viết ăn lương CIA. Nghĩ mà bẽ bàng cho cái thân phận tôi. Bẽ bàng hơn, hôm nay, Cộng sản chưa ngớt nhục mạ tôi, có phần họ còn nhục mạ nghiệt ngã gấp bội, sau khi, tôi đã trả lời họ, trả lời một cách ngạo nghễ “Thế giới đã đọc sách của tôi”. Nhưng khi ấy không ít những thằng ngu, những con tôm, mắt mờ vì đố kỵ, hồn đục vì ganh ghét, nhận mình là quốc gia, chụp mũ Cộng sản lên đầu tôi. Tôi chiến đấu bằng chữ nghĩa. Chữ nghĩa sừng sững không thèm chối cãi. Những kẻ chiến đấu bằng mồm dễ chối cãi nhất. Những tên núp xó tối sủa bậy càng dễ chối cãi.
Chúng sẽ cúi mặt: Tôi đâu có chữ để viết. Những tên núp xó tối sủa bậy đó đây, vẫn nhiều. Chúng tiếp tay Cộng sản hạ gục uy tín của những tài năng chống Cộng sản, những thủ đoạn vặt của ngụy quốc gia, đã hết hiệu quả. Tôi đã dẫm lên những hèn mọn của chúng, đi mãi không bao giờ mệt mỏi, cùng dân tộc tôi chiến đấu cho ngày mai hạnh phúc đoàn tụ, thương yêu, tự do, dân chủ.
- Chúng ta bắt đầu nhé?
- Tùy anh.
- Tôi hỏi, anh trả lời.
- Được.
- Trả lời thôi.
- Được.
- Nguyễn Cao Kỳ gọi anh làm chủ bút báo Chí Trai của Bộ Thanh Niên Ngụy?
- Không.
- Ai?
- Đỗ Tiến Đức.
Đố Tiến Đức là bạn hàn vi của tôi thuở di cư Nhà Hát Tây, Saigon. Năm 1964 cãi nhau với Tổng giám đốc Nguyễn Ngọc Tú, tôi bỏ Bộ Thanh Niên. Thời Nguyễn Tấn Hồng làm tổng trưởng, Đỗ Tiến Đức làm Giám đốc. Anh ta mời tôi giữ chức chủ bút tạp chí Chí Trai. Bị một ông nhà văn công cán ủy viên “bỏ nhỏ” chi đó, Đổng lý Trần Đỗ Cung, “vua cơm heo” gọi về Bộ trách báo ra chậm và hỏi tôi “có nghiện thuốc phiện” không. Tôi nổi giận trả lời: Tôi làm việc với Đỗ Tiến Đức và chỉ cần biết Đỗ Tiến Đức. Và tôi trả lại chức chủ bút cho Đỗ Tiến Đức. Từ đó, tôi không thèm dính dáng đến nhà nước nữa. Nhà nước động đến tài của tôi, phải chi thật nặng. Tôi lấy tác quyền của Nguyễn Văn Hảo 2 triệu viết vẩn vơ trong Hình ảnh kỉnh tế Việt Nam, còn đòi trả lại tiền lấy lại bài xé đi vì cố vấn Nguyễn Cao Hách ghi nhận xét lên bài của tôi. Tôi lấy tác quyền 2 triệu làm đặc san Cách Mạng Xanh cho Nguyễn Văn Hảo. Chính Nguyễn Xuân Nghĩa trả trước 1 triệu. Vì chưa kịp phát hành Cách Mạng Xanh thì Ban Mê Thuột thất thủ, Ngày Nông Dân bị hủy bỏ, nên Nguyễn Văn Hảo vẫn nợ tôi 1 triệu.Tôi đã trả tác quyền một bản nhạc in báo cho Phạm Duy 50 ngàn, một bài thơ cũ của Hà Huyền Chi 5 ngàn, một bài tạp ghi cũ của ký giả Lô-Răng 40 ngàn. Vân vân... Thời kỳ này, giá biểu viết phơi-ơ-tông nhật báo một tháng 15 ngàn. Ông nhà văn công cán ủy viên huyết thống cách mạng tưởng là gì ghê gớm. Cải tạo ở Kà Tum về sớm, ông ta viết một bài “vĩ đại” trên tạp chí Đứng Dậy của Nguyễn Ngọc Lan ca ngợi cách mạng tưng bừng, ông ta sắp sang Mỹ đấy. Chắc chắn, ông ta sẽ quên “Giáng sinh ở Kà Tum".
- Chủng tôi sẽ hỏi Đỗ Tiến Đức.
- Anh cứ hỏi.
- Minh Vồ khai anh nắm hết tuần báo Con Ong. Đúng chứ?
- Đúng.
- Anh viết bài ký tên nó?
- Đúng.
- Nhất định đúng, văn của anh dễ nhận và Minh Vồ viết lý lịch mình không nổi. Miền Nam có nhiều chủ báo lạ nhi? Tự do thật, tự do ngu dốt.
- Anh hỏi và tôi trả lời.
- Tôi được bình luận, anh thì không.
- Anh có đủ quyền hành.
- Anh thích thi sĩ nào?
- Hoàng Anh Tuấn.
- Tại sao?
- Vì nó làm thơ xong là vất đi.
- Anh đã viết trong cuốn Lứa tuổi thích ô mai. Anh không thích thi sĩ cách mạng?
- Tôi chưa đọc.
- CIA đỡ đầu anh viết cuốn Điệu ru nước mắt hả?
- Không ai đỡ đầu cả.
- Không có CIA đỡ đầu mà anh dám viết bạo và được xuất bản à?
- Do Sở Phối Hợp Nghệ Thuật cho phép.
- Do CIA
- Cũng được, tùy anh.
- Anh nhận tiền của ai viết Bò sữa gặm cỏ cháy?
- Của nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng.
- Anh âm mưu “trồng người” chống chúng tôi. Cuốn này nguy hiểm nhất, ác độc nhất.
Nguy hiểm nhất, ác độc nhất đối với Cộng sản, Bò sữa gặm cỏ cháy của tôi. Thế mà nó đã bị om ở Phủ tổng thống mấy tháng, bị tự ý kiểm duyệt. Và chẳng đứa nào của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đọc cả. Tôi nhớ buổi tiếp tân của Nhã Ca ở Trung tâm Văn Bút Việt Nam nói về cuốn Vi ơi, bước tới mà Barry Hilton sẽ dịch sang Anh Ngữ. Bấy giở, Phủ đặc trách văn hóa được trao vào tay nhà khuyến lệ cổ ca Đỗ Văn Rỡ. Linh mục Thanh Lãng đã nồng nhiệt giới thiệu tôi với ông già Đỗ Văn Rỡ. Ông ta đưa cho tôi tấm danh thiếp, mời tôi ghé Phủ của ông ta đàm đạo văn hóa. Tôi bèn hỏi: “Thế ngài đã đọc cuốn sách nào của tôi chưa”? Rất thành thật, nhà văn hóa đáp: “Chưa!” Tôi bèn gửi lại nhà văn hóa cái danh thiếp của ông ta. Làm văn hóa mà chỉ biết khuyến lệ cổ ca Nam phần thì hỏng quá! Rốt cuộc, nhà văn vào tù. Và tôi viết Bò sữa gặm cỏ cháy cho... Cộng sản đọc. Để họ kết án tôi nặng nề.
- Anh yên tâm, Nguyễn Văn Thiệu không đọc đâu.
- May là nó không đọc. May là nó coi thường tác dụng mãnh liệt của văn nghệ. Nếu không, chúng tôi còn phải hy sinh nhiều nữa, gian khổ nhiều nữa. Thằng Thiệu ngu. Anh cũng ngu. Anh giai cấp vô sản lại viết sách dạy ngụy quyền huấn luyện nhi đồng thành giai cấp tiểu tư sản.
Một sự làm việc hoàn toàn mới của chấp pháp số 10 đấy. Nó chửi rủa tôi ngu. Mà tôi không dám chửi lại nó. Mà ai dám chửi lại nó, ở địa vị một tù nhân như tôi? Tôi có thể viết, hôm nay, những trang rất hào hùng của người quốc gia trong ngục tù Cộng sản. Ở tiểu thuyết thôi và chỉ xẩy ra với bầy sư tử lãng mạn. Cá nhân tôi, lặng thinh nghe chúa ngục Cộng sản chửi mình, không lạy nó đừng chửi mình, đã khá rồi. Cứ ba hoa nói phét mình chửi lại, mình ăn thua đủ thì không khá. Và mình sẽ xấu hổ, nếu mình còn liêm sỉ. Lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh đã thú nhận ở tù, ông bị dắt đi như trâu bò. Tôi đã hân hạnh gặp những người Cộng sản trung kiên bị nhốt tại quân lao Nha Trang, hồi ông Lê Khánh làm tỉnh trướng Khánh Hòa. Nhân vụ giáo sư Trần Vinh Anh bị một thí sinh tú tài đâm chết. Tôi phải đóng vai ủy viên Quân đoàn 2 vào thăm quân lao để phỏng vấn mấy cậu học trò tạm nhốt ở đây. Vậy thì ông ủy viên rởm thăm một phòng nhốt Cộng sản. Tù nhân Cộng sản đứng nghiêm răm rắp. Ủy viên rởm vẫy tay chào. “Anh em ngồi xuống”. Cộng sản ngoan ngoãn ngồi. “Anh em đang làm gì vậy”? Lãnh tụ tù Cộng sản đáp: “Thưa, chúng tôi đang học tập chính nghĩa quốc gia ạ”! Phải biết sau 30-4-75, vị lãnh tụ tù này sẽ nói phét đấu tranh trong ngục tù Mỹ Ngụy dường nào. Tôi là nhà văn. Tôi trung thực. Tôi viết đúng vì, có lần, theo sự đổi đời, tôi đã đứng nghiêm trong một nhà giam chào đón một cán bộ trung ương. Và Trưởng phòng của tôi đã nói: “Thưa chúng tôi đang học tập cái thế tất thắng của cách mạng ạ”! Bạn ơi, ở tù nào cũng khổ. Ở tù Cộng sản khổ hơn, dĩ nhiên. Bạn phải nhịn nhục cả những đứa không đáng gì. Theo tôi, biết nhịn những kẻ mạt hạng mới là thái độ anh hùng, thái độ kẻ cả. Bạn đừng hy vọng, ở tù Cộng sản, bạn được bầy tỏ lòng can đảm với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Ở tù Cộng sản chỉ có một cách chết là chết dưới lỗ chân trâu. Những ai muốn tìm cho mình một cách chết xứng đáng với sự chịu đựng thống khổ, đều khước từ cái chết ở lỗ chân trâu. Và muốn thế, người ta phải thẩm thấu triết lý sống chết, phải soi sáng trí tuệ vào oan khiên, phải hiểu tận cùng rằng “có một thời im lặng và một thời lên tiếng”, phải biết “xếp tàn y lại để dành hơi”.
Chấp pháp số 10 khoái “bình luận”. Hắn chuyên chế... bình luận.Thằng này ham chửi rủa.
- Anh đã gài mìn?
- Tôi đâu biết gài mìn.
- Chính anh gài mìn khúc đường Trung Lương – Cai Lậy. Anh bịa đặt, đổ vạ cho Cộng sản hại dân lành.
Hắn muốn đề cập cuốn Hưng Mập.
- Anh đầu độc tâm hồn thiếu nhi nông thôn.
Tôi nhiều tội quá. Mỗi cuốn sách của tôi là một trọng tội. Tôi có cảm tướng, chấp pháp số 10 bổ xung chấp pháp số 7. Một đứa bắt tôi viết, một đứa bắt tôi nói. Tôi bị chấp pháp số 10 quần thảo năm ngày về sách rồi về báo. Hắn chửi tôi kỹ nhất thời gỉan tôi cộng tác với nhật báo Xây Dựng.
- Những tờ báo có tiếng nói là những tờ báo chống cộng có trọng lượng. Xây Dựng có hậu thuẫn rõ rệt. Nó đã tạo đoàn kết thiên chúa giáo vụ Đặng Sĩ. Nó đã lãnh đạo vụ đuổi cổ thằng Cabot Lodge. Rồi nó cấu kết với hết Kỳ Loan lại cấu kết với Thiệu Bình.
Tôi không tin nhật báo Xây Dựng có trọng lượng ghê gớm thế. Nhưng cá nhân ông chủ nhiệm của nó, linh mục Nguyễn Quang Lãm, là người thích bám nhà cầm quyền. Như một số linh mục Bùi Chu, Phát Diệm, kẻ khoái làm giầu như ông Trần Đức Huynh, kẻ ham chính trị như ông Hoàng Quỳnh, ông Lãm mê giật giây thống trị và làm đảo điên thống trị. Bước đầu mon men làm quen nhà cầm quyền của ông Lãm là mấy chai rượu lễ nhờ ông Minh Vồ biếu ông Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Phạm Văn Liễu. Ông Liễu không ưa cần Lao nhân vị cách mạng đảng, không ưa cố đạo, ông đã cho tôi uống hết. Ông Lãm chống ông Liễu, ông Thi và nhờ vậy, rất thân với ông Loan, ông Kỳ. Vụ Mậu Thân 1968, nhà ông Lãm có máy truyền tin do ông Loan cấp để theo rõi báo cáo tình hình. Ông Kỳ, ông Loan thất thế, ông Lãm tìm đường đến ông Thiệu, ông Bình. Bị chê, ông ta chống Thiệu dữ dội. Ông Lãm đã xúi dục hàng Giáo Phẩm chống ông Phan Huy Quát, ông Bùi Diễm, ông Lãm đã gài Mặc Giao vào quốc hội. Vân vân.... Không oanh liệt như linh mục Thanh Lãng có quyền chỉ định Tổng trưởng, nhưng ông Lãm đã là con lươn của chính trường Saigon một thuở. 1-5-1975, ông xuất bản nhật báo Xây Dựng 2 trang chửi gỡ Nguyễn Văn Thiệu lập công với Cộng sản. Bị cấm ngay, cả hai ông Lãng và Lãm đều không bị Cộng sản bắt. Chỉ có bọn đã viết báo Xây Dựng bị nằm tù, bị viết tự khai, bị hạch hỏi về báo của ông Nguyễn Quang Lãm.
- Báo Xây Dựng trả anh nhiều tiền lắm, phải không?
- Báo nhà chùa và báo nhà chúa bóc lột nhất nước.
- Tôi không tin nó bóc lột anh.
- Tùy anh. Tôi đã từng bỏ Xây Dựng sau một lần tranh đấu lương tháng 13 cho anh em thất bại.
- Anh đã lĩnh lương tháng... 14?
- Tháng 20. Không có nhà văn nào “ăn khách” mà không biết yêu sách chủ báo. Tôi yêu sách đúng công lao của tôi, tôi không để bị bóc lột.
- Báo nào anh lĩnh lương nhiều nhất?
- Công Luận.
- Bao nhiêu mỗi tháng?
- Hai trăm ngàn, tiền giá năm 1968.
- Cả công viết hồi ký bố láo cho thằng Đính?
- Phải.
Quay tôi tít con mòng mòng về văn, về báo, hắn hỏi tội tôi viết bình luận ở Đài Saigon giáo dục Cảnh Sát công lộ thời Phạm Văn Liễu.
- Bao nhiêu tiền một bài đọc 5 phút?
- Năm ngàn.
- Anh viết bao nhiêu bài?
- Bốn.
- Tại sao nghỉ?
- Vì ông Phạm Văn Liễu kêu đắt và vì tôi không chịu ký tên Ổi, tên Xoài lĩnh tiền.
- Tại sao?
- Tôi bán bài đọc trên đài phát thanh, không bán tin tức mật.
- Liễu cho anh những gì?
- Cái máy đánh chữ Remington trước khi ông ta tử chức.
Vụ giao du với Phạm Văn Liễu, Phạm Huy sảnh, Nguyễn Hoàng Đạt, tôi không khai mà chấp pháp số 10 biết rõ ngọn ngành. Tôi biết người khác đã khai. Cho nên, những gì đã trở thành sự kiện, bạn đừng hòng dấu diếm công an, bất cứ công an của chế độ nào. Bạn chỉ có thể dấu kỹ tư tưởng và ước mơ của bạn.
Sau mười ba ngày làm cái chong chóng trước gió chấp pháp số 10, tôi bị bỏ rơi. Hai Phận thay đổi vài sinh hoạt ở các phòng giam C-1. Hắn bắt tù nhân điểm danh hai lần một ngày. Có hàng ngàn chuyện xẩy ra giữa các tù nhân. Vì khốn quẫn. Vì tù túng. Vì dồn nén. Vì bệnh hoạn. Vì tuyệt vọng. Toàn là những “chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Tù nhân “con bà phước” – những người không được thân nhân tiếp tế thực phẩm, thuốc men – được phát một bộ quần áo tù may bằng vải sô và... một cái hột gà tươi duy nhất! Thế thôi, đã đủ kèn cựa và bóng gió sỉ nhục nhau.
Thấm thoát, tôi nằm đề lao Gia Định đã 6 tháng. Đầu năm 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả giam nhốt rải rác các phòng bốn khu được tập trung tại khu A học tập một tháng để được thả về ăn Tết. Vào thời gian này, tự nhiên, điều tôi mong muốn đã tới: Tôi bị tống vào cachot khu B không lý do báo trước. Tôi thích được biệt giam. Tôi chán sống chung đụng với tù nhân ô hợp đủ tội trạng. Nhưng hạnh phúc đời tù thật ngắn ngủi với tôi. Được đúng hai tuần, tôi ra phòng tập thể 5 C-2. Ở đây, tôi gặp Đoàn Kế Tường và linh mục Thiên, Dòng Chúa Cứu Thế. Ở đây, tôi biết, đối diện phòng tôi là cachot nhốt luật sư Vũ Đăng Dung, thủ lãnh luật sư đoàn Huế. Cạnh luật sư Dung là cachot nhốt một tử tù vụ đánh cướp nhà băng quốc doanh gây sôi nổi ở đại lộ Hàm Nghi. Ở đây, tôi biết Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân (Bẩy Bốp, Phạm Thái) học tập cải tạo trở về đã bị bắt lại và đang nằm chung với hai cuốn tự điến Như Phong, Lâm Văn Thế. Nguyễn Ngọc Tân cũng là... tự điển Đại Việt, người Xứ ủy miền Nam này đã ra Hà Nội làm việc ở căn nhà phố Hàng Quạt, nơi Hồ Chí Minh viết Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945; người Xứ ủy này đã chiến đấu tại chiến khu Nam Ngãi, đã bị lưu đầy thời ông Diệm. Tôi ở 5 C-2 có bốn ngày, được Hai Phận vĩ đại “giáo dục” một bài học nhân vụ linh mục Phạm Minh Thiện "làm lễ” trưa chủ nhật với đám con chiên bị ngay con chiên ghẻ tố cáo.
- Trong tù không có thánh, chẳng có thần. Thần tượng của các anh là chấp pháp. Nói cho các anh rõ, Chúa Giêsu nằm tù, tôi cũng còng tay tống cổ vào cachot.
Hai Phận biểu diễn quyền uy Cộng sản. Bạn cần suy nghĩ câu nói của Hai Phận vĩ đại. Và bạn sẽ nhận diện những vị anh hùng tù ngục Cộng sản thoát ra ngoại quốc ồn ào. Một trong những vị anh hùng phét lác ấy là Đoàn Văn Toại, người đã làm... kiến nghị và lấy chữ ký của hàng trăm tù nhân!
Bốn ngày ở 5 C-2 chưa quen hết tù nhân, tôi bị trở lại 1 C-1. Rồi vừa mới treo xong hành lý, tôi lại được gọi: “Vũ Mộng Long, chuẩn bị rời phòng. Khẩn trương”. Tôi sang 3 C-2 với Nguyễn Hữu Miên. Ở đây, tôi gặp nhóm Trịnh Hùng Dần, Thịnh, Dũng cận và Mai Viết Dũng vượt biên đường bộ bị bắt tại Quảng Trị. Các bạn trẻ kể tôi nghe những nhà tù dọc quốc lộ số 1. Ở đây tôi gặp người anh kết nghĩa Khai Trí. Ở đây, thú vị nhất, tôi gặp Lê Xuyên và Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh. Chức sắc của 3 C-2 nghiêm chỉnh, đúng ý Nội quy. 3 C-2 không có can phạm hình sự. Đa số là can phạm vượt biên. Khu C-2 bí hơn C-1. Tường xây sát khít mái tôn, bít kín lối vào của dưỡng khí. Thời gian này, đề lao tiếp nhận thêm can phạm từ các quận gửi tới. Con số tù nhân ở mỗi phòng trên 50. 50 ổ bánh mì trong lò. 50 con cá mòi trong hộp sắt.
Tôi được an ủi nhiều nhờ nằm cạnh Lê Xuyên. Tác giả Rặng trâm bầu đã nằm đề lao Gia Định thời cách mang Nhân Vị. Anh bị ông Diệm bắt về tội Đại Việt và tuần báo Tự Quyết. Người quốc gia bắt nhốt người quốc gia. Cần Lao bắt nhốt Đại Việt. Bây giờ, Cộng sản bắt nhốt hết. Ra tù cách mạng Nhân Vị, Lê Xuyên viết Chú Tư Cầu trên nhật báo Saigon Mai sau chính biến 1960. Anh nổi tiếng từ đó. Và từ đó, anh mưu sinh bằng nghề văn, nghề báo, rời bỏ chính trị. Lê Xuyên hiền lành, thành thật, ít nói và... nhút nhát, khác hẳn những sôi nổi tình dục trong tiểu thuyết của anh. “Văn là người”, câu này không đúng với trường hợp Lê Xuyên. Nó đã chẳng đúng với trường hợp Vũ Trọng Phụng. Nó không đúng với nhiều nhà văn Việt Nam. Lê Xuyên dạy tôi bài học này: “Công việc là công việc. Bất cứ công việc nào, ở bất cứ đâu, một là không thèm làm, khước từ nó đến nơi đến chốn hoặc là làm việc đến nơi đến chốn. Đứng nghĩ ai giao phó công việc, hãy nghĩ việc làm. Việc nhỏ, việc bị cưỡng bức làm chu đáo sẽ làm nổi những việc lớn, những việc tự nguyện”. Lê Xuyên đã trung thành với lời anh nói. Anh là người thư ký toà soạn mẫn cán nhất, gương mẫu nhất Việt Nam: Đến sớm, về muộn, bám sát toà soạn. Anh là người tù biết sống đời tù: Thà ngồi bó gối dựa lưng, không nằm ngủ; trực sinh lau rửa cầu tiêu sạch nhất phòng. Kẻng báo thức sáng, Lê Xuyên dậy giũ chiếu đợi trực sinh quét bục nằm. Rồi anh tắm gội. Và ngồi bó gối. Lê Xuyên chỉ nằm vào giờ ngủ, dẫu không ai bắt anh ngồi- Anh vấn thuốc rê bằng giấy báo, hút liên miên. Người tù thản nhiên Lê Xuyên không bao giờ thở dài, không hề nôn nóng ngày thăm nuôi. Nhận quà sớm, anh bảo “Vợ tôi thắng bài bữa nay”. Nhận quà muộn, anh bảo “Vợ tôi thua bài bữa nay”. Luôn luôn, chú Tư Cầu nhận quà vào giờ chót.
- Nó bắt anh làm việc chưa, Lê Xuyên?
- Nó quên tôi rồi.
Tôi kể cho Lê Xuyên nghe chuyện làm việc của tôi. Anh lắc đầu:
- Ông bị... sao vàng chiếu kỹ. Từ ngày bị bắt, nó chưa gọi tôi lần nào.
- Tự khai?
- Chưa.
- Chụp hình, lăn tay?
- Một lần, bên Sở. Nó bảo tôi viết lý lịch. Thế thôi.
Lê Xuyên không thắc mắc. Cuối tháng 1-1977, tôi tạm biệt anh, chuyển phòng. Cuối tháng 9- 1981, hay tin tôi được tha, vợ chồng Lê Xuyên đến thăm tôi. Hỏi chuyện cũ, anh kể:
- Ngày các ông sang Chí Hoà, tôi biết. Sau ngày đó, Hai Nghiêm gọi tôi ra. Nó hỏi tôi: “Anh viết bao nhiêu cuốn sách”? Tôi nói tổng số. Nó dọa tôi: “Mỗi cuốn sách của anh là 2 năm tù, anh về suy nghĩ đi”! Tôi về. Hôm sau, tôi nhận Giấy ra trại. Ông thấy ly kỳ chưa?
Ly kỳ thật. Nhưng đó là chuyện 1981. Chúng tôi đang ở 3C-2 tháng 1 năm 1977. Người buồn bã đến rã rượi là Nguyễn Viết Khánh, nguyên Tổng thư ký Việt Tấn Xã, chuyên viên bình luận thời sự quốc tế. Anh ta đã cai thuốc phiện từ lâu và hút lại từ 1-5-1975 và yêu cô học trò báo chí. Anh giã từ cả Phù Dung tiên nữ lẫn người tình cuối đời mà vào tù cởi trần mặc xà lỏn, ăn cơm hẩm với canh rau muống già nấu với muối. Nguyễn Viết Khánh người không bao giờ sang được nước Mỹ, vẫn cay cú cái danh sách nhà văn, nhà báo xin di tản lập tại Usis Saigon đã lọt vào tay Sở Công An. Và Hai Nghiêm đã cầm danh sách đó, chỉ mặt từng nhà văn nhà báo mà hắn làm việc mà kết tội tay sai của CIA. Để quên rã rượi, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh “quay phim” cho anh em nghe. Nghề này của Hoàng Anh Tuấn 1. Anh Khánh đọc nhiều truyện khoa học giả tưởng, anh kể rất hấp dẫn. Với tôi, anh thuật những kỷ niệm, những cuộc tình của anh ở Nhật, ở Saigon.
Người sầu não vẫn là Khai Trí Nguyễn Văn Trương. Anh ta gửi mua cả quầy chuối treo sát tường. Vốn cao lớn và hơi hơi gù, anh ta giống con gấu. Khai Trí dựa lưng vào tường, quầy chuối trên đầu anh, chân anh duỗi dài, tav anh chống bục nằm. Sức nóng của phòng giam làm chuối mau chín. Và chuối đã lần lượt rụng xuống bụng anh khi anh nhắm mắt. Cái nghĩa của phù ảo được sáng tỏ ở đây. Chuối rụng mà trái sầu vẫn xanh. Vương Khải vào tù. Thạch Sùng vào tù. Thiên hạ còn kèn cựa nhau, còn bước qua xác nhau làm giầu, chẳng bao giờ nghĩ cái bất ngờ 30-4-1975 không hứa hẹn chỉ một lần trong đời sống.
Người ta đã thả hai phần ba nhà văn, nhà báo bị bắt trong chiến dịch 2-4-1976 về ăn Tết Giải Phóng năm thứ hai.
Những người còn nằm lại:
Doãn Quốc Sĩ
Như Phong
Lê Xuyên
Nguyễn Mạnh Côn
Trịnh Viết Thành
Tô Ngọc
Đằng Giao
Trần Dạ Từ
Nguyễn Hải Chí
Hồ Văn Đồng
Thái Thủy
Mặc Thu
Thanh Thương Hoàng
Mộc Linh
Duyên Anh
Thế Viên
Nguyễn Sĩ Tế
Nguyễn Viết Khánh
Mai Đức Khôi
Cùng với tin vui này, nhóm Trịnh Hùng Dần và Nguyễn Hữu Miên đi lao động cải tạo. Chế độ bắt thêm Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thụy Long. Thủy có mặt ở cachot khu B. Toàn có mặt ở 4 C-2. Long bị nhốt ở nơi khác. Tôi lại bị tống về 1 C-1. Bây giờ, 1 C-1 hoàn toàn mới với các tù nhân mới tôi chưa từng ở chung phòng. I C-1 với tôi nhiều duyên nợ. Về 1 C-1 lần này, tôi gặp gỡ nhiều khuôn mặt. Hoàng tử cachot đề lao là Dương Đức Dũng, trung úy, sĩ quan báo chí Quân đoàn 4, khước từ diện học tập cải tạo, thành lập nhóm chống cách mạng với Đoàn Kế Tường, Lương Việt Cương, có cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Nhóm bị Đỗ Hữu Cảnh, luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng lùa vào với Mai Chí Thọ trọn ổ.
Dũng kể cho tôi nghe những cachots, những kiểu còng anh ta đã chịu đựng. Anh ta biết” tôi là... Bộ trưởng (!) của “nội các” Đinh Xuân Cầu". Tôi không muốn làm anh ta thất vọng nên im lặng chuyện tôi bị Trương Phiên bịp. Ngoài Dương Đức Dũng là vô số sinh viên, học sinh can tội phản động. Được sống với họ rất thú vị. Tôi chợt nẩy mầm mơ ước viết về họ, mai này. Những Đặng Cơ Bản, Ngô Tỵ, Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Khánh Long, Hoàng Sơn Trường, Đinh Cường... Tôi nằm cạnh nhà tỷ phú Phạm Quang Khai với ông cháu không thích ông bác chúa tầu. Có thêm “giáo sư” hồi chánh Phạm Thành Tài và người Cộng sản nằm vùng mất phẩm chất Nguyễn Văn Nha ở 1 C-1.
Thời gian này, Doãn Quốc Sĩ đã chuyển cachot. Cachot số 1 khu C-l nhốt Nguyễn Việt Hưng. Từ cachot 1 đến cachot 7 dành riêng cho can phạm vụ Vinh Sơn. Ali Hùng nằm cachot số 3. Đinh Xuân Cầu bị xích chân, còng tay “trụ trì” cahot số 8.
Tôi ăn Tết Giải Phóng năm thứ hai tại 1C-1. Năm ngoái, các bạn trẻ kể, ngày mồng một, đề lao cho phép tù nhân đi các khu chúc tụng nhau. Các bạn trẻ đã ôm đàn guitare hát những bản chính huấn 2 nuôi chí phục hận. Rút kinh nghiệm, năm nay, khu nào gặp khu ấy và cấm đàn, cấm hát, cấm chào cờ... Cửa gió cachot mở hết. Vệ binh ôm súng canh ở đầu khu. Tù nhân được tự do trò chuyện 10 phút. Tôi đã lợi dụng lúc ồn ào, tấp nập, “mừng tuổi” ông Đinh Xuân Cầu 10 đồng và cho ông ta biết tôi đã gặp mặt Trương Phiên, ông Cầu xin lỗi tôi. Ông bảo Trương Phiên đã được thả và quả là nó đã bịp nhiều người. Tôi lại có phen đi chống Cộng với một anh ngây thơ và một thằng bịp trong hoàng hôn chống Cộng. Từ đấy, tôi nghi ngờ tất cả những hạng lãnh tụ chống Cộng già nua. Ở bất cứ nơi nào họ tá túc trên trái đất, họ nên chấm dứt cái “sứ mạng” của họ đi. Họ đã trải dài cái “sứ mạng” mọc rêu của họ ròng rã mấy chục năm, rốt cuộc, Đất đã ủng và Nước đã tù. Họ đầy rẫy mặc cảm thua kém Cộng sản và đầy rẫy tội lỗi, tội ác với dân tộc, nên rút vào bóng tối. Cuộc chiến đấu tiêu diệt chủ nghĩa Cộng sản giải thoát quê hương hôm nay phải là của tuổi trẻ, của sư tử sừng sững, không mảy may tự tị mặc cảm khi đương đầu kẻ thù, không mảy may tội lỗi với tổ quốc. Phải để mặt trời tuổi trẻ đốt cháy dĩ vãng bệnh hoạn, mở đường tương lai cho dân tộc. Và tuổi trẻ cần phóng lên phía trước, cần nắm chặt vận mệnh đất nước mình. Giờ cáo chung của lãnh tụ già đã điểm hồi 10 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuổi trẻ không đuợc phép để bị lãnh tụ khốn kiếp lửa gạt niềm tin, bịp bợm thiện chí. Tuổi trẻ phải biết phóng lên bầu trời những tín hiệu chống Cộng mới. 1986 năm trước, Jesus đã phán: “Cỏ dại chỉ phá hại mùa màng. Thì nhổ hết lên mà đốt để có mùa gặt hái tốt”. Cỏ dại chính là bọn lãnh tù già nua chống Cộng của nước Việt Nam. Họ không có kinh nghiệm gì cả. Kinh nghiệm của họ là chạy dài chạy dài, chạy dài từ 1945 đến 1975. Những kẻ chưa một lần thắng, không có quyền nói kinh nghiệm thua, Nhưng có một thứ kinh nghiệm bịp! Đã đến lúc tuổi trẻ làm mũ đội lên đầu mình chưa? Hay vẫn cứ thích làm guốc cho lãnh tụ cỏ dại?
Tôi về phòng nằm dài suy nghĩ về sự “xin lỗi” của ông Đinh Xuân cầu. Tôi bỗng khen tôi có mấy câu thơ hay trong bài thơ dài mà tôi không nhớ hết. Đại ỷ của bài thơ 3 “Thằng bé tôi nhà quê, mong Tết để có nhiều tiền mừng tuổi. Thằng bé mặc quần áo mới lên đình chơi xuân. Gặp chiếu bầu cua tôm cá. Nhập cuộc. Bị cò mồi dụ vào cửa của nó. Thằng nhỏ rồi cháy túi. Thằng bé lớn lên, học đòi làm chính trị. Bị cò mồi vét cạn niềm tin. Tôi khen tôi để vỗ về tôi:
Tổ guốc mình đó em
Anh đi làm lịch sử
Với bọn cò mồi hèn
Thấy thiên đường đổ vỡ
Anh còn gì đâu em
Anh còn gì cho em
Cái “Còn gì” chỉ là niềm bất mãn chung thân tạo ra những ngộ nhận khiến vàng vọt tâm sự, hắt hiu đời mình.
--------------------------------
1 Hoàng Anh Tuấn giết thì giờ bằng cách kể lại những phim anh đã coi cho các bạn trẻ nghe.
2 Những bài ca của Cục Chính Huấn Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
3 Đăng trên báo Sống số Tết 1965.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 18
Ba ngày Tết, các tù nhân nguy hiểm ở cachot được “giải phóng” xiềng xích. Nguyễn Việt Hưng, tướng Phục Quốc Nguyễn Việt Hưng, thường đứng dán mặt vào ô cửa nói chuyện với chúng tôi. Các bạn trẻ của 1C-1 đấu ào ào, bất chấp Nội quy. Ổng Hưng hỏi thăm tôi chuyện “nội các” Đinh Xuân Cầu khiến tôi tê tái. Ở đề lao Gia Định, tất cả can phạm phản động đều quý mến ông Đinh Xuân Cầu. Chuyện Hai Nghiêm mỉa mai ông “Mặt anh mà đòi làm thủ tướng à?” đã thành giai thoại ở đề lao. Ông Cầu đang nằm tại 7C-2, vào cachot vì Sao giò trốn trại. Sau ba ngày Tết, Nguyễn Việt Hưng bị máng chân vào cùm ở ngay tường, ông ta phải nằm ngửa suốt ngày đêm, trừ hai bữa ăn. Tù nhân vụ Vinh Sơn có người nhái AIi Hùng thổi sáo tuyệt diệu. Về khuya, Ali Hùng trổ tài Trương Lương. Tiếng sáo của anh ta buồn não nuột. Cả khu C-1 thức nghe anh ta thổi sáo. Trong hơi sáo sầu của Ali Hùng, chợt nổi lên một giọng nữ gai góc từ khu B vọng sang “Báo cáo cán bộ phòng 4 có người bệnh nặng”, tưởng chừng nhạc thiều âm ty. Tôi đã sống những phút giây hãi hùng và kỳ ảo đó. Nghĩa đời không phải ở đấy. Nhưng ở đấy, người ta tìm thấy nghĩa đời.
Hạ tuần tháng 2-1977, Toà án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh xử vụ Vinh Sơn. Sáng sớm, mỗi tù nhân được phát một ổ bánh mì rồi bị xích chân còng tay đưa tới Tòa án. Buổi chiều được dẫn về. Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn Vãn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp và hai người tôi không biết tên ở cachot 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 đã hầu toà ba ngày liên tiếp. Buổi chiều cuối cùng của phiên tòa chung thẩm, khi trở lại cachot Nguyễn Việt Hưng dơ ba ngón tay rồi dùng gan bàn tay chặt lên gáy mình, ông ta báo tin có ba tù nhân bị xử tử. Vài hôm sau, bẩy tù nhân vụ Vinh Sơn chuyển cachot. Chúng tôi hết được nghe Ali Hùng huýt sáo đêm khuya. Bẩy cái cachots dành cho tù nhân mới mà hai cái là nơi “ngự trị” của hai nữ hoàng cachot Hoàng Thị Nga và Ngô Thị Lan. Doãn Quốc Sĩ, hình như, ở cachot số 9. Tôi lại bị gọi sang khu A làm việc với chấp pháp số 11, người Thanh Hoá.
Chấp pháp số 11 yêu cầu tôi bổ sung bản tự khai liên hệ với văn nghệ sĩ Hà Nội. Hắn muốn biết ngoài tôi còn anh em nào thù tạc văn nghệ sĩ Hà Nội không và tôi nghe thấy gì do anh em khác kể lại. Bản tự khai bổ sung rất ngắn. Vì tôi không biết, không nghe, không thấy. Chấp pháp số 11 nhã nhận. Hắn không hạch hỏi. Tôi viết buổi sáng là xong. Buổi chiều hắn mạn đàm:
- Anh Duyên Anh, tại sao anh giao du nhiều mà chỉ khai có một bạn thân.
- Tôi ít bạn.
- Tại sao?
- Vì tôi ưa viết báo công kích, không ai thích thân với tôi.
Câu trả lời của tôi hợp lý quá. Chẳng còn gì nhảm hơn là khai hết tên bạn bè để làm phiền họ, nhỡ họ bị công an chiếu cố. Mà thực ra, bạn thân đúng nghĩa trước 1975, tôi chỉ có một người. Là Đặng Xuân Côn. Ngày Đặng Xuân Côn vượt biên, tôi bị hạch hỏi, bị quay chóng mặt- Như ngày Nhật Tiến vượt biên, dù đã được tha, Nguyễn Đình Toàn vẫn bị gọi lên Sở Công An viết... tự khai.
Chấp pháp số 11 không yêu cầu gì thêm, hỏi vẩn vơ hai ba câu rồi nói chuyện văn nghệ... tiền chiến. Tôi làm việc với hắn vỏn vẹn một ngày. Bất thình lình, 1C-1 bị giải tán. Từng nhóm, từng nhóm, tù nhân khăn gói quả mướp chuyển tới các phòng ở khắp đề lao. Tôi vào tuốt 7C-1, phòng giam tăm tối và hôi hám. Vì cần tiến nhanh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa nên ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh đã xây cái chuồng heo tại góc sân sát vỉa hè Phan Đăng Lưu, sát tường sau 7C-1. Tù nhân tha hồ hít thở phân tiểu heo cách mạng, hương thơm của chủ nghĩa ưu việt. Tôi “tái ngộ” vua cachot Đoàn Kế Tường ở đây. Ở đây, đầy đủ mặt phản động. Già có cụ Cao Văn Diên, cụ Trần Văn Liễu, cụ Nguyễn Văn Thông. Trẻ có Hoàng Sơn Trường, Đinh Cường, Nguyễn Hữu Trí. Tư sản mại bản có Đỗ Bá Thúc đã từng làm Thứ trưởng thời Diệm và dạy ở trường Luật. Linh mục Phạm Minh Thiện cũng về 7C-1 “họp đàn”. Ngoài phản động còn có vài tù nhân vượt biên, vài cảnh sát đặc biệt trốn trình diện. Sĩ quan mới phải trình diện. Riêng an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, hạ sĩ quan cũng phải trình diện học tập cải tạo. Và Phủ trung ương tình báo thì anh gác cổng, anh bưng nước đều... tình báo hết. Ra đi lâu về. Hoặc ra đi không về. Trưởng phòng tên Nguyễn Văn Mâu do Hai Phận chỉ định. Tôi đã có tí chức tước: Thư ký tù, chuyên viết biên bản các buổi họp cuối tuần và lập danh sách mua hàng chợ.
Hai Phận sáng tạo kiểu điểm danh mới. Ngày hai lần, sáng và chiều, hắn bắt tù nhân ra xếp hàng đôi ngay ngắn. Trưởng phòng hô “nghiêm” rồi báo cáo:
- Báo cáo ông Trưởng khu, phòng 7 hiện diện 56 người đủ.
Hai Phận vĩ đại hất tay:
- Được.
Chúng tôi lần lượt dơ tay đọc số, đọc tên và vào phòng. Hai Phận mở cuộc thi đua vệ sinh, ngăn nắp cho tù nhân. Khẩu hiệu của hắn: “Bỏ cờ trắng, vượt cờ xanh, giành cờ đỏ”. Điểm danh cũng được tính điểm thi đua. Tù nhân thi đua ở tù! Nhờ màn thi đua nên có cuộc họp trưởng phòng toàn khu. Thư ký đi ghi chép biên bản. Tôi được gặp Mặc Thu Nguyễn Viết Khánh, Thanh Thương Hoàng và được biết anh em của tôi đã “họp đàn” hết tại đề lao Gia Định, Đủ mặt. Lúc này, Hai Phận vĩ đại thống lãnh lưỡng khu C-1, C-2. Chúng tôi có một tháng thi đua. Phái đoàn trưởng phòng tham quan các phòng và... chấm điểm. Tù chấm điểm tù. 7C-1 cầm cờ trắng hạng bét vì toàn mùi phân heo và mùi ghẻ mủ. Hai Phận chửi chúng tôi ăn ở bẩn thỉu. Hắn ví chúng tôi với heo và ra lệnh cho chúng tôi “phải khắc phục mùi phân heo”!
Năm 1977 có hai biến cố. Biến cố thứ nhất: Toàn dân ăn độn. Biến cố này được dân gian đánh dấu bằng lời ca số 2 của ca khúc Miền Đông đất đỏ:
Ai đã qua miền Đông đất đỏ
Xem xe chở vào thành phố khoai mì
Cả khoai lang và rồi thì khoai bí
Dân mình xếp hàng mua kí về ăn
......
Tổ quốc ơi!
Ăn khoai mì ngán quá
Từ giải phóng đến nay
Ta ăn độn dài dài
Từ giải phóng đến nay
Ta ăn độn bằng khoai...
Hai Phận “triệu tập” một phiên họp “đột xuất”. Các trưởng phòng và thư ký đi phó hội. Hai Phận buồn bã nói:
- Trung Quốc nó đòi nợ, ta phải trả nợ nó, ta không thèm khất nợ, ta trả hết, trả khẩn trương. Do đó, từ mai, các anh sẽ ăn độn. Các anh khắc phục ăn khoai, ăn sắn nhé! Cũng đầy đủ vi-ta-min. Đấy, gà nó ăn ngô béo ra phết. Lợn nó ăn khoai thịt vẫn ngon.
Chúng tôi không dám cười. Hai Phận đau đớn:
- Người ta cứ bảo đất miền Nam tốt, làm không ăn có, ném thóc giống rồi nhắm mắt chờ mùa gặt. Thế mà từ giải phóng, hết hạn hán lại lụt lội...
Hai Phận vò đầu bứt tóc.
- Trời hại ta, trời cũng theo đế quốc Mỹ!
Tôi thấy Hai Phận đích thực vĩ đại hơn Hồ Chí Minh vĩ đại. Hắn trấn an chúng tôi:
- Nhưng ta đã có mỏ dầu hỏa ở Tiền Hải, Thái Bình. Mỏ ngay trên đất, không cần giàn khoan, không cần nhà máy lọc...
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Hai Phận đã dạy bài này bên Sở Công An. Hắn dạy lại.
Hai Phận, tinh hoa của cộng sản đấy. Chúng tôi đã được học tập cải tạo tư tưởng như thế với những ông thầy như thế. Sau buổi họp “chuẩn bị tư tưởng” ăn sắn, ăn khoai, chúng tôi ăn sắn, ăn khoai thay cơm. Tại sao Hai Phận phải “triệu tập” cuộc họp “đột xuất”? Vì đề lao Gia Định là đề lao kiểu mẫu của thành phố. Chế độ muốn làm dáng dân chủ trong nhà tù. Đã xẩy ra một lần cơm đầy thóc, nhiều phòng... tuyệt thực. Tù nhân phản đối: Chúng tôi không giống gà. Chấp pháp phê bình quản giáo, thay đổi một trưởng khu. Họ sợ giữa thành phố, tù nhân nổi loạn sẽ tạo tiếng xấu cho cách mạng.
Biến cố thứ hai: Nổ kho đạn ở Long Bình. Tù nhân sung sướng, tưởng chừng sắp xô gục cửa ngục mà ra. Cả buổi chiều, hành lang vắng bóng công an. Đạn nổ ầm ầm. Nhưng đâu lại vào đó. Đạn ngưng nổ, ước mơ của tù nhân tắt lịm. Ngoài đời, dân gian cũng tuyệt vọng không kém. Những tù nhân “to tiếng bàn luận” vụ nổ bị làm kiểm điểm, bị cúp thăm nuôi. 7 C-1 bình yên nhờ “lãnh tụ” Đoàn Kế Tường bảo anh em “im lặng” nghe đạn nổ. Sinh hoạt đề lao bình thường.
Thêm một sáng tạo ăn. Nghe đồn Đức Giáo Hoàng bán đấu giá vương miện lấy tiền mua bột mì tặng tù nhân chính trị Việt Nam. Đề lao xây lò bánh mì. Bánh mì đề lao thiếu bột nổi. Ăn nóng thì rát họng, ăn nguội thì mỏi răng. Để đến ngày mai thì y hệt cái giầy tã. Bèn đề xuất bánh tầm bì không bì heo. Rồi bánh cuốn. Rồi mì sợi nấu với nước muối. Mì sợi bị chê, đề lao trở về cơm hẩm. Tiêu chuẩn ca đầy ngọn chì còn lưng ca.
Đúng dịp cơm tù bị bớt để trả nợ chiến tranh giải phóng, Doãn Quốc Sĩ ra cachot sau 11 tháng “thiền” trong bóng tối. Anh về 6C-1 ở chung với Thái Thủy. Tôi bị đuổi qua 3C-1. Thời gian ở 7C-1, Đoàn Kế Tường tả cho tôi nghe các cachots anh đã nằm, các hình phạt anh đã chịu. Hồi ở 5C-2, tôi đã chứng kiến Đoàn Kế Tường chửi quản giáo Hùng kẽm gai. (Hùng mở cửa cho cơm vào phòng. Một tù nhân thấy thùng canh rau muống già, ngao ngán nói: “Lại canh kẽm gai”. Hùng bắt bẻ. Tù nhân tặng nó biệt danh Hùng kẽm gai). Hùng kẽm gai báo cáo Hai Phận. Hai Phận đến tận phòng hỏi:
- Đứa nào dám chửi cán bộ cách mạng dã man?
Đoàn Kế Tường đáp:
- Không có đứa nào cả. Tôi đây. Nội quy cấm ông ăn nói lỗ mãng.
Hai Phận nổi giận:
- Nội quy của ai?
- Của nhà tù. Tôi đọc cho ông nghe: “Can phạm gọi cán bộ là anh xưng tôi. Cán bộ gọi can phạm là anh xưng tôi”.
- Anh dám chửi cán bộ.
-Tôi chửi luôn chế độ dã man!
Hai Phận bắt Đoàn Kế Tường ra làm việc. Vị anh hùng đề lao Gia Định, người nằm cachot bị ra phòng tập đã đập cửa hò hét xin trở lại cachot, đâu ngán cachot.
Tù nhân ở C-2 phục chàng quá. Hai Phận làm việc xong, đưa chàng về. Hắn cho chàng gặp vợ con. Hắn cho chàng khiêng đồ ngày thăm nuôi. Hắn cho chàng chế thuốc ở Y Tế. Chàng nóng tính đánh nhau với ai, kẻ bị chàng đánh đi kỷ luật, chàng bình yên.
- Đang là anh hùng, em trở thành “ăng-ten” anh ạ! Cộng sản thâm hiểm thật.
Cộng sản thâm hiểm, dĩ nhiên. Hạ gục uy tín vị anh hùng, tạo mâu thuẫn để tín đồ bôi bẩn thần tượng rồi bỏ rơi thần tượng. Lúc ấy, thần tượng đã nhào, anh hùng đã hèn mọn! Thay vì người ta “học tập" thủ đoạn cộng sản, người ta chỉ nghị luận “ăng-ten”. Người ta khó mà khôn lớn, dẫu nằm tù cộng sản suốt đời.
Đến 3C-1, tôi gặp cụ Đỗ Văn Lựu, nhạc phụ của tướng Phạm Văn Phú. Vị đại tá Ngự Lâm Quân này, thời còn đeo lon trung úy, đã đóng ở tô giới Thượng Hải, đã có những trang tình sử với các kiều nữ Tô Châu. Trung thành với Bảo Đại, cụ Lựu chống Ngô Đình Diệm, bị Diệm bỏ tù. Hôm nay, cụ vào tù cộng sản về tội phản động, về tội phó thủ tướng chính phủ Liên Bang Đông Dương. 1 Tôi gặp Hoàng Mạnh Hùng, tiến sĩ, giáo sư đại học Bách Khoa. Tôi gặp Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long. Tôi gặp Tổng giám đốc nhà phát hành Nam Cường. Tôi gặp Đặng Hải Sơn. Tôi gặp nhóm bạn trẻ Song Vĩnh. Tôi gặp cụ Nguyễn Đồng chăn bò làng Song Vĩnh bỗng trở thành đại phản động. Trưởng phòng 3C-1 là gã Việt cộng gốc Quảng Nam. Tôi quên họ của hắn, chỉ nhớ hắn tên Đoan. Hắn vào tù vì tội tham nhũng. Đoan tập kết trở về. Trong số các trưởng phòng tôi biết, Đoan là thằng khốn nạn nhất. Giữa hắn và tù nhân có một sự cách ly ngấm ngầm. Chúng tôi không nói chuyện với hắn. Đoan cấu kết với tên Ba, can tội vượt biên. Không khí 3C-1 căng thẳng. Hắn bắt chúng tôi thay phiên nhau đọc báo Nhân Dân và phát biểu cảm tưởng những gì mình thu hoạch. Giờ đọc báo, Đoan quan sát các tù nhân có ngủ gục. Hắn yêu cầu ngồi nghiêm chỉnh nghe báo Đảng. Những giờ hành chính, tù nhân không được nằm.
Các bạn trẻ 3C-1 thường tụ tập quanh tôi nghe “quay phim” Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng. Và tôi bị Đoan báo cáo là tuyên truyền phản cách mạng, bị Hai Phận gọi ra nạo dũa tơi bời. Không sao, bù lại tôi gặp Nguyễn Văn Quả, 2 binh nhì Thủy quân Lục chiến, hiền như đất, nói ngọng níu lưỡi mà dám làm phản động có đại liên, có tổ chức. Tôi yêu những người như Quả biết mấy. Đi chiến đấu là để chiến đấu. Thế thôi. Khác hẳn những ông sư đoàn trưởng Phục Quốc Quân vốn đeo lon hạ sĩ, trung sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. A, tôi còn gặp Quang dù (anh ta bảo anh ta là đại úy), người thấp, ngực đầy lông, chân mang thương tích, nắm chức vụ Tư lệnh Lực Lượng Kháng Chiến thủ đô. Anh em quen gọi đùa Quang dù là ông Đô trưởng. Đô trưởng rất ham nói, dẫu nói nhăng nói cuội, và rất dễ chọc giận. Anh ta bị quân báo bắt, bị nhốt ở Tô Hiến Thành, bị đánh sưng phổi. Vài hôm quen với 3C-1, Hoàng Mạnh Hùng 3 sang chỗ tôi tâm sự còm:
- Trước ngày bị bắt, tôi định đi gặp ông?
- Làm gì?
- Mời ông xuất ngoại với chúng tôi.
- Để làm gì?
- Chiến đấu!
A, lại thêm một người mời tôi chống cộng vào lúc “trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.”
- Chừng đi gặp ông thì hay tin ông đã bị bắt.
- Và ông cũng bị bắt.
- Không ngờ gặp ông tại phòng này.
Hoàng Mạnh Hùng du học ở Mỹ về. Anh ta đã từ chối không nhận chức thứ trưởng Văn hóa Giáo dục của chính phủ Thiệu. Quốc gia cực đoan như Duy Dân, anh ta xếp các chính phủ Việt Nam từ sau 1945 là ngụy quyền. Để tiện phân biệt, anh ta chia hai: Hà Nội phỉ quyền, Saigon ngụy quyền. Anh ta muốn chiến đấu cho một chính quyền. Và như thế, cần thiết cuộc chiến đấu phải mới, thật mới với tư tưởng mới và lãnh đạo mới. Tôi đồng ý. Chúng tôi trở thành thân. Tôi bắt đầu sống bằng ước mơ ở 3C-1. ít nhất còn một người hiểu giá trị tung hoành của ngòi bút của tôi. Tôi kể cho Hoàng Mạnh Hùng nghe “nội các” Đinh Xuân cầu.
Anh ta nói:
- Cộng sản đã lưu manh hoá thị dân miền Bắc và cả nông dân miền Bắc nữa. Mỹ và ngụy quyền đã lưu manh hóa thị dân miền Nam, bây giờ, thêm cộng sản. Chúng ta phải nghĩ đến nông dân miền Nam còn chân thật mà chiến đấu. Và phải quên những thứ Trương Phiên, Bùi Ngọc Phương nhan nhản cuộc sống hôm qua, hôm nay. Tôi chỉ còn tin đám trẻ. Ông đã đi nhiều phòng giam, chắc ông đã rõ, đám trẻ hào sảng và nhiệt tình vô cùng. Họ không biết thở đài.
Tôi ghi nhận điểm son chói lọi này.
- Tại sao trước 1975 ông không tìm tôi.
- Tôi ngại!
- Ngại gì?
- Ông cao ngạo bỏ mẹ đi ấy, tìm ông sợ bị ông đồng hoá với bọn bẩn, ông chửi mất mặt. Nhiều người ghét ông vì ông cao ngạo!
- Ngộ nhận cả, ông ạ!
Chưa ai gặp tôi nói chuyện có ý nghĩa cho cuộc đời phải thất vọng về tôi hết. Người ta không gặp tôi rồi bảo tôi cao ngạo! Một lần, người ta đề nghị tôi vào ban giám khảo văn chương toàn quốc, tổng trưởng Ngô Khắc Tinh nói: “Đừng đừng, ông ta nhận không sao nhưng ông ta từ chối, ông ta sẽ chửi bới um sùm.” Toàn tưởng tượng rồi ghim thành kiến xấu. Lại một lần, có ông tướng hồi hưu muốn ra nhật báo, nhờ người kiếm tôi làm chủ bút. Tôi đặt vấn đề lương: 200 ngàn một tháng. Đáng lẽ 150 ngàn thôi. Chủ nhiệm một tuần báo đi làm thuê cho chủ nhiệm một nhật báo phải 200 ngàn. Ông tướng đồng ý. Tôi đòi trả trước 5 tháng lương. Tại sao? Vì nhỡ báo ông xuất bản được hai tháng, cao hứng ông dẹp tiệm hay cạn vốn ông dẹp tiệm, tôi mất tiếng cần gỡ tiền. Làm báo phải chịu đựng, ít nhất, sáu tháng. Ông tướng lắc đầu và bảo tôi cao ngạo. Quyền lợi hợp lý mà cũng cao ngạo à? Thêm lần nữa, ông Nguyễn Văn Bé xuất bản nhật báo Thách Đố mời tôi viết vài mục. Tôi đòi 200 ngàn một tháng, đưa trước một tháng và sẽ viết từ số 2 nếu báo của ông ta đúng lập trường tôi đã đồng ý với ông ta. Ông Bé lôi tên tôi quảng cáo om sòm. Báo Thách Đố ra số 1. Đó là nhật báo đốn mạt, tôi không viết. Đem tên tuổi tôi quảng cáo đã đủ 200 ngàn. Chưa kể tôi sẽ kiện Thách Đố để Tô Văn viết bài ký tên tôi. Có gì đâu mà cao ngạo?
- Tôi nghĩ thế.
- Bây giờ ông còn thấy tôi cao ngạo không?
- Không, với tôi.
- Dĩ nhiên là với những người đừng để tôi coi thường, bất cứ nơi chốn nào. Tôi yêu và phục tất cả những người tài năng, những người có tâm hồn. Tôi ít học, có dốt nhưng không ngu. Nói chuyện với tôi vài câu là, hoặc tôi yêu mến, hoặc tôi khinh bỉ. Tôi không cao ngạo. Ai sống có chính kiến cũng đều giống tôi. Tôi không thích làm hòn bi với triết lý ba phải. Tôi chỉ có thể là nghệ sĩ là chiến sĩ mà không thể là chính khách hay chính trị gia. Tôi không thích làm vừa lòng mọi người. Với tôi, thiện và ác rõ rệt, xấu và đẹp phân minh, dối và thật sáng tỏ. Sự lầm lẫn của tôi là yêu ai thì yêu hết mình, ghét ai thì ghét hết mình. Tôi bằng lòng sự lầm lẫn đó và trung thành suốt đời với sự lầm lẫn đó. Bởi tôi không cần ai bỏ phiếu cho tôi.
- Người ta sẽ dùng ông như một kẻ châm lửa cho một phong trào.
- Ai là người ta?
- Tuổi trẻ có tâm hồn.
- Tôi rất mong được hầu hạ những người ấy. Những người ấy có quyền cưỡi lên lưng tôi. Tôi tình nguyện làm con ngựa già nhẫn nại. Những thằng lãnh tụ khụ khị thì đừng hòng. Chúng nó có gì hơn tôi? Và chúng nó cứ ghét tôi, cứ bảo tôi cao ngạo. Tôi phục vụ cho tương lai, không cho dĩ vãng.
Tháng 6-1977, một số bạn trẻ rời đề lao đi lao động cải tạo, một số bị chuyển phòng vì chống tên Đoan. 3C-1tiếp nhận người mới, có Nguyễn Văn Mẫn bộ đội đào ngũ (anh này đã ở với tôi tại 6C-1, 7C-1) và Lê Văn Nhân, trưởng phòng thương nghiệp. Anh Nhân “30 năm đời ta có Đảng,” tập kết năm 1954, về Nam năm 1975. Anh quê Rạch Giá, hồi hương giữ chức trưởng phòng thương nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Vợ anh người Hà Nội, cháu nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Muốn loại bỏ thành phần tập kết, chế độ lấy lý do anh ở nhà lầu, đi xe Fiat (của gia đình ở Saigon cho), chụp lên đầu anh ta cái mũ “mất phẩm chất cách mạng”, tịch thu thẻ Đảng, khai trừ anh ta ra khỏi Đảng rồi tống anh vào nhà tù. Khi khép cửa phòng lại, Hai Phận nói với anh ta:
- Bây giờ anh đã trở thành kẻ thù của Đảng, của nhân dân, anh hết là đồng chí của chúng tôi. Anh được đối xử như mọi can phạm.
Tình nghĩa và tình cảm cộng sản đó. Những anh chị cộng sản làm dáng, làm cảnh, vừa tích cực hoạt động Hội vừa nhẩy đầm nên suy nghĩ. “Ba mươi năm đời ta có Đảng” vẫn nằm tù. Thì cái thứ cộng sản dây máu ăn phần... về quê thăm nước ra cái gì nhì? Anh Nhân có vẻ khoái tôi. Tôi thì méo mó nghề nghiệp cứ thích “phỏng vấn” can phạm Việt cộng.
- Thật sự anh can tội chi?
- Chiến chinh đã tàn, cung nỏ đốt cháy. Đấy, tội của tôi.
Chúng nó muốn người Bắc nắm mọi chức vụ.
- Bác Hồ dạy “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” mà?
- Ổng nằm hòm kính rồi.
- Anh tin ai nữa?
- Hết, tôi không tin ai nữa. Có mỗi thứ để tin là Đảng, Đảng chơi quá nặng tin ai bây giờ?
Cùng với anh Nhân, một đảng viên trung kiên cũng vô cachot đối diện 3C-1. Anh này tối ngày chỉ hát hai bài và mỗi bài hai câu:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời bác nay thành chiến thắng huy hoàng...
........
Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay
Đất nước thanh bình lòng ta mê saysay
- Thằng ấy dân tập kết như tôi, anh Nhân nói.
Dân tập kết, giám đốc công ty xuất khẩu thảm Trương Văn Loan nằm ở 5 C-l, chủ nhiệm công ty ăn uống quốc doanh nằm ở 4C-1, vân vân. Anh Nhân thường để dành miếng cháy bữa chiều làm điểm tâm sáng sau. Lúc anh nhai cháy, anh nhìn tôi, nghẹn ngào hát: Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay. Hoàng Mạnh Hùng bảo, cuộc chiến đấu mới cần mở rộng cho những Lê Văn Nhân tham dự. Họ đã thấm đòn cộng sản, họ sẽ phóng lên tuyến đầu. Tôi đồng ý. Nhưng sự đồng ý của tôi, sự gần gũi những người cộng sản đã “trở thành kẻ thù của Đảng, của nhân dân” đã làm khó chịu những người quá khích. Họ không muốn nhìn kẻ bị cộng sản khu trừ như một con người, con người đang khốn khổ như những con người trong ngục tù cộng sản, con người đang khao khát chiến đấu phục hận. Cái nhìn xa không giống cái nhìn gần. Cận thị và viễn thị khác nhau. Không giống và khác nhau tạo thành bất đồng quan điểm. Khi quan điểm bị nâng lên, sự bất đồng thay đổi triệu chứng. Cái triệu chứng khốn kiếp nhất là bôi bẩn nếu chưa quyền bính, là tàn sát nếu có quyền bính, Con người muốn sống đích thực với lòng mình thật khó. Nó sẽ cô đơn khôn cùng. Để thoát khỏi cô đơn, nó phải toa rập với đám đông thường là mê muội, độc đoán, ngu xuẩn. Thế thì con người chọn cái đích thực phải căng ra mà hứng những mũi tên tẩm thuốc độc. Hơn bất cứ ai, nghệ sĩ sáng tạo cần thiết cô đơn. Bởi vì, từ trong nỗi cô đơn, anh sẽ soi sáng được chân lý, anh sẽ dâng hiến cho đời sống những ý nghĩa mầu nhiệm về con người, về cuộc đời. Tôi bắt đầu chê bỏ thứ tiểu thuyết mua vui của các chuyên viên phơi-ơ-tông. Loại penilletonistes rỗng tuếch tư tưởng xem chừng đã lạc hậu ỏ cái thế lưu vong của chúng ta. Không thể réo gọi thời đại bằng nước mắt những cuộc tình lẩm cẩm. Cũng dễ hiểu thôi, loại này trăm năm chưa biết cô đơn là cái gì. Những kẻ ồn ào dễ a dua, toa rập. Họ cần có im lặng và bóng tối để truy nã bản thân mình.
3C-1 cho tôi nhiều suy nghĩ. Một trong những suy nghĩ của tôi là trường hợp ông Nam Cường. Vợ ông nằm vùng làm tới chức Phường trưởng. Ông vẫn đi tù. Trường hợp thứ hai không đáng suy nghĩ nhưng cũng nên nhắc: Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam tổng phát hành, cậu ruột của Mai Văn Bộ, tê liệt ở đề lao Gia Định. Bộ vào thăm mà không thể xin cho cậu mình được tha. Bạn sẽ có một định nghĩa nào về tình cảm cộng sản?
--------------------------------
1 Sẽ viết chi tiết về Chính Phủ Liên Bang Đông Dương ở phần ba.
2 Năm 1978, Quả ra tòa cùng tổ chức, lãnh án 25 năm, bị đưa sang Chí Hòa.
3 Đã có mặt tại Santa Ana, California, USA.
Chương trướcMục lụcChương sau
Ba ngày Tết, các tù nhân nguy hiểm ở cachot được “giải phóng” xiềng xích. Nguyễn Việt Hưng, tướng Phục Quốc Nguyễn Việt Hưng, thường đứng dán mặt vào ô cửa nói chuyện với chúng tôi. Các bạn trẻ của 1C-1 đấu ào ào, bất chấp Nội quy. Ổng Hưng hỏi thăm tôi chuyện “nội các” Đinh Xuân Cầu khiến tôi tê tái. Ở đề lao Gia Định, tất cả can phạm phản động đều quý mến ông Đinh Xuân Cầu. Chuyện Hai Nghiêm mỉa mai ông “Mặt anh mà đòi làm thủ tướng à?” đã thành giai thoại ở đề lao. Ông Cầu đang nằm tại 7C-2, vào cachot vì Sao giò trốn trại. Sau ba ngày Tết, Nguyễn Việt Hưng bị máng chân vào cùm ở ngay tường, ông ta phải nằm ngửa suốt ngày đêm, trừ hai bữa ăn. Tù nhân vụ Vinh Sơn có người nhái AIi Hùng thổi sáo tuyệt diệu. Về khuya, Ali Hùng trổ tài Trương Lương. Tiếng sáo của anh ta buồn não nuột. Cả khu C-1 thức nghe anh ta thổi sáo. Trong hơi sáo sầu của Ali Hùng, chợt nổi lên một giọng nữ gai góc từ khu B vọng sang “Báo cáo cán bộ phòng 4 có người bệnh nặng”, tưởng chừng nhạc thiều âm ty. Tôi đã sống những phút giây hãi hùng và kỳ ảo đó. Nghĩa đời không phải ở đấy. Nhưng ở đấy, người ta tìm thấy nghĩa đời.
Hạ tuần tháng 2-1977, Toà án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh xử vụ Vinh Sơn. Sáng sớm, mỗi tù nhân được phát một ổ bánh mì rồi bị xích chân còng tay đưa tới Tòa án. Buổi chiều được dẫn về. Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn Vãn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp và hai người tôi không biết tên ở cachot 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 đã hầu toà ba ngày liên tiếp. Buổi chiều cuối cùng của phiên tòa chung thẩm, khi trở lại cachot Nguyễn Việt Hưng dơ ba ngón tay rồi dùng gan bàn tay chặt lên gáy mình, ông ta báo tin có ba tù nhân bị xử tử. Vài hôm sau, bẩy tù nhân vụ Vinh Sơn chuyển cachot. Chúng tôi hết được nghe Ali Hùng huýt sáo đêm khuya. Bẩy cái cachots dành cho tù nhân mới mà hai cái là nơi “ngự trị” của hai nữ hoàng cachot Hoàng Thị Nga và Ngô Thị Lan. Doãn Quốc Sĩ, hình như, ở cachot số 9. Tôi lại bị gọi sang khu A làm việc với chấp pháp số 11, người Thanh Hoá.
Chấp pháp số 11 yêu cầu tôi bổ sung bản tự khai liên hệ với văn nghệ sĩ Hà Nội. Hắn muốn biết ngoài tôi còn anh em nào thù tạc văn nghệ sĩ Hà Nội không và tôi nghe thấy gì do anh em khác kể lại. Bản tự khai bổ sung rất ngắn. Vì tôi không biết, không nghe, không thấy. Chấp pháp số 11 nhã nhận. Hắn không hạch hỏi. Tôi viết buổi sáng là xong. Buổi chiều hắn mạn đàm:
- Anh Duyên Anh, tại sao anh giao du nhiều mà chỉ khai có một bạn thân.
- Tôi ít bạn.
- Tại sao?
- Vì tôi ưa viết báo công kích, không ai thích thân với tôi.
Câu trả lời của tôi hợp lý quá. Chẳng còn gì nhảm hơn là khai hết tên bạn bè để làm phiền họ, nhỡ họ bị công an chiếu cố. Mà thực ra, bạn thân đúng nghĩa trước 1975, tôi chỉ có một người. Là Đặng Xuân Côn. Ngày Đặng Xuân Côn vượt biên, tôi bị hạch hỏi, bị quay chóng mặt- Như ngày Nhật Tiến vượt biên, dù đã được tha, Nguyễn Đình Toàn vẫn bị gọi lên Sở Công An viết... tự khai.
Chấp pháp số 11 không yêu cầu gì thêm, hỏi vẩn vơ hai ba câu rồi nói chuyện văn nghệ... tiền chiến. Tôi làm việc với hắn vỏn vẹn một ngày. Bất thình lình, 1C-1 bị giải tán. Từng nhóm, từng nhóm, tù nhân khăn gói quả mướp chuyển tới các phòng ở khắp đề lao. Tôi vào tuốt 7C-1, phòng giam tăm tối và hôi hám. Vì cần tiến nhanh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa nên ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh đã xây cái chuồng heo tại góc sân sát vỉa hè Phan Đăng Lưu, sát tường sau 7C-1. Tù nhân tha hồ hít thở phân tiểu heo cách mạng, hương thơm của chủ nghĩa ưu việt. Tôi “tái ngộ” vua cachot Đoàn Kế Tường ở đây. Ở đây, đầy đủ mặt phản động. Già có cụ Cao Văn Diên, cụ Trần Văn Liễu, cụ Nguyễn Văn Thông. Trẻ có Hoàng Sơn Trường, Đinh Cường, Nguyễn Hữu Trí. Tư sản mại bản có Đỗ Bá Thúc đã từng làm Thứ trưởng thời Diệm và dạy ở trường Luật. Linh mục Phạm Minh Thiện cũng về 7C-1 “họp đàn”. Ngoài phản động còn có vài tù nhân vượt biên, vài cảnh sát đặc biệt trốn trình diện. Sĩ quan mới phải trình diện. Riêng an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, hạ sĩ quan cũng phải trình diện học tập cải tạo. Và Phủ trung ương tình báo thì anh gác cổng, anh bưng nước đều... tình báo hết. Ra đi lâu về. Hoặc ra đi không về. Trưởng phòng tên Nguyễn Văn Mâu do Hai Phận chỉ định. Tôi đã có tí chức tước: Thư ký tù, chuyên viết biên bản các buổi họp cuối tuần và lập danh sách mua hàng chợ.
Hai Phận sáng tạo kiểu điểm danh mới. Ngày hai lần, sáng và chiều, hắn bắt tù nhân ra xếp hàng đôi ngay ngắn. Trưởng phòng hô “nghiêm” rồi báo cáo:
- Báo cáo ông Trưởng khu, phòng 7 hiện diện 56 người đủ.
Hai Phận vĩ đại hất tay:
- Được.
Chúng tôi lần lượt dơ tay đọc số, đọc tên và vào phòng. Hai Phận mở cuộc thi đua vệ sinh, ngăn nắp cho tù nhân. Khẩu hiệu của hắn: “Bỏ cờ trắng, vượt cờ xanh, giành cờ đỏ”. Điểm danh cũng được tính điểm thi đua. Tù nhân thi đua ở tù! Nhờ màn thi đua nên có cuộc họp trưởng phòng toàn khu. Thư ký đi ghi chép biên bản. Tôi được gặp Mặc Thu Nguyễn Viết Khánh, Thanh Thương Hoàng và được biết anh em của tôi đã “họp đàn” hết tại đề lao Gia Định, Đủ mặt. Lúc này, Hai Phận vĩ đại thống lãnh lưỡng khu C-1, C-2. Chúng tôi có một tháng thi đua. Phái đoàn trưởng phòng tham quan các phòng và... chấm điểm. Tù chấm điểm tù. 7C-1 cầm cờ trắng hạng bét vì toàn mùi phân heo và mùi ghẻ mủ. Hai Phận chửi chúng tôi ăn ở bẩn thỉu. Hắn ví chúng tôi với heo và ra lệnh cho chúng tôi “phải khắc phục mùi phân heo”!
Năm 1977 có hai biến cố. Biến cố thứ nhất: Toàn dân ăn độn. Biến cố này được dân gian đánh dấu bằng lời ca số 2 của ca khúc Miền Đông đất đỏ:
Ai đã qua miền Đông đất đỏ
Xem xe chở vào thành phố khoai mì
Cả khoai lang và rồi thì khoai bí
Dân mình xếp hàng mua kí về ăn
......
Tổ quốc ơi!
Ăn khoai mì ngán quá
Từ giải phóng đến nay
Ta ăn độn dài dài
Từ giải phóng đến nay
Ta ăn độn bằng khoai...
Hai Phận “triệu tập” một phiên họp “đột xuất”. Các trưởng phòng và thư ký đi phó hội. Hai Phận buồn bã nói:
- Trung Quốc nó đòi nợ, ta phải trả nợ nó, ta không thèm khất nợ, ta trả hết, trả khẩn trương. Do đó, từ mai, các anh sẽ ăn độn. Các anh khắc phục ăn khoai, ăn sắn nhé! Cũng đầy đủ vi-ta-min. Đấy, gà nó ăn ngô béo ra phết. Lợn nó ăn khoai thịt vẫn ngon.
Chúng tôi không dám cười. Hai Phận đau đớn:
- Người ta cứ bảo đất miền Nam tốt, làm không ăn có, ném thóc giống rồi nhắm mắt chờ mùa gặt. Thế mà từ giải phóng, hết hạn hán lại lụt lội...
Hai Phận vò đầu bứt tóc.
- Trời hại ta, trời cũng theo đế quốc Mỹ!
Tôi thấy Hai Phận đích thực vĩ đại hơn Hồ Chí Minh vĩ đại. Hắn trấn an chúng tôi:
- Nhưng ta đã có mỏ dầu hỏa ở Tiền Hải, Thái Bình. Mỏ ngay trên đất, không cần giàn khoan, không cần nhà máy lọc...
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Hai Phận đã dạy bài này bên Sở Công An. Hắn dạy lại.
Hai Phận, tinh hoa của cộng sản đấy. Chúng tôi đã được học tập cải tạo tư tưởng như thế với những ông thầy như thế. Sau buổi họp “chuẩn bị tư tưởng” ăn sắn, ăn khoai, chúng tôi ăn sắn, ăn khoai thay cơm. Tại sao Hai Phận phải “triệu tập” cuộc họp “đột xuất”? Vì đề lao Gia Định là đề lao kiểu mẫu của thành phố. Chế độ muốn làm dáng dân chủ trong nhà tù. Đã xẩy ra một lần cơm đầy thóc, nhiều phòng... tuyệt thực. Tù nhân phản đối: Chúng tôi không giống gà. Chấp pháp phê bình quản giáo, thay đổi một trưởng khu. Họ sợ giữa thành phố, tù nhân nổi loạn sẽ tạo tiếng xấu cho cách mạng.
Biến cố thứ hai: Nổ kho đạn ở Long Bình. Tù nhân sung sướng, tưởng chừng sắp xô gục cửa ngục mà ra. Cả buổi chiều, hành lang vắng bóng công an. Đạn nổ ầm ầm. Nhưng đâu lại vào đó. Đạn ngưng nổ, ước mơ của tù nhân tắt lịm. Ngoài đời, dân gian cũng tuyệt vọng không kém. Những tù nhân “to tiếng bàn luận” vụ nổ bị làm kiểm điểm, bị cúp thăm nuôi. 7 C-1 bình yên nhờ “lãnh tụ” Đoàn Kế Tường bảo anh em “im lặng” nghe đạn nổ. Sinh hoạt đề lao bình thường.
Thêm một sáng tạo ăn. Nghe đồn Đức Giáo Hoàng bán đấu giá vương miện lấy tiền mua bột mì tặng tù nhân chính trị Việt Nam. Đề lao xây lò bánh mì. Bánh mì đề lao thiếu bột nổi. Ăn nóng thì rát họng, ăn nguội thì mỏi răng. Để đến ngày mai thì y hệt cái giầy tã. Bèn đề xuất bánh tầm bì không bì heo. Rồi bánh cuốn. Rồi mì sợi nấu với nước muối. Mì sợi bị chê, đề lao trở về cơm hẩm. Tiêu chuẩn ca đầy ngọn chì còn lưng ca.
Đúng dịp cơm tù bị bớt để trả nợ chiến tranh giải phóng, Doãn Quốc Sĩ ra cachot sau 11 tháng “thiền” trong bóng tối. Anh về 6C-1 ở chung với Thái Thủy. Tôi bị đuổi qua 3C-1. Thời gian ở 7C-1, Đoàn Kế Tường tả cho tôi nghe các cachots anh đã nằm, các hình phạt anh đã chịu. Hồi ở 5C-2, tôi đã chứng kiến Đoàn Kế Tường chửi quản giáo Hùng kẽm gai. (Hùng mở cửa cho cơm vào phòng. Một tù nhân thấy thùng canh rau muống già, ngao ngán nói: “Lại canh kẽm gai”. Hùng bắt bẻ. Tù nhân tặng nó biệt danh Hùng kẽm gai). Hùng kẽm gai báo cáo Hai Phận. Hai Phận đến tận phòng hỏi:
- Đứa nào dám chửi cán bộ cách mạng dã man?
Đoàn Kế Tường đáp:
- Không có đứa nào cả. Tôi đây. Nội quy cấm ông ăn nói lỗ mãng.
Hai Phận nổi giận:
- Nội quy của ai?
- Của nhà tù. Tôi đọc cho ông nghe: “Can phạm gọi cán bộ là anh xưng tôi. Cán bộ gọi can phạm là anh xưng tôi”.
- Anh dám chửi cán bộ.
-Tôi chửi luôn chế độ dã man!
Hai Phận bắt Đoàn Kế Tường ra làm việc. Vị anh hùng đề lao Gia Định, người nằm cachot bị ra phòng tập đã đập cửa hò hét xin trở lại cachot, đâu ngán cachot.
Tù nhân ở C-2 phục chàng quá. Hai Phận làm việc xong, đưa chàng về. Hắn cho chàng gặp vợ con. Hắn cho chàng khiêng đồ ngày thăm nuôi. Hắn cho chàng chế thuốc ở Y Tế. Chàng nóng tính đánh nhau với ai, kẻ bị chàng đánh đi kỷ luật, chàng bình yên.
- Đang là anh hùng, em trở thành “ăng-ten” anh ạ! Cộng sản thâm hiểm thật.
Cộng sản thâm hiểm, dĩ nhiên. Hạ gục uy tín vị anh hùng, tạo mâu thuẫn để tín đồ bôi bẩn thần tượng rồi bỏ rơi thần tượng. Lúc ấy, thần tượng đã nhào, anh hùng đã hèn mọn! Thay vì người ta “học tập" thủ đoạn cộng sản, người ta chỉ nghị luận “ăng-ten”. Người ta khó mà khôn lớn, dẫu nằm tù cộng sản suốt đời.
Đến 3C-1, tôi gặp cụ Đỗ Văn Lựu, nhạc phụ của tướng Phạm Văn Phú. Vị đại tá Ngự Lâm Quân này, thời còn đeo lon trung úy, đã đóng ở tô giới Thượng Hải, đã có những trang tình sử với các kiều nữ Tô Châu. Trung thành với Bảo Đại, cụ Lựu chống Ngô Đình Diệm, bị Diệm bỏ tù. Hôm nay, cụ vào tù cộng sản về tội phản động, về tội phó thủ tướng chính phủ Liên Bang Đông Dương. 1 Tôi gặp Hoàng Mạnh Hùng, tiến sĩ, giáo sư đại học Bách Khoa. Tôi gặp Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long. Tôi gặp Tổng giám đốc nhà phát hành Nam Cường. Tôi gặp Đặng Hải Sơn. Tôi gặp nhóm bạn trẻ Song Vĩnh. Tôi gặp cụ Nguyễn Đồng chăn bò làng Song Vĩnh bỗng trở thành đại phản động. Trưởng phòng 3C-1 là gã Việt cộng gốc Quảng Nam. Tôi quên họ của hắn, chỉ nhớ hắn tên Đoan. Hắn vào tù vì tội tham nhũng. Đoan tập kết trở về. Trong số các trưởng phòng tôi biết, Đoan là thằng khốn nạn nhất. Giữa hắn và tù nhân có một sự cách ly ngấm ngầm. Chúng tôi không nói chuyện với hắn. Đoan cấu kết với tên Ba, can tội vượt biên. Không khí 3C-1 căng thẳng. Hắn bắt chúng tôi thay phiên nhau đọc báo Nhân Dân và phát biểu cảm tưởng những gì mình thu hoạch. Giờ đọc báo, Đoan quan sát các tù nhân có ngủ gục. Hắn yêu cầu ngồi nghiêm chỉnh nghe báo Đảng. Những giờ hành chính, tù nhân không được nằm.
Các bạn trẻ 3C-1 thường tụ tập quanh tôi nghe “quay phim” Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng. Và tôi bị Đoan báo cáo là tuyên truyền phản cách mạng, bị Hai Phận gọi ra nạo dũa tơi bời. Không sao, bù lại tôi gặp Nguyễn Văn Quả, 2 binh nhì Thủy quân Lục chiến, hiền như đất, nói ngọng níu lưỡi mà dám làm phản động có đại liên, có tổ chức. Tôi yêu những người như Quả biết mấy. Đi chiến đấu là để chiến đấu. Thế thôi. Khác hẳn những ông sư đoàn trưởng Phục Quốc Quân vốn đeo lon hạ sĩ, trung sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. A, tôi còn gặp Quang dù (anh ta bảo anh ta là đại úy), người thấp, ngực đầy lông, chân mang thương tích, nắm chức vụ Tư lệnh Lực Lượng Kháng Chiến thủ đô. Anh em quen gọi đùa Quang dù là ông Đô trưởng. Đô trưởng rất ham nói, dẫu nói nhăng nói cuội, và rất dễ chọc giận. Anh ta bị quân báo bắt, bị nhốt ở Tô Hiến Thành, bị đánh sưng phổi. Vài hôm quen với 3C-1, Hoàng Mạnh Hùng 3 sang chỗ tôi tâm sự còm:
- Trước ngày bị bắt, tôi định đi gặp ông?
- Làm gì?
- Mời ông xuất ngoại với chúng tôi.
- Để làm gì?
- Chiến đấu!
A, lại thêm một người mời tôi chống cộng vào lúc “trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.”
- Chừng đi gặp ông thì hay tin ông đã bị bắt.
- Và ông cũng bị bắt.
- Không ngờ gặp ông tại phòng này.
Hoàng Mạnh Hùng du học ở Mỹ về. Anh ta đã từ chối không nhận chức thứ trưởng Văn hóa Giáo dục của chính phủ Thiệu. Quốc gia cực đoan như Duy Dân, anh ta xếp các chính phủ Việt Nam từ sau 1945 là ngụy quyền. Để tiện phân biệt, anh ta chia hai: Hà Nội phỉ quyền, Saigon ngụy quyền. Anh ta muốn chiến đấu cho một chính quyền. Và như thế, cần thiết cuộc chiến đấu phải mới, thật mới với tư tưởng mới và lãnh đạo mới. Tôi đồng ý. Chúng tôi trở thành thân. Tôi bắt đầu sống bằng ước mơ ở 3C-1. ít nhất còn một người hiểu giá trị tung hoành của ngòi bút của tôi. Tôi kể cho Hoàng Mạnh Hùng nghe “nội các” Đinh Xuân cầu.
Anh ta nói:
- Cộng sản đã lưu manh hoá thị dân miền Bắc và cả nông dân miền Bắc nữa. Mỹ và ngụy quyền đã lưu manh hóa thị dân miền Nam, bây giờ, thêm cộng sản. Chúng ta phải nghĩ đến nông dân miền Nam còn chân thật mà chiến đấu. Và phải quên những thứ Trương Phiên, Bùi Ngọc Phương nhan nhản cuộc sống hôm qua, hôm nay. Tôi chỉ còn tin đám trẻ. Ông đã đi nhiều phòng giam, chắc ông đã rõ, đám trẻ hào sảng và nhiệt tình vô cùng. Họ không biết thở đài.
Tôi ghi nhận điểm son chói lọi này.
- Tại sao trước 1975 ông không tìm tôi.
- Tôi ngại!
- Ngại gì?
- Ông cao ngạo bỏ mẹ đi ấy, tìm ông sợ bị ông đồng hoá với bọn bẩn, ông chửi mất mặt. Nhiều người ghét ông vì ông cao ngạo!
- Ngộ nhận cả, ông ạ!
Chưa ai gặp tôi nói chuyện có ý nghĩa cho cuộc đời phải thất vọng về tôi hết. Người ta không gặp tôi rồi bảo tôi cao ngạo! Một lần, người ta đề nghị tôi vào ban giám khảo văn chương toàn quốc, tổng trưởng Ngô Khắc Tinh nói: “Đừng đừng, ông ta nhận không sao nhưng ông ta từ chối, ông ta sẽ chửi bới um sùm.” Toàn tưởng tượng rồi ghim thành kiến xấu. Lại một lần, có ông tướng hồi hưu muốn ra nhật báo, nhờ người kiếm tôi làm chủ bút. Tôi đặt vấn đề lương: 200 ngàn một tháng. Đáng lẽ 150 ngàn thôi. Chủ nhiệm một tuần báo đi làm thuê cho chủ nhiệm một nhật báo phải 200 ngàn. Ông tướng đồng ý. Tôi đòi trả trước 5 tháng lương. Tại sao? Vì nhỡ báo ông xuất bản được hai tháng, cao hứng ông dẹp tiệm hay cạn vốn ông dẹp tiệm, tôi mất tiếng cần gỡ tiền. Làm báo phải chịu đựng, ít nhất, sáu tháng. Ông tướng lắc đầu và bảo tôi cao ngạo. Quyền lợi hợp lý mà cũng cao ngạo à? Thêm lần nữa, ông Nguyễn Văn Bé xuất bản nhật báo Thách Đố mời tôi viết vài mục. Tôi đòi 200 ngàn một tháng, đưa trước một tháng và sẽ viết từ số 2 nếu báo của ông ta đúng lập trường tôi đã đồng ý với ông ta. Ông Bé lôi tên tôi quảng cáo om sòm. Báo Thách Đố ra số 1. Đó là nhật báo đốn mạt, tôi không viết. Đem tên tuổi tôi quảng cáo đã đủ 200 ngàn. Chưa kể tôi sẽ kiện Thách Đố để Tô Văn viết bài ký tên tôi. Có gì đâu mà cao ngạo?
- Tôi nghĩ thế.
- Bây giờ ông còn thấy tôi cao ngạo không?
- Không, với tôi.
- Dĩ nhiên là với những người đừng để tôi coi thường, bất cứ nơi chốn nào. Tôi yêu và phục tất cả những người tài năng, những người có tâm hồn. Tôi ít học, có dốt nhưng không ngu. Nói chuyện với tôi vài câu là, hoặc tôi yêu mến, hoặc tôi khinh bỉ. Tôi không cao ngạo. Ai sống có chính kiến cũng đều giống tôi. Tôi không thích làm hòn bi với triết lý ba phải. Tôi chỉ có thể là nghệ sĩ là chiến sĩ mà không thể là chính khách hay chính trị gia. Tôi không thích làm vừa lòng mọi người. Với tôi, thiện và ác rõ rệt, xấu và đẹp phân minh, dối và thật sáng tỏ. Sự lầm lẫn của tôi là yêu ai thì yêu hết mình, ghét ai thì ghét hết mình. Tôi bằng lòng sự lầm lẫn đó và trung thành suốt đời với sự lầm lẫn đó. Bởi tôi không cần ai bỏ phiếu cho tôi.
- Người ta sẽ dùng ông như một kẻ châm lửa cho một phong trào.
- Ai là người ta?
- Tuổi trẻ có tâm hồn.
- Tôi rất mong được hầu hạ những người ấy. Những người ấy có quyền cưỡi lên lưng tôi. Tôi tình nguyện làm con ngựa già nhẫn nại. Những thằng lãnh tụ khụ khị thì đừng hòng. Chúng nó có gì hơn tôi? Và chúng nó cứ ghét tôi, cứ bảo tôi cao ngạo. Tôi phục vụ cho tương lai, không cho dĩ vãng.
Tháng 6-1977, một số bạn trẻ rời đề lao đi lao động cải tạo, một số bị chuyển phòng vì chống tên Đoan. 3C-1tiếp nhận người mới, có Nguyễn Văn Mẫn bộ đội đào ngũ (anh này đã ở với tôi tại 6C-1, 7C-1) và Lê Văn Nhân, trưởng phòng thương nghiệp. Anh Nhân “30 năm đời ta có Đảng,” tập kết năm 1954, về Nam năm 1975. Anh quê Rạch Giá, hồi hương giữ chức trưởng phòng thương nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Vợ anh người Hà Nội, cháu nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Muốn loại bỏ thành phần tập kết, chế độ lấy lý do anh ở nhà lầu, đi xe Fiat (của gia đình ở Saigon cho), chụp lên đầu anh ta cái mũ “mất phẩm chất cách mạng”, tịch thu thẻ Đảng, khai trừ anh ta ra khỏi Đảng rồi tống anh vào nhà tù. Khi khép cửa phòng lại, Hai Phận nói với anh ta:
- Bây giờ anh đã trở thành kẻ thù của Đảng, của nhân dân, anh hết là đồng chí của chúng tôi. Anh được đối xử như mọi can phạm.
Tình nghĩa và tình cảm cộng sản đó. Những anh chị cộng sản làm dáng, làm cảnh, vừa tích cực hoạt động Hội vừa nhẩy đầm nên suy nghĩ. “Ba mươi năm đời ta có Đảng” vẫn nằm tù. Thì cái thứ cộng sản dây máu ăn phần... về quê thăm nước ra cái gì nhì? Anh Nhân có vẻ khoái tôi. Tôi thì méo mó nghề nghiệp cứ thích “phỏng vấn” can phạm Việt cộng.
- Thật sự anh can tội chi?
- Chiến chinh đã tàn, cung nỏ đốt cháy. Đấy, tội của tôi.
Chúng nó muốn người Bắc nắm mọi chức vụ.
- Bác Hồ dạy “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” mà?
- Ổng nằm hòm kính rồi.
- Anh tin ai nữa?
- Hết, tôi không tin ai nữa. Có mỗi thứ để tin là Đảng, Đảng chơi quá nặng tin ai bây giờ?
Cùng với anh Nhân, một đảng viên trung kiên cũng vô cachot đối diện 3C-1. Anh này tối ngày chỉ hát hai bài và mỗi bài hai câu:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời bác nay thành chiến thắng huy hoàng...
........
Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay
Đất nước thanh bình lòng ta mê saysay
- Thằng ấy dân tập kết như tôi, anh Nhân nói.
Dân tập kết, giám đốc công ty xuất khẩu thảm Trương Văn Loan nằm ở 5 C-l, chủ nhiệm công ty ăn uống quốc doanh nằm ở 4C-1, vân vân. Anh Nhân thường để dành miếng cháy bữa chiều làm điểm tâm sáng sau. Lúc anh nhai cháy, anh nhìn tôi, nghẹn ngào hát: Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay. Hoàng Mạnh Hùng bảo, cuộc chiến đấu mới cần mở rộng cho những Lê Văn Nhân tham dự. Họ đã thấm đòn cộng sản, họ sẽ phóng lên tuyến đầu. Tôi đồng ý. Nhưng sự đồng ý của tôi, sự gần gũi những người cộng sản đã “trở thành kẻ thù của Đảng, của nhân dân” đã làm khó chịu những người quá khích. Họ không muốn nhìn kẻ bị cộng sản khu trừ như một con người, con người đang khốn khổ như những con người trong ngục tù cộng sản, con người đang khao khát chiến đấu phục hận. Cái nhìn xa không giống cái nhìn gần. Cận thị và viễn thị khác nhau. Không giống và khác nhau tạo thành bất đồng quan điểm. Khi quan điểm bị nâng lên, sự bất đồng thay đổi triệu chứng. Cái triệu chứng khốn kiếp nhất là bôi bẩn nếu chưa quyền bính, là tàn sát nếu có quyền bính, Con người muốn sống đích thực với lòng mình thật khó. Nó sẽ cô đơn khôn cùng. Để thoát khỏi cô đơn, nó phải toa rập với đám đông thường là mê muội, độc đoán, ngu xuẩn. Thế thì con người chọn cái đích thực phải căng ra mà hứng những mũi tên tẩm thuốc độc. Hơn bất cứ ai, nghệ sĩ sáng tạo cần thiết cô đơn. Bởi vì, từ trong nỗi cô đơn, anh sẽ soi sáng được chân lý, anh sẽ dâng hiến cho đời sống những ý nghĩa mầu nhiệm về con người, về cuộc đời. Tôi bắt đầu chê bỏ thứ tiểu thuyết mua vui của các chuyên viên phơi-ơ-tông. Loại penilletonistes rỗng tuếch tư tưởng xem chừng đã lạc hậu ỏ cái thế lưu vong của chúng ta. Không thể réo gọi thời đại bằng nước mắt những cuộc tình lẩm cẩm. Cũng dễ hiểu thôi, loại này trăm năm chưa biết cô đơn là cái gì. Những kẻ ồn ào dễ a dua, toa rập. Họ cần có im lặng và bóng tối để truy nã bản thân mình.
3C-1 cho tôi nhiều suy nghĩ. Một trong những suy nghĩ của tôi là trường hợp ông Nam Cường. Vợ ông nằm vùng làm tới chức Phường trưởng. Ông vẫn đi tù. Trường hợp thứ hai không đáng suy nghĩ nhưng cũng nên nhắc: Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam tổng phát hành, cậu ruột của Mai Văn Bộ, tê liệt ở đề lao Gia Định. Bộ vào thăm mà không thể xin cho cậu mình được tha. Bạn sẽ có một định nghĩa nào về tình cảm cộng sản?
--------------------------------
1 Sẽ viết chi tiết về Chính Phủ Liên Bang Đông Dương ở phần ba.
2 Năm 1978, Quả ra tòa cùng tổ chức, lãnh án 25 năm, bị đưa sang Chí Hòa.
3 Đã có mặt tại Santa Ana, California, USA.
Chương trướcMục lụcChương sau
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 19
Tôi không muốn gặp mặt vợ con một tí nào cả. Bởi vì, sau một lần gặp gỡ, tôi mềm yếu và đau khổ vô cùng. Tôi đã ao ước vợ con tôi vượt biên. Cứ vượt biên, sống chết ra sao không cần biết, miễn là đừng bị bắt vào tù. Tôi đã ao ước thô bạo hơn, vợ con tôi cùng chết một lúc và chết ngon lành. Và rồi, tôi ao ước tôi chết cho vợ con tôi khỏi bận bịu, tìm đường ra đi. Tôi cũng sợ hãi đọc thư nhà. Những bức thư ngô nghê của thằng con trai út thường làm tôi khóc. Mỗi khi thư loan tin bác này về vùng kinh tế mới, bác kia hồi hương, 1 tôi muốn điên lên. Bằng hữu tôi lần lượt ra đi, bỏ rơi vợ con tôi. “Bố ơi, chẳng ai thèm lại nhà mình, thấy mình họ ngoảnh mặt”. Tai họa còn là cái sàng đãi lọc tình nghĩa. “Bố ráng học tập cải tạo tốt để được Nhà Nước khoan hồng sớm về sum họp gia đình dạy dỗ chúng con”. Câu cuối của từng bức thư tù đó. Khuôn mẫu của chế độ giải phóng con người. Tôi ghét bị kiểm duyệt tình cảm, nên thư về của tôi chỉ là cái danh sách xin gửi những món cần thiết. Vợ tôi không hiểu, đã trách móc tôi. Và tôi im lặng. Tôi đã viết nhiều về nỗi cô đơn. Rất hời hợt. Một đêm ở 1C-1, hồi tôi bị ghẻ mủ nặng, nằm nghiêng trên hai gang chiếu. Tôi ngủ lúc nào không rõ. Và tôi có giấc chiêm bao. Vợ chồng tôi cãi nhau quyết liệt. Hai chúng tôi giận nhau, mỗi đứa nằm một mép giường, xoay lưng đấu nhau. Tôi thấy mình vô lý quá. Tại sao không nhường nhịn vợ? Tại sao không xin lỗi vợ? Bèn lăn một vòng ôm chặt vợ. Bị cái thúc cùi chõ vào bụng. Tỉnh giấc mới hay mình ôm bạn tù ghẻ. Phòng giam sáng trưng đèn nê-ông, Tất cả đều ngủ. 1C-1 nhỏ bé, bốn bức tường kín mít. Mà tôi mơ hồ tưởng bờ bãi mênh mông. Và nỗi cô đơn dàn trải vô tận. Tôi đã thiếu khả năng viết bài thơ diễn tả nỗi cô đơn của tôi.
Và thế đấy, tôi không muốn gặp mặt vợ con một tí nào cả. Nhưng mà tôi lại gặp mặt vợ con lần thứ hai. Quản giáo Bàng dẫn tôi ra phòng tiếp khách gần cổng trại. Hắn bỏ ra ngoài để chúng tôi trò chuyện tự do. Con trai lớn của tôi, Vũ Nguyễn Thiên Chương, tức Chương còm, tức cu Tý, mất trường Taberd sang trường Marie Curie học. Bị Cờ Đỏ của trường nhốt một đêm, đánh đập tàn nhẫn. Bị ra phiên tòa của giáo viên thành phố, bị kết tội con của nhà văn phản động, bị đuổi học. Không thầy giáo… ngụy nào bênh vực nửa lời, dù phiên tòa có nhiều thầy giáo bạn của tôi. Con gái tôi, Vũ Nguyễn Thiên Hương, tức con Ki, vẫn học Régina Mundi (đổi tên Lê Thị Hồng Gấm), giỏi môn văn, được đề nghị ra Hà Nội thi văn, đậu cao sẽ sang Moscou, thương bố bị tù, thương anh bị đuổi học đã xin nghỉ học luôn. Con trai út tôi, Vũ Nguyễn Thiên Sơn, tức thằng Đốm, bị cấm đến trường. Vợ tôi bệnh hoạn dài dài, bị lừa gạt vượt biên, bị hăm dọa thủ tiêu nếu không rời căn nhà đường Công Lý. Thư hăm dọa trình công an. Công an lờ tít. Vợ con tôi bỏ nhà… lưu vong. Con chim đại bàng đã không đến ăn khế vườn nhà tôi. Và cổ tích của thằng Đốm là thất học.
Tôi vác bị quà về phòng giam, lòng rã rời, tan nát. Xưa, viết truyện, tôi đã chỉ xin làm cây leo lên hạnh phúc của con tôi. Giờ, nằm tù, tôi không được leo lên cả bất hạnh của con tôi. Và cả niềm bất hạnh của tôi, của gia đình tôi, cho đến hôm nay, vẫn còn bị đâm thêm những ngọn dáo phi nhân, vẫn còn bị phì thêm nọc rắn ác độc. Nhưng mặt trời chiếu cho mọi người. Và Chúa Jesus đã dạy: “Phúc cho kẻ chịu bắt bớ bởi sự công nghĩa. Vì nước Trời là của kẻ ấy. Phúc cho kẻ bị lăng nhục và vu cho mọi điều ác. Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng trên Trời là lớn”. Cho nên, tôi vẫn đi, tôi mãi đi không mỏi, nhân danh niềm bất hạnh của tôi. Phần thưởng trên Trời tôi chưa thấy. Phần thưởng dưới thế tôi đã thấy: Tôi đã viết thêm 20 cuốn sách từ khi ra khỏi nhà tù. Tôi còn trẻ măng, còn dồi dào phong độ, còn tràn trề sinh lực và năng lực. Nếu nước Trời là Sáng Tạo, nước ấy của tôi. Cứ phì nọc độc vào tôi đi rồi lùi lại, nhỏ bé. Cứ chấp nọc độc, tôi phóng xa về phía trước, cao lớn, sừng sững. Đó là tín hiệu của bất cứ ai sáng tạo.
Tháng 7-1977, Doãn Quốc Sĩ từ 6C-1 qua 3C-1.Tác giả Dòng sông định mệnh tỏ vẻ mừng rỡ gặp tôi. Anh Sĩ vẫn khoẻ mạnh. Doãn Quốc Sĩ chuẩn bị áo len, bí-tất găng tay. Anh tiên đoán một chuyến đi xa về phương Bắc. Thường xuyên lạc quan, đó là thái độ ở tù của anh.
Chúng tôi hàn huyên… chấp pháp.
- Thằng rỗ huê mặc áo sơ-mi trứng sáo chửi tôi khiếp lắm. Nó đòi chặt tôi làm ba khúc xem thân thể tôi có là kim cương. Doãn Quốc Sĩ nói.
- Anh trả lời sao? Tôi hỏi.
- Im lặng.
- Anh thiền à?
Doãn Quốc Sĩ cười.
- Thằng Vũ Hạnh báo cáo hết về anh em mình. Nó viết tôi thường xuyên lăng nhục Bác của chúng nó.
- Tôi biết.
- Duyên Anh cũng làm việc với thằng rỗ huê?
- Và bị nó chửi tưng bừng hoa lá. Nó chơi xỏ, tống tôi vào cachot buổi sáng, buổi tối đuổi về. Mình đang ghẻ thèm ở riêng, nó chỉ cho “bán trú”.
Chúng tôi cùng cười.
- Khi cụ Tú Mỡ chết, anh đang nằm cachot.
- Nhà báo tin.
- Cáo phó đăng báo Nhân Dân.
- Nhà đã gửi vào.
Doãn Quốc Sĩ là con rể Tú Mỡ, tác giả Dòng nước ngược, thủ quỹ Hội Nhà Văn Việt Nam. Nghịch cảnh của tác giả Khu rừng lau là anh có người em ruột, Doãn Nho, nhạc sĩ, con cưng của Đảng, được sang Moscou học sáng tác nhạc hòa tấu cổ điển. Doãn Nho cũng là con cưng của Công An vì anh sáng tác vài ca khúc ngợi ca công an. Thế mà mấy lần Doãn Nho xin gặp Doãn Quốc Sĩ đều bị từ chối, bắt tội thân mẫu Doãn Quốc Sĩ từ Hà Nội vào đợi thăm con hoài. Hoàng Mạnh Hùng đã hỏi lý do nào Doãn Quốc Sĩ chống Cộng mãnh liệt thế. Họ Doãn đáp gọn:
- Tuổi trẻ tôi bị lừa gạt.
Anh Sĩ hơn tôi một con giáp, cùng tuổi Hợi. Năm nay anh 65. Thế hệ anh, người ta khao khát độc lập, khao khát cách mạng. Nguyễn Ái Quốc đã là kỳ vọng của trí thức trẻ hồi ấy. Anh Sĩ không ngại ngần nói rằng anh đã chỉ sợ Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc. Rốt cuộc, Hồ Chí Minh vẫn là Nguyễn Ái Quốc nhưng không phải Nguyễn Ái Quốc lý tưởng của Doãn Quốc Sĩ. Anh đã, nói theo Nguyễn Mạnh Côn, lạc đường vào lịch sử. Những vụ thủ tiêu Lan Khai, Khái Hưng và, lần lượt, các đảng phái quốc gia cùng với những cuộc đấu tố mở màn ở trung du khiến anh thức tỉnh. Anh coi như mình bị lừa gạt. Khi niềm tin của tuổi trẻ bị lừa gạt thì phản ứng của nó dữ dội lắm. Phản ứng ấy dàn trải cùng khắp tác phẩm của anh. ‘‘Mỗi dòng chữ của Doãn Quốc Sĩ là một viên đạn bắn cộng sản”. Nguyễn Đình Toàn đã viết thế. Anh Sĩ chống Cộng cả bằng cổ tích, bằng thiền. Doãn Quốc Sĩ chống Cộng tự nguyện, khác hẳn loại bồi bút chống Cộng, loại đánh đĩ văn chương giá rẻ cho Juspao, Usis. Ngọn đuốc Doãn Quốc Sĩ lúc nào cũng sáng, lúc nào cũng soi tỏ cho tuổi trẻ bị lừa gạt niềm tin. Chỉ tiếc tuổi trẻ hôm nay thiếu chất phẫn nộ của tuổi trẻ Doãn Quốc Sĩ. Và người ta lặng thinh sau những lần bị bịp, bị làm guốc cho lãnh tụ giẻ rách. Người ta hờ hững để mặc bạo lực của quyền uy ảo tưởng diễn hành. Ngọn đuốc Doãn Quốc Sĩ vẫn rực rỡ ở quốc nội. Buồn thay, ở quốc ngoại, có kẻ gục mặt nhận mình là ngọn hải đăng mù. Mà nó mù thật sự. Nó mù vì sự phản phúc, vì sự ích kỷ, vì sự tự mãn với cái chẳng ra gì của nó. Hơn cả mù, nó đã chết.
Tôi có một kỷ niệm nhỏ với anh Sĩ ở 3C-1. Một hôm, Đặng Hải Sơn “vô thất”, anh Sĩ hỏi.
- Cậu bắt chước Bá Di, Thúc Tề à?
Sơn đáp:
- Không, em muốn bao tử nghỉ mệt.
Anh Sĩ nói:
- Bá Di, Thúc Tề ở Đông Chu.
Tôi nói:
- Ở Phong Thần, thề không ăn thóc nhà Chu.
Có thế thôi mà thằng Đoan báo cáo. Anh Sĩ và tôi bị cúp thăm nuôi. Hai Phận gọi tôi ra “giáo dục”
- Cấm vợ anh tiếp tế cho anh xem anh có chê cơm cách mạng không?
Doãn Quốc Sĩ cũng bị gọi ra nghe Hai Phận vĩ đại sỉ vả. Chúng tôi “phèo” chất tươi nửa tháng. Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Mạnh Hùng và tôi bị Hai Phận “đánh dấu”. Giờ học báo Đảng, anh Sĩ ngồi thiền. Anh dễ ăn và dễ ngủ. Tôi phong anh biệt danh Dị Miên Sư Tổ. Khi 3C-1 thêm Lý Thành Cầu, anh Sĩ có tri kỷ chữ Nho. Lý Thành Cầu người Trung Hoa, nói tiếng Việt rất giỏi. Ông ta thuộc Kiều và thơ Đường vanh vách, vốn là đại tá tình báo của Lư Hán, ông theo Tiêu Văn sang Việt Nam tước khí giới Nhật. Ông ta kể chính ông ta dẫn Hồ Chí Minh vào yết kiến Tiêu Văn. Ông Cầu ở lại Việt Nam, lấy vợ Việt Nam bỏ vợ Tầu. Năm 1954, ông di cư và làm quản lý cho hãng tầu vị yểu Hai Con Bướm ở Gò vấp. Chỉ vì ngứa miệng khoe mình quen Hồ Chí Minh mà ông bị vào tù, may là cộng sản chưa thủ tiêu ông. Lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh không thể quen biết anh Tầu già bán xì dầu. Ông Cầu nằm cachot mà Doãn Quốc Sĩ đã nằm. Ra cachot, ông vào 3C-1. Thấy cái bị viết tên Doãn Quốc Sĩ, ông ngạc nhiên hỏi tôi:
- Doãn Quốc Sĩ còn sống à?
- Còn.
Tôi giới thiệu ông ta với anh Sĩ. Ông ta ôm chặt anh Sĩ, nước mắt ròng ròng:
- Tôi đọc tên ông khắc ở tường cachot, tưởng ông chết, xì xụp lạy ông phù hộ tôi. Ai ngờ gặp ông.
Doãn Quốc Sĩ cảm động lắm. Ông Lý Thành Cầu đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Hải Thần, khen thơ Nguyễn Hải Thần hay hơn thơ Hồ Chí Minh, ông ta nói oang oang. Bị chấp pháp gọi ra bắt câm miệng, ông ta phê bình Nguyễn Hải Thần mê thơ quên việc nước.
- Tưởng Giới Thạch rất bận, tiếp khách có mười phút. Mỗi lần xin yết kiến Tưởng khó vô cùng. Vậy mà gặp Tưởng, cụ Nguyễn đem thơ ra khoe và bình mất hết thì giờ, chẳng nói chuyện nước non chi cả.
Ông Lý Thành Cầu trên 70, tóc bạc phơ. Ông ta bình Đường thi, Doãn Quốc Sĩ mê mẩn. Ở với chúng tôi hai tuần, ông bị chuyển trại. Chúng tôi đón Nguyễn Ngọc Tân, người biết hơn cả người biết quá nhiều. Doãn Quốc Sĩ có tri kỷ mới. Nguyễn Ngọc Tân cận nặng, một chân nhỏ tót, đi khập khiễng. Anh ta bắt chước Tôn Tẩn, ăn mặc như thằng điên. Mỗi ngày anh bị gọi ra một lần… tra tự điển Đại Việt. Kiến thức của Nguyễn Ngọc Tân mênh mông. Chuyện gì anh biết cũng đến nơi đến chốn. Anh kể cho chúng tôi nghe chiến khu Nam Ngãi, những ngày lưu vong bên Nam Vang. Chuyện của anh hấp dẫn vô tả. Thời huy hoàng của anh là thời Đại Việt nắm quyền bính. Ngày Nguyễn Hữu Trí làm thủ hiến Bắc Việt, anh ra Hà Nội với tư cách Xứ ủy miền Nam. Tính tình cởi mở, anh giúp đỡ mọi người bằng khoa chữa bệnh điểm huyệt. Ngày thăm nuôi, anh đem quà cho hết đám “con bà phước”. Ít ai hào sảng trong tù như Bẩy Bốp, Phạm Thái, Nguyễn Ngọc Tân. Ngoài đời, tôi tưởng anh cũng thường như Nguyễn Ngọc Huy thôi. Gặp anh mới thấy anh là nguời đáng kính trọng. Cụ Đỗ Văn Lựu ra làm việc luôn luôn ăn mặc bảnh bao. Và cụ chê anh Tân “mất mặt quốc gia” vì anh dùng giây thắt lưng. Cụ đâu hiểu anh Tân giả khùng.
Doãn Quốc Sĩ ở với chúng tôi hai tháng. Đầu tháng 9-1977, anh bị tập trung với các tù nhân khắp nơi tại hai phòng C-1 và C-2. Anh ngủ một đêm rồi đi lao động cải tạo ở Pleiku. Chuyến đi này có Trịnh Viết Thành, Tô Ngọc, Trần Dạ Từ, Nguyễn Hải Chí, Hồ Văn Đồng, Thái Thủy, Mặc Thu, Thanh Thương Hoàng, Mộc Linh, Thế Viên, Nguyễn Sĩ Tế, Nguyễn Viết Khánh. Doãn Quốc Sĩ bị canh chừng một thời gian, mỗi tuần phải “mạn đàm” với chức sắc Sở Công An một lần, phải kể đã gặp gỡ những ai, nói chuyện gì… Ra tù, tôi đi chơi với Doãn Quốc Sĩ nhiều lần, rủ anh vượt biên, anh không dám. Có lẽ, anh tin cộng sản sẽ cho anh đi chính thức. Nếu vậy, anh đã sai lầm. Sự sai lầm của anh đã bị trả giá thêm ở nhà tù. Cộng sản không bao giờ cho “biệt kích văn nghệ” đi chính thức cả.
Nguyễn Đức Đạt, Bùi Xuân Bật khu A sang “làm mới” 3C-1. Trưởng phòng Nguyễn Đức Đạt, dân làng Nghi Tàm, từ Hà Nội vào Saigon giữ chức Đồn trưởng công an Cầu Kho. Thành ủy Hà Nội cử người vô Saigon mua xe hơi, tủ lạnh, tivi… Đồ đạc nhiều món gửi tạm ở Đồn công an Cầu Kho vì người mua đồ là đồng chí, là bạn của Nguyễn Đức Đạt. Thành ủy Saigon “chơi” thành ủy Hà Nội. Sở công an khám xét hàng hóa và đòi chứng minh biên lai. Không có. Bị kết tội mua đồ ăn cắp và tiếp quản trái phép. Những kẻ chứa đồ bị truy tố. Nguyễn Đức Đạt bị lột quân hàm trung úy công an, bị tịch thu hết đồng phục, bị mất luôn chiếc Honda tiền túi, tiền của bao nhiêu năm dành dụm. Và vào tù, bị khai trừ khỏi Đảng.
Thư ký Bùi Xuân Bật, con trai út của cụ Bùi Xuân Học, chủ nhiệm nhật báo Loa Hà Nội trước 1940. Gia đình Bùi Xuân Bật có vai vế tiền chiến và hậu chiến. Anh trai Bật học ở Pháp, theo Hồ Chí Minh về nước làm thông dịch. Người anh này lấy cô vợ Quảng Ngãi. Cụ Học, nhân dịp xuân về cảm tác bài thơ trách móc chế độ. Bị cô con dâu tố cáo. Cụ Học nằm tù ở Lào Kay chết ở đó. Bùi Xuân Bật lên rừng bốc xương cha về Hà Nội. Từ đó, Bật lách mà sống, mà học. Tốt nghiệp kỹ sư luyện kim, Bật cộng tác tại Thái Nguyên. Bật có người chị di cư năm 1954, lấy chồng Tầu, rất giầu. Năm 1976, Bật công tác ở Saigon, được chị cho căn nhà và chiếc xe Mustang. Đẹp trai, trắng trẻo, mũi cao và tóc bồng bênh như Tây lai lại vốn con nhà giòng dõi, Bật thích ứng ngay nếp sống Saigon, ăn diện như công tử. Thế là bị chụp mũ liên hệ với phản động, Bùi Xuân Bật vào đề lao Gia Định.
“Triều đại” Nguyễn Đức Đạt, 3 C-1 trầm lặng. Cụ già đông hơn thanh niên, cụ già ho, cụ già hen, cụ già khạc nhổ đầy nắp cống. Cực hình đề lao, đối với tôi, là những ngày trực bị mở nắp cống xối nước chà sạch những bãi đờm như những con thạch thùng chết. Với Nguyễn Đức Đạt, mục học báo Đảng dẹp bỏ và ngủ tự do. Chính anh ta cần ngủ quên đời. Hễ nhắm mắt, bất kể ngày đêm, anh ta mớ. Chuyện dặn con khoá kỹ xe đạp, dặn vợ đừng chặt bụi tre. Và trách móc Đảng tước đoạt công lao của anh ta. Đạt bị phong thấp, có thể tê bại. Đang là con Đảng biến ra “con bà phước”. Anh ta xin chúng tôi vitamine A. Chúng tôi cho. Tù phản động giúp tù cộng sản bị khu trừ. Tôi nghĩ anh ta đã hiểu quốc gia và tình nghĩa của người quốc gia. Bùi Xuân Bật chửi Đảng ra mặt. Anh ta chưa được kết nạp vào Đảng, vì là con tư sản. Câu nói bất hủ của Bùi Xuân Bật: “Lãnh tụ vĩ đại của tôi là củ cà rốt của tôi. Bởi chỉ củ cà rốt của tôi mới làm tôi sướng và làm vợ tôi sướng”.
Thời gian này, cachot C-1 “đói” khách sộp. Còn mỗi Đinh Xuân Cầu tóc bạc phơ, râu bạc phơ, ria bạc phơ, lông mày bạc phơ, chân đeo xích, tay mang còng bước từng bước ngắn đi làm việc. Tôi nhìn ông ta liên tưởng tới nền tù ngục quê hương tôi ngót nửa thế kỷ. Người chiến sĩ Đại Việt này chế độ nào cũng nằm tù. Những tài năng của đất nước tôi cứ bị lưu đầy, cứ bị giam nhốt, cứ bị hủy diệt. Và tổ quốc tôi gầy mòn với bộ lòng lổn nhổn sán sơ mít. Như thế vẫn chưa đủ, sự thù hận trải dài vô tận. Thù hận trong hạnh phúc và thù hận cả trong thống khổ. Người ta hay nói đến cảm thông đến khoan dung, đến đại lượng. Nhưng ba món hàng xa xỉ này không bầy bán. Định nghĩa và cách xử dụng phải tra tự điển. Rốt cuộc, con người Việt Nam đành phải ước mơ cổ tích. “Bà tiên hoá phép, đứa nào hay nói những danh từ cảm thông, khoan dung, đại lượng thì hễ dứt lời là phọt ra cóc, nhái, rắn, rết”… Hình như, người quốc gia của chúng ta đã lạm dụng hai khẩu hiệu ngắn: Đại nghĩa thắng tà đạo, thương yêu xoá căm thù. Đôi khi, tôi thấy, một số người quốc gia tà đạo hơn cả cái tà đạo họ muốn thắng, căm thù hơn cả cái căm thù họ muốn xoá. Một điều lúc nào cũng có thể thấy là người quốc gia căm thù bạn đối lập hơn cả căm thù kẻ thù đối nghịch. Như vậy có hò hét nghìn năm, chẳng bao giờ chúng ta có dân chủ, tự do và hạnh phúc thực sự. Vương đạo của Vệ Ương mãi mãi ế ẩm, dẫu đã rao bán mấy ngàn năm. Trong mọi lãnh vực, bá đạo cứ thích ứng, thích ứng luôn cho trò chơi văn nghệ. Điều sai lầm căn bản của người quốc gia lưu vong hôm nay là chúng ta không chịu nhìn nhận cái đã có của chúng ta chưa ra ngô ra khoai gì cả. Do đó, khi mất nó, chúng ta mê mải đấu tranh tìm lại nó. Cuộc đấu tranh cho hư ảo là cuộc đấu tranh phục hồi quá khứ. Chúng ta không dám bắt đầu cho tương lai. Chúng ta sợ hãi tương lai. Vì hiện tại chúng ta rách bươm. Và, vì bắt đầu, chúng ta không có vốn, không thể tạo nổi vốn ngoạn mục. Vốn liếng cũ, những lãnh tụ đảng phái gỗ mục, những tướng tá tham nhũng chạy dài, những ngọn giả sơn văn học cạn trương mục rồi. Giá trị của nó không đủ mua gói khô mực. Bất hạnh thay cho dân tộc, gỗ mục và giả sơn ngổn ngang chất đống dọc đường phóng lên phía trước của tuổi trẻ. Và tuổi trẻ vẫn ngại ngần, vẫn chần chừ. Người ta trông đợi tuổi trẻ hào sảng đầu tư nhiệt tình và lòng tự phụ cho tương lai trong cuộc chiến đấu mới, thái độ mới, tư tưởng mới. Chỉ tuổi trẻ mới đủ khả năng thiêu hủy phép tích của bà tiên và sau mỗi cảm thông, mỗi khoan dung, mỗi đại lượng là hoa nhân ái nở, trái hạnh phúc kết. Và, khi ấy, không còn tù ngục xích chân còng tay con người. Khi ấy, không còn thù hận trên quê hương khốn khó Việt Nam, không còn thù hận giữa người Việt Nam với người Việt Nam, không còn những thằng điên cưỡng bức đồng bào mình tung hô mình muôn năm vĩ đại, không còn những thằng ễnh ương ham làm bò lãnh tụ, không còn những thằng thảo khấu chính trị lạc quyên xổ số, không còn những thằng hề cách mạng rẻ tiền, không còn những thằng ngu đòi thống lĩnh đỉnh núi văn học. Khi ấy, cả dân tộc lương thiện được lãnh đạo bởi những tài năng lương thiện. Khi ấy, mọi việc công khai ngoài ánh sáng, chấm dứt phục kích đánh lén. Khi ấy là nghệ thuật, cáo chung thủ thuật. Khi ấy là chung thủy, loại trừ phản phúc. Khi ấy, “mọi người là anh em”. Và khi ấy, là thời lên tiếng sau thời im lặng. Khi ấy mới quyết định cái gì còn để lại.
Đinh Xuân Cầu là tù nhân duy nhất của đề lao Gia Định bị xích chân, còng tay dẫn đi làm việc. Phong sương của tù ngục không làm trán ông thấp xuống và mắt ông mờ đi.
Có ba vị tiên phong đạo cốt của đề lao Gia Định.
Một: Thượng tọa Thích Quảng Độ. Quản giáo Sáu lé đặc trách dẫn thượng tọa đi làm. Gã cai ngục này tuân hành Nội quy triệt để. Nó gọi thượng toạ bằng anh, đọc tên khai sinh của ngài.
- Sao lâu dữ, khẩn trương lên! Nó dục sau khi mở khóa.
- Anh mở cửa ra. Thượng tọa nói.
- Mở rồi, anh ra đi!
- Mở rộng ra.
Sáu lé mở tung cánh cửa thượng tọa mới chịu bước ra. Ngài mặc quần áo nhà chùa chỉnh tề. Ngài ngẩng mặt, bước thong dong. Ở nhà tù cộng sản, các thượng tọa, đại đức Ấn Quang phản động là tù nhân de luxe. Các ngài đòi ăn chay và gọt đầu nhẵn. Và được chấp thuận. Những vị sư khác bị để tóc và ngả mặn. Làm việc xong, Sáu lé dẫn thượng tọa Quảng Độ về cachot.
- Vô đi chứ?
- Anh mở cửa rộng ra.
Cửa mở rộng tù nhân Thích Quảng Độ mới chịu ra vào.
Hai: Nhà phản động già Phan Vô Kỵ quắc thước, bình thản, coi nhà tù như công viên.
Ba: Đinh Xuân Cầu.
Những người này nằm cachot không lên tiếng, không thèm yêu sách một ân huệ nào. Doãn Quốc Sĩ cũng vậy. Đời sống ở cachot C-1 thú vị ra phết. Tù nhân già biến thành con nít. Người ta có thể trao đổi quà cáp và tin tức cho nhau từ cachot đầu dẫy đến cachot cuối dẫy.
- Số 2 nghe rõ không?
- Rõ.
- Nhắn số 11. Mặt trời đã lặn. Số 1 thông tin.
- Rõ.
- Số 3 nghe rõ không?
- Rõ.
- Số 1 nhắn số 11. Mặt trời đã lặn.
- Rõ.
- Số 4 nghe rõ không?
Đó là thông tin. Còn gửi quà cho nhau thì tù nhân cachot rút giây ni-lông ở túi phân bón (gia đình dùng túi này đựng quà gửi vào), se thành sợi giây dài buộc chặt món quà muốn gửi. Rồi luồn tay qua cửa gió tung sang cachot bên cạnh. Cachot bên cạnh cũng luồn tay qua cửa gió đợi chụp sau khi được thông báo. Thường phải chụp mấy lần mới trúng. Cứ vậy, quà chuyền đi… Màn phòng tập thể tặng thuốc lá cachot vất vả nhất. Nếu điếu thuốc mồi lửa rồi thẩy sát cửa cachot, tù nhân thò tay qua chân cửa là được ngay. Nếu điếu thuốc xa bàn tay thò qua chân cửa, tù nhân cachot bèn cởi quần áo, nối lại, luồn qua ô cửa gió tung xuống khều điếu thuốc. Nhìn tù nhân cachot hút thuốc, nhả khói, bạn sẽ thấy rõ chân dung của hạnh phúc, hạnh phúc chỉ khám phá ra trong niềm bất hạnh. Tôi có thú vui đứng sát cửa phòng, giả vờ hít thở quan sát sinh hoạt cachot. Nhờ Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường, Hoàng Mạnh Hùng, Nguyễn Ngọc Tân, Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Sơn Trường tả đầy đủ chi tiết các cachots các khu của đề lao mà họ đã nằm, tôi biết hết cachots đề lao Gia Định. Hoàng Mạnh Hùng còn kể cho tôi nghe các phòng giam ở quận 3, quận 1 sau 1975. Ở đó mới là địa ngục. Và chế độ vua phòng vẫn tồn tại.
Thú tiêu khiển giết thì giờ của tôi ở 3C-1 là tham dự cuộc chơi đô-mi-nô uống nước lạnh từ sáng đến tối. Chúng tôi say sưa chơi. Chơi quên nhớ nhà, quên gãi ghẻ. Chúng tôi uống nước căng rốn. Ai rồi cũng thua và thua mỗi bàn uống hai ca nước. Bốc bài xong, vội bỏ vào túi, đi tiểu ào ào cái đã. Đô-mi-nô uống nước là môn thuốc xổ và lọc nước tiểu diệu kỳ.
Bất ngờ, 3C-1 đón tiếp Trần Anh Linh. Cả phòng sôi nổi. Trần Anh Linh, giáo viên tiểu học Phương Lâm. Hè 1977, anh ta đưa vợ và đứa con nhỏ xuống Rạch Giá thăm bà dì. Anh ta mua vé máy bay Saigon-Rạch Giá. Chuvến máy bay này bị không tặc trấn áp sau hai mươi phút bay. Không tặc có bốn người.
- Họ dưới 30 tuổi, đẹp trai và hào hoa lắm.
Trần Anh Linh kể lớn.
- Trên máy bay có hai công an an ninh. To con và gồ ghề. Một tên định động thủ, một không tặc phóng lưỡi dao trúng tim tên công an. Hắn gục ngay. Không tặc mỉm cười. Người thứ hai rút khẩu rouleau, quay nhanh và đẹp như cao bồi. Tên công an còn sống ngồi bất động. Hắn bị tước khí giới. Hai không tặc khác lên phòng của phi hành đoàn. Hấp dẫn hơn phim gián điệp.
- Rồi sao? Tù nhân nóng ruột hỏi.
- Phi cơ chao lộn vài giây. Người không tặc hạ tên công an trấn an hành khách “Đồng bào bình tĩnh, nếu chết, chúng tôi cũng chết, nhưng không chết đâu. Chúng tôi không phải là không tặc, chúng tôi ra đi có sứ mạng”. Trong khi ấy, người không tặc thứ hai vẫn quay súng và cười rất tươi.
Linh kể tiếp: Phi cơ đáp xuống căn cứ Utapao. An ninh Thái Lan xua đuổi, phi cơ dọa lao vào phá hủy căn cứ. Thái Lan bằng lòng đổ đầy xăng, sạc no bình điện và tiếp tế mỗi hành khách một hộp bánh xăng-uých, nước uống. “Họ nói tiếng Anh quá hay”, Linh bình luận. Rồi máy bay đáp xuống phi trường Tân Gia Ba. Không tặc chào tạm biệt đồng bào, bảo ai muốn chọn tự do tùy ý.
- Một nửa chọn tự do. Một nửa xin về. Tân Gia Ba sửa sang máy bay, tặng xác chết một quan tài. Thời gian đi hay về chỉ có 3 ngày.
- Cậu xin về à?
- Báo chí, phát thanh, truyền hình phỏng vấn tôi. Tôi ở khách sạn sang lắm. Tôi chần chừ chọn nước định cư. Chưa kịp chọn, vì mình không chủ ý tìm tự do, thì quá hạn. Tân Gia Ba bắt ném lên máy bay đuổi về.
- Vào tù?
- Phải, tất cả hành khách và phi hành đoàn bị bắt ở Tân Sơn Nhất.
Một tù nhân tuổi trẻ phán:
- Bạn xứng đáng ăn một thùng cứt. Cơ hội ngàn năm một thuở lại bồng bế vợ con vào tù. Thiên đường chê, ham địa ngục!
Trần Anh linh tặc lưỡi.
- Tôi xứng đáng ăn một trăm thùng cứt 2.
Trần Anh Linh ca ngợi bốn không tặc hết ngôn ngữ. Anh ta bị tống vào cachot để khỏi “tuyên truyền xuyên tạc”. Nhưng mà vụ cướp máy bay này đã trở thành huyền thoại ở đề lao. Hoàng Mạnh Hùng cũng có một “đệ tử” tên Nhân. Cậu sinh viên làm giấy tờ công dân Phi Luật Tân giả, leo máy bay tới Vọng Các lại nhớ mẹ đòi về… vào tù. Thế là 3C-1 có hai tù nhân tình nguyện vào tù, hai tù nhân chê bai ân sủng của Thượng Đế. Trần Anh Linh rời 3C-1 để lại một đề tài cho tù nhân trẻ già bàn luận, suy diễn, vai trò và sứ mạng của bốn không tặc. Trong không khí bàn luận sôi nổi vụ không tặc, tôi bị gọi ra làm việc.
Chấp pháp số 12 ăn mặc bảnh bao. Hắn dân Hà Nội chính cống nói giọng y hệt giọng Bùi Xuân Bật.
- Anh khoẻ chứ, anh Duyên Anh?
- Cám ơn anh, tôi vẫn bình thường.
- Hết ghẻ chưa?
- Còn lai rai.
Hắn mời tôi uống trà, hút thuốc.
- Anh đã suy nghĩ kỹ?
- Thưa anh, suy nghĩ gì?
- Cái gốc vô sản của anh.
- Tôi chỉ biết tôi là con nhà nghèo.
- Cái gốc vô sản của anh sẽ cứu anh đấy.
Tại sao tôi phải vô sản? Ồng nội tôi là thầy đồ nho. Ông nội tôi chết, gia sản của bà tôi có một mẫu ruộng (một mẫu 3600 mét vuông). Bố tôi lưu lạc buôn bán khắp nơi. Năm 1956, bà nội tôi bị quy vào thành phần trung nộng, thoát cảnh đấu tố nhưng bị truy thuế nhiều năm. Bà tôi không có thóc, không có tiền nộp thuế. Bố tôi nằm tù hai năm thay thế mẹ già. Bố tôi phải chăn bò bên bờ sông Trà Lý, ở đợ cho Đảng và Nhà Nước thế tiền thuế. Tại sao tôi phải vô sản? Những kẻ khoe khoang mình vô hay tư sản, bần cố nông hay địa chủ đều là những kẻ đần độn. Là người tôi khước từ mọi giai cấp chụp lên đầu tôi.
- Tôi không vô sản đâu anh ạ.
- Đó là sự bất lợi cho anh. Anh muốn làm kẻ phiêu lưu vô định trong đời sống mãi ư? Phải có nơi chốn trở về chứ? Nghiên cứu anh, chúng tôi chung một nhận định: Anh chỉ là người bất mãn nhằng, chống đối tiêu khiển, chính trị giải phiền. Anh không có gì nguy hiểm cả. Đừng tưởng anh nguy hiểm. Giam giữ anh chẳng phải vì anh nguy hiểm mà nhằm mục đích soi sáng lối về cho anh. Anh ngây thơ lắm. Anh biết chúng tôi thả Trương Phiên rồi chứ? Bọn miền Nam đã bịp anh từ cuối năm 1954.
Tôi im lặng nghe chấp pháp số 12 “mắng mỏ”
- Với chúng tôi, Nguyễn Văn Sao quan trọng hơn anh nhiều. Trí thức, văn nghệ sĩ các anh sợ khó, sợ khổ, ham vui, chóng chán. Cỡ anh, nếu các anh có mật khu, anh sống hai tuần là bỏ cuộc.
Thằng này khinh thường tôi quá. Nhưng đã “đi khách” cả chục bận, “vành ngoài, vành trong” tôi hiểu hết. Tôi kệ hắn nói cho sướng miệng. Mình nằm trong tay nó, tranh luận vô ích.
- Anh biết tình hình bên ngoài không?
- Không.
- Lung tung lắm. Bạn bè anh công kích chế độ gửi lén bài ra ngoại quốc.
Hắn cười nhạt.
- Không có Nhân Văn giai phẩm ở Saigon đâu. Anh Hoàng Hải Thủy chẳng biết điều tí nào. Đã tha không bắt, lại viết phóng sự Đen như mõm chó riễu cợt chế độ.
Hắn rút ngăn kéo lôi ra tập bản thảo của Hoàng Hải Thủy đặt giữa bàn. Tôi nhận liền thủ bút của Gã Thâm, tác giả những phóng sự sôi nổi trước 1963. Hoàng Hải Thủy là nhà văn ăn diện nhất trong số các nhà văn Việt Nam. Có nhiều nhà văn, nhà thơ mà diện kiến họ, bạn sẽ thất vọng. Hoàng Hải Thủy thì không. Đẹp trai, bảnh bao, lịch sự. Một vài kẻ không thích công nhận Hoàng Hải Thủy như một nhà văn. Chẳng hạn kẻ Trần Phong Giao, kẻ Nguyễn Quốc Trụ. Điều này không quan trọng. Quan trọng là Trần Phong Giao, Nguyễn Quốc Trụ cũng chưa được công nhận như những nhà văn. Vậy mà đã mất công Nguyễn Mạnh Côn viết tựa tiểu thuyết của Thủy bênh vực Thủy. Nhà văn là cái gì nhỉ? Hễ ai viết chữ, người đó là nhà văn. Há những người viết đơn thuê trước cửa Toà Án, viết thư mướn trước cửa Bưu Điện chẳng được gọi là nhà văn công cộng đó sao? Những tên viết văn chuyên nghiệp, những tên đổi chữ nghĩa lấy cơm áo sống trọn đời mình như chúng tôi, không lấy làm thích thú cái tước vị nhà văn. Hoàng Anh Tuấn đã chế… chữ nôm đặt tên nghề nghiệp vô cùng hữu lý. Viết văn mưu sinh là thợ viết. Vẽ mưu sinh là thợ vẽ. Hát mưu sinh là thợ hát. Đánh đàn mưu sinh là thợ đàn. Lái phi cơ là tài xế tầu bay. Vân vân… Chúng ta nên dành các tước vị nhà văn, nhà thơ cho quý vị viết văn tài tử, sống bằng nghề khác, không sống bằng ngòi bút. Nhưng còn một hạng quý vị lạy lục xin xỏ quỹ trợ cấp ngoại quốc, viết sách xuất bản bán vung vít, chúng ta gọi quý vị ấy là nhà gì? Nhà thầu, nhà buôn, nhà mồ, nhà đòn hay… nhà thổ? Tôi thấy có những thi sĩ hì hục làm thơ suốt đời, ấn loát cả chục pho mà gom lại vẫn không hay bằng một bài thơ hạng bét của thợ thơ Hoàng Anh Tuấn. Cá nhân tôi, tôi, nói thật, học dốt và yếu sức, không thể làm ông thông, ông phán, ông phu xích lô, tôi viết văn nuôi vợ con. Tôi là thợ viết. Tôi không ham đi vào văn học sử hôm nay, vì hôm nav không anh nào đáng viết văn học sử. Tôi không đợi đi vào văn học mai sau, vì mai sau tôi chết rồi. Vậy thì xin cho phép chúng tôi làm thợ viết như thợ đóng giầy, thợ hồ, thợ mộc, thợ dệt, thợ may… Hãy là người thợ chăm chỉ làm việc, nỗ lực sáng tạo, có lương tâm nghề nghiệp, có chính kiến rõ rệt hơn là nhà văn lười biếng, gặm sứ mạng như chuột nhắt gặm sắt, rúc đầu xuống cát như đà điểu hèn mọn. Người ta không muốn bạn tôi là nhà văn thì bạn tôi là thợ viết.
Thợ viết Hoàng Hải Thủy là tấm gương lớn cho những người tự học. Tiếng Pháp tự học. Tiếng Anh tự học. Tiếng Tầu tự học. Rồi dịch và phóng tác truyện Pháp, truyện Anh, truyện Tầu. Thủy đọc nhiều, nhớ kỹ. Thông minh và sâu sắc. Chỉ mắc một tội, lụy vợ. (Các bà sẽ hài lòng lắm). Vợ mà giận bỏ đi, Thủy buông xuôi mọi việc. Vợ mà trở về, Thủy viết lách hăng say. Cô đào xi-nê-ma Dạ Yến mê Thủy đến bỏ chồng Mỹ. Ân ái gần đêm thì bò về với vợ. Thủy đã đi lính trước 1954, đeo lon trung sĩ, từng coi tù ở Phú Quốc. Anh đã viết một truyện ngắn về tháng ngày coi tù, kể một kỷ niệm viết thư giùm anh tù binh cộng sản gửi vào đất liền cho vợ anh ta. Anh tù binh, hơn hai mươi năm sau, ở cục R về giải phóng Saigon và làm chủ nhiệm nhật báo Giải Phóng 3. Anh tù binh mang ơn trung sĩ Hoàng Hải Thủy. Nhờ vậy, Thủy thoát chiến dịch 2-4-1976. Anh tù binh bảo Hoàng Hải Thủy chôn chết tên Hoàng Hải Thủv đi rồi viết cho cách mạng.
- Bút hiệu cửa tôi gắn liền với đời sống của tôi. Hoặc tôi viết ký Hoàng Hải Thủv hoặc tôi không bao giờ viết nữa.
Đó là câu trả lời quyết liệt của Thủy trong bữa rượu tái ngộ cố nhân. Sau 30-4-1975, Hoàng Hải Thủy đến nhà tôi một lần, chờ tôi cả tiếng đồng hồ để báo tin con trai Vũ Trọng Phụng, bậc thầy phóng sự Việt Nam, đã gặp Thủy và muốn gặp tôi. Năm 1977, Thủy bị bắt về tội gửi bài ra nước ngoài. Anh nằm đề lao Gia Định, về Tổng nha cảnh sát cũ rồi được tha, ngót hai năm tù ngục. Tôi ra tù, Thủy đến thăm ngay. Chúng tôi có nhiều ngày đi chơi với nhau. Buổi chiều, trước đêm vượt biên, tôi mời Hoàng Hải Thủy “phê” một bữa với ông Ký già tại toà soạn Văn.
- Mày nói rằng, đứa nào vượt biên dấu mày, đều bị bắt. Vậỵ tao cho mày hay, đêm nay tao phú lĩnh.
- Thoát không?
- Chưa biết.
- Làm sao tao có tin mày?
- Tao đánh điện cho cô Tuấn.
Chúng tôi chia tay nhau ở bùng binh cửa rạp Khải Hoàn. Tôi đã thoát. Thoát chưa phải là đến. Ở trại tiếp cư Achères, tôi gửi cho Thủv tấm bưu thư. Thủy viết thư nhờ một ni cô chuvển cho tôi. Thủy nói, tôi đi rồi thì Thủy bị khủng hoảng, muốn “noi gương” tôi. Anh cảm giác bị đe dọa thường xuyên. Cảm giác ấy đă hiện thực. Hoàng Hải Thủy bị bắt lại vào tháng 4 năm 1984.
- Các anh vẫn tiếp tục chống phá cách mạng.
Hắn bỏ tập bản thảo của Hoàng Hải Thủy vào ngăn kéo.
- Anh nghĩ thế nào?
- Tôi nằm đây biết gì chuyện bên ngoài.
- Bên ngoài ảnh hưởng bên trong. Các anh sẽ khó về đấy.
Cuộc mạn đàm ngắn ngủi. Như thể người ta không quên tôi. Tôi về phòng. Tuần lễ sau, Hoàng Mạnh Hùng và tôi chuyển phòng. Chúng tôi cùng sang 4C-2.
--------------------------------
1 Ngôn ngữ tránh kiểm duyệt, có nghĩa là vượt biên.
2 Vụ này, các đài ngoại quốc có thuật. Sau 1975, một số phi công của Hàng Không dân sự được xử dụng cho Hàng Không dân dụng nhưng xăng chỉ cấp đủ lộ trình đến. Từ nơi đến đổ xăng đủ về. Người phi công chuyến bay này là bố của Vinh nhí, bạn Chương còm. Theo Linh kể, máy bay chỉ chở về một quan tài Việt Cộng loan tin không tặc sát hại phi công. Tôi cho rằng Việt Cộng đã thủ tiêu phi công. Phi công của Hàng Không dân sự cũ bị sa thải hết, sau vụ này, và sự bán vé được kiểm soát chặt chẽ.
3 Khác với nhật báo của thành ủy là Sàigòn Giải Phóng.
Tôi không muốn gặp mặt vợ con một tí nào cả. Bởi vì, sau một lần gặp gỡ, tôi mềm yếu và đau khổ vô cùng. Tôi đã ao ước vợ con tôi vượt biên. Cứ vượt biên, sống chết ra sao không cần biết, miễn là đừng bị bắt vào tù. Tôi đã ao ước thô bạo hơn, vợ con tôi cùng chết một lúc và chết ngon lành. Và rồi, tôi ao ước tôi chết cho vợ con tôi khỏi bận bịu, tìm đường ra đi. Tôi cũng sợ hãi đọc thư nhà. Những bức thư ngô nghê của thằng con trai út thường làm tôi khóc. Mỗi khi thư loan tin bác này về vùng kinh tế mới, bác kia hồi hương, 1 tôi muốn điên lên. Bằng hữu tôi lần lượt ra đi, bỏ rơi vợ con tôi. “Bố ơi, chẳng ai thèm lại nhà mình, thấy mình họ ngoảnh mặt”. Tai họa còn là cái sàng đãi lọc tình nghĩa. “Bố ráng học tập cải tạo tốt để được Nhà Nước khoan hồng sớm về sum họp gia đình dạy dỗ chúng con”. Câu cuối của từng bức thư tù đó. Khuôn mẫu của chế độ giải phóng con người. Tôi ghét bị kiểm duyệt tình cảm, nên thư về của tôi chỉ là cái danh sách xin gửi những món cần thiết. Vợ tôi không hiểu, đã trách móc tôi. Và tôi im lặng. Tôi đã viết nhiều về nỗi cô đơn. Rất hời hợt. Một đêm ở 1C-1, hồi tôi bị ghẻ mủ nặng, nằm nghiêng trên hai gang chiếu. Tôi ngủ lúc nào không rõ. Và tôi có giấc chiêm bao. Vợ chồng tôi cãi nhau quyết liệt. Hai chúng tôi giận nhau, mỗi đứa nằm một mép giường, xoay lưng đấu nhau. Tôi thấy mình vô lý quá. Tại sao không nhường nhịn vợ? Tại sao không xin lỗi vợ? Bèn lăn một vòng ôm chặt vợ. Bị cái thúc cùi chõ vào bụng. Tỉnh giấc mới hay mình ôm bạn tù ghẻ. Phòng giam sáng trưng đèn nê-ông, Tất cả đều ngủ. 1C-1 nhỏ bé, bốn bức tường kín mít. Mà tôi mơ hồ tưởng bờ bãi mênh mông. Và nỗi cô đơn dàn trải vô tận. Tôi đã thiếu khả năng viết bài thơ diễn tả nỗi cô đơn của tôi.
Và thế đấy, tôi không muốn gặp mặt vợ con một tí nào cả. Nhưng mà tôi lại gặp mặt vợ con lần thứ hai. Quản giáo Bàng dẫn tôi ra phòng tiếp khách gần cổng trại. Hắn bỏ ra ngoài để chúng tôi trò chuyện tự do. Con trai lớn của tôi, Vũ Nguyễn Thiên Chương, tức Chương còm, tức cu Tý, mất trường Taberd sang trường Marie Curie học. Bị Cờ Đỏ của trường nhốt một đêm, đánh đập tàn nhẫn. Bị ra phiên tòa của giáo viên thành phố, bị kết tội con của nhà văn phản động, bị đuổi học. Không thầy giáo… ngụy nào bênh vực nửa lời, dù phiên tòa có nhiều thầy giáo bạn của tôi. Con gái tôi, Vũ Nguyễn Thiên Hương, tức con Ki, vẫn học Régina Mundi (đổi tên Lê Thị Hồng Gấm), giỏi môn văn, được đề nghị ra Hà Nội thi văn, đậu cao sẽ sang Moscou, thương bố bị tù, thương anh bị đuổi học đã xin nghỉ học luôn. Con trai út tôi, Vũ Nguyễn Thiên Sơn, tức thằng Đốm, bị cấm đến trường. Vợ tôi bệnh hoạn dài dài, bị lừa gạt vượt biên, bị hăm dọa thủ tiêu nếu không rời căn nhà đường Công Lý. Thư hăm dọa trình công an. Công an lờ tít. Vợ con tôi bỏ nhà… lưu vong. Con chim đại bàng đã không đến ăn khế vườn nhà tôi. Và cổ tích của thằng Đốm là thất học.
Tôi vác bị quà về phòng giam, lòng rã rời, tan nát. Xưa, viết truyện, tôi đã chỉ xin làm cây leo lên hạnh phúc của con tôi. Giờ, nằm tù, tôi không được leo lên cả bất hạnh của con tôi. Và cả niềm bất hạnh của tôi, của gia đình tôi, cho đến hôm nay, vẫn còn bị đâm thêm những ngọn dáo phi nhân, vẫn còn bị phì thêm nọc rắn ác độc. Nhưng mặt trời chiếu cho mọi người. Và Chúa Jesus đã dạy: “Phúc cho kẻ chịu bắt bớ bởi sự công nghĩa. Vì nước Trời là của kẻ ấy. Phúc cho kẻ bị lăng nhục và vu cho mọi điều ác. Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng trên Trời là lớn”. Cho nên, tôi vẫn đi, tôi mãi đi không mỏi, nhân danh niềm bất hạnh của tôi. Phần thưởng trên Trời tôi chưa thấy. Phần thưởng dưới thế tôi đã thấy: Tôi đã viết thêm 20 cuốn sách từ khi ra khỏi nhà tù. Tôi còn trẻ măng, còn dồi dào phong độ, còn tràn trề sinh lực và năng lực. Nếu nước Trời là Sáng Tạo, nước ấy của tôi. Cứ phì nọc độc vào tôi đi rồi lùi lại, nhỏ bé. Cứ chấp nọc độc, tôi phóng xa về phía trước, cao lớn, sừng sững. Đó là tín hiệu của bất cứ ai sáng tạo.
Tháng 7-1977, Doãn Quốc Sĩ từ 6C-1 qua 3C-1.Tác giả Dòng sông định mệnh tỏ vẻ mừng rỡ gặp tôi. Anh Sĩ vẫn khoẻ mạnh. Doãn Quốc Sĩ chuẩn bị áo len, bí-tất găng tay. Anh tiên đoán một chuyến đi xa về phương Bắc. Thường xuyên lạc quan, đó là thái độ ở tù của anh.
Chúng tôi hàn huyên… chấp pháp.
- Thằng rỗ huê mặc áo sơ-mi trứng sáo chửi tôi khiếp lắm. Nó đòi chặt tôi làm ba khúc xem thân thể tôi có là kim cương. Doãn Quốc Sĩ nói.
- Anh trả lời sao? Tôi hỏi.
- Im lặng.
- Anh thiền à?
Doãn Quốc Sĩ cười.
- Thằng Vũ Hạnh báo cáo hết về anh em mình. Nó viết tôi thường xuyên lăng nhục Bác của chúng nó.
- Tôi biết.
- Duyên Anh cũng làm việc với thằng rỗ huê?
- Và bị nó chửi tưng bừng hoa lá. Nó chơi xỏ, tống tôi vào cachot buổi sáng, buổi tối đuổi về. Mình đang ghẻ thèm ở riêng, nó chỉ cho “bán trú”.
Chúng tôi cùng cười.
- Khi cụ Tú Mỡ chết, anh đang nằm cachot.
- Nhà báo tin.
- Cáo phó đăng báo Nhân Dân.
- Nhà đã gửi vào.
Doãn Quốc Sĩ là con rể Tú Mỡ, tác giả Dòng nước ngược, thủ quỹ Hội Nhà Văn Việt Nam. Nghịch cảnh của tác giả Khu rừng lau là anh có người em ruột, Doãn Nho, nhạc sĩ, con cưng của Đảng, được sang Moscou học sáng tác nhạc hòa tấu cổ điển. Doãn Nho cũng là con cưng của Công An vì anh sáng tác vài ca khúc ngợi ca công an. Thế mà mấy lần Doãn Nho xin gặp Doãn Quốc Sĩ đều bị từ chối, bắt tội thân mẫu Doãn Quốc Sĩ từ Hà Nội vào đợi thăm con hoài. Hoàng Mạnh Hùng đã hỏi lý do nào Doãn Quốc Sĩ chống Cộng mãnh liệt thế. Họ Doãn đáp gọn:
- Tuổi trẻ tôi bị lừa gạt.
Anh Sĩ hơn tôi một con giáp, cùng tuổi Hợi. Năm nay anh 65. Thế hệ anh, người ta khao khát độc lập, khao khát cách mạng. Nguyễn Ái Quốc đã là kỳ vọng của trí thức trẻ hồi ấy. Anh Sĩ không ngại ngần nói rằng anh đã chỉ sợ Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc. Rốt cuộc, Hồ Chí Minh vẫn là Nguyễn Ái Quốc nhưng không phải Nguyễn Ái Quốc lý tưởng của Doãn Quốc Sĩ. Anh đã, nói theo Nguyễn Mạnh Côn, lạc đường vào lịch sử. Những vụ thủ tiêu Lan Khai, Khái Hưng và, lần lượt, các đảng phái quốc gia cùng với những cuộc đấu tố mở màn ở trung du khiến anh thức tỉnh. Anh coi như mình bị lừa gạt. Khi niềm tin của tuổi trẻ bị lừa gạt thì phản ứng của nó dữ dội lắm. Phản ứng ấy dàn trải cùng khắp tác phẩm của anh. ‘‘Mỗi dòng chữ của Doãn Quốc Sĩ là một viên đạn bắn cộng sản”. Nguyễn Đình Toàn đã viết thế. Anh Sĩ chống Cộng cả bằng cổ tích, bằng thiền. Doãn Quốc Sĩ chống Cộng tự nguyện, khác hẳn loại bồi bút chống Cộng, loại đánh đĩ văn chương giá rẻ cho Juspao, Usis. Ngọn đuốc Doãn Quốc Sĩ lúc nào cũng sáng, lúc nào cũng soi tỏ cho tuổi trẻ bị lừa gạt niềm tin. Chỉ tiếc tuổi trẻ hôm nay thiếu chất phẫn nộ của tuổi trẻ Doãn Quốc Sĩ. Và người ta lặng thinh sau những lần bị bịp, bị làm guốc cho lãnh tụ giẻ rách. Người ta hờ hững để mặc bạo lực của quyền uy ảo tưởng diễn hành. Ngọn đuốc Doãn Quốc Sĩ vẫn rực rỡ ở quốc nội. Buồn thay, ở quốc ngoại, có kẻ gục mặt nhận mình là ngọn hải đăng mù. Mà nó mù thật sự. Nó mù vì sự phản phúc, vì sự ích kỷ, vì sự tự mãn với cái chẳng ra gì của nó. Hơn cả mù, nó đã chết.
Tôi có một kỷ niệm nhỏ với anh Sĩ ở 3C-1. Một hôm, Đặng Hải Sơn “vô thất”, anh Sĩ hỏi.
- Cậu bắt chước Bá Di, Thúc Tề à?
Sơn đáp:
- Không, em muốn bao tử nghỉ mệt.
Anh Sĩ nói:
- Bá Di, Thúc Tề ở Đông Chu.
Tôi nói:
- Ở Phong Thần, thề không ăn thóc nhà Chu.
Có thế thôi mà thằng Đoan báo cáo. Anh Sĩ và tôi bị cúp thăm nuôi. Hai Phận gọi tôi ra “giáo dục”
- Cấm vợ anh tiếp tế cho anh xem anh có chê cơm cách mạng không?
Doãn Quốc Sĩ cũng bị gọi ra nghe Hai Phận vĩ đại sỉ vả. Chúng tôi “phèo” chất tươi nửa tháng. Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Mạnh Hùng và tôi bị Hai Phận “đánh dấu”. Giờ học báo Đảng, anh Sĩ ngồi thiền. Anh dễ ăn và dễ ngủ. Tôi phong anh biệt danh Dị Miên Sư Tổ. Khi 3C-1 thêm Lý Thành Cầu, anh Sĩ có tri kỷ chữ Nho. Lý Thành Cầu người Trung Hoa, nói tiếng Việt rất giỏi. Ông ta thuộc Kiều và thơ Đường vanh vách, vốn là đại tá tình báo của Lư Hán, ông theo Tiêu Văn sang Việt Nam tước khí giới Nhật. Ông ta kể chính ông ta dẫn Hồ Chí Minh vào yết kiến Tiêu Văn. Ông Cầu ở lại Việt Nam, lấy vợ Việt Nam bỏ vợ Tầu. Năm 1954, ông di cư và làm quản lý cho hãng tầu vị yểu Hai Con Bướm ở Gò vấp. Chỉ vì ngứa miệng khoe mình quen Hồ Chí Minh mà ông bị vào tù, may là cộng sản chưa thủ tiêu ông. Lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh không thể quen biết anh Tầu già bán xì dầu. Ông Cầu nằm cachot mà Doãn Quốc Sĩ đã nằm. Ra cachot, ông vào 3C-1. Thấy cái bị viết tên Doãn Quốc Sĩ, ông ngạc nhiên hỏi tôi:
- Doãn Quốc Sĩ còn sống à?
- Còn.
Tôi giới thiệu ông ta với anh Sĩ. Ông ta ôm chặt anh Sĩ, nước mắt ròng ròng:
- Tôi đọc tên ông khắc ở tường cachot, tưởng ông chết, xì xụp lạy ông phù hộ tôi. Ai ngờ gặp ông.
Doãn Quốc Sĩ cảm động lắm. Ông Lý Thành Cầu đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Hải Thần, khen thơ Nguyễn Hải Thần hay hơn thơ Hồ Chí Minh, ông ta nói oang oang. Bị chấp pháp gọi ra bắt câm miệng, ông ta phê bình Nguyễn Hải Thần mê thơ quên việc nước.
- Tưởng Giới Thạch rất bận, tiếp khách có mười phút. Mỗi lần xin yết kiến Tưởng khó vô cùng. Vậy mà gặp Tưởng, cụ Nguyễn đem thơ ra khoe và bình mất hết thì giờ, chẳng nói chuyện nước non chi cả.
Ông Lý Thành Cầu trên 70, tóc bạc phơ. Ông ta bình Đường thi, Doãn Quốc Sĩ mê mẩn. Ở với chúng tôi hai tuần, ông bị chuyển trại. Chúng tôi đón Nguyễn Ngọc Tân, người biết hơn cả người biết quá nhiều. Doãn Quốc Sĩ có tri kỷ mới. Nguyễn Ngọc Tân cận nặng, một chân nhỏ tót, đi khập khiễng. Anh ta bắt chước Tôn Tẩn, ăn mặc như thằng điên. Mỗi ngày anh bị gọi ra một lần… tra tự điển Đại Việt. Kiến thức của Nguyễn Ngọc Tân mênh mông. Chuyện gì anh biết cũng đến nơi đến chốn. Anh kể cho chúng tôi nghe chiến khu Nam Ngãi, những ngày lưu vong bên Nam Vang. Chuyện của anh hấp dẫn vô tả. Thời huy hoàng của anh là thời Đại Việt nắm quyền bính. Ngày Nguyễn Hữu Trí làm thủ hiến Bắc Việt, anh ra Hà Nội với tư cách Xứ ủy miền Nam. Tính tình cởi mở, anh giúp đỡ mọi người bằng khoa chữa bệnh điểm huyệt. Ngày thăm nuôi, anh đem quà cho hết đám “con bà phước”. Ít ai hào sảng trong tù như Bẩy Bốp, Phạm Thái, Nguyễn Ngọc Tân. Ngoài đời, tôi tưởng anh cũng thường như Nguyễn Ngọc Huy thôi. Gặp anh mới thấy anh là nguời đáng kính trọng. Cụ Đỗ Văn Lựu ra làm việc luôn luôn ăn mặc bảnh bao. Và cụ chê anh Tân “mất mặt quốc gia” vì anh dùng giây thắt lưng. Cụ đâu hiểu anh Tân giả khùng.
Doãn Quốc Sĩ ở với chúng tôi hai tháng. Đầu tháng 9-1977, anh bị tập trung với các tù nhân khắp nơi tại hai phòng C-1 và C-2. Anh ngủ một đêm rồi đi lao động cải tạo ở Pleiku. Chuyến đi này có Trịnh Viết Thành, Tô Ngọc, Trần Dạ Từ, Nguyễn Hải Chí, Hồ Văn Đồng, Thái Thủy, Mặc Thu, Thanh Thương Hoàng, Mộc Linh, Thế Viên, Nguyễn Sĩ Tế, Nguyễn Viết Khánh. Doãn Quốc Sĩ bị canh chừng một thời gian, mỗi tuần phải “mạn đàm” với chức sắc Sở Công An một lần, phải kể đã gặp gỡ những ai, nói chuyện gì… Ra tù, tôi đi chơi với Doãn Quốc Sĩ nhiều lần, rủ anh vượt biên, anh không dám. Có lẽ, anh tin cộng sản sẽ cho anh đi chính thức. Nếu vậy, anh đã sai lầm. Sự sai lầm của anh đã bị trả giá thêm ở nhà tù. Cộng sản không bao giờ cho “biệt kích văn nghệ” đi chính thức cả.
Nguyễn Đức Đạt, Bùi Xuân Bật khu A sang “làm mới” 3C-1. Trưởng phòng Nguyễn Đức Đạt, dân làng Nghi Tàm, từ Hà Nội vào Saigon giữ chức Đồn trưởng công an Cầu Kho. Thành ủy Hà Nội cử người vô Saigon mua xe hơi, tủ lạnh, tivi… Đồ đạc nhiều món gửi tạm ở Đồn công an Cầu Kho vì người mua đồ là đồng chí, là bạn của Nguyễn Đức Đạt. Thành ủy Saigon “chơi” thành ủy Hà Nội. Sở công an khám xét hàng hóa và đòi chứng minh biên lai. Không có. Bị kết tội mua đồ ăn cắp và tiếp quản trái phép. Những kẻ chứa đồ bị truy tố. Nguyễn Đức Đạt bị lột quân hàm trung úy công an, bị tịch thu hết đồng phục, bị mất luôn chiếc Honda tiền túi, tiền của bao nhiêu năm dành dụm. Và vào tù, bị khai trừ khỏi Đảng.
Thư ký Bùi Xuân Bật, con trai út của cụ Bùi Xuân Học, chủ nhiệm nhật báo Loa Hà Nội trước 1940. Gia đình Bùi Xuân Bật có vai vế tiền chiến và hậu chiến. Anh trai Bật học ở Pháp, theo Hồ Chí Minh về nước làm thông dịch. Người anh này lấy cô vợ Quảng Ngãi. Cụ Học, nhân dịp xuân về cảm tác bài thơ trách móc chế độ. Bị cô con dâu tố cáo. Cụ Học nằm tù ở Lào Kay chết ở đó. Bùi Xuân Bật lên rừng bốc xương cha về Hà Nội. Từ đó, Bật lách mà sống, mà học. Tốt nghiệp kỹ sư luyện kim, Bật cộng tác tại Thái Nguyên. Bật có người chị di cư năm 1954, lấy chồng Tầu, rất giầu. Năm 1976, Bật công tác ở Saigon, được chị cho căn nhà và chiếc xe Mustang. Đẹp trai, trắng trẻo, mũi cao và tóc bồng bênh như Tây lai lại vốn con nhà giòng dõi, Bật thích ứng ngay nếp sống Saigon, ăn diện như công tử. Thế là bị chụp mũ liên hệ với phản động, Bùi Xuân Bật vào đề lao Gia Định.
“Triều đại” Nguyễn Đức Đạt, 3 C-1 trầm lặng. Cụ già đông hơn thanh niên, cụ già ho, cụ già hen, cụ già khạc nhổ đầy nắp cống. Cực hình đề lao, đối với tôi, là những ngày trực bị mở nắp cống xối nước chà sạch những bãi đờm như những con thạch thùng chết. Với Nguyễn Đức Đạt, mục học báo Đảng dẹp bỏ và ngủ tự do. Chính anh ta cần ngủ quên đời. Hễ nhắm mắt, bất kể ngày đêm, anh ta mớ. Chuyện dặn con khoá kỹ xe đạp, dặn vợ đừng chặt bụi tre. Và trách móc Đảng tước đoạt công lao của anh ta. Đạt bị phong thấp, có thể tê bại. Đang là con Đảng biến ra “con bà phước”. Anh ta xin chúng tôi vitamine A. Chúng tôi cho. Tù phản động giúp tù cộng sản bị khu trừ. Tôi nghĩ anh ta đã hiểu quốc gia và tình nghĩa của người quốc gia. Bùi Xuân Bật chửi Đảng ra mặt. Anh ta chưa được kết nạp vào Đảng, vì là con tư sản. Câu nói bất hủ của Bùi Xuân Bật: “Lãnh tụ vĩ đại của tôi là củ cà rốt của tôi. Bởi chỉ củ cà rốt của tôi mới làm tôi sướng và làm vợ tôi sướng”.
Thời gian này, cachot C-1 “đói” khách sộp. Còn mỗi Đinh Xuân Cầu tóc bạc phơ, râu bạc phơ, ria bạc phơ, lông mày bạc phơ, chân đeo xích, tay mang còng bước từng bước ngắn đi làm việc. Tôi nhìn ông ta liên tưởng tới nền tù ngục quê hương tôi ngót nửa thế kỷ. Người chiến sĩ Đại Việt này chế độ nào cũng nằm tù. Những tài năng của đất nước tôi cứ bị lưu đầy, cứ bị giam nhốt, cứ bị hủy diệt. Và tổ quốc tôi gầy mòn với bộ lòng lổn nhổn sán sơ mít. Như thế vẫn chưa đủ, sự thù hận trải dài vô tận. Thù hận trong hạnh phúc và thù hận cả trong thống khổ. Người ta hay nói đến cảm thông đến khoan dung, đến đại lượng. Nhưng ba món hàng xa xỉ này không bầy bán. Định nghĩa và cách xử dụng phải tra tự điển. Rốt cuộc, con người Việt Nam đành phải ước mơ cổ tích. “Bà tiên hoá phép, đứa nào hay nói những danh từ cảm thông, khoan dung, đại lượng thì hễ dứt lời là phọt ra cóc, nhái, rắn, rết”… Hình như, người quốc gia của chúng ta đã lạm dụng hai khẩu hiệu ngắn: Đại nghĩa thắng tà đạo, thương yêu xoá căm thù. Đôi khi, tôi thấy, một số người quốc gia tà đạo hơn cả cái tà đạo họ muốn thắng, căm thù hơn cả cái căm thù họ muốn xoá. Một điều lúc nào cũng có thể thấy là người quốc gia căm thù bạn đối lập hơn cả căm thù kẻ thù đối nghịch. Như vậy có hò hét nghìn năm, chẳng bao giờ chúng ta có dân chủ, tự do và hạnh phúc thực sự. Vương đạo của Vệ Ương mãi mãi ế ẩm, dẫu đã rao bán mấy ngàn năm. Trong mọi lãnh vực, bá đạo cứ thích ứng, thích ứng luôn cho trò chơi văn nghệ. Điều sai lầm căn bản của người quốc gia lưu vong hôm nay là chúng ta không chịu nhìn nhận cái đã có của chúng ta chưa ra ngô ra khoai gì cả. Do đó, khi mất nó, chúng ta mê mải đấu tranh tìm lại nó. Cuộc đấu tranh cho hư ảo là cuộc đấu tranh phục hồi quá khứ. Chúng ta không dám bắt đầu cho tương lai. Chúng ta sợ hãi tương lai. Vì hiện tại chúng ta rách bươm. Và, vì bắt đầu, chúng ta không có vốn, không thể tạo nổi vốn ngoạn mục. Vốn liếng cũ, những lãnh tụ đảng phái gỗ mục, những tướng tá tham nhũng chạy dài, những ngọn giả sơn văn học cạn trương mục rồi. Giá trị của nó không đủ mua gói khô mực. Bất hạnh thay cho dân tộc, gỗ mục và giả sơn ngổn ngang chất đống dọc đường phóng lên phía trước của tuổi trẻ. Và tuổi trẻ vẫn ngại ngần, vẫn chần chừ. Người ta trông đợi tuổi trẻ hào sảng đầu tư nhiệt tình và lòng tự phụ cho tương lai trong cuộc chiến đấu mới, thái độ mới, tư tưởng mới. Chỉ tuổi trẻ mới đủ khả năng thiêu hủy phép tích của bà tiên và sau mỗi cảm thông, mỗi khoan dung, mỗi đại lượng là hoa nhân ái nở, trái hạnh phúc kết. Và, khi ấy, không còn tù ngục xích chân còng tay con người. Khi ấy, không còn thù hận trên quê hương khốn khó Việt Nam, không còn thù hận giữa người Việt Nam với người Việt Nam, không còn những thằng điên cưỡng bức đồng bào mình tung hô mình muôn năm vĩ đại, không còn những thằng ễnh ương ham làm bò lãnh tụ, không còn những thằng thảo khấu chính trị lạc quyên xổ số, không còn những thằng hề cách mạng rẻ tiền, không còn những thằng ngu đòi thống lĩnh đỉnh núi văn học. Khi ấy, cả dân tộc lương thiện được lãnh đạo bởi những tài năng lương thiện. Khi ấy, mọi việc công khai ngoài ánh sáng, chấm dứt phục kích đánh lén. Khi ấy là nghệ thuật, cáo chung thủ thuật. Khi ấy là chung thủy, loại trừ phản phúc. Khi ấy, “mọi người là anh em”. Và khi ấy, là thời lên tiếng sau thời im lặng. Khi ấy mới quyết định cái gì còn để lại.
Đinh Xuân Cầu là tù nhân duy nhất của đề lao Gia Định bị xích chân, còng tay dẫn đi làm việc. Phong sương của tù ngục không làm trán ông thấp xuống và mắt ông mờ đi.
Có ba vị tiên phong đạo cốt của đề lao Gia Định.
Một: Thượng tọa Thích Quảng Độ. Quản giáo Sáu lé đặc trách dẫn thượng tọa đi làm. Gã cai ngục này tuân hành Nội quy triệt để. Nó gọi thượng toạ bằng anh, đọc tên khai sinh của ngài.
- Sao lâu dữ, khẩn trương lên! Nó dục sau khi mở khóa.
- Anh mở cửa ra. Thượng tọa nói.
- Mở rồi, anh ra đi!
- Mở rộng ra.
Sáu lé mở tung cánh cửa thượng tọa mới chịu bước ra. Ngài mặc quần áo nhà chùa chỉnh tề. Ngài ngẩng mặt, bước thong dong. Ở nhà tù cộng sản, các thượng tọa, đại đức Ấn Quang phản động là tù nhân de luxe. Các ngài đòi ăn chay và gọt đầu nhẵn. Và được chấp thuận. Những vị sư khác bị để tóc và ngả mặn. Làm việc xong, Sáu lé dẫn thượng tọa Quảng Độ về cachot.
- Vô đi chứ?
- Anh mở cửa rộng ra.
Cửa mở rộng tù nhân Thích Quảng Độ mới chịu ra vào.
Hai: Nhà phản động già Phan Vô Kỵ quắc thước, bình thản, coi nhà tù như công viên.
Ba: Đinh Xuân Cầu.
Những người này nằm cachot không lên tiếng, không thèm yêu sách một ân huệ nào. Doãn Quốc Sĩ cũng vậy. Đời sống ở cachot C-1 thú vị ra phết. Tù nhân già biến thành con nít. Người ta có thể trao đổi quà cáp và tin tức cho nhau từ cachot đầu dẫy đến cachot cuối dẫy.
- Số 2 nghe rõ không?
- Rõ.
- Nhắn số 11. Mặt trời đã lặn. Số 1 thông tin.
- Rõ.
- Số 3 nghe rõ không?
- Rõ.
- Số 1 nhắn số 11. Mặt trời đã lặn.
- Rõ.
- Số 4 nghe rõ không?
Đó là thông tin. Còn gửi quà cho nhau thì tù nhân cachot rút giây ni-lông ở túi phân bón (gia đình dùng túi này đựng quà gửi vào), se thành sợi giây dài buộc chặt món quà muốn gửi. Rồi luồn tay qua cửa gió tung sang cachot bên cạnh. Cachot bên cạnh cũng luồn tay qua cửa gió đợi chụp sau khi được thông báo. Thường phải chụp mấy lần mới trúng. Cứ vậy, quà chuyền đi… Màn phòng tập thể tặng thuốc lá cachot vất vả nhất. Nếu điếu thuốc mồi lửa rồi thẩy sát cửa cachot, tù nhân thò tay qua chân cửa là được ngay. Nếu điếu thuốc xa bàn tay thò qua chân cửa, tù nhân cachot bèn cởi quần áo, nối lại, luồn qua ô cửa gió tung xuống khều điếu thuốc. Nhìn tù nhân cachot hút thuốc, nhả khói, bạn sẽ thấy rõ chân dung của hạnh phúc, hạnh phúc chỉ khám phá ra trong niềm bất hạnh. Tôi có thú vui đứng sát cửa phòng, giả vờ hít thở quan sát sinh hoạt cachot. Nhờ Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường, Hoàng Mạnh Hùng, Nguyễn Ngọc Tân, Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Sơn Trường tả đầy đủ chi tiết các cachots các khu của đề lao mà họ đã nằm, tôi biết hết cachots đề lao Gia Định. Hoàng Mạnh Hùng còn kể cho tôi nghe các phòng giam ở quận 3, quận 1 sau 1975. Ở đó mới là địa ngục. Và chế độ vua phòng vẫn tồn tại.
Thú tiêu khiển giết thì giờ của tôi ở 3C-1 là tham dự cuộc chơi đô-mi-nô uống nước lạnh từ sáng đến tối. Chúng tôi say sưa chơi. Chơi quên nhớ nhà, quên gãi ghẻ. Chúng tôi uống nước căng rốn. Ai rồi cũng thua và thua mỗi bàn uống hai ca nước. Bốc bài xong, vội bỏ vào túi, đi tiểu ào ào cái đã. Đô-mi-nô uống nước là môn thuốc xổ và lọc nước tiểu diệu kỳ.
Bất ngờ, 3C-1 đón tiếp Trần Anh Linh. Cả phòng sôi nổi. Trần Anh Linh, giáo viên tiểu học Phương Lâm. Hè 1977, anh ta đưa vợ và đứa con nhỏ xuống Rạch Giá thăm bà dì. Anh ta mua vé máy bay Saigon-Rạch Giá. Chuvến máy bay này bị không tặc trấn áp sau hai mươi phút bay. Không tặc có bốn người.
- Họ dưới 30 tuổi, đẹp trai và hào hoa lắm.
Trần Anh Linh kể lớn.
- Trên máy bay có hai công an an ninh. To con và gồ ghề. Một tên định động thủ, một không tặc phóng lưỡi dao trúng tim tên công an. Hắn gục ngay. Không tặc mỉm cười. Người thứ hai rút khẩu rouleau, quay nhanh và đẹp như cao bồi. Tên công an còn sống ngồi bất động. Hắn bị tước khí giới. Hai không tặc khác lên phòng của phi hành đoàn. Hấp dẫn hơn phim gián điệp.
- Rồi sao? Tù nhân nóng ruột hỏi.
- Phi cơ chao lộn vài giây. Người không tặc hạ tên công an trấn an hành khách “Đồng bào bình tĩnh, nếu chết, chúng tôi cũng chết, nhưng không chết đâu. Chúng tôi không phải là không tặc, chúng tôi ra đi có sứ mạng”. Trong khi ấy, người không tặc thứ hai vẫn quay súng và cười rất tươi.
Linh kể tiếp: Phi cơ đáp xuống căn cứ Utapao. An ninh Thái Lan xua đuổi, phi cơ dọa lao vào phá hủy căn cứ. Thái Lan bằng lòng đổ đầy xăng, sạc no bình điện và tiếp tế mỗi hành khách một hộp bánh xăng-uých, nước uống. “Họ nói tiếng Anh quá hay”, Linh bình luận. Rồi máy bay đáp xuống phi trường Tân Gia Ba. Không tặc chào tạm biệt đồng bào, bảo ai muốn chọn tự do tùy ý.
- Một nửa chọn tự do. Một nửa xin về. Tân Gia Ba sửa sang máy bay, tặng xác chết một quan tài. Thời gian đi hay về chỉ có 3 ngày.
- Cậu xin về à?
- Báo chí, phát thanh, truyền hình phỏng vấn tôi. Tôi ở khách sạn sang lắm. Tôi chần chừ chọn nước định cư. Chưa kịp chọn, vì mình không chủ ý tìm tự do, thì quá hạn. Tân Gia Ba bắt ném lên máy bay đuổi về.
- Vào tù?
- Phải, tất cả hành khách và phi hành đoàn bị bắt ở Tân Sơn Nhất.
Một tù nhân tuổi trẻ phán:
- Bạn xứng đáng ăn một thùng cứt. Cơ hội ngàn năm một thuở lại bồng bế vợ con vào tù. Thiên đường chê, ham địa ngục!
Trần Anh linh tặc lưỡi.
- Tôi xứng đáng ăn một trăm thùng cứt 2.
Trần Anh Linh ca ngợi bốn không tặc hết ngôn ngữ. Anh ta bị tống vào cachot để khỏi “tuyên truyền xuyên tạc”. Nhưng mà vụ cướp máy bay này đã trở thành huyền thoại ở đề lao. Hoàng Mạnh Hùng cũng có một “đệ tử” tên Nhân. Cậu sinh viên làm giấy tờ công dân Phi Luật Tân giả, leo máy bay tới Vọng Các lại nhớ mẹ đòi về… vào tù. Thế là 3C-1 có hai tù nhân tình nguyện vào tù, hai tù nhân chê bai ân sủng của Thượng Đế. Trần Anh Linh rời 3C-1 để lại một đề tài cho tù nhân trẻ già bàn luận, suy diễn, vai trò và sứ mạng của bốn không tặc. Trong không khí bàn luận sôi nổi vụ không tặc, tôi bị gọi ra làm việc.
Chấp pháp số 12 ăn mặc bảnh bao. Hắn dân Hà Nội chính cống nói giọng y hệt giọng Bùi Xuân Bật.
- Anh khoẻ chứ, anh Duyên Anh?
- Cám ơn anh, tôi vẫn bình thường.
- Hết ghẻ chưa?
- Còn lai rai.
Hắn mời tôi uống trà, hút thuốc.
- Anh đã suy nghĩ kỹ?
- Thưa anh, suy nghĩ gì?
- Cái gốc vô sản của anh.
- Tôi chỉ biết tôi là con nhà nghèo.
- Cái gốc vô sản của anh sẽ cứu anh đấy.
Tại sao tôi phải vô sản? Ồng nội tôi là thầy đồ nho. Ông nội tôi chết, gia sản của bà tôi có một mẫu ruộng (một mẫu 3600 mét vuông). Bố tôi lưu lạc buôn bán khắp nơi. Năm 1956, bà nội tôi bị quy vào thành phần trung nộng, thoát cảnh đấu tố nhưng bị truy thuế nhiều năm. Bà tôi không có thóc, không có tiền nộp thuế. Bố tôi nằm tù hai năm thay thế mẹ già. Bố tôi phải chăn bò bên bờ sông Trà Lý, ở đợ cho Đảng và Nhà Nước thế tiền thuế. Tại sao tôi phải vô sản? Những kẻ khoe khoang mình vô hay tư sản, bần cố nông hay địa chủ đều là những kẻ đần độn. Là người tôi khước từ mọi giai cấp chụp lên đầu tôi.
- Tôi không vô sản đâu anh ạ.
- Đó là sự bất lợi cho anh. Anh muốn làm kẻ phiêu lưu vô định trong đời sống mãi ư? Phải có nơi chốn trở về chứ? Nghiên cứu anh, chúng tôi chung một nhận định: Anh chỉ là người bất mãn nhằng, chống đối tiêu khiển, chính trị giải phiền. Anh không có gì nguy hiểm cả. Đừng tưởng anh nguy hiểm. Giam giữ anh chẳng phải vì anh nguy hiểm mà nhằm mục đích soi sáng lối về cho anh. Anh ngây thơ lắm. Anh biết chúng tôi thả Trương Phiên rồi chứ? Bọn miền Nam đã bịp anh từ cuối năm 1954.
Tôi im lặng nghe chấp pháp số 12 “mắng mỏ”
- Với chúng tôi, Nguyễn Văn Sao quan trọng hơn anh nhiều. Trí thức, văn nghệ sĩ các anh sợ khó, sợ khổ, ham vui, chóng chán. Cỡ anh, nếu các anh có mật khu, anh sống hai tuần là bỏ cuộc.
Thằng này khinh thường tôi quá. Nhưng đã “đi khách” cả chục bận, “vành ngoài, vành trong” tôi hiểu hết. Tôi kệ hắn nói cho sướng miệng. Mình nằm trong tay nó, tranh luận vô ích.
- Anh biết tình hình bên ngoài không?
- Không.
- Lung tung lắm. Bạn bè anh công kích chế độ gửi lén bài ra ngoại quốc.
Hắn cười nhạt.
- Không có Nhân Văn giai phẩm ở Saigon đâu. Anh Hoàng Hải Thủy chẳng biết điều tí nào. Đã tha không bắt, lại viết phóng sự Đen như mõm chó riễu cợt chế độ.
Hắn rút ngăn kéo lôi ra tập bản thảo của Hoàng Hải Thủy đặt giữa bàn. Tôi nhận liền thủ bút của Gã Thâm, tác giả những phóng sự sôi nổi trước 1963. Hoàng Hải Thủy là nhà văn ăn diện nhất trong số các nhà văn Việt Nam. Có nhiều nhà văn, nhà thơ mà diện kiến họ, bạn sẽ thất vọng. Hoàng Hải Thủy thì không. Đẹp trai, bảnh bao, lịch sự. Một vài kẻ không thích công nhận Hoàng Hải Thủy như một nhà văn. Chẳng hạn kẻ Trần Phong Giao, kẻ Nguyễn Quốc Trụ. Điều này không quan trọng. Quan trọng là Trần Phong Giao, Nguyễn Quốc Trụ cũng chưa được công nhận như những nhà văn. Vậy mà đã mất công Nguyễn Mạnh Côn viết tựa tiểu thuyết của Thủy bênh vực Thủy. Nhà văn là cái gì nhỉ? Hễ ai viết chữ, người đó là nhà văn. Há những người viết đơn thuê trước cửa Toà Án, viết thư mướn trước cửa Bưu Điện chẳng được gọi là nhà văn công cộng đó sao? Những tên viết văn chuyên nghiệp, những tên đổi chữ nghĩa lấy cơm áo sống trọn đời mình như chúng tôi, không lấy làm thích thú cái tước vị nhà văn. Hoàng Anh Tuấn đã chế… chữ nôm đặt tên nghề nghiệp vô cùng hữu lý. Viết văn mưu sinh là thợ viết. Vẽ mưu sinh là thợ vẽ. Hát mưu sinh là thợ hát. Đánh đàn mưu sinh là thợ đàn. Lái phi cơ là tài xế tầu bay. Vân vân… Chúng ta nên dành các tước vị nhà văn, nhà thơ cho quý vị viết văn tài tử, sống bằng nghề khác, không sống bằng ngòi bút. Nhưng còn một hạng quý vị lạy lục xin xỏ quỹ trợ cấp ngoại quốc, viết sách xuất bản bán vung vít, chúng ta gọi quý vị ấy là nhà gì? Nhà thầu, nhà buôn, nhà mồ, nhà đòn hay… nhà thổ? Tôi thấy có những thi sĩ hì hục làm thơ suốt đời, ấn loát cả chục pho mà gom lại vẫn không hay bằng một bài thơ hạng bét của thợ thơ Hoàng Anh Tuấn. Cá nhân tôi, tôi, nói thật, học dốt và yếu sức, không thể làm ông thông, ông phán, ông phu xích lô, tôi viết văn nuôi vợ con. Tôi là thợ viết. Tôi không ham đi vào văn học sử hôm nay, vì hôm nav không anh nào đáng viết văn học sử. Tôi không đợi đi vào văn học mai sau, vì mai sau tôi chết rồi. Vậy thì xin cho phép chúng tôi làm thợ viết như thợ đóng giầy, thợ hồ, thợ mộc, thợ dệt, thợ may… Hãy là người thợ chăm chỉ làm việc, nỗ lực sáng tạo, có lương tâm nghề nghiệp, có chính kiến rõ rệt hơn là nhà văn lười biếng, gặm sứ mạng như chuột nhắt gặm sắt, rúc đầu xuống cát như đà điểu hèn mọn. Người ta không muốn bạn tôi là nhà văn thì bạn tôi là thợ viết.
Thợ viết Hoàng Hải Thủy là tấm gương lớn cho những người tự học. Tiếng Pháp tự học. Tiếng Anh tự học. Tiếng Tầu tự học. Rồi dịch và phóng tác truyện Pháp, truyện Anh, truyện Tầu. Thủy đọc nhiều, nhớ kỹ. Thông minh và sâu sắc. Chỉ mắc một tội, lụy vợ. (Các bà sẽ hài lòng lắm). Vợ mà giận bỏ đi, Thủy buông xuôi mọi việc. Vợ mà trở về, Thủy viết lách hăng say. Cô đào xi-nê-ma Dạ Yến mê Thủy đến bỏ chồng Mỹ. Ân ái gần đêm thì bò về với vợ. Thủy đã đi lính trước 1954, đeo lon trung sĩ, từng coi tù ở Phú Quốc. Anh đã viết một truyện ngắn về tháng ngày coi tù, kể một kỷ niệm viết thư giùm anh tù binh cộng sản gửi vào đất liền cho vợ anh ta. Anh tù binh, hơn hai mươi năm sau, ở cục R về giải phóng Saigon và làm chủ nhiệm nhật báo Giải Phóng 3. Anh tù binh mang ơn trung sĩ Hoàng Hải Thủy. Nhờ vậy, Thủy thoát chiến dịch 2-4-1976. Anh tù binh bảo Hoàng Hải Thủy chôn chết tên Hoàng Hải Thủv đi rồi viết cho cách mạng.
- Bút hiệu cửa tôi gắn liền với đời sống của tôi. Hoặc tôi viết ký Hoàng Hải Thủv hoặc tôi không bao giờ viết nữa.
Đó là câu trả lời quyết liệt của Thủy trong bữa rượu tái ngộ cố nhân. Sau 30-4-1975, Hoàng Hải Thủy đến nhà tôi một lần, chờ tôi cả tiếng đồng hồ để báo tin con trai Vũ Trọng Phụng, bậc thầy phóng sự Việt Nam, đã gặp Thủy và muốn gặp tôi. Năm 1977, Thủy bị bắt về tội gửi bài ra nước ngoài. Anh nằm đề lao Gia Định, về Tổng nha cảnh sát cũ rồi được tha, ngót hai năm tù ngục. Tôi ra tù, Thủy đến thăm ngay. Chúng tôi có nhiều ngày đi chơi với nhau. Buổi chiều, trước đêm vượt biên, tôi mời Hoàng Hải Thủy “phê” một bữa với ông Ký già tại toà soạn Văn.
- Mày nói rằng, đứa nào vượt biên dấu mày, đều bị bắt. Vậỵ tao cho mày hay, đêm nay tao phú lĩnh.
- Thoát không?
- Chưa biết.
- Làm sao tao có tin mày?
- Tao đánh điện cho cô Tuấn.
Chúng tôi chia tay nhau ở bùng binh cửa rạp Khải Hoàn. Tôi đã thoát. Thoát chưa phải là đến. Ở trại tiếp cư Achères, tôi gửi cho Thủv tấm bưu thư. Thủy viết thư nhờ một ni cô chuvển cho tôi. Thủy nói, tôi đi rồi thì Thủy bị khủng hoảng, muốn “noi gương” tôi. Anh cảm giác bị đe dọa thường xuyên. Cảm giác ấy đă hiện thực. Hoàng Hải Thủy bị bắt lại vào tháng 4 năm 1984.
- Các anh vẫn tiếp tục chống phá cách mạng.
Hắn bỏ tập bản thảo của Hoàng Hải Thủy vào ngăn kéo.
- Anh nghĩ thế nào?
- Tôi nằm đây biết gì chuyện bên ngoài.
- Bên ngoài ảnh hưởng bên trong. Các anh sẽ khó về đấy.
Cuộc mạn đàm ngắn ngủi. Như thể người ta không quên tôi. Tôi về phòng. Tuần lễ sau, Hoàng Mạnh Hùng và tôi chuyển phòng. Chúng tôi cùng sang 4C-2.
--------------------------------
1 Ngôn ngữ tránh kiểm duyệt, có nghĩa là vượt biên.
2 Vụ này, các đài ngoại quốc có thuật. Sau 1975, một số phi công của Hàng Không dân sự được xử dụng cho Hàng Không dân dụng nhưng xăng chỉ cấp đủ lộ trình đến. Từ nơi đến đổ xăng đủ về. Người phi công chuyến bay này là bố của Vinh nhí, bạn Chương còm. Theo Linh kể, máy bay chỉ chở về một quan tài Việt Cộng loan tin không tặc sát hại phi công. Tôi cho rằng Việt Cộng đã thủ tiêu phi công. Phi công của Hàng Không dân sự cũ bị sa thải hết, sau vụ này, và sự bán vé được kiểm soát chặt chẽ.
3 Khác với nhật báo của thành ủy là Sàigòn Giải Phóng.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 20
Tôi bắt đầu suy nghĩ về những chiếc còng made in USA mà người Mỹ bỏ lại quê hương tôi. Người Mỹ chạy trốn vội vàng không kịp di tản còng khóa hay người Mỹ cố tình tặng còng khóa made in USA cho Cộng sản? Tại sao sự khai phóng tự do, dân chủ cần thiết còng, khoá, khiên, ma-trắc, lựu đạn khói nhỉ? Câu hỏi tôi tự đặt ra rồi tôi tự trả lời bằng bài thơ tù:
Nhân danh chủ nghĩa tư bản
nước Mỹ chế tạo còng
và viện trợ cho những tên độc tài ở Sài Gòn
để bảo vệ tự do dân chủ
và xây dựng hạnh phúc con người nước nhỏ
Nhân danh tự do dân chủ
thi sĩ chống đối chế độ độc tài
và bị còng nhãn hiệu USA siết chặt tay
tống vào ngục
Nhân danh chủ nghĩa vô sản
Liên Xô giải phóng Việt Nam
tiêu diệt ảnh hưởng chủ nghĩa tư bản tan hoang
nhưng vẫn sử dụng hàng triệu chiếc còng
mà Mỹ quên di tản
Nhân danh quyền sống
và không nhân danh gì cả
thi sĩ phản kháng và bất động
đều bị Liên Xô dùng còng Mỹ siết chặt tay
tống vào ngục
Tôi nằm tù sáu năm
tìm hoài chưa thấy một định nghĩa chính xác
về cái còng ở thời đại của chúng ta
Chúng ta có nhiều cái nếu sau nhiều lần can thiệp của Tây phương trên đất nước chúng ta. Nếu người Anh không can thiệp vấn đề Việt Nam, không dâng hiến cơ hội và khích lệ người Pháp trở lại gây chiến tranh 10 năm tạo thanh thế và chính nghĩa cho Cộng sản, lịch sử đã như thế nào? Chắc chắn, Cộng sản đã bị quốc gia nghiền nát. Người Pháp đã vội quên thân phận bị trị của mình, vội quên những giọt nước mắt mừng rỡ giải phóng dân tộc thoát ách phát-xít Đức để cố tình dẫm bước chân thống trị lên nỗi mừng rỡ độc lập của Việt Nam. Khác hẳn thực dân Pháp của thế kỷ trước, người Pháp năm 1946 là người Pháp vừa trải qua sự nhục nhằn mất nước, vừa trải qua cuộc kháng chiến chống xâm lăng hào hùng. Họ đem cái hào hùng đó xâm lăng nước ta. Tinh thần và tác phong của người Pháp dân chủ xâm lăng còn thô bạo gấp ngàn lần tinh thần và tác phong của người Pháp thực dân xâm lăng. Đó chính là dịp may ngàn năm một thuở để Cộng sản phát tín hiệu đoàn kết dân tộc rồi đẩy dân tộc lên tuyến đầu. Năm năm sau, đảng phái quốc gia bị tiêu diệt dần mòn. Năm năm sau nữa, Cộng sản chế ngự và chuyên chế. Cái tham vọng mù lòa của người Pháp đã nuôi dưỡng Cộng sản khôn lớn bằng máu xương và nước mắt dân tộc Việt Nam.
Nếu người Mỹ không can thiệp vấn đề Việt Nam từ 1954, lịch sử đã như thế nào? Họ đến, họ làm đảo tung đạo lý Việt Nam, họ mang chiến tranh, ngục tù, còng xích họ viện trợ bọn độc tài bù nhìn, họ phá hủy, họ nuôi dưỡng Cộng sản rồi họ bỏ đi. Cái còn lại là gì? Là Cộng sản. Là ngục tù và còng xích made in USA. Bất cứ nơi nào người Mỹ can thiệp, mọi diễn biến sẽ giống hệt Việt Nam. Bọn cầy cáo tay sai ôm hàng tỷ đô-la cuốn gói về nước chủ. Dân chúng ở lại quằn quại, rên xiết. Nguyễn Văn Thiệu đó. Cao Văn Viên đó. Trần Thiện Khiêm đó. Marcos đó. Câu ca dao dưới đây diễn tả thật đúng tâm sự bẽ bàng của dân tộc Việt Nam.
Mỹ đưa Khiêm Thiệu đi rồi
Dân ta ở lại chịu đời đắng cay.
Thời đại chúng ta, cách mạng làm bằng phương tiện Mỹ. Lãnh tụ cách mạng chết vì âm mưu Mỹ. Chiến tranh bởi súng đạn Mỹ. Mất nước do… thiếu viện trợ Mỹ. Thế mà vẫn còn đứa ngu xuẩn trưng bằng cớ Mỹ nuốt lời hứa. Nước mình mình không lo, lo ăn cắp máu lính, lo ăn cướp xương dân, đem cái kiến thức tiến sĩ tôi đòi mà đổ vạ ông Nixon. Lại lắm kẻ mê muội cố bám lấv lòng trắc ẩn chẳng bao giờ có của Mỹ để mưu đồ giải phóng dân tộc. Xây dựng hạnh phúc giống nòi ở California, ở Paris chẳng khác chi xây lâu đài trên cát. Bởi vì chưa nhìn còng made in USA còng tay người quốc gia chống Cộng tống vào tù Cộng sản.
Suy nghĩ về còng Mỹ bỏ lại tặng Cộng sản, tôi đâm ra ngao ngán và bi quan. Người giầu có thể thương người nghèo, nhưng nước lớn không đời nào tử tế với nước nhỏ. Sự phũ phàng là, chúng ta đang sống ở kỷ nguyên nước nhỏ không được phép quyết định thân phận mình. Tinh thần quốc gia cực đoan trở thành không tưởng. Tôi bế tắc. Tôi bế tắc vì tôi mệt mỏi, rã rượi. Giữa tháng 12-1977, Hoàng Mạnh Hùng và tôi được lệnh “chuẩn bị tư trang khẩn trương”
- Mình đi lao động chăng? Hùng hỏi.
- Càng hay. Tôi thèm khí trời. Tôi nói.
Tính ra tôi đã trọ ở khách sạn quốc doanh Đề Lao Gia Định ngót 18 tháng, cổ nhân phán: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Nếu vậy tôi đã ở đề lao 540 ngàn năm. Có nên so sánh một ngày tù của cổ nhân và một ngày tù Cộng sản để nhân thêm số năm không nhỉ? Có nhiều tù nhân và nhiều chuyện đáng nhớ tôi lại quên. Có nhiều tù nhân và nhiều chuyện đáng quên tôi lại nhớ. “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Và tôi đã quên hết khi viết về đề lao Gia Định. Những chuyện đáng quên ấy không làm tôi khôn lớn.
- Hoàng Mạnh Hùng!
- Có.
- Vũ Mộng Long!
- Có.
- Xong chưa?
- Rồi.
Cai ngục mở cửa. Các bạn tù 4C-2 chúc chúng tôi thượng lộ bình an. Tôi đeo cái túi đựng phân bón đã khâu hai cái quai trên lưng, tay xách giỏ ni-lông chứa các chai hũ nước mắm, thịt kho, cá kho…, tay xách cái bị cói chứa mì vụn, bột đậu xanh, bột sữa, đường… Tôi không giống bất cứ ai ở xã hội loài người. Tôi là tù nhân của chủ nghĩa Cộng sản, đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Tôi vừa nhận tôi là tù nhân? Sai. Chủ nghĩa Cộng sản không có nhà tù. Tôi là sinh viên nội trú của Đại Học Đề Lao Gia Định. Năm ngoái, tôi học ở Đại Học sở Công An Thành Phố. Tốt nghiệp chứng chi Vỡ Lòng Cay Đắng, tôi ghi danh học Thống Khổ Nhập Môn 18 tháng. Tốt nghiệp chứng chỉ Thống Khổ Nhập Môn tôi ghi danh học tiếp Thương Đau Chín Rấm. Lát nữa tôi mới biết Đại Học nào nhận tôi, Bây giờ, các giáo sư Đề Lao Gia Định bảo tôi xếp hàng chung với các sinh viên khác. Tôi thấy Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Đặng Hải San, Phạm Quang Khai, Đỗ Văn Lựu và vô số bằng hữu các phòng học cũ. Như Phong học dốt bị đúp ở lại Đại Học Đề Lao.
Giáo sư Quản Giáo cầm danh sách đọc tên chúng tôi. Sợ chúng tôi ham vui nhẩy xuống xe đi lạc, giáo sư còng hai sinh viên một còng số 8 made in USA, tay phải sinh viên này dính sát tay trái sinh viên kia và ra lệnh cho chúng tôi lên xe. Xe trùm vải bố kín mít. Tôi giã từ Đại Học Đề Lao Gia Định với bao nuối tiếc. Giã từ các vị giáo sư Chấp Pháp khả kính. Giã từ các vị giáo sư Quản Giáo khả ái. Giã tử lò bánh mì nung nấu cuộc đời. Tôi đi đây. Tôi đi học một mình chẳng cần “mẹ tôi nắm tay tôi dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp.” Ấy quên, giã từ Viện trưởng Hai Phận bất hủ và những cái ống cắm mỏ dầu hỏa ở Tiền Hải.
Nhưng mà xe bít bùng tối tăm, tôi không thể vẫy tay chào tạm biệt ai. Một giọng nói đùa nghịch hỏi vu vơ:
- Tu tủ tù tu đố mấy thằng tù?
Tôi bàng hoàng. Thì ra tôi đích thị tù nhân…
15-2-1987
Tôi bắt đầu suy nghĩ về những chiếc còng made in USA mà người Mỹ bỏ lại quê hương tôi. Người Mỹ chạy trốn vội vàng không kịp di tản còng khóa hay người Mỹ cố tình tặng còng khóa made in USA cho Cộng sản? Tại sao sự khai phóng tự do, dân chủ cần thiết còng, khoá, khiên, ma-trắc, lựu đạn khói nhỉ? Câu hỏi tôi tự đặt ra rồi tôi tự trả lời bằng bài thơ tù:
Nhân danh chủ nghĩa tư bản
nước Mỹ chế tạo còng
và viện trợ cho những tên độc tài ở Sài Gòn
để bảo vệ tự do dân chủ
và xây dựng hạnh phúc con người nước nhỏ
Nhân danh tự do dân chủ
thi sĩ chống đối chế độ độc tài
và bị còng nhãn hiệu USA siết chặt tay
tống vào ngục
Nhân danh chủ nghĩa vô sản
Liên Xô giải phóng Việt Nam
tiêu diệt ảnh hưởng chủ nghĩa tư bản tan hoang
nhưng vẫn sử dụng hàng triệu chiếc còng
mà Mỹ quên di tản
Nhân danh quyền sống
và không nhân danh gì cả
thi sĩ phản kháng và bất động
đều bị Liên Xô dùng còng Mỹ siết chặt tay
tống vào ngục
Tôi nằm tù sáu năm
tìm hoài chưa thấy một định nghĩa chính xác
về cái còng ở thời đại của chúng ta
Chúng ta có nhiều cái nếu sau nhiều lần can thiệp của Tây phương trên đất nước chúng ta. Nếu người Anh không can thiệp vấn đề Việt Nam, không dâng hiến cơ hội và khích lệ người Pháp trở lại gây chiến tranh 10 năm tạo thanh thế và chính nghĩa cho Cộng sản, lịch sử đã như thế nào? Chắc chắn, Cộng sản đã bị quốc gia nghiền nát. Người Pháp đã vội quên thân phận bị trị của mình, vội quên những giọt nước mắt mừng rỡ giải phóng dân tộc thoát ách phát-xít Đức để cố tình dẫm bước chân thống trị lên nỗi mừng rỡ độc lập của Việt Nam. Khác hẳn thực dân Pháp của thế kỷ trước, người Pháp năm 1946 là người Pháp vừa trải qua sự nhục nhằn mất nước, vừa trải qua cuộc kháng chiến chống xâm lăng hào hùng. Họ đem cái hào hùng đó xâm lăng nước ta. Tinh thần và tác phong của người Pháp dân chủ xâm lăng còn thô bạo gấp ngàn lần tinh thần và tác phong của người Pháp thực dân xâm lăng. Đó chính là dịp may ngàn năm một thuở để Cộng sản phát tín hiệu đoàn kết dân tộc rồi đẩy dân tộc lên tuyến đầu. Năm năm sau, đảng phái quốc gia bị tiêu diệt dần mòn. Năm năm sau nữa, Cộng sản chế ngự và chuyên chế. Cái tham vọng mù lòa của người Pháp đã nuôi dưỡng Cộng sản khôn lớn bằng máu xương và nước mắt dân tộc Việt Nam.
Nếu người Mỹ không can thiệp vấn đề Việt Nam từ 1954, lịch sử đã như thế nào? Họ đến, họ làm đảo tung đạo lý Việt Nam, họ mang chiến tranh, ngục tù, còng xích họ viện trợ bọn độc tài bù nhìn, họ phá hủy, họ nuôi dưỡng Cộng sản rồi họ bỏ đi. Cái còn lại là gì? Là Cộng sản. Là ngục tù và còng xích made in USA. Bất cứ nơi nào người Mỹ can thiệp, mọi diễn biến sẽ giống hệt Việt Nam. Bọn cầy cáo tay sai ôm hàng tỷ đô-la cuốn gói về nước chủ. Dân chúng ở lại quằn quại, rên xiết. Nguyễn Văn Thiệu đó. Cao Văn Viên đó. Trần Thiện Khiêm đó. Marcos đó. Câu ca dao dưới đây diễn tả thật đúng tâm sự bẽ bàng của dân tộc Việt Nam.
Mỹ đưa Khiêm Thiệu đi rồi
Dân ta ở lại chịu đời đắng cay.
Thời đại chúng ta, cách mạng làm bằng phương tiện Mỹ. Lãnh tụ cách mạng chết vì âm mưu Mỹ. Chiến tranh bởi súng đạn Mỹ. Mất nước do… thiếu viện trợ Mỹ. Thế mà vẫn còn đứa ngu xuẩn trưng bằng cớ Mỹ nuốt lời hứa. Nước mình mình không lo, lo ăn cắp máu lính, lo ăn cướp xương dân, đem cái kiến thức tiến sĩ tôi đòi mà đổ vạ ông Nixon. Lại lắm kẻ mê muội cố bám lấv lòng trắc ẩn chẳng bao giờ có của Mỹ để mưu đồ giải phóng dân tộc. Xây dựng hạnh phúc giống nòi ở California, ở Paris chẳng khác chi xây lâu đài trên cát. Bởi vì chưa nhìn còng made in USA còng tay người quốc gia chống Cộng tống vào tù Cộng sản.
Suy nghĩ về còng Mỹ bỏ lại tặng Cộng sản, tôi đâm ra ngao ngán và bi quan. Người giầu có thể thương người nghèo, nhưng nước lớn không đời nào tử tế với nước nhỏ. Sự phũ phàng là, chúng ta đang sống ở kỷ nguyên nước nhỏ không được phép quyết định thân phận mình. Tinh thần quốc gia cực đoan trở thành không tưởng. Tôi bế tắc. Tôi bế tắc vì tôi mệt mỏi, rã rượi. Giữa tháng 12-1977, Hoàng Mạnh Hùng và tôi được lệnh “chuẩn bị tư trang khẩn trương”
- Mình đi lao động chăng? Hùng hỏi.
- Càng hay. Tôi thèm khí trời. Tôi nói.
Tính ra tôi đã trọ ở khách sạn quốc doanh Đề Lao Gia Định ngót 18 tháng, cổ nhân phán: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Nếu vậy tôi đã ở đề lao 540 ngàn năm. Có nên so sánh một ngày tù của cổ nhân và một ngày tù Cộng sản để nhân thêm số năm không nhỉ? Có nhiều tù nhân và nhiều chuyện đáng nhớ tôi lại quên. Có nhiều tù nhân và nhiều chuyện đáng quên tôi lại nhớ. “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Và tôi đã quên hết khi viết về đề lao Gia Định. Những chuyện đáng quên ấy không làm tôi khôn lớn.
- Hoàng Mạnh Hùng!
- Có.
- Vũ Mộng Long!
- Có.
- Xong chưa?
- Rồi.
Cai ngục mở cửa. Các bạn tù 4C-2 chúc chúng tôi thượng lộ bình an. Tôi đeo cái túi đựng phân bón đã khâu hai cái quai trên lưng, tay xách giỏ ni-lông chứa các chai hũ nước mắm, thịt kho, cá kho…, tay xách cái bị cói chứa mì vụn, bột đậu xanh, bột sữa, đường… Tôi không giống bất cứ ai ở xã hội loài người. Tôi là tù nhân của chủ nghĩa Cộng sản, đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Tôi vừa nhận tôi là tù nhân? Sai. Chủ nghĩa Cộng sản không có nhà tù. Tôi là sinh viên nội trú của Đại Học Đề Lao Gia Định. Năm ngoái, tôi học ở Đại Học sở Công An Thành Phố. Tốt nghiệp chứng chi Vỡ Lòng Cay Đắng, tôi ghi danh học Thống Khổ Nhập Môn 18 tháng. Tốt nghiệp chứng chỉ Thống Khổ Nhập Môn tôi ghi danh học tiếp Thương Đau Chín Rấm. Lát nữa tôi mới biết Đại Học nào nhận tôi, Bây giờ, các giáo sư Đề Lao Gia Định bảo tôi xếp hàng chung với các sinh viên khác. Tôi thấy Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Đặng Hải San, Phạm Quang Khai, Đỗ Văn Lựu và vô số bằng hữu các phòng học cũ. Như Phong học dốt bị đúp ở lại Đại Học Đề Lao.
Giáo sư Quản Giáo cầm danh sách đọc tên chúng tôi. Sợ chúng tôi ham vui nhẩy xuống xe đi lạc, giáo sư còng hai sinh viên một còng số 8 made in USA, tay phải sinh viên này dính sát tay trái sinh viên kia và ra lệnh cho chúng tôi lên xe. Xe trùm vải bố kín mít. Tôi giã từ Đại Học Đề Lao Gia Định với bao nuối tiếc. Giã từ các vị giáo sư Chấp Pháp khả kính. Giã từ các vị giáo sư Quản Giáo khả ái. Giã tử lò bánh mì nung nấu cuộc đời. Tôi đi đây. Tôi đi học một mình chẳng cần “mẹ tôi nắm tay tôi dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp.” Ấy quên, giã từ Viện trưởng Hai Phận bất hủ và những cái ống cắm mỏ dầu hỏa ở Tiền Hải.
Nhưng mà xe bít bùng tối tăm, tôi không thể vẫy tay chào tạm biệt ai. Một giọng nói đùa nghịch hỏi vu vơ:
- Tu tủ tù tu đố mấy thằng tù?
Tôi bàng hoàng. Thì ra tôi đích thị tù nhân…
15-2-1987
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
PHẦN III: ĐAU THƯƠNG CHÍN RẤM (KHÁM CHÍ HÒA) -
CHƯƠNG 21
- Đi đâu các ông?
- Không xa đâu.
- Tại sao ông biết?
- Đi xa nó phải phát thực phẩm ăn dọc đường chứ. Loanh quanh thành phố thôi. Chưa biết chừng, lát nữa, chúng ta lại trở về đề lao.
Có thể lắm. Với người Cộng sản chẳng có gì không có thể. Và, với tù nhân luôn luôn chuẩn bị chờ đợi cái có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Dương Nghiêm Mậu đến Sở Công An sớm hơn tôi năm ngày. Anh kể một chuyện toát mồ hôi lạnh của tù con so 1. Nửa đêm, cai ngục mở khoá, kéo cửa ken két, đọc tên anh và bảo anh “khẩn trương thu dọn tư trang”. Mậu hoảng sợ. Một mình anh bị gọi. Anh rời phòng, lên xe bít bùng. Xe chạy những đường phố nào, Mậu không biết. Gần sáng, xe đậu một chỗ. Anh nghe những lời đối thoại. “Đem nó đi chỗ khác”.
“Chỗ nào”? “Rừng cao su hay khúc sông vắng”! Dương Nghiễm Mậu, tác giả Cũng đành quên mất triết lý sống cũng đành. Thần kinh anh căng thẳng. Anh cầm bằng cái chết đau đớn dai dẳng. Cảm giác hãi hùng ấy kéo dài tới khi anh nhìn rõ Sở Công An. Và nó còn tê tê khi anh đã vào phòng, gặp lại anh em. Đó là trò chơi khủng bố tinh thần. Là sự tẩy não bằng ám ảnh một sự thực sẽ tới. Hoàng Mạnh Hùng kể một chuyện ghê gớm hơn chuyện của Dương Nghiễm Mậu. Anh bị bịt mắt, còng chéo tay ném lên xe. Xe đưa anh đến một biệt thự hoang vắng ngoại ô, anh đoán thế. Người ta kéo anh xuống và đẩy anh vào căn phòng, bỏ rơi anh. Muỗi bu lại đốt anh. Chuột rúc đe dọa anh. Anh nghe chim hót, biết trời đã sáng. Người ta mặc anh đói, khát, hoang mang… Cuối cùng, người ta lôi anh ra, ném anh lên xe và trả anh về cachot đề lao Gia Định nửa đêm. Sáng sau, người ta bắt anh viết Tự khai. Đó là trò chơi tra tấn tinh thần. Hồi ở 3C-2, tôi cũng trải qua một đêm gọi ra làm việc bịt mắt dẫn đi.
- Ai có dao?
Dao của tù nhân là nắp lon sữa bò gấp đôi bẻ gẫy rồi mài nhẵn, dấu thật kỹ để thái bắp cải, dưa leo, gọt xoài…. và cắt móng tay. Ở đề lao, đồ cắt móng tay phải đăng ký. Không đăng ký sẽ bị tịch thu nếu bị phát hiện và sẽ bị nâng quan điểm… âm mưu trốn trại, âm mưu ám sát cán bộ. Mỗi lần tổng kiểm tra, vô số dao tù bị tịch thu. Nhưng rồi vẫn có. Do anh em ra làm việc, ra phơi quần áo, ra khiêng quà ngày thăm nuôi lượm vào. Bạn biết ở kỷ nguyên vệ tinh nhân tạo, kỷ nguyên mà Cộng sản kết tội tư bản “đưa chúng ta trở về thời kỳ đồ đá” chúng tôi cắt móng tay bằng cách nào không? Chúng tôi mài móng tay trên bục xi-măng lổn nhổn cát hoặc, tắm gội xong, chúng tôi gặm móng tay! Móng chân không thể mài và gặm, chúng tôi cắt bằng nắp lon sữa bò.
- Tôi có dao.
- Cho mượn tí.
- Làm gì?
- Rạch vải bố ngó đường.
Tù nhân đầy sáng kiến này thuyết minh như người chỉ dẫn khách du lịch.
- Qua cầu Bông các ông ạ! À, rẽ phải. Hiền Vương. Ngã ba ĐinhTiên Hoàng- Hiền Vương. Phố xá đìu hiu quá.
Anh ta dán mắt vô kẽ vải bố rạch một đường đủ móc ngón tay nhìn ra.
- Đến đâu rồi?
- Ngã tư Hai Bà Trưng – Hiền Vương.
Tù nhân sốt ruột biết nơi chốn mới.
- Đến đâu rồi?
- Công Lý – Hiền Vương.
Im lặng một lúc khá lâu.
- Đến đâu rồi?
- Bà Huyện Thanh Quan – Hiền Vương, sắp đến cái bùng binh đường tầu Lê Văn Duyệt. Đi thẳng sẽ vô Tế Bần. Quẹo phải là…
Anh tù thuyết minh bỏ lửng.
- Quẹo phải, các ông ơi! Chẳng lẽ…
- Chẳng lẽ chi?
- Đợi chút, các ông… Quẹo trái. Hà hà, chúng ta vào đại khách sạn quốc doanh của thành phố mang tên Bác.
- Chí Hòa hả?
- Chí Hòa.
° ° °
Chúng tôi đến khám Chí Hoà, đến Trại Cải Tạo Trường Kỳ ghi rõ ở tấm bảng treo ngang cổng. Bí danh của Chí Hoà là T-30. Những nhà tù mang bí danh đều là những nhà tù lớn. Không kể các phòng tạm giam tại các quận, các phường, thành phố Hồ Chí Minh, ít ra, đã có 52 nhà tù, nếu căn cứ nhà tù Tô Hiến Thành đánh số T-52. Bin-đinh Đại Nam Saigon, bin-đinh Đại Lợi Tân Bình đã là nhà tù. Ngoài ra các vi-la ngụy trang nhà tù ít ai biết. Người giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh đã nâng tỷ số nhà tù nhốt dân tộc lên mức kỷ lục khó chế độ nào vượt nổi. Do đó, cái ca khúc Thành phố mang tên Bác có câu:
… Thành phố Hồ Chí Minh, đời đời rực sáng tương lai. Trong mỗi trái tim, trong mỗi ước mơ, trong mỗi cuộc đời ta đều có Bác.
Đã được dân gian sửa đổi:
… Thành phố Hồ Chí Minh, nhà tù mọc khắp nơi nơi. Trong mỗi vi-la, trong mỗi bin-đinh, trong mỗi quận phường, chỗ nào cũng nhốt.
Đến câu này:
… Lời Bác thiết tha, dìu dắt chúng ta. Sáng mãi tên Người, thành phố Hồ Chí Minh…
Được sửa bất hủ:
… Lời Bác thiết tha: Tù mãi không ra. Sáng mãi tên Mày, thành phố Hồ Chí Minh…
Bạn biết khám Chí Hòa không? Tục truyền rằng, người Pháp chiếm nước ta đã khai sáng văn minh một cái nhà tù mà dân miền Nam gọi đơn giản là Khám Lớn. Khám Lớn được bao quanh bởi những khúc đường Lê Thánh Tôn, Nguyễn Trung Trực, Gia Long, Công Lý. Người Nhật da vàng chủ trương đoàn kết Đại Đông Á một cái nhà tù vĩ đại hơn Khám Lớn gọi là Chí Hòa. Da vàng đối xử với da vàng thô bạo hơn da trắng đối xử với da vàng. Bởi vậy mà những 2 triệu dân Việt Nam chết đói năm Ất Dậu 1945. Người Nhật vẽ họa đồ, chưa kịp thiết kế thì ăn bom nguyên tử Mỹ. Rồi mổ bụng tự sát lung tung. Rồi đầu hàng. Quân cướp nước xâm lăng thô bỉ và thô bạo cũng học đòi tuẫn tiết. Và thế giới ngu dốt lại ca ngợi như thái độ can đảm của người anh hùng Nhật Bản! Cách mạng mùa thu 8-1945, dân Saigon phá Khám Lớn. Dân Hà Nội quên phá Hỏa Lò. Khám Lớn hay Hỏa Lò đều gần Toà Án. Hình phạt và Công lý gần gũi nhau. Vì gần gũi nhau, Công lý đã lem nhem. Nhưng chỉ có Công lý cho Hình phạt, không hề có Hình phạt cho Công lý. Công lý là chân lý, thứ chân lý chó đẻ ở đất nước chúng ta, dưới bất cứ chế độ nào từ trên một thế kỷ. Người Pháp lại chiếm nước ta. Người Pháp xây dựng Chí Hòa theo hoạ đồ của người Nhật. Đó là văn minh và văn hoá ngoại quốc cấy trồng ở Việt Nam. Cách mạng nhân vị duy trì khám Chí Hòa. Cách mạng… Mỹ giật giây duy trì khám Chí Hòa nhưng xây cái Thư viện quốc gia trên mồ Khám Lớn. Cách mạng vô sản giải phóng tù nhân Chí Hòa một ngày, hôm sau gom lại và tháng sau thì đông hơn tù nhân thời Mỹ ngụy, Cách mạng vô sản cách mạng… cái bảng. Sơn đỏ phết mờ “Trại Cải Huấn Chí Hoà” và chữ vàng viết lên Trại Cải Tạo Trường Kỳ.
Tôi đã vào khám Chí Hòa một lần. Ngày nào, tháng nào, tôi không nhớ, vào năm 1964. Buổi sáng, Nguyễn Khánh – Đỗ Mậu xử tử Phan Quang Đông ở Huế. Buổi chiều, Nguyễn Khánh – Đỗ Mậu xử tử Ngô Đình cẩn ở Chí Hòa. Tôi chứng kiến cả hai vụ. Tôi còn nhớ, sân bắn đối diện một ngôi chùa. Chí Hòa có chùa, nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhà thờ Tin Lành cho tù nhân tham dự lễ. Đó là thời… ngụy, tù nhân tự do đi lại ban ngày, ban đêm mới vào phòng giam. Năm 1964, tôi vào khám Chí Hòa với tư cách phái viên báo chí. Năm 1976, tôi vào khám Chí Hòa với tư cách tù nhân. Dĩ nhiên, kiến thức Chí Hòa của tôi vỡ ra nhiều. Chí Hòa rộng mênh mông. Vòng đai thứ nhất của nó là những lớp rào giây thép gai có gài mìn xa tận sát trường đua Phú Thọ. Rất nhiều chòi canh đặt máy truyền tin quanh vòng đai nàv. Vòng đai thứ nhất nằm ngoài tường khám cao, dầy, công-xẹc-ti-na giăng đầy trên ngọn và đèn chi chít sáng rực ban đêm. Vòng đai thứ hai bên trong tường tù. Sân đậu xe, nhà chùa, nhà thờ, bãi bắn nằm ở vòng đai thứ haỉ. Vòng đai thứ ba là khu vực hành chính. Vòng đai thứ tư là khu vực của cai ngục, nhà bếp. Tù nhân đóng đô chính giữa bốn vòng đai. Lối ra vào khám Chí Hòa duy nhất con đường Hoà Hưng.
Khám Chí Hòa xây hình bát giác ABCDEFGH. Hai cạnh là một khu. Có bốn khu: HA, BC, DE, FG. Muốn gọi là AH, CB, ED, GF cũng được. Cửa tù hướng hết ra sân. Trung tâm sân là cái château d’eau. Tục truyền rằng, Nhật nó cắm kiếm ếm. Cho nên cái château d’eau y hệt mũi kiếm mà bồn nuớc cao là cái chuôi. Mỗỉ khu có một hồ nước, một miếng sân bóng chuyền. Thời… ngụy, tù nhân được chơi thể thao, được tắm giặt thả giàn. Thời cách mạng, dưới ánh sáng quang vinh của Đảng, tù nhân bị nhốt như gà kỹ nghệ nên sân bóng chuyền biến thành ruộng rau muống, vườn rau cải. Giữa ED, một con đường hầm dẫn tới château d’eau sơn đen thui trông cơ hồ con bọ hung, con đường dưới âm ty. Giữa AH, một cái hành lang từ lầu 2 kéo dài tận giữa sân làm nơi trình diễn văn nghệ cho tù nhân giải trí. Đó cũng là chuyện thời… ngụy. Chí Hòa có ba tầng. Tầng sát đất gọi là những phòng ô. Tất cả khoảng 60 phòng. Mỗi phòng chứa 40 tù nhân. Cách mạng tiến bộ nhốt 65 tù nhân, cao điểm là 80. Không còn chế độ nhà thầu nữa, đã chấm dứt cảnh “người bóc lột người”, nhà nước quản lý và lo cơm nước phục vụ tù nhân. Ban cấp dưỡng do những tù đã thành án phụ trách. Đám trật tự ngoài phòng đều là công an can tội tham nhũng, hiếp dâm, ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Chúng tàn bạo hơn cai ngục chính cống, được quyền mở và khoá cửa phòng. Phòng giam ở Chí Hòa cao, trần xi măng cốt sắt. Cánh cửa ra vào nặng cả tạ, ba ô khoá lớn. Cửa sổ rộng, ngang cổ tù nhân chấn song sắt lớn, đầu chui không lọt. Tường phía sau có cửa gió cao vút, bít kín giây kẽm gai. Từ khu này sang khu kia phải qua một lần cửa sắt luôn luôn khoá chặt. OSS-1177 Hubert hay 007 James Bond vào phòng giam Chí Hòa cũng hết cựa quậy. Tướng cướp Điền Khắc Kim nổi tiếng nhờ vượt ngục Chí Hòa. Sức mấy! Hắn đã “mua” chúa ngục. Người ta xâv cái bể nước dưới chân château d’eau. Nhà bếp nấu nước sôi đổ ra máng. Máng chẩy vào bể. Bể có bốn cái rô-bi-nê để trật tự lấy nước phân phối cho các phòng. Đại khái, vài nét đan thanh về “lịch sử” Chí Hoà phần hình thức.
Đã vào Chí Hòa, vào Trại Cải Tạo Trường Kỳ thì kể như khó về gặp vợ con. Tôi thiếu may mắn trên đường tù. “Biệt kích văn nghệ” Nhã Ca được tha sớm. “Biệt kích văn nghệ” Dương Nghiễm Mậu được tha sớm. “Biệt kích văn-nghệ” Doãn Quốc Sĩ đi lao động. Tôi nằm Chí Hòa. Thượng đế xa lắc của tôi ơi, có phải Ngài thử thách sức chịu đựng gian khổ của tôi đến mức nào sẽ ban tặng tôi ân sủng mức ấy không? 17 tháng ở đề lao Gia Định tôi đã rã rượi, đã bi quan, đã chẳng còn thiết tin tưởng gì nữa. Tôi ngỡ tôi biết ước mơ từ 3C-1. Không đâu, tôi chưa biết ước mơ. Tôi chán luôn cái tham vọng văn chương cần thiết trả lời Cộng sản một câu nói khinh miệt “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh”. Ý của họ muốn nói: Thế giới đâu thèm đọc sách của chúng tôi. Nhìn Chí Hòa là không thể nghĩ gì nữa. Nhìn Chí Hòa là nhìn cay đắng dàn trải, là nhìn tủi nhục mênh mông, là nhìn nỗi chết chờ đợi.
Chúng tôi ngồi giữa sân nắng chang chang. Người ta bắt chúng tôi phơi nắng cả tiếng đồng hồ. Ở tối quen, ra nắng lâu, tôi chuếnh choáng. Tôi biết say nắng. Và tôi độc quyền dùng chữ say đau khổ. Đầy đọa chúng tôi chán chê, người ta chia chúng tôi thành hai nhóm. Khám xét giỏ bị lung tung, người ta lùa chúng tôi vào lò bát quái. Mỗi nhóm một phòng, chúng tôi lên lầu 1 khu FG, khu hắc ám nhất của Chí Hòa. Lúc ấy, kẻng tù báo trưa. Cai ngục, một tên ngoài hai mươi tuổi, mặt mày dữ tợn. Khóa ba lần khóa cửa xong, hắn thị uy:
- Tên tôi là Phách. Trưa nay khắc phục dạ dầy, chiều tính. Có gì đề xuất không?
Đoàn Kế Tường nhanh miệng:
- Cho xin cái chổi và cấp chiếu cá nhân.
Cai ngục Phách nói:
- Khắc phục chờ đợi.
Ở đề lao, chúng tôi được cấp chén nhựa, ca nhựa, muỗng nhựa và chiếu. Chuyển trại, đề lao đòi lại hết. Chúng tôi cần chiếu, ca chén gia đình đã gửi. Cai ngục Phách quan sát khắp lượt rồi chỉ tôi.
- Anh kia!
Tôi nhìn cai ngục:
- Cán bộ gọi tôi?
Hắn gật đầu.
- Lại đây.
Tôi bước ra.
- Tên gì?
- Vũ Mộng Long.
- Tù bao lâu?
- 17 tháng.
- Tốt, cho làm trưởng phòng tạm thời.
Tôi “được” phong chức trưởng phòng lâm thời, các khu ở Chí Hòa không có số phòng chỉ có số lầu. Phòng của tôi đông anh em trẻ. Tôi bớt buồn vì gặp lại Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng, Đặng Hải Sơn. Thêm nghị viên Hoè và ông phó tỉnh Đà Nẳng. Đằng Giao và Nguyễn Mạnh Côn ở phòng bên cạnh. Nhờ tài vẽ, ở đề lao Gia Định, Đằng Giao được trang trí phòng cưới khi có đám cưới của cai ngục và minh họa bích báo… Sang Chí Hòa, Đằng Giao trúng số phát cơm cho cachot ngay lập tức. Ở tù, được ra ngoài làm những công việc vẽ vời, sơn phết, gánh nước, cắt tóc, quét dọn, nuôi heo, thì khuây khỏa và biết nhiều chuyện. Chẳng hạn gánh nước sôi hay gánh cơm cho các phòng sẽ dễ dàng “kiếm” và “nhìn mặt” bằng hữu. Nhưng cái khuây khỏa và cái biết nhiều chuyện kéo theo những hệ lụy. Một trong những hệ lụy là bị nghi nghờ làm “ăng-ten”. Ai cũng thích ra ngoài, không được ra thì cay cú người được ra. Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, giáo sư triết học và văn chương tức họa sỉ Bố vẽ cho tưần báo Con Ong, tưần báo Người, đã bị nguyền rủa, bị đánh đập ở khu A đề lao Gia Định chỉ vì được gọi ra ngoài vẽ số các phòng tù, trang trí vở chép bài ca cho công an quản giáo. Chỉ có một Lữ Hồ biết Lữ Hồ nói gì với công an thôi. Vậy mà tù nhân trong phòng quả quyết với nhau đã nghe rõ Lữ Hồ “chửi bới anh em Phục Quốc”! Và, nhân danh những người không biết vẽ, không được ra, người ta xúm nhau kết án Lữ Hồ, hành hạ Lữ Hồ, xúc phạm thân thể Lữ Hồ. Người ta bất lương ở điểm thành khẩn nói với người khác rằng chính mắt người ta trông thấy rõ, nghe rõ. Và người khác lại nói với người khác ghê gớm hơn. Ở tù, một người phán xét một người làm “ăng-ten”, hình như, được coi là yêu nước, kiên cường, bất khuất. Cho nên, bị chuyển sang phòng mới, từ lời buộc tội “chửi bới anh em Phục Quốc”, Lữ Hồ được tăng thêm tội “chỉ điểm công an bắt Phục Quốc”. Vân vân. Cả đề lao Gia Định gớm ghiếc Lữ Hồ. Anh ta có tội gì đâu? Nếu có, chỉ là tội biết vẽ. Mà ở tù, Hồ Chí Minh đã tự thú “Mỗi lời mỗi việc không tự chủ, để chúng đắt đi tựa trâu bò” 2. Chưa bao giờ tôi thấy triết lý sống Ngu si hưởng thái bình rực rỡ ở nhà tù. Không ai đàm tiếu, thị phi thằng Ổi, thằng Xoài, thằng Mít ra ngoài làm việc và báo cáo chuyện trong phòng với công an cả. Người ta chỉ thị phi Lữ Hồ, Đằng Giao. Nhà Phật dạy đúng. “Hơn người khác là một cái tội”. Tôi không biết Lữ Hồ đã sang Mỹ gặp vợ con chưa. Những dòng này viết cho vợ con anh. Tôi khẳng định, nhân danh những gì tôi biết, Lữ Hồ không bần tiện như người ta kết án anh. Cái tội của anh do khẩu nghiệp. Anh đã không biết giữ miệng, oang oang bầy tỏ lòng khinh bỉ những ông trí thức khoa bảng cùng bị nhốt chung một phòng với anh. Bọn hèn mọn này đã trả đòn anh một cách đê tiện. Và đó là sự cao thượng, sự bao dung của quốc gia. Và đó còn có thể gọi là chính nghĩa quốc gia được chăng?
Cai ngục Phách, sau khi phong chức trưởng phòng lâm thời cho tôi, bèn hỏi:
- Thuộc Nội quy chưa?
Tôi đáp:
- Rồi.
Hắn quát:
- Đứng nghiêm chỉnh. Anh chưa thuộc Nội quy. Cán bộ hỏi phải lễ độ trả lời, thưa dạ cung kính.
- Dạ.
- Trách nhiệm phòng này thuộc về anh. Rõ chưa?
- Thưa cán bộ, rõ.
Vậy là tôi “bị” làm trưởng phòng lâm thời, “bị” dồn vào cái thế trên đe dưới búa. Trưởng phòng tù, phòng của tù nhân sẵn sàng cho mình ăn đòn và đưa mình ra ngoài cho cai ngục đánh đòn.
- Thưa cán bộ…
- Gì?
- Cán bộ chọn người khác.
- Anh dám chống đối chỉ thị của cán bộ à? Chống chỉ thị của cán bộ là chống cách mạng, chống Đảng, chống Nhà Nước, chống Nhân Dân. Tôi bắt anh làm trưởng phòng.
Cai ngục Phách bỏ đi. Nửa tiếng đòng hồ sau hắn trở lại mang cho chúng tôi một cái chổi chà và ba cái thau nhôm. Một vài anh em đã lượm được những đoạn giây thép lớn. Thế là chế tạo bếp, bắc thau nhôm lên, dùng túi ni-lông quấn chặt mà nấu nước sôi pha mì, pha bột… Tôi rét run, sợ cai ngục Phách đến “đột xuất”. Nổi lửa trong phòng giam là vi phạm Nội quy nặng nề. Tôi không dám hé miệng, ngại anh em sỉ vả. Ôi, trưởng phòng tù, cái “địa vị” nhục nhằn của tôi. Anh em biết điều, nấu nướng xong, chà rửa đít thau láng coóng. Có thau nhôm là lý tưởng, anh em nấu mì suốt đêm, thay phiên nhau nấu. Mì nấu nóng hổi chưa đã, anh em chơi mì xào lạp xưởng, tôm khô.
Lệ ở Chí Hoà là tù nhân được tắm hai lần một tuần lễ. Trật tự viên cho chúng tôi biết phòng của chúng tôi tắm vào thứ tư và thứ bẩy. Mỗi ngày, buổi sáng, phòng được đổ đầy một phuy nước. Nước này chỉ dùng để xối cầu tiêu, rửa chén muỗng, rửa mặt đánh răng. Phòng cử người xuống hồ múc nước vác lên. Cái phòng của tôi có vẻ… lâm thời quá.
Sống ở Chí Hòa mới đủ hai ngàv đã tới thứ bẩy. Sự bi thảm xẩy ra vào đúng thứ bẩy. Tù nhân chờ đợi đi tắm. Đợi xế trưa vẫn không được tắm, tù nhân “quen thói” đề lao Gia Định, thay phiên réo gọi um sùm.
- Báo cáo cán bộ, phòng mới xin đi tắm!
Réo gọi vô ích. Chừng không thèm réo gọi nữa, cai ngục Phách dẫn xác đến.
- Đứa nào vừa réo đấy?
Nghị Hoè đáp:
- Không có đứa nào cả, chúng tôi xin đi tắm.
Cai ngục Phách nghiến răng:
- Mày dám hỗn à?
Nghị Hoè nói:
- Nảy, cán bộ đừng có mày tao. Nội quy không cho phép cán bộ gọi tù nhân bằng mày.
Cả phòng nhao nhao: “Cán bộ mất dậy. Cách mạng vô giáo đục…” Đoàn Kế Tường hét:
- Đ.M. cán bộ. Đ.M. cách mạng!
Cai ngục Phách lĩnh vội. Phòng của chúng tôi reo hò chiến thắng. Nhưng Chí Hòa không phải Gia Định. Không có chấp pháp ở đây. Càng không có sự làm dáng dân chủ cho nền cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở đây. Ở đây là Chí Hòa, là Trại cải Tạo Trường Kỳ, là nơi tôi nhìn cay đẳng dàn trải, nhìn tủi nhục mênh mông, là nơi tôi nhìn nỗi chết. Cai ngục Phách đã trở lại. Hắn trở lại với lũ đầu trâu mặt ngựa trật tự. Hắn hách dịch:
- Đứa nào đòi đi tắm?
Nghị Hòe hiên ngang:
- Tôi.
Cửa phòng mở. Cai ngục bảo Nghị Hoè bước ra. Cửa phòng khép lại, gài chốt liền.
- Còn đứa nào nữa?
Dương Đức Dũng dơ tay.
-Tôi.
Đoàn Kế Tường sợ bạn đi một mình bị úm, vội vàng dơ tay. Thêm ông Phó tỉnh hành chánh Đà Nẳng và vài anh em trẻ nữa. Tất cả bị dẫn tới một chỗ nào đó của khám Chí Hòa. Tới giờ cơm chiều, chẳng có ai về cả. Phòng họp. Hoàng Mạnh Hùng và Đặng Hải Sơn đề nghị anh em chia làm hai nhóm tranh đấu. Nhóm thứ nhất “đánh” trước, nếu “thua”, nhóm sau tiếp tục. Cả phòng tuyệt thực. Bấy giờ, Tư Long đã sang Chí Hòa nắm chức vụ trưởng khu FG. Chí Hòa có bốn khu, như tôi đã tả. Đáng lẽ, nó hoàn toàn thuộc về sở Công An thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng có sự tranh chấp giữa Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm nên khu ED do Cục Quản Lý Các Trại Giam của bộ Nội Vụ quản lý. Cao Đăng Chiếm chơi Mai Chí Thọ, cho khu ED hưởng quy chế đặc biệt. Với ba khu AH, BC, FG, khu ED là thiên đàng của Chí Hòa. ED là nơi dừng bước cải tạo của sĩ quan cảnh sát đặc biệt. Lần lượt, người ta rời rừng già về đây, rồi người ta lại ra đi. Thời gian ở đây, người ta sống thoải mái. Cửa phòng giam mở từ sau lúc điểm số. Người ta kéo nhau xuống sân đánh bóng chuyền, đọc báo, tắm giặt, tán gẫu giữa các phòng. Chiều tối, người ta trở lên phòng ăn cơm. Rồi ngủ.
Tư Long, hung thần của đề lao Gia Định, được báo cáo phòng của chúng tôi tuyệt thực, kéo “binh mã” ồn ào tới. Hắn xăn tay áo, nổi giận vì sẽ phải tự kiểm với lãnh đạo của hắn vụ này.
- Những anh nào tuyệt thực?
Hoàng Mạnh Hùng đứng lên. Đặng Hải Sơn đứng lên. Nhiều anh em khác đứng lên.Đợi không còn ai đứng lên nữa, Tư Long ra lệnh mở cửa. Những người tuyệt thực tay không kéo nhau ra khỏi phòng. Cơm canh chưa chia bị khuân về bếp. Chập tối, cai ngục Phách xuất hiện. Hắn gọi tôi:
- Vũ Mộng Long.
- Có.
- Ra đây.
Tôi bước sát tường có chấn song sắt.
- Mày làm Trưởng phòng mà để chúng nó gây loạn hả?
Tôi cãi:
- Thưa cán bộ, giữ trật tự phòng không phải nhiệm vụ của tôi. Vả lại, tôi chẳng có quyền gì với anh em cả.
Hắn mím môi:
- Bố láo. Mày là đại diện cách mạng, tại sao không có quyền? Tao đã cho mày quyền mà.
Và hắn thò tay qua chấn song, tát tôi một cái đau điếng. Nó “dám” tát vị… đại diện cách mạng.
- Mày hết là Trưởng phòng. Cút về chỗ.
Hắn gọi Trật tự viên của phòng do hắn chỉ định, hạch hỏi:
- Đứa nào chửi cách mạng?
Trật tự viên lắc đầu:
- Thưa cán bộ, tôi không biết.
- Thật chứ?
- Thật.
- Theo tao.
Hắn mở cửa phòng dẫn anh Trật tự phòng đi “làm việc.” Phòng của chúng tôi không còn Trưởng phòng nữa. Khi anh Trật tự phòng trở về, mặt mày sưng vù, môi toét ra, ròng ròng máu. Thế đấy, cái định nghĩa sơ khởi của Chí Hòa triều đại Lê Duẩn. Anh tù nhân bị chỉ định làm Trật tự viên của phòng no đòn nằm một xó trên nền xi-măng nhớp nhúa. Cai ngục bắt chúng tôi ngủ ngay, dù chưa nghe kẻng báo ngủ.
Hắn cảnh cáo:
- Dở trò đêm không ngủ là ốm đòn. Đây là nhà tù, hiểu chưa?
Tử ngày đi “học tập cải tạo,” lần đầu tiên tôi bị ăn cái tát tai. Kể ra thì vẫn may mắn. Cái “danh vọng” chỉ định nó chua xót thế, cái “danh vọng” bon chen nó còn chua xót dường nào! Ở đời, có danh là có họa. Ở tù, có danh là khốn nạn. Tất cả, nhắm vào cái danh của con người mà săn đuổi, mà buông cung, mà phóng dao, mà bêu nhục. Nghĩ cũng bẽ bàng cho cả những ai rắp ranh “có danh gì với núi sông.”
° ° °
Trưa hôm sau, tất cả những người tuyệt thực trở lại phòng. Anh nào anh nấy mặt méo xệch, khát nước rã họng. Hung thần Tư Long dẫn họ lên lầu, bắt họ ngồi ngoài hành lang, cấm nói chuyện, cấm ngủ, cấm nằm. Tư Long không cho họ uống nước. Mỗi người đều phải viết Tự kiểm nhận lỗi và cam kết không tái phạm. Chưa đủ, cai ngục thứ hai tên Quỳnh, bắt chúng tôi xếp hàng ngồi nghe hắn “lên lớp.” Hắn chửi chúng tôi là ký sinh trùng của xã hội, là những kẻ hèn mọn hung hăng nhanh và đầu hàng lẹ, những kẻ chửi lén cách mạng và không dám đương đầu và đổ lỗi cho nhau.
Và đây là những câu thấm thía:
- Các anh sợ khó, sợ khổ mà cũng học đòi chiến đấu ư?
Chiến đấu cho lý tưởng cao cả hay chiến đấu cho sự tắm rửa? Chưa từng thấy ai chết vì thiếu tắm cả. Mà chiến đấu hoặc bằng tư tưởng hoặc bằng súng đạn, không ai chiến đấu bằng chửi lén. Các anh cứ tự hào quốc gia các anh cao cả mà tôi nhận xét các anh chẳng cao cả chút nào. Các anh vừa ngu vừa dốt. Ngu nên không biết thân phận tù đầy. Với cách mạng không có yêu sách mà chỉ ngồi chờ ban phát mọi ân huệ. Đã là tù thì mất hết tự do, hiểu chưa? Các anh chì còn tự do hít thở vì cách mạng không quản lý nổi khí trời. Dốt nên bầy trò tuyệt thực tranh đấu cho đứa ngu. Người Cộng sản dám chiến đấu trong tù thực dân, đế quốc vì các đồng chí đang chiến đấu bên ngoài. Các anh rã đám, chủ Mỹ cút, đầy tớ Ngụy nhào rồi, chiến đấu vô vọng. Muốn chiến đấu, các anh phải học tập người Cộng sản. Người Cộng sản vào tù, không thèm thăm nuôi, không bắt tội vợ con mình nhịn ăn uống tiếp tế quà bánh cho mình. Các anh mừng rỡ nhận quà, sung sướng ăn uống khi con các anh đói. Thư từ gởi về không tỏ tình cảm với gia đình, hết xin món này lại xin món nọ. Thế thì chiến đấu cái gì? Cả nước đói khổ, chúng tôi cũng đói khổ, riêng gì các anh mà than vãn. Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản.
Tôi không hiểu tại sao cai ngục Quỳnh dám dạy chúng tôi bài học chống Cộng sản sâu sắc thế? Có lẽ, hắn kiêu ngạo, hắn khinh chúng tôi. Cộng sản lớn kiêu ngạo lớn, Cộng sản nhỏ kiêu ngạo nhỏ. Lần thứ nhất tôi thấy một tên cai ngục đánh trúng tâm huyệt tù nhân quốc gia. Cái trò thăm gặp của Cộng sản đã làm tù nhân vốn sợ khó, sợ khổ càng sợ khó, sợ khổ. Nó nuôi dưỡng tinh thần hưởng thụ và ỷ lại của tù nhân. Nó tạo ra một ám ảnh: luôn luôn sợ hãi bị cúp tiếp tế thực phẩm. Nó gây chia rẽ giữa tù nhân: tiếp tế nhiều, tiếp tế ít và không ai tiếp tế. Tôi dám nói rằng, nếu Cộng sản cấm tù nhân gặp mặt thân nhân, khước từ quà bánh, thuốc men gia đình tiếp tế, chúng ta sẽ có khá nhiều anh hùng tù ngục. Cộng sản hiểu thấu thủ thuật làm hư đốn những kẻ chống đối họ. Tù nhân của chúng ta quên mất điều này. Người ta dễ dàng ngủ yên bằng mọi thỏa mãn của kẻ thù. Cái làm người ta thức, người ta tỉnh, người ta nuôi chí phục hận là sự ngược đãi của kẻ thù. Bởi vậy, thay vì cảm ơn Cộng sản đầy đọa mình, tù nhân của chúng ta thường oán thán họ. Tư tưởng này đã trở thành tai họa cho tôi khi tôi bị đầy tới trại tập trung khổ sai lao động 3.Tôi bị ép giữa hai gọng kìm tù nhân và cai ngục.
Cai ngục Quỳnh “lên lớp” về Nội quy:
- Quốc gia các anh cũng có Nội quy đấy. Nội quy của nhà tù, của trại lính, của trường học, của các lớp huấn luyện, của các trại hè… Ở chỗ nào có sinh hoạt tập thể là phải có Nội quy. Các anh đa số là trí thức thì phải hiểu rõ ý nghĩa của Nội quy. Tù binh chiến tranh gặp kẻ chiến thắng phải chào kính. Quốc tế quy định vậy. Cấm nổi loạn, cấm trốn trại. Nội quy của cách mạng có bắt các anh hoan hô cách mạng, có bắt các anh bò đâu? Chỉ bắt các anh tuân lệnh cán bộ, giữ trật tự, vệ sinh phòng, ăn ngủ đúng giờ giấc, đừng cãi cọ, đánh nhau, mua bán, đổi chác, tuyên truyền nhảm nhí… Vệ sinh là giữ sức khỏe cho các anh.
Hắn nói toàn những điều nhân đức. Cuối cùng, hắn bắt những người tuyệt thực đứng dậy. Hắn nhìn anh em, nhếch mép cười rồi bỏ đi. Buổi chiều, những người “đòi đi tắm” trở lại phòng hết, trừ Đoàn Kế Tường. Họ bị cai ngục Phách dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên mép. Rồi họ bị tống vào cachot khu FG. Không chịu nổi cachot Chí Hòa, họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì. Tất cả lắc đầu, thở dài:
- Chí Hòa không phải là đề lao Gia Định.
Qua một tuần gạn lọc thành phần, chúng tôi nhập phòng bên cạnh. Ở đây, tỷ phú Phạm Quang Khai làm trưởng phòng. Tôi sống chung với tư sản mại bản Chợ Lớn như Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài; với tư sản mại bản Saigon như Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng, Nguyễn văn Trương (Khai Trí), Nguyễn văn Trương (bột giặt Viso); với Đằng Giao (bị vào phòng), Nguyễn Mạnh Côn, Đỗ văn Lựu và những khuôn mặt cũ của đề lao Gia Định. Và với cả du đãng, sát nhân… Đời tù lại có nhiều chuyện mới.
--------------------------------
1 Những người lần đầu tiên bị tù gọi là tù con so
2 Ngục Trung Nhật Ký, thơ Hồ Chi Minh
3 Đọc Trại Tập Trung, cùng một tác giả và nhà xuất bản.
CHƯƠNG 21
- Đi đâu các ông?
- Không xa đâu.
- Tại sao ông biết?
- Đi xa nó phải phát thực phẩm ăn dọc đường chứ. Loanh quanh thành phố thôi. Chưa biết chừng, lát nữa, chúng ta lại trở về đề lao.
Có thể lắm. Với người Cộng sản chẳng có gì không có thể. Và, với tù nhân luôn luôn chuẩn bị chờ đợi cái có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Dương Nghiêm Mậu đến Sở Công An sớm hơn tôi năm ngày. Anh kể một chuyện toát mồ hôi lạnh của tù con so 1. Nửa đêm, cai ngục mở khoá, kéo cửa ken két, đọc tên anh và bảo anh “khẩn trương thu dọn tư trang”. Mậu hoảng sợ. Một mình anh bị gọi. Anh rời phòng, lên xe bít bùng. Xe chạy những đường phố nào, Mậu không biết. Gần sáng, xe đậu một chỗ. Anh nghe những lời đối thoại. “Đem nó đi chỗ khác”.
“Chỗ nào”? “Rừng cao su hay khúc sông vắng”! Dương Nghiễm Mậu, tác giả Cũng đành quên mất triết lý sống cũng đành. Thần kinh anh căng thẳng. Anh cầm bằng cái chết đau đớn dai dẳng. Cảm giác hãi hùng ấy kéo dài tới khi anh nhìn rõ Sở Công An. Và nó còn tê tê khi anh đã vào phòng, gặp lại anh em. Đó là trò chơi khủng bố tinh thần. Là sự tẩy não bằng ám ảnh một sự thực sẽ tới. Hoàng Mạnh Hùng kể một chuyện ghê gớm hơn chuyện của Dương Nghiễm Mậu. Anh bị bịt mắt, còng chéo tay ném lên xe. Xe đưa anh đến một biệt thự hoang vắng ngoại ô, anh đoán thế. Người ta kéo anh xuống và đẩy anh vào căn phòng, bỏ rơi anh. Muỗi bu lại đốt anh. Chuột rúc đe dọa anh. Anh nghe chim hót, biết trời đã sáng. Người ta mặc anh đói, khát, hoang mang… Cuối cùng, người ta lôi anh ra, ném anh lên xe và trả anh về cachot đề lao Gia Định nửa đêm. Sáng sau, người ta bắt anh viết Tự khai. Đó là trò chơi tra tấn tinh thần. Hồi ở 3C-2, tôi cũng trải qua một đêm gọi ra làm việc bịt mắt dẫn đi.
- Ai có dao?
Dao của tù nhân là nắp lon sữa bò gấp đôi bẻ gẫy rồi mài nhẵn, dấu thật kỹ để thái bắp cải, dưa leo, gọt xoài…. và cắt móng tay. Ở đề lao, đồ cắt móng tay phải đăng ký. Không đăng ký sẽ bị tịch thu nếu bị phát hiện và sẽ bị nâng quan điểm… âm mưu trốn trại, âm mưu ám sát cán bộ. Mỗi lần tổng kiểm tra, vô số dao tù bị tịch thu. Nhưng rồi vẫn có. Do anh em ra làm việc, ra phơi quần áo, ra khiêng quà ngày thăm nuôi lượm vào. Bạn biết ở kỷ nguyên vệ tinh nhân tạo, kỷ nguyên mà Cộng sản kết tội tư bản “đưa chúng ta trở về thời kỳ đồ đá” chúng tôi cắt móng tay bằng cách nào không? Chúng tôi mài móng tay trên bục xi-măng lổn nhổn cát hoặc, tắm gội xong, chúng tôi gặm móng tay! Móng chân không thể mài và gặm, chúng tôi cắt bằng nắp lon sữa bò.
- Tôi có dao.
- Cho mượn tí.
- Làm gì?
- Rạch vải bố ngó đường.
Tù nhân đầy sáng kiến này thuyết minh như người chỉ dẫn khách du lịch.
- Qua cầu Bông các ông ạ! À, rẽ phải. Hiền Vương. Ngã ba ĐinhTiên Hoàng- Hiền Vương. Phố xá đìu hiu quá.
Anh ta dán mắt vô kẽ vải bố rạch một đường đủ móc ngón tay nhìn ra.
- Đến đâu rồi?
- Ngã tư Hai Bà Trưng – Hiền Vương.
Tù nhân sốt ruột biết nơi chốn mới.
- Đến đâu rồi?
- Công Lý – Hiền Vương.
Im lặng một lúc khá lâu.
- Đến đâu rồi?
- Bà Huyện Thanh Quan – Hiền Vương, sắp đến cái bùng binh đường tầu Lê Văn Duyệt. Đi thẳng sẽ vô Tế Bần. Quẹo phải là…
Anh tù thuyết minh bỏ lửng.
- Quẹo phải, các ông ơi! Chẳng lẽ…
- Chẳng lẽ chi?
- Đợi chút, các ông… Quẹo trái. Hà hà, chúng ta vào đại khách sạn quốc doanh của thành phố mang tên Bác.
- Chí Hòa hả?
- Chí Hòa.
° ° °
Chúng tôi đến khám Chí Hoà, đến Trại Cải Tạo Trường Kỳ ghi rõ ở tấm bảng treo ngang cổng. Bí danh của Chí Hoà là T-30. Những nhà tù mang bí danh đều là những nhà tù lớn. Không kể các phòng tạm giam tại các quận, các phường, thành phố Hồ Chí Minh, ít ra, đã có 52 nhà tù, nếu căn cứ nhà tù Tô Hiến Thành đánh số T-52. Bin-đinh Đại Nam Saigon, bin-đinh Đại Lợi Tân Bình đã là nhà tù. Ngoài ra các vi-la ngụy trang nhà tù ít ai biết. Người giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh đã nâng tỷ số nhà tù nhốt dân tộc lên mức kỷ lục khó chế độ nào vượt nổi. Do đó, cái ca khúc Thành phố mang tên Bác có câu:
… Thành phố Hồ Chí Minh, đời đời rực sáng tương lai. Trong mỗi trái tim, trong mỗi ước mơ, trong mỗi cuộc đời ta đều có Bác.
Đã được dân gian sửa đổi:
… Thành phố Hồ Chí Minh, nhà tù mọc khắp nơi nơi. Trong mỗi vi-la, trong mỗi bin-đinh, trong mỗi quận phường, chỗ nào cũng nhốt.
Đến câu này:
… Lời Bác thiết tha, dìu dắt chúng ta. Sáng mãi tên Người, thành phố Hồ Chí Minh…
Được sửa bất hủ:
… Lời Bác thiết tha: Tù mãi không ra. Sáng mãi tên Mày, thành phố Hồ Chí Minh…
Bạn biết khám Chí Hòa không? Tục truyền rằng, người Pháp chiếm nước ta đã khai sáng văn minh một cái nhà tù mà dân miền Nam gọi đơn giản là Khám Lớn. Khám Lớn được bao quanh bởi những khúc đường Lê Thánh Tôn, Nguyễn Trung Trực, Gia Long, Công Lý. Người Nhật da vàng chủ trương đoàn kết Đại Đông Á một cái nhà tù vĩ đại hơn Khám Lớn gọi là Chí Hòa. Da vàng đối xử với da vàng thô bạo hơn da trắng đối xử với da vàng. Bởi vậy mà những 2 triệu dân Việt Nam chết đói năm Ất Dậu 1945. Người Nhật vẽ họa đồ, chưa kịp thiết kế thì ăn bom nguyên tử Mỹ. Rồi mổ bụng tự sát lung tung. Rồi đầu hàng. Quân cướp nước xâm lăng thô bỉ và thô bạo cũng học đòi tuẫn tiết. Và thế giới ngu dốt lại ca ngợi như thái độ can đảm của người anh hùng Nhật Bản! Cách mạng mùa thu 8-1945, dân Saigon phá Khám Lớn. Dân Hà Nội quên phá Hỏa Lò. Khám Lớn hay Hỏa Lò đều gần Toà Án. Hình phạt và Công lý gần gũi nhau. Vì gần gũi nhau, Công lý đã lem nhem. Nhưng chỉ có Công lý cho Hình phạt, không hề có Hình phạt cho Công lý. Công lý là chân lý, thứ chân lý chó đẻ ở đất nước chúng ta, dưới bất cứ chế độ nào từ trên một thế kỷ. Người Pháp lại chiếm nước ta. Người Pháp xây dựng Chí Hòa theo hoạ đồ của người Nhật. Đó là văn minh và văn hoá ngoại quốc cấy trồng ở Việt Nam. Cách mạng nhân vị duy trì khám Chí Hòa. Cách mạng… Mỹ giật giây duy trì khám Chí Hòa nhưng xây cái Thư viện quốc gia trên mồ Khám Lớn. Cách mạng vô sản giải phóng tù nhân Chí Hòa một ngày, hôm sau gom lại và tháng sau thì đông hơn tù nhân thời Mỹ ngụy, Cách mạng vô sản cách mạng… cái bảng. Sơn đỏ phết mờ “Trại Cải Huấn Chí Hoà” và chữ vàng viết lên Trại Cải Tạo Trường Kỳ.
Tôi đã vào khám Chí Hòa một lần. Ngày nào, tháng nào, tôi không nhớ, vào năm 1964. Buổi sáng, Nguyễn Khánh – Đỗ Mậu xử tử Phan Quang Đông ở Huế. Buổi chiều, Nguyễn Khánh – Đỗ Mậu xử tử Ngô Đình cẩn ở Chí Hòa. Tôi chứng kiến cả hai vụ. Tôi còn nhớ, sân bắn đối diện một ngôi chùa. Chí Hòa có chùa, nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhà thờ Tin Lành cho tù nhân tham dự lễ. Đó là thời… ngụy, tù nhân tự do đi lại ban ngày, ban đêm mới vào phòng giam. Năm 1964, tôi vào khám Chí Hòa với tư cách phái viên báo chí. Năm 1976, tôi vào khám Chí Hòa với tư cách tù nhân. Dĩ nhiên, kiến thức Chí Hòa của tôi vỡ ra nhiều. Chí Hòa rộng mênh mông. Vòng đai thứ nhất của nó là những lớp rào giây thép gai có gài mìn xa tận sát trường đua Phú Thọ. Rất nhiều chòi canh đặt máy truyền tin quanh vòng đai nàv. Vòng đai thứ nhất nằm ngoài tường khám cao, dầy, công-xẹc-ti-na giăng đầy trên ngọn và đèn chi chít sáng rực ban đêm. Vòng đai thứ hai bên trong tường tù. Sân đậu xe, nhà chùa, nhà thờ, bãi bắn nằm ở vòng đai thứ haỉ. Vòng đai thứ ba là khu vực hành chính. Vòng đai thứ tư là khu vực của cai ngục, nhà bếp. Tù nhân đóng đô chính giữa bốn vòng đai. Lối ra vào khám Chí Hòa duy nhất con đường Hoà Hưng.
Khám Chí Hòa xây hình bát giác ABCDEFGH. Hai cạnh là một khu. Có bốn khu: HA, BC, DE, FG. Muốn gọi là AH, CB, ED, GF cũng được. Cửa tù hướng hết ra sân. Trung tâm sân là cái château d’eau. Tục truyền rằng, Nhật nó cắm kiếm ếm. Cho nên cái château d’eau y hệt mũi kiếm mà bồn nuớc cao là cái chuôi. Mỗỉ khu có một hồ nước, một miếng sân bóng chuyền. Thời… ngụy, tù nhân được chơi thể thao, được tắm giặt thả giàn. Thời cách mạng, dưới ánh sáng quang vinh của Đảng, tù nhân bị nhốt như gà kỹ nghệ nên sân bóng chuyền biến thành ruộng rau muống, vườn rau cải. Giữa ED, một con đường hầm dẫn tới château d’eau sơn đen thui trông cơ hồ con bọ hung, con đường dưới âm ty. Giữa AH, một cái hành lang từ lầu 2 kéo dài tận giữa sân làm nơi trình diễn văn nghệ cho tù nhân giải trí. Đó cũng là chuyện thời… ngụy. Chí Hòa có ba tầng. Tầng sát đất gọi là những phòng ô. Tất cả khoảng 60 phòng. Mỗi phòng chứa 40 tù nhân. Cách mạng tiến bộ nhốt 65 tù nhân, cao điểm là 80. Không còn chế độ nhà thầu nữa, đã chấm dứt cảnh “người bóc lột người”, nhà nước quản lý và lo cơm nước phục vụ tù nhân. Ban cấp dưỡng do những tù đã thành án phụ trách. Đám trật tự ngoài phòng đều là công an can tội tham nhũng, hiếp dâm, ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Chúng tàn bạo hơn cai ngục chính cống, được quyền mở và khoá cửa phòng. Phòng giam ở Chí Hòa cao, trần xi măng cốt sắt. Cánh cửa ra vào nặng cả tạ, ba ô khoá lớn. Cửa sổ rộng, ngang cổ tù nhân chấn song sắt lớn, đầu chui không lọt. Tường phía sau có cửa gió cao vút, bít kín giây kẽm gai. Từ khu này sang khu kia phải qua một lần cửa sắt luôn luôn khoá chặt. OSS-1177 Hubert hay 007 James Bond vào phòng giam Chí Hòa cũng hết cựa quậy. Tướng cướp Điền Khắc Kim nổi tiếng nhờ vượt ngục Chí Hòa. Sức mấy! Hắn đã “mua” chúa ngục. Người ta xâv cái bể nước dưới chân château d’eau. Nhà bếp nấu nước sôi đổ ra máng. Máng chẩy vào bể. Bể có bốn cái rô-bi-nê để trật tự lấy nước phân phối cho các phòng. Đại khái, vài nét đan thanh về “lịch sử” Chí Hoà phần hình thức.
Đã vào Chí Hòa, vào Trại Cải Tạo Trường Kỳ thì kể như khó về gặp vợ con. Tôi thiếu may mắn trên đường tù. “Biệt kích văn nghệ” Nhã Ca được tha sớm. “Biệt kích văn nghệ” Dương Nghiễm Mậu được tha sớm. “Biệt kích văn-nghệ” Doãn Quốc Sĩ đi lao động. Tôi nằm Chí Hòa. Thượng đế xa lắc của tôi ơi, có phải Ngài thử thách sức chịu đựng gian khổ của tôi đến mức nào sẽ ban tặng tôi ân sủng mức ấy không? 17 tháng ở đề lao Gia Định tôi đã rã rượi, đã bi quan, đã chẳng còn thiết tin tưởng gì nữa. Tôi ngỡ tôi biết ước mơ từ 3C-1. Không đâu, tôi chưa biết ước mơ. Tôi chán luôn cái tham vọng văn chương cần thiết trả lời Cộng sản một câu nói khinh miệt “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh”. Ý của họ muốn nói: Thế giới đâu thèm đọc sách của chúng tôi. Nhìn Chí Hòa là không thể nghĩ gì nữa. Nhìn Chí Hòa là nhìn cay đắng dàn trải, là nhìn tủi nhục mênh mông, là nhìn nỗi chết chờ đợi.
Chúng tôi ngồi giữa sân nắng chang chang. Người ta bắt chúng tôi phơi nắng cả tiếng đồng hồ. Ở tối quen, ra nắng lâu, tôi chuếnh choáng. Tôi biết say nắng. Và tôi độc quyền dùng chữ say đau khổ. Đầy đọa chúng tôi chán chê, người ta chia chúng tôi thành hai nhóm. Khám xét giỏ bị lung tung, người ta lùa chúng tôi vào lò bát quái. Mỗi nhóm một phòng, chúng tôi lên lầu 1 khu FG, khu hắc ám nhất của Chí Hòa. Lúc ấy, kẻng tù báo trưa. Cai ngục, một tên ngoài hai mươi tuổi, mặt mày dữ tợn. Khóa ba lần khóa cửa xong, hắn thị uy:
- Tên tôi là Phách. Trưa nay khắc phục dạ dầy, chiều tính. Có gì đề xuất không?
Đoàn Kế Tường nhanh miệng:
- Cho xin cái chổi và cấp chiếu cá nhân.
Cai ngục Phách nói:
- Khắc phục chờ đợi.
Ở đề lao, chúng tôi được cấp chén nhựa, ca nhựa, muỗng nhựa và chiếu. Chuyển trại, đề lao đòi lại hết. Chúng tôi cần chiếu, ca chén gia đình đã gửi. Cai ngục Phách quan sát khắp lượt rồi chỉ tôi.
- Anh kia!
Tôi nhìn cai ngục:
- Cán bộ gọi tôi?
Hắn gật đầu.
- Lại đây.
Tôi bước ra.
- Tên gì?
- Vũ Mộng Long.
- Tù bao lâu?
- 17 tháng.
- Tốt, cho làm trưởng phòng tạm thời.
Tôi “được” phong chức trưởng phòng lâm thời, các khu ở Chí Hòa không có số phòng chỉ có số lầu. Phòng của tôi đông anh em trẻ. Tôi bớt buồn vì gặp lại Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng, Đặng Hải Sơn. Thêm nghị viên Hoè và ông phó tỉnh Đà Nẳng. Đằng Giao và Nguyễn Mạnh Côn ở phòng bên cạnh. Nhờ tài vẽ, ở đề lao Gia Định, Đằng Giao được trang trí phòng cưới khi có đám cưới của cai ngục và minh họa bích báo… Sang Chí Hòa, Đằng Giao trúng số phát cơm cho cachot ngay lập tức. Ở tù, được ra ngoài làm những công việc vẽ vời, sơn phết, gánh nước, cắt tóc, quét dọn, nuôi heo, thì khuây khỏa và biết nhiều chuyện. Chẳng hạn gánh nước sôi hay gánh cơm cho các phòng sẽ dễ dàng “kiếm” và “nhìn mặt” bằng hữu. Nhưng cái khuây khỏa và cái biết nhiều chuyện kéo theo những hệ lụy. Một trong những hệ lụy là bị nghi nghờ làm “ăng-ten”. Ai cũng thích ra ngoài, không được ra thì cay cú người được ra. Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, giáo sư triết học và văn chương tức họa sỉ Bố vẽ cho tưần báo Con Ong, tưần báo Người, đã bị nguyền rủa, bị đánh đập ở khu A đề lao Gia Định chỉ vì được gọi ra ngoài vẽ số các phòng tù, trang trí vở chép bài ca cho công an quản giáo. Chỉ có một Lữ Hồ biết Lữ Hồ nói gì với công an thôi. Vậy mà tù nhân trong phòng quả quyết với nhau đã nghe rõ Lữ Hồ “chửi bới anh em Phục Quốc”! Và, nhân danh những người không biết vẽ, không được ra, người ta xúm nhau kết án Lữ Hồ, hành hạ Lữ Hồ, xúc phạm thân thể Lữ Hồ. Người ta bất lương ở điểm thành khẩn nói với người khác rằng chính mắt người ta trông thấy rõ, nghe rõ. Và người khác lại nói với người khác ghê gớm hơn. Ở tù, một người phán xét một người làm “ăng-ten”, hình như, được coi là yêu nước, kiên cường, bất khuất. Cho nên, bị chuyển sang phòng mới, từ lời buộc tội “chửi bới anh em Phục Quốc”, Lữ Hồ được tăng thêm tội “chỉ điểm công an bắt Phục Quốc”. Vân vân. Cả đề lao Gia Định gớm ghiếc Lữ Hồ. Anh ta có tội gì đâu? Nếu có, chỉ là tội biết vẽ. Mà ở tù, Hồ Chí Minh đã tự thú “Mỗi lời mỗi việc không tự chủ, để chúng đắt đi tựa trâu bò” 2. Chưa bao giờ tôi thấy triết lý sống Ngu si hưởng thái bình rực rỡ ở nhà tù. Không ai đàm tiếu, thị phi thằng Ổi, thằng Xoài, thằng Mít ra ngoài làm việc và báo cáo chuyện trong phòng với công an cả. Người ta chỉ thị phi Lữ Hồ, Đằng Giao. Nhà Phật dạy đúng. “Hơn người khác là một cái tội”. Tôi không biết Lữ Hồ đã sang Mỹ gặp vợ con chưa. Những dòng này viết cho vợ con anh. Tôi khẳng định, nhân danh những gì tôi biết, Lữ Hồ không bần tiện như người ta kết án anh. Cái tội của anh do khẩu nghiệp. Anh đã không biết giữ miệng, oang oang bầy tỏ lòng khinh bỉ những ông trí thức khoa bảng cùng bị nhốt chung một phòng với anh. Bọn hèn mọn này đã trả đòn anh một cách đê tiện. Và đó là sự cao thượng, sự bao dung của quốc gia. Và đó còn có thể gọi là chính nghĩa quốc gia được chăng?
Cai ngục Phách, sau khi phong chức trưởng phòng lâm thời cho tôi, bèn hỏi:
- Thuộc Nội quy chưa?
Tôi đáp:
- Rồi.
Hắn quát:
- Đứng nghiêm chỉnh. Anh chưa thuộc Nội quy. Cán bộ hỏi phải lễ độ trả lời, thưa dạ cung kính.
- Dạ.
- Trách nhiệm phòng này thuộc về anh. Rõ chưa?
- Thưa cán bộ, rõ.
Vậy là tôi “bị” làm trưởng phòng lâm thời, “bị” dồn vào cái thế trên đe dưới búa. Trưởng phòng tù, phòng của tù nhân sẵn sàng cho mình ăn đòn và đưa mình ra ngoài cho cai ngục đánh đòn.
- Thưa cán bộ…
- Gì?
- Cán bộ chọn người khác.
- Anh dám chống đối chỉ thị của cán bộ à? Chống chỉ thị của cán bộ là chống cách mạng, chống Đảng, chống Nhà Nước, chống Nhân Dân. Tôi bắt anh làm trưởng phòng.
Cai ngục Phách bỏ đi. Nửa tiếng đòng hồ sau hắn trở lại mang cho chúng tôi một cái chổi chà và ba cái thau nhôm. Một vài anh em đã lượm được những đoạn giây thép lớn. Thế là chế tạo bếp, bắc thau nhôm lên, dùng túi ni-lông quấn chặt mà nấu nước sôi pha mì, pha bột… Tôi rét run, sợ cai ngục Phách đến “đột xuất”. Nổi lửa trong phòng giam là vi phạm Nội quy nặng nề. Tôi không dám hé miệng, ngại anh em sỉ vả. Ôi, trưởng phòng tù, cái “địa vị” nhục nhằn của tôi. Anh em biết điều, nấu nướng xong, chà rửa đít thau láng coóng. Có thau nhôm là lý tưởng, anh em nấu mì suốt đêm, thay phiên nhau nấu. Mì nấu nóng hổi chưa đã, anh em chơi mì xào lạp xưởng, tôm khô.
Lệ ở Chí Hoà là tù nhân được tắm hai lần một tuần lễ. Trật tự viên cho chúng tôi biết phòng của chúng tôi tắm vào thứ tư và thứ bẩy. Mỗi ngày, buổi sáng, phòng được đổ đầy một phuy nước. Nước này chỉ dùng để xối cầu tiêu, rửa chén muỗng, rửa mặt đánh răng. Phòng cử người xuống hồ múc nước vác lên. Cái phòng của tôi có vẻ… lâm thời quá.
Sống ở Chí Hòa mới đủ hai ngàv đã tới thứ bẩy. Sự bi thảm xẩy ra vào đúng thứ bẩy. Tù nhân chờ đợi đi tắm. Đợi xế trưa vẫn không được tắm, tù nhân “quen thói” đề lao Gia Định, thay phiên réo gọi um sùm.
- Báo cáo cán bộ, phòng mới xin đi tắm!
Réo gọi vô ích. Chừng không thèm réo gọi nữa, cai ngục Phách dẫn xác đến.
- Đứa nào vừa réo đấy?
Nghị Hoè đáp:
- Không có đứa nào cả, chúng tôi xin đi tắm.
Cai ngục Phách nghiến răng:
- Mày dám hỗn à?
Nghị Hoè nói:
- Nảy, cán bộ đừng có mày tao. Nội quy không cho phép cán bộ gọi tù nhân bằng mày.
Cả phòng nhao nhao: “Cán bộ mất dậy. Cách mạng vô giáo đục…” Đoàn Kế Tường hét:
- Đ.M. cán bộ. Đ.M. cách mạng!
Cai ngục Phách lĩnh vội. Phòng của chúng tôi reo hò chiến thắng. Nhưng Chí Hòa không phải Gia Định. Không có chấp pháp ở đây. Càng không có sự làm dáng dân chủ cho nền cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở đây. Ở đây là Chí Hòa, là Trại cải Tạo Trường Kỳ, là nơi tôi nhìn cay đẳng dàn trải, nhìn tủi nhục mênh mông, là nơi tôi nhìn nỗi chết. Cai ngục Phách đã trở lại. Hắn trở lại với lũ đầu trâu mặt ngựa trật tự. Hắn hách dịch:
- Đứa nào đòi đi tắm?
Nghị Hòe hiên ngang:
- Tôi.
Cửa phòng mở. Cai ngục bảo Nghị Hoè bước ra. Cửa phòng khép lại, gài chốt liền.
- Còn đứa nào nữa?
Dương Đức Dũng dơ tay.
-Tôi.
Đoàn Kế Tường sợ bạn đi một mình bị úm, vội vàng dơ tay. Thêm ông Phó tỉnh hành chánh Đà Nẳng và vài anh em trẻ nữa. Tất cả bị dẫn tới một chỗ nào đó của khám Chí Hòa. Tới giờ cơm chiều, chẳng có ai về cả. Phòng họp. Hoàng Mạnh Hùng và Đặng Hải Sơn đề nghị anh em chia làm hai nhóm tranh đấu. Nhóm thứ nhất “đánh” trước, nếu “thua”, nhóm sau tiếp tục. Cả phòng tuyệt thực. Bấy giờ, Tư Long đã sang Chí Hòa nắm chức vụ trưởng khu FG. Chí Hòa có bốn khu, như tôi đã tả. Đáng lẽ, nó hoàn toàn thuộc về sở Công An thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng có sự tranh chấp giữa Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm nên khu ED do Cục Quản Lý Các Trại Giam của bộ Nội Vụ quản lý. Cao Đăng Chiếm chơi Mai Chí Thọ, cho khu ED hưởng quy chế đặc biệt. Với ba khu AH, BC, FG, khu ED là thiên đàng của Chí Hòa. ED là nơi dừng bước cải tạo của sĩ quan cảnh sát đặc biệt. Lần lượt, người ta rời rừng già về đây, rồi người ta lại ra đi. Thời gian ở đây, người ta sống thoải mái. Cửa phòng giam mở từ sau lúc điểm số. Người ta kéo nhau xuống sân đánh bóng chuyền, đọc báo, tắm giặt, tán gẫu giữa các phòng. Chiều tối, người ta trở lên phòng ăn cơm. Rồi ngủ.
Tư Long, hung thần của đề lao Gia Định, được báo cáo phòng của chúng tôi tuyệt thực, kéo “binh mã” ồn ào tới. Hắn xăn tay áo, nổi giận vì sẽ phải tự kiểm với lãnh đạo của hắn vụ này.
- Những anh nào tuyệt thực?
Hoàng Mạnh Hùng đứng lên. Đặng Hải Sơn đứng lên. Nhiều anh em khác đứng lên.Đợi không còn ai đứng lên nữa, Tư Long ra lệnh mở cửa. Những người tuyệt thực tay không kéo nhau ra khỏi phòng. Cơm canh chưa chia bị khuân về bếp. Chập tối, cai ngục Phách xuất hiện. Hắn gọi tôi:
- Vũ Mộng Long.
- Có.
- Ra đây.
Tôi bước sát tường có chấn song sắt.
- Mày làm Trưởng phòng mà để chúng nó gây loạn hả?
Tôi cãi:
- Thưa cán bộ, giữ trật tự phòng không phải nhiệm vụ của tôi. Vả lại, tôi chẳng có quyền gì với anh em cả.
Hắn mím môi:
- Bố láo. Mày là đại diện cách mạng, tại sao không có quyền? Tao đã cho mày quyền mà.
Và hắn thò tay qua chấn song, tát tôi một cái đau điếng. Nó “dám” tát vị… đại diện cách mạng.
- Mày hết là Trưởng phòng. Cút về chỗ.
Hắn gọi Trật tự viên của phòng do hắn chỉ định, hạch hỏi:
- Đứa nào chửi cách mạng?
Trật tự viên lắc đầu:
- Thưa cán bộ, tôi không biết.
- Thật chứ?
- Thật.
- Theo tao.
Hắn mở cửa phòng dẫn anh Trật tự phòng đi “làm việc.” Phòng của chúng tôi không còn Trưởng phòng nữa. Khi anh Trật tự phòng trở về, mặt mày sưng vù, môi toét ra, ròng ròng máu. Thế đấy, cái định nghĩa sơ khởi của Chí Hòa triều đại Lê Duẩn. Anh tù nhân bị chỉ định làm Trật tự viên của phòng no đòn nằm một xó trên nền xi-măng nhớp nhúa. Cai ngục bắt chúng tôi ngủ ngay, dù chưa nghe kẻng báo ngủ.
Hắn cảnh cáo:
- Dở trò đêm không ngủ là ốm đòn. Đây là nhà tù, hiểu chưa?
Tử ngày đi “học tập cải tạo,” lần đầu tiên tôi bị ăn cái tát tai. Kể ra thì vẫn may mắn. Cái “danh vọng” chỉ định nó chua xót thế, cái “danh vọng” bon chen nó còn chua xót dường nào! Ở đời, có danh là có họa. Ở tù, có danh là khốn nạn. Tất cả, nhắm vào cái danh của con người mà săn đuổi, mà buông cung, mà phóng dao, mà bêu nhục. Nghĩ cũng bẽ bàng cho cả những ai rắp ranh “có danh gì với núi sông.”
° ° °
Trưa hôm sau, tất cả những người tuyệt thực trở lại phòng. Anh nào anh nấy mặt méo xệch, khát nước rã họng. Hung thần Tư Long dẫn họ lên lầu, bắt họ ngồi ngoài hành lang, cấm nói chuyện, cấm ngủ, cấm nằm. Tư Long không cho họ uống nước. Mỗi người đều phải viết Tự kiểm nhận lỗi và cam kết không tái phạm. Chưa đủ, cai ngục thứ hai tên Quỳnh, bắt chúng tôi xếp hàng ngồi nghe hắn “lên lớp.” Hắn chửi chúng tôi là ký sinh trùng của xã hội, là những kẻ hèn mọn hung hăng nhanh và đầu hàng lẹ, những kẻ chửi lén cách mạng và không dám đương đầu và đổ lỗi cho nhau.
Và đây là những câu thấm thía:
- Các anh sợ khó, sợ khổ mà cũng học đòi chiến đấu ư?
Chiến đấu cho lý tưởng cao cả hay chiến đấu cho sự tắm rửa? Chưa từng thấy ai chết vì thiếu tắm cả. Mà chiến đấu hoặc bằng tư tưởng hoặc bằng súng đạn, không ai chiến đấu bằng chửi lén. Các anh cứ tự hào quốc gia các anh cao cả mà tôi nhận xét các anh chẳng cao cả chút nào. Các anh vừa ngu vừa dốt. Ngu nên không biết thân phận tù đầy. Với cách mạng không có yêu sách mà chỉ ngồi chờ ban phát mọi ân huệ. Đã là tù thì mất hết tự do, hiểu chưa? Các anh chì còn tự do hít thở vì cách mạng không quản lý nổi khí trời. Dốt nên bầy trò tuyệt thực tranh đấu cho đứa ngu. Người Cộng sản dám chiến đấu trong tù thực dân, đế quốc vì các đồng chí đang chiến đấu bên ngoài. Các anh rã đám, chủ Mỹ cút, đầy tớ Ngụy nhào rồi, chiến đấu vô vọng. Muốn chiến đấu, các anh phải học tập người Cộng sản. Người Cộng sản vào tù, không thèm thăm nuôi, không bắt tội vợ con mình nhịn ăn uống tiếp tế quà bánh cho mình. Các anh mừng rỡ nhận quà, sung sướng ăn uống khi con các anh đói. Thư từ gởi về không tỏ tình cảm với gia đình, hết xin món này lại xin món nọ. Thế thì chiến đấu cái gì? Cả nước đói khổ, chúng tôi cũng đói khổ, riêng gì các anh mà than vãn. Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản.
Tôi không hiểu tại sao cai ngục Quỳnh dám dạy chúng tôi bài học chống Cộng sản sâu sắc thế? Có lẽ, hắn kiêu ngạo, hắn khinh chúng tôi. Cộng sản lớn kiêu ngạo lớn, Cộng sản nhỏ kiêu ngạo nhỏ. Lần thứ nhất tôi thấy một tên cai ngục đánh trúng tâm huyệt tù nhân quốc gia. Cái trò thăm gặp của Cộng sản đã làm tù nhân vốn sợ khó, sợ khổ càng sợ khó, sợ khổ. Nó nuôi dưỡng tinh thần hưởng thụ và ỷ lại của tù nhân. Nó tạo ra một ám ảnh: luôn luôn sợ hãi bị cúp tiếp tế thực phẩm. Nó gây chia rẽ giữa tù nhân: tiếp tế nhiều, tiếp tế ít và không ai tiếp tế. Tôi dám nói rằng, nếu Cộng sản cấm tù nhân gặp mặt thân nhân, khước từ quà bánh, thuốc men gia đình tiếp tế, chúng ta sẽ có khá nhiều anh hùng tù ngục. Cộng sản hiểu thấu thủ thuật làm hư đốn những kẻ chống đối họ. Tù nhân của chúng ta quên mất điều này. Người ta dễ dàng ngủ yên bằng mọi thỏa mãn của kẻ thù. Cái làm người ta thức, người ta tỉnh, người ta nuôi chí phục hận là sự ngược đãi của kẻ thù. Bởi vậy, thay vì cảm ơn Cộng sản đầy đọa mình, tù nhân của chúng ta thường oán thán họ. Tư tưởng này đã trở thành tai họa cho tôi khi tôi bị đầy tới trại tập trung khổ sai lao động 3.Tôi bị ép giữa hai gọng kìm tù nhân và cai ngục.
Cai ngục Quỳnh “lên lớp” về Nội quy:
- Quốc gia các anh cũng có Nội quy đấy. Nội quy của nhà tù, của trại lính, của trường học, của các lớp huấn luyện, của các trại hè… Ở chỗ nào có sinh hoạt tập thể là phải có Nội quy. Các anh đa số là trí thức thì phải hiểu rõ ý nghĩa của Nội quy. Tù binh chiến tranh gặp kẻ chiến thắng phải chào kính. Quốc tế quy định vậy. Cấm nổi loạn, cấm trốn trại. Nội quy của cách mạng có bắt các anh hoan hô cách mạng, có bắt các anh bò đâu? Chỉ bắt các anh tuân lệnh cán bộ, giữ trật tự, vệ sinh phòng, ăn ngủ đúng giờ giấc, đừng cãi cọ, đánh nhau, mua bán, đổi chác, tuyên truyền nhảm nhí… Vệ sinh là giữ sức khỏe cho các anh.
Hắn nói toàn những điều nhân đức. Cuối cùng, hắn bắt những người tuyệt thực đứng dậy. Hắn nhìn anh em, nhếch mép cười rồi bỏ đi. Buổi chiều, những người “đòi đi tắm” trở lại phòng hết, trừ Đoàn Kế Tường. Họ bị cai ngục Phách dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên mép. Rồi họ bị tống vào cachot khu FG. Không chịu nổi cachot Chí Hòa, họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì. Tất cả lắc đầu, thở dài:
- Chí Hòa không phải là đề lao Gia Định.
Qua một tuần gạn lọc thành phần, chúng tôi nhập phòng bên cạnh. Ở đây, tỷ phú Phạm Quang Khai làm trưởng phòng. Tôi sống chung với tư sản mại bản Chợ Lớn như Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài; với tư sản mại bản Saigon như Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng, Nguyễn văn Trương (Khai Trí), Nguyễn văn Trương (bột giặt Viso); với Đằng Giao (bị vào phòng), Nguyễn Mạnh Côn, Đỗ văn Lựu và những khuôn mặt cũ của đề lao Gia Định. Và với cả du đãng, sát nhân… Đời tù lại có nhiều chuyện mới.
--------------------------------
1 Những người lần đầu tiên bị tù gọi là tù con so
2 Ngục Trung Nhật Ký, thơ Hồ Chi Minh
3 Đọc Trại Tập Trung, cùng một tác giả và nhà xuất bản.
Last edited by LDN on Mon Apr 18, 2022 6:06 am; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 22
Chí Hòa không phải là đề lao Gia Định. Để có nhận xét này, nhiều tù nhân đã sưng mặt, phù mỏ. Kinh nghiệm Chí Hòa được phổ biến ở phòng mới. Bây giờ, mọi người mới vỡ lẽ, với Cộng sản không có đòi hỏi, không được phép đòi hỏi. Với Cộng sản, phải giành lại. Muốn giành lại, phải chiến đấu. Khi chưa đủ sức trực diện chiến đấu, cần biết “xếp tàn y lại để dành hơi.” Theo Cựu ước, có một thời im lặng và một thời lên tiếng. Đa số chúng ta không quán triệt cái thời của mình. Nên đã ồn ào lên tiếng vào thời cần thiết im lặng. Do đó, sự lên tiếng vội vàng đã lạc lõng trong hoang vu của thế sự. Mà, buồn thay, sự lên tiếng vội vàng thường hụt hơi. Cuối cùng, nó biến thể thành những gấu ó lẫn nhau vô tích sự, những chụp mũ bôi bẩn lẫn nhau bệ rạc. Rồi tiếng nói nào dõng dạc cho đúng thời? Tôi sợ rằng sẽ không có tiếng nói ấy.
A, tôi cần giới thiệu những nhân vật của phòng tôi. Trước hết là Trần Thành, nhà tài phiệt lừng lẫy Chợ Lớn, một trong những tài phiệt đã góp phần thao túng nền kinh tế miền Nam. Tất cả tỷ phú đều keo cú, bần tiện. Điều này là chân lý. Trần Thành thoát khỏi cái chân lý khốn kiếp. Ông ta hào sảng, cởi mở. Tôi nhớ, có thời gian ngắn sống chung với các ông Hoàng Kim Quy, Lý Sen, Lâm Huê Hồ, Trương Vĩ Nhiên, Trần Thành ở đề lao Gia Định, khu C-1, vào dịp đề lao bắt đăng ký tiền mặt, chỉ cho tù nhân giữ lại 30 đồng. Tỷ phú Trần Thành đã phát tiền tặng các tù nhân “con bà phước.” Ông ta không thèm đăng ký. Ai không nhận tiền, ông ta buồn bã, cố nằn nì được tặng. Trái lại, “vua kẽm gai” Hoàng Kim Quy khó ai xin nổi ông một điếu thuốc lào Cái Sắn chính gốc, hút xong là phê lăn kềnh. Tỷ phú Hoàng Kim Quy, nghị sĩ của nước Việt Nam Cộng Hòa, đã tặng tù nhân đề lao Gia Định, một “giai thoại” bất hủ. Ở đề lao, tù nhân được gửi tiền mua quà. Bài ca nhại lại nhạc và lời Quê em của Nguyễn Đức Toàn sau đây, diễn tả sinh hoạt đề lao:
Trong phòng giam khu C
Thường xuyên 40 người
Một tù hai gang chiếu
Trưa chờ cơm cháy
Sáng chờ chia nước sôi
Ngày điểm danh hai lần
Tờ mờ sáng tinh mơ
Anh em chưa thức dậy
Đã thấy hàng đầy sân
Thôi thì rau, thôi thì chuối
Tương chao, bánh mì, thuốc rê, thuốc lào…
Đủ các mặt hàng, từ dao cạo, cà-phê, trà, rượu, cán bộ phục vụ can phạm với giá cắt cổ. Đó là hiện tượng, không phải bản chất. Tỷ phú Hoàng Kim Quy gửi mua một ký cà-chua. Hôm đó, hàng về trễ. Khi chia, ông bận ngủ trưa. Lúc ông thức dậy, Trưởng phòng bảo ông nhận hàng. Nhà tỷ phú không nhận, ông bắt chia lại để ông chứng kiến. Cả phòng đành gom cà-chua một đống, chia lại. Tù nhân Hoàng Kim Quy đòi hỏi công bằng và hợp lý… chia hàng ở nhà tù, nhưng chưa hề thấy ông đòi hỏi công bằng và hợp lý cho dân chúng ở nghị trường. Mà sự công bằng ông đòi hỏi ở nhà tù cũng chỉ cho riêng ông. Ông lại chỉ đòi hỏi với các bạn đồng tù. Bởi vì, ông ta là một khuôn mặt tiêu biểu của cơ cấu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nên tôi thấy cần thiết nhắc lại “giai đoạn” bất hủ này. Những “chuyện buồn nhỏ nhặt” xẩy ra ở đề lao thường do các bậc “đại nhân” gây ra. Chẳng hạn, vị đại khoa bảng họ Vũ, ăn cắp chai tầu-vị-yểu (chai nhựa) của bạn đồng tù nghèo nàn, cãi nhau vì cơm chia cho mình có vẻ thiếu cân lạng, bị cai ngục mỉa mai: “Trí thức miền Nam các anh thế đấy a!” khiến đau lòng… trí thức. Nhưng ta trở lại tỷ phú Trần Thành.
Ông ta tình nguyện chùi rửa cầu tiêu và lau quét sàn phòng giam không cần các Tổ cắt cử trực sinh. Luôn luôn, trên môi điếu thuốc lá Ăng-lê, nhà tỷ phú Trần Thành làm công việc “‘đầy tớ” một cách vui vẻ. Không hề nghe ông ta thở dài, tiếc của, than thân, ông nói: “Còn sống, còn hy vọng làm lại.” Tinh thần lạc quan của ông ta đã dạy tôi can đảm chịu đựng. Tôi bỗng quên cay đắng, tủi nhục và nỗi chết. Tôi cũng nhớ nằm lòng câu nói của cai ngục Quỳnh: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản”. Sự khinh miệt của Cộng sản: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh” lại sôi sục đáy tim tôi. Mỗi tù nhân hiểu “học tập cải tạo” một ý.
Nhiều người khước từ những bài học Cộng sản. Riêng tôi, tôi thành thật cám ơn “lời vàng ngọc” của gã cai ngục tầm thường, có thể, hắn đã cường điệu, hắn đã cương, đã bứt khỏi giáo điều của các lãnh đạo hắn. Song, quý hóa thay là ngón võ “đem cái đạo của thiên hạ trả lại thiên hạ.” Tôi nhập tâm câu nói: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản.” Chúng ta đã, đang chiến đấu chống Cộng sản, chỉ tiếc rằng, trong chúng ta còn khá đông những kẻ tưởng tượng đau khổ mà chiến đấu. Và, tệ hại hơn, còn khá đông những kẻ nhục mạ nỗi đau khổ chống Cộng của người khác. Để độc quyền chống Cộng bằng đau khổ tưởng tượng. Chí Hòa là nơi tôi sẽ học hỏi nhiều hơn.
Nhân vật thứ hai của phòng tôi là Đào Mậu, Bang trưởng bang Quảng Đông, Saigon. Nhà tỷ phú này già nua, thâm trầm, ít nói, không có nét “đan thanh” nào cần diễn tả. Nhân vật thứ ba là Tăng Tài mà Đoàn Kế Tường đã phong chức Tư lệnh hải quân đường sông. Mọi vận chuyển lúa gạo đường sông miền Nam nằm trong tay ông Ba Tầu bụng phệ không biết viết cả chữ Tầu lẫn chữ Việt này. Tăng Tài, chắc chắn, thuộc huyết thống Tăng Sâm, rất có công lao vận chuyển thuốc Tây vào mật khu cho Cộng sản. Thế mà vẫn bị nhúm. Vì tư sản mại bản. Tư lệnh hải quân đường sông có bệnh thích cầm nhầm, bệnh “mất áo trắng đòi áo thâm.” Hôm chúng tôi bị khám hành lý, Đặng Hải Sơn xếp dọn đồ tù bị lục tung thấy lạc cái khăn tắm. Trưởng phòng yêu cầu anh em tự giác lôi hành lý của mình ra cho Đặng Hải Sơn tìm khăn. Cái khăn của Đặng Hải Sơn bị “lạc” vào bị của Tăng Tài. Vị tư lệnh hải quân đường sông thản nhiên nói: “Đây là khăn của tôi, nhưng nếu anh Sơn mất, tôi xé chia đôi”.
Đặng Hải Sơn ngao ngán: “Thôi, ông giữ mà dùng, giữ nguyên chiếc.” Dĩ nhiên, tỷ phú Tăng Tài cười rất đẹp và không cần… cám ơn.
Nhân vật thứ tư là Trương Viso. Nhà tư sản mại bản Việt 90% gốc Hoa 10% này có đức tính thích-hơn-người. Nước đã chia đều cho tù nhân dùng vào việc cá nhân. Trương Viso vẫn “chôm” nước xối cầu tiêu của phòng. Đoàn Kế Tường lãnh nhiệm vụ phân phối nước, chửi um lên. Trương Viso vẫn trơ ra. Anh em tặng Trương Viso hỗn danh Trương thớt me. Tôi hỏi ông ta:
- Ông không xấu hổ à?
Trương Viso tỉnh bơ:
- Xấu hổ gì? Đứa nào tức giận tôi, nó sẽ mau chết. Còn tôi, tôi cứ sống lâu.
Cái triết lý sống của Trương Viso sẽ hay lắm, nếu ông ta đừng xâm phạm vào quyền lợi của người khác. Người Tầu mưu sinh đất khách đã sống với triết lý đó. Mày cứ chửi ông, cứ coi thường ông đi, rốt cuộc ông giầu hơn mày, mạnh hơn mày.
Tôi vừa kể những khuôn mặt tư sản mại bản Chợ Lớn. Bây giờ, điểm mặt tư sản mại bản Saigon, Việt Nam chính gốc. Nhân vật cự phách hàng đầu vẫn là Phạm Quang Khai, tư lệnh hải quân đường biển. Ông Khai có những 50 chiếc tầu chở dầu chiến lược. Ông trở thành tỷ phú, được báo Newsweek của Mỹ xếp vào hạng 1 trong 10 người giầu nhất Việt Nam nhờ chiến tranh. Ông Khai không làm buồn ai, không làm hại ai cả nhưng vì quá tiếc của, vợ con lại… di tản từ khuya, ông đâm ra lẩm cẩm. Ông bị kẹt lại là do muốn di tản hết chổi cùn giế rách.
Chúa tầu mà không đi lọt, âu cũng là thiên định. Và còn là nguồn an ủi của những ai phải ở lại với Cộng sản. Ông tư lệnh hải quân đường biển Phạm Quang Khai có thú vui vá quần xà-lỏn. Hai cái quần của ông mỗi ngày một dầy, liệng xuống sông là chìm nghỉm. Đã thế, ông còn chơi râu. Tù nhân trên 50 tuổi, Đảng cho phép chơi râu, tuy Đảng rất thèm râu dành độc quyền cho Bác Hồ chơi. Ông Khai chơi râu, cai ngục khó chịu lắm. Hồi sống chung với ông Khai ở 1C-1 đề lao Gia Định, tắm sau ông là đợi dài. Ông… gội râu đã mất hai mươi phút, giặt quần xà-lỏn đụp hai mươi phút. Ông đeo kính lão cả giờ ngủ. Mỗi ngày, ông nằm “đạp xích-lô” ba lần, mỗi lần ông đếm dủ 3000 vòng. Để chữa bệnh trĩ, ông nói thế. Ông cũng đọc kinh, bấm đốt tay thay vì lần tràng hạt, mỗi ngày ba lần. Bốn giờ ông đã dậy đọc kinh, “đạp xích-lô”. Lúc ông đọc kinh, quan sát ông, tôi suýt phì cuời. Tay trái là tràng hạt, tay phải cầm quạt quạt phành phạch, miệng bập bập liên hồi. Tuy đọc kinh có vẻ tập trung tư tưởng lắm, nhưng đôi mắt ốc nhồi của ông vẫn ngó ra phía cửa xem cai ngục có đi tuần “đột xuất”. Hễ nghe bước chân cai ngục là ông Khai “phanh” miệng cái rốp. Sau khi đọc kinh, ông cung kính vái lậy tường tù và… tù nhân. Cai ngục nực ông vô cùng. Thằng Phách đã xỏ ông: “Anh Khai, anh đừng dỡ trò nhà có của đóng cửa đi ăn mày nhé! Cách mạng chưa tịch thu quần đùi của anh đâu. Anh bêu riếu cách mạng vừa vừa thôi.” Vậỵ là ông Khai liệng quần xà-lỏn đụp tại Chí Hòa. Ông đã giải phóng quần xà-lỏn, giải phóng công nhân xà-lỏn, không nỡ bóc lột thêm. Thú vui nặng tính chất “tỷ phú” của ông là làm cô-lếch-sông gói giấy đựng mì. Ăn mì xong, ông giữ lại cái bao, vuốt ve phẳng phiu, xếp ngay ngắn, cất vào bị. Anh em xin, làm đóm hút thuốc lào, ông không cho. Bị khám hành lý, cô-lếch-sông bao mì của ông bị cai ngục tịch thu, ông nằn nì xin lại vài cái. Cứ vậy, dài dài. Ông lẩm cẩm hay máu tỷ phú nó thế. Đồ thăm nuôi của ông, ông không tiêu thụ hết, nhất định để mốc vất thùng rác chứ chẳng dại cho các “con bà phước”. Đấy, nhà tỷ phú Phạm Quang Khai, ngang cơ tỷ phú Hoàng Kim Quy. Vua tầu dầu và vua kẽm gai giống hệt nhau.
Ông vua thứ ba, vua hóa chất Nguyễn Công Kha hỗn danh Kha muối 1, không đến nỗi keo cú và ích kỷ như hai vua tầu dầu, vua kẽm gai, nhưng có tính lo xa. Nghĩ rằng chỉ sợ hết thức ăn sớm, không chịu nổi canh bí rợ nấu muối. Ngày thăm nuôi, gia đình gửi vào ba miếng thịt bò bíp-tếch, một con gà rô-ti… Thay vì đã có sườn kho theo kiểu ‘’chả chìa”, thịt chà bông, thịt kho ăn dài hạn, bíp-tếch, gà rô-ti thưởng thức ngay cho sướng miệng. Không, người lo xa Nguyễn Công Kha ăn một miếng bíp-tếch bò thôi. Hai miếng kia rắc đầy muối, bỏ vô hũ, để dành tuần sau! Còn chú gà rô-ti, hôm sau đã có chất nhờn trên da, vua hóa chất nhờ bạn tù nghèo lột da, xé thịt rồí… ướp muối. Xương và da nhờn tặng “con bà phước”. Mất cả tỷ bạc mà vẫn ướp muối bò bíp-tếch thì… lạc quan thật. Ông Kha có hai niềm vui. Một: Khom lưng cúng Phật. Ông là người thân cận của hòa thượng Thích Tâm Châu. Một hôm, đang say mê cúng Phật, ông quên cai ngục Phách đứng ngoài hành lang theo rõi ông.
- Anh kia!
Vua hóa chất giật mình:
- Làm gì thế?
- Tôi tập thể dục, cán bộ ạ!
- Thành khẩn đi, anh lễ lạy ai?
- Dạ, tôi lễ Phật.
- Anh mất tự do rồi, cấm chỉ anh lễ Phật.
- Nhà nước chủ trương tự do tín ngưỡng.
- Trong tù không có tự do, hiểu chưa?
- Hiểu.
Ông Kha mất niềm vui cúng Phật. Hai: hàn những lọ nhựa, keo nhựa, xô nhựa bị thủng. Ông hàn giúp bất cứ ai nhờ ông. Để thay thế niềm vui cúng Phật, lợi dụng xuống tắm, ông lượm sợi giây điện lớn, cục đá nhỏ đem lên phòng chế kim khâu, ông Kha tỉ mỉ đục cái lỗ xuyên chỉ thì tuyệt. Vua hoá chất cung cấp kim may túi, may quần xà-lỏn, vá áo cho Đặng Hải Sơn, Mai Đức Khôi…
Nhân vật tư sản mại bản tôi sắp kể chưa lên hàng vua là Bùi Kim Bảng 2, con trai của giáo sư Bùi Hữu Sủng. Ông ta, chủ một viện Bào Chế Âu Dược, tròn như hột mít. Chỉ có một điều đáng nói về ông Bùi Kim Bảng. Các phòng giam tại Chí Hòa, cầu tiêu xây ở góc phòng, sát sàn nước. Phải leo lên cái tam cấp mới đại, tiểu tiện được. Do đó, tù nhân gọi công việc đại tiện là lên sân khấu. Ông Bùi Kim Bảng có thói quen lên sân khấu vào đúng bữa cơm trưa. Ác nghiệt thay, ông “diễn trò” giữa lúc anh em ăn dở dang. Trò của ông “thối” vô cùng, ông lại “chơi ra-phan”, chấp tất mọi la lối, chửi thề. Đó là mẫu trí thức chỉ biết mình và thói quen của mình. Khác hẳn người tự trọng Khai Trí Nguyễn Văn Trương, chờ khuya mới “lên sân khấu” vì mắc bệnh trĩ, không muốn phiền ai đợi mình lâu.
Ngoài mấy nhân vật tư sản mại bản, trừ Trần Thành, mà sống chung với họ mòn đời, chắc chắn, tôi không học được ở họ một điều gì hữu ích. Họ chỉ than van, oán trách rồi mơ ước Cộng sản thua. Để họ được trả lại những gì Cộng sản đã tước đoạt của họ. Nhân sinh quan của họ không thay đổi, dẫu họ đã bị xoáy tròn trong cơn lốc tháng 4 năm 1975 và đã tận mắt chứng kiến sự khốn cùng của dân tộc họ mà chính họ chịu trách nhiệm lớn. Có những kẻ sinh ra chỉ biết làm giầu và chẳng thèm biết đến ai. Những kẻ ấy, ở bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn chẳng thèm biết đến ai. Bất hạnh cho dân tộc ta là có khá nhiều hạng người ấy.
Tôi kể sang những nhân vật chính trị của một chính phủ… buồn cười: Chính phủ liên bang Đông Dương. Câu chuyện như thế này:
Cụ Đỗ Văn Lựu, cựu đại tá Ngự Lâm Quân, thời đeo lon trung úy đã đồn trú tại tô giới Thượng Hải, bố vợ của tướng Phạm Văn Phú. Cụ Lựu vốn là bạn thân của ông Bùi Ngọc Phương. Ông Phương, hẳn mọi người còn nhớ rằng, đã bị chính phủ Ngô Đình Diệm bỏ tù về tội Công ty dầu lửa chi đó. Cụ Lựu có một đệ tử tên là Nguyễn Văn Cương mà Đằng Giao tặng biệt đanh Cốc Chính Cương. Cốc Chính Cương, kỹ sư canh nông còn trẻ, được chế độ mới lưu dụng và xử dụng vào công tác đắp đập Ông Nhiêu làm thủy lợi. Đập Ông Nhiêu thất bại. Cốc Chính Cương bị phê bình phá hoại. Vừa lo sợ, vừa phẫn nộ, Cốc Chính Cương gặp cụ Lựu, phịa chuyện có 7000 tinh binh, sẵn sàng điều động. Cụ Lựu dậy hồn trẻ, muốn báo đáp non nước tấm thân già tin Cốc Chính Cương và nhập cuộc. Cụ rủ Bùi Ngọc Phương, con rể của tác giả Mồ Cô Phượng. Ông Phương mê cầu cơ và nhiều thủ đoạn, lại có máu lãnh tụ. Để chính thức được nhận là Tổng thống chính phủ Liên bang Đông Dương, ông Phương mời cụ Lựu và vài vị tổng trưởng về thánh thất Cao Đài. Ông thuê đồng tử, trinh nữ nhập cơ nói những điều ông đã dặn. Cơ lên, chỉ đúng ông Bùi Ngọc Phương mà phán “Chân mạng đế vương”. Cụ Lựu tin, nhiều tổng trưởng tin. Ngô Khởi dạy: Khi xuất quân, không tin cái thế tất thắng ở mình thì chỉ còn cách bói mu rùa. Thời gian sau 1975, con người bối rối, nôn nóng cứu nước đến mê muội, tin cơ là chuyện thường. Và Bùi Ngọc Phương hiểu tâm lý con người quá xá. Nhưng, những Lê Khải Trạch, Nguyễn Cao Thanh, Vũ Đăng Dung không tin cơ đâu. Họ tin 7000 tinh binh của Cốc Chính Cương mà họ tưởng là của tướng tuẫn tiết Phạm Văn Phú, vì cụ Đỗ Văn Lựu nói. Rốt cuộc tổng thống Bùi Ngọc Phương, phó thủ tướng Đỗ văn Lựu, các tổng trưởng vào tù. Cốc Chính Cương vào tù luôn. Phòng tôi có cụ Lựu, ông Phương, chàng Cương. Họ nhìn nhau cười trừ. Những chiến sĩ chống Cộng bằng… cầu cơ còn tiếu lâm hơn cả ông Đinh Xuân Cầu chống Cộng với Mỹ của Trương Phiên. Tôi bỗng thấy mình ngu dại. Có ai nguyền rủa kẻ sắp chết đuối bạ cái gì cũng níu không nhỉ?
Nhân nói về chính phủ Liên Bang Đông Dương… cầu cơ, tôi kể một câu chuyện xẩy ra tại Đề Lao Gia Định. Một tù nhân tâm sự với tôi rất thành khẩn:
- Ông tin tôi đi, Mỹ đã đổ quân lên Trường Sa, chờ ngày giải phóng Saigon. Nó viện trợ 2 tỷ đô la. Mấy trăm ngàn xe hơi Mazda đã có sẵn ở Trường Sa rồi.
- Dựa vào đâu mà ông bảo tôi tin?
- Cứ tin đi!
- Ai nóí?
- Thì cơ nói chứ ai nói!
Hơn một nghìn ông thầy bói đã bị đi học tập cải tạo mấy tháng chỉ vì dám đoán cái thế tất thua của Cộng sản và sự thành công vượt biên. Tôi mà chỉ sống chung với tỷ phú và tổng thống, tổng trưởng, ngày tháng tù sẽ dài vô tận. May mắn chừng nào, cái vũ trụ Chí Hòa của tôi còn có sát nhân, tướng cướp, án tích du đãng cũ, bộ đội đào ngũ, cán bộ mất phẩm chất cách mạng. Và Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường, Hoàng Mạnh Hùng, Đặng Hải Sơn, Khai Trí, Nguyễn Mạnh Côn, Phan Thành Trường, Mai Đức Khôi, Cốc Chính Cương… Phan Thành Trường, kỹ sư cầu cống, tốt nghiệp tại Pháp, con trai bà hiệu trưởng Trưng Vương. Anh về nước phục vụ, dạy học ở Trường Kỹ thuật Phú Thọ. Không chấp nhận chế độ Cộng sản, anh gia nhập tổ chức chống Cộng của những người lính nhẩy dù.
o O o
Vài nét về vài nhân vật của phòng mới của tôi do Phạm Quang Khai “lãnh đạo”. Những nhân vật đề lao mà tôi đã sống với họ như Phan Bá Thúc, Hà Năng Đắc… thì miễn kể. Niên trưởng phòng tôi là cụ Ngao Song, người Nùng, 80 tuổi, cựu đại úy Biệt khu Hải Yến. Nhi đồng phòng tôi là Nguyễn Ngọc Phước, 8 tuổi, móc túi ở bến xe đò. Đã có một tờ báo dành cho độc giả từ 7 đến 77 tuổi, phải có một nhà tù dành cho tù nhân từ 8 đến 80 tuổi. Trẻ không tha, già không thương là nhà tù Cộng sản.
Lần đầu tiên, kể từ ngày bị bắt, tôi mới có dịp sống chung phòng với anh Nguyễn Mạnh Côn. Cơn nghiện đã tha anh, không hành hạ anh nữa. Thuốc phiện hút chất nước trong cơ thể con người. Thiếu thuốc phiện, anh Côn “mập” ra, thứ mập thê thảm. Trông anh như bị phù. Mắt anh lờ đờ và tất cả tinh anh của anh biến mất.
Tính ra, tôi đã sang Chí Hòa hơn một tuần. Đoàn Kế Tường vẫn nằm cachot rùng rợn của khu FG. Đằng Giao đã chia cơm nước cho cachot FG kể rằng, các “lãnh tụ” Vinh Sơn nằm ở cachot, chưa bị xử tử. Cha Nghị, “tướng” Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đủ mặt. Cha Nghị đã mù vì tuổi già mà cachot tối om, tanh tưởi, nhầy nhụa. Tôi chờ Đoàn Kế Tường về tả tỉ mỉ bên trong cachot FG.
Không có Giáng Sinh tại Chí Hòa. Sau khi đã ổn định các phòng mới, tù nhân được mua giấy, phong bì, tem, bút viết thư báo tin cho gia đình biết trại mới và thể thức thăm nuôi. Bút viết xong phải nộp cai ngục. Gọi là thăm nuôi chứ chỉ nhận quà thôi. Lệ Chí Hòa lạ lắm. Có án mới được gặp vợ con, thân nhân. Chúng tôi là tù nhân không án tích, không xét xử. Khác với đề lao Gia Định, mỗi tháng, Chí Hòa cho nhận quà một lần. Gia đình không nhận thư là kể như đợi tháng sau. Thư tù thay thế giấy thông hành qua cửa khám. Vụ mua hàng dẹp bỏ. Chúng tôi phải chờ gần Tết mới nhận quà mừng xuân. Sinh hoạt của Chí Hòa, chúng tôi đã quen. Kẻng báo thức: Dậy, đánh răng, rửa mặt, chuẩn bị điểm danh. Điểm danh xong, xuống hồ xách nước. Màn xách nước sôi nổi nhất. Anh em tình nguyện lao động, cãi vã, giành giật phục vụ tập thể. Xách nước có lợi lớn. Thứ nhất, được múc một thùng xối từ đầu xuống chân làm một “quả” tắm chớp nhoáng. Thứ hai đem theo cái bình bốn lít lấy đầy nước xối cầu ưu tiên. Nếu bồ ruột đi xách nước, ta xung phong trần truồng, cầm bàn chải chà cầu, bồ của ta sẽ tặng ta trận tắm ngoạn mục trên “sân khấu”. Chúng tôi, 60 tù nhân, một ngày được cung cấp 20 thùng nước. Phòng có một cái phuy nên xô nhựa lớn nhỏ của tù nhân bị trưng dụng chứa nước. Phòng nhờ một tù nhân bảo quản nước. Năm ca nước cho mỗi người một ngày dùng vào các dịch vụ đánh răng, rửa mặt, rửa chén, rửa đít. Đi cầu chỉ xử dụng hai ca nước công dội cầu. Đi tiểu, một ca thôi. Ai xử dụng nước phải hỏi quản lý và bị giám sát. Bồ bịch thì du di. Quản lý nước thường lời cả xô. Chàng tắm thoải mái buổi tối nhưng chàng phải bỏ ngủ trưa để canh gác nước. Nước qúy nên có màn bán nước. Bốn ca một cục đường. Một ca một điếu thuốc lào thật phê. Những kẻ bán nước là “con bà phước”, không cần đánh răng vì không bàn chải và kem đánh răng, không cần rửa mặt và không cần rửa chén.
Người ta đã cho chúng tôi tắm đúng hạn kỳ. Tuần lễ hai lần tắm, mỗi lần 8 phút. Tắm không dám sát xà phòng. Đã tắm là khỏi giặt quần áo. Mà giặt quần áo là khỏi tắm. Bởi vậy, nhiều tù nhân chậm chạp chơi trò mặc quần áo vừa tắm vừa giặt. Tỷ phú Phạm Quang Khai hết thú gội râu. Đang tắm, chưa xối sạch xà phòng, nghe tu hít thổi, phải ra xếp hàng, điểm danh rồi lên phòng. Bệnh ghẻ ở Chí Hòa tái phát, leo thang vun vút.
Sau mục xách nước tới mục lau sàn phòng, chia nước sôi… âm ấm. Rồi pha bột, ngâm mì. Rồi cờ tướng, đô-mi-nô. Rồi thuốc lào vặt, tán láo. Rồi chờ cơm trưa. Kẻng báo ngủ trưa. Cả phòng im lặng. Không ngủ thì ngồi dựa tường, ngồi bó gối, nằm nhớ nhà, nhớ đời…
Trưa ở Chí Hòa hiu hắt vô cùng. Tôi chưa biết âm ty, hẳn nhiên, vì tôi chưa chết. Dẫu tôi chết, tôi khó phục sinh để diễn tả những gì tôi thấy dưới âm ty. Nhưng mà, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, tôi đã nghe rõ những âm thanh quái đản từ phòng dưới. Làm sao tôi viết chính xác những âm thanh một đời chỉ có một lần được nghe nhờ ngụp lặn giữa dòng bất hạnh? Cảm giác của tôi, lúc ấy, là rờn rợn, nổi da gà. Tôi đã hình tượng hàng tỷ con ròi lúc nhúc trên lớp phân đang ồn ào đòi hỏi một thứ quyền sống. Tôi cũng còn hình tượng một đại hội âm ty báo cáo thành quả tội ác của qủy sứ. Và liên hoan… Bây giờ, ngồi viết hồi ký Nhà tù, tôi thèm được, một lần nữa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe lại những âm thanh quái đản mà tôi nghĩ đã trở thành điệu ru tuyệt đời của tôi. Chí Hòa, tôi đã mô tả thật kỹ ở tiểu thuyết Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang. Tôi mô tả theo sự tường thuật của các tù nhân Chí Hòa. Đúng đấy nhưng chưa thực. Hôm nay mới thực, bất cứ một chi tiết nào của Chí Hòa, của Chí Hòa sau cái người ta gọi là cách mạng, giải phóng. Để có cái thực, tôi phải nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe những âm thanh quái đản. Thỉnh thoảng, ở cái sa mạc loài người đó, giọng nói nhọn hoắt của một nữ tù phóng ra: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người bệnh nặng’’. Giọng nói nhọn hoắt chìm vào im lặng cố tình. Ngay con chim sẻ đậu trên sợi kẽm gai của cửa gió phòng giam cũng buồn bã nín thinh. Nhân loại bên ngoài càng nín thinh. Và đồng loại nín thinh kỹ hơn. Đôi khi, đồng loại bên ngoài ầm ỹ chát chúa để khỏa lấp những vô tình chủ mưu. Khi đó, bên trong, giọng nói đã hụt hơi, rời rã: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người sắp chết”! Nhiều nhà văn triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất hay dạy triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất của chúng ta, hằng đề cập tới tiếng thét của cô đơn. Ở đâu chúng ta nghe rõ tiếng thét của cô đơn? Ở chấp vá, vay mượn tư tưởng của các triết gia thế giới rồi nhập nhằng nhận là sáng tạo của mình? Hoặc ở sự tưởng tượng sau cuộc vui chóng tàn? Hoặc ở cung cách làm dáng tư tưởng trong văn chương? Riêng tôi, tôi thấy tiếng thét của cô đơn ở những buổi trưa, những ban đêm tù ngục; tiếng thét của cô đơn ở ngay quê hương tôi, ở nơi tôi sinh ra, khôn lớn, đau khổ, chịu đựng và hy vọng. Nếu sự chịu đựng đau khổ để tạo dựng ngày mai hạnh phúc thì, tôi khẳng định rằng, ngày mai hạnh phúc của dân tộc tôi phải do người quê hương tôi tạo dựng ngay trên quê hương tôi. Hạnh phúc của dân tộc tôi không bao giờ ở Mỹ châu, Âu châu hay Úc châu, không bao giờ là những đồng đô-la lạc quyên mập mờ, không bao giờ là những chiến khu thuê rừng đất khách, không bao giờ là vo ve của bọn nhặng đấu thầu nỗi khổ, rao bán nghẹn ngào của dân tộc. Trước hết và sau hết, bọn giả vờ yêu nước chưa đủ kiến thức nghe và hiểu nỗi cô đơn của dân tộc họ. Cả Cộng sản lẫn quốc gia. Bổn phận của nhà văn là lay động cái bóng tối u mê phủ kín những tham vọng đê tiện làm què quặt dân tộc, làm u ám quê hương. Người ta đã khước từ cái sứ mạng cầm bút đó. Rốt cuộc, mặt trận mà Cộng sản sợ hãi nhất là Mặt trận Văn hoá thì hoàn toàn im lặng, thụ động. Thụ động buồn tênh trong cái thế tư tưởng quốc gia đối kháng tư tưởng mác xít, chủ nghĩa nhân bản đối kháng chủ nghĩa phi nhân. Đôi khi, tôi rất tội nghiệp tôi. Trải dài đời mình chịu đựng mọi oan khiên, nhục nhã để cống hiến đời sống, ít ra, những trang sách về tù ngục Cộng sản chính xác nhất, chẳng những vô tích sự mà còn bị căng thây lãnh hàng trăm mũi tên bẩn. Tôi dứt khoát tuyên bố, sau khi ký tên hoàn tất hồi ký Nhà tù và Trại tập trung, tác phẩm của tôi sẽ không còn hai tiếng Cộng sản nữa. Tôi không chống Cộng nữa. Tôi noi gương các tiên chỉ, lý tưởng văn nghệ hải ngoại, cúi gầm mặt trước bạo lực, thản nhiên trước những rên siết, quằn quại của tổ quốc, dân tộc, nói chuyện tình yêu, viết chuyện ăn uống. Để được tiếng đứng đắn, không công kích ai. Để được lòng cả quốc gia lẫn Cộng sản. Để được cả Cộng sản và quốc gia khen ngợi. Và được cả những đứa bần tiện nhất trên đời ngưỡng mộ. Tôi đã chọn lựa một thái độ. Tôi không ngu đi chống Cộng một mình, nhịn đói chống Cộng. Để bị quốc gia bêu nhục. Để bị Cộng sản nguyền rủa. Có lẽ, tôi nên trở về Chí Hòa của tôi.
Kẻng trưa báo thức: Dậy, chờ nước sôi. Phải nói nước đun sôi. Tôi chưa thấy nước sôi ở Chí Hòa bốc khói khi gánh lên phòng. Sinh hoạt phòng giam ồn ào. Lại cờ tướng, đô-mi-nô ăn đấm lưng, hút thuốc lào vặt, tán gẫu và ngồi thẫn thờ nhớ vợ, thương con. Láng giềng của tôi, phòng bên trái là tù hình sự, có Nguyễn Đăng Viên, anh ruột của nhà văn Mai Thảo; phòng bên phải là tù phản động gồm toàn con cháu các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ đi tắm ngang qua phòng nhau, chúng tôi nhận ra nhau dễ dàng. Người ta bảo các ông Ngô Khắc Tinh, Hồ Văn Âm bị giam ở Chí Hòa. Tôi chưa gặp mặt họ. Tôi ước ao chuyển phòng khắp 4 khu Chí Hòa. BC là khu tôi thích đến, vì trong truyện ngắn Ánh lửa đêm tù tôi đã tả một phòng giam BC do Nguyễn Thụy Long kể. Có một sự kiện buồn cười giữa Nguyễn Thụy Long và tôi. Tác giả Loan mắt nhung mới là du đãng thứ thiệt, tay giang hồ hạng nặng, từng nằm quân lao Gò Vấp, khám Chí Hòa. Nguyễn Thụy Long khoái tôi, ưa tâm sự với tôi về cuộc đời ngang dọc của anh. Long thật hiền. Anh em tặng biệt danh Trâu Nước Quách Tỉnh. Mê quãng ngày hành hiệp của Long, tôi viết Điệu ru nước mắt. Thấy tiểu thuyết du đãng thành công, Nguyễn Thụy Long bèn sáng tác Loan mắt nhung. Rồi hàng loạt tiểu thuyết bụi đời. Được nhờ giới thiệu Loan mắt nhung sau bìa sách, tôi đã cho Trần Đại lu mờ trong vùng trời giang hồ. Đến khi Nguyễn Đình Thiều viết loại truyện này, tôi để một Nguyễn Thụy Long tung hoành, khai thác đề tài mới. Tôi thích đến khu BC, bởi vậy. Nhân vật Quân của Ánh lửa đêm tù là hình ảnh Nguyễn Thụy Long.
Kỷ luật ở Chí Hòa “sắt thép” hơn đề lao Gia Định. Qua đây, kể như hồ sơ của chúng tôi đã khép lại, hết còn bị hành hạ tự khai. Thay vào sự hành hạ tinh thần, Chí Hòa khủng bố tinh thần, đày đọa thể xác và thường xuyên đe dọa tù nhân bằng những quyết định tự chế của từng cai ngục. Tư Long, tôi nhắc lại, là tên Cộng sản nằm vùng, bán vé và xếp chuyến xe đò Minh Trung lộ trình Saigon – Đà Lạt. Sau 30-4-75, hắn đeo quân hàm đại úy công an, nắm chức vụ Trưởng trại đề lao Gia Định. Bây giờ, Tư Long bị hạ tầng công tác, xuống chức Trưởng khu FG. Chắc chắn, vì lờ đờ bị hạ tầng công tác nên Tư Long đã hung hăng ở Chí Hòa. Cai ngục và đám trật tự thuộc hạ cai ngục đều hắc ám và thường xuyên rình mò phòng tôi. Có điều lạ là qua Chí Hòa, chúng tôi ăn cơm hai bữa với canh bắp cải hầm xương heo. Ăn no nê. Đằng Giao giải thích: Bếp do sĩ quan cảnh sát khu ED phụ trách và Bộ Nội Vụ cung cấp thực phẩm. Nhưng tuần trăng mật cơm canh chẳng kéo dài, Sở Công An tiếp thu bếp, tù nhân phải ăn cơm với bí rợ nấu muối. Và đội cấp dưỡng gồm lũ công an can tội hiếp dâm, ăn cướp… Ở Chí Hòa, người ta không phát chén, ca, muỗng, chiếu. Các “con bà phước” phải xin những cái bình nhựa đựng nước tương, nước mắm của tù nhân thừa bình, cắt bỏ phần trên, lấy phần dưới đựng canh. Cơm thì chia vào túi ny-lông. Bốc cơm, húp canh. Chúng tôi cắt bị cói may chiếu. Đặng Hải Sơn và Mai Đức Khôi đã trở thành tay thợ may tài tình. Mép chiếu viền vải đàng hoàng. Nhét tiền vào viền vải, chắc ăn nhất, cai ngục đâu ngờ mà lục xét.
Vài hàng về Mai Đức Khôi, hỗn danh Độc thủ phản động. Khôi, sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, chiến đấu cụt một cánh tay, chủ trương một hãng thông tấn tư. Can tội phản động. Dáng dấp thư sinh, bướng vô tả, ăn thua đủ với cai ngục nhưng nhường nhịn bạn bè, nhất là những người ít tuổi. Chỉ một tay thôi, Độc thủ phản động có thể cắt quần xà-lỏn, sửa sơ-mi bằng dao nắp lon sữa bò mài sắc và kim giây đồng do Nguyễn Công Kha chế tạo. Tất cả ba-lô may bằng túi đựng phân bón và chiếu may bằng bị cói phá ra của phòng đều đo Khôi cụt và Đặng Hải Sơn đảm trách. Thoạt đầu, “con bà phước” nằm sàn xi-măng. Qua vài kỳ thăm nuôi, ai cũng có chiếu made by Khôi cụt.
Đoàn Kế Tường đã ra cachot. Tường nói:
- Gần Tết rồi, nhớ anh em quá, đành làm kiểm điểm nhận lỗi và hứa không tái phạm. Với lại cachot Chí Hoà châm quá, không chịu đựng thêm nổi. Em đã cố gồng thử sức, rốt cục xìu.
Có Đoàn Kế Tường, không khí phòng sinh động hẳn. Tường, dân Quảng Trị, giọng nói nặng nề khó nghe mà ham nói nhiều, nói lớn. Tính nóng nẩy, ưa dính vào chuyện bất bình của kẻ khác, không nể nang chi già trẻ, nếu già trẻ sai trái. Bản chất tốt nhưng đầy mặc cảm xuất thân bần hàn. Nằm cachot FG ngót bốn tuần, có lẽ, Đoàn Kế Tường đã truy nã kỹ lưỡng thân phận mình nên dáng điệu buồn bã, mệt mỏi. Tự nhiên, trong những tâm sự riêng tư, Tường bầy tỏ sự thù hận Uyên Thao và khai hết mọi lầm lẫn thuở cộng tác với nhật báo Sóng Thần. Tường hối hận đã gián tiếp dính vào vụ ám sát Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm Đông Phương. Có cuộc trần tình giữa Đoàn Kế Tường với Đằng Giao về chuyện hất Chu Tử khỏi Sóng Thần. Hoàng Mạnh Hùng và tôi ngồi nghe. Nội bộ Sóng Thần được mổ xẻ ở nhà tù Chí Hòa. Tôi đâm ra ớn. May mà tôi đã giã từ làng báo từ năm 1970. Và tôi không ngạc nhiên khi hay tin ký giả Đạm Phong bị bắn chết ở Hoa Kỳ.
- Nó cho cậu viết thư chưa?
- Rồi, ngay sau ký tên dưới bản kiểm điểm. Nó hứa đưa thư đến tận nhà.
- Nhà ai?
- Chị em.
- Còn vợ con?
- Thôi, các anh ạ, quên chuyên ấy đi.
Tôi thấy Đoàn Kế Tường rơm rớm nước mắt. Tường kể trận đòn hội chợ, kể những ngày cachot thê lương, kể những lần đối thoại trong bóng tối với cha Nghị, với Ali Hùng và với một nữ tù nhân. Cuộc đời Đoàn Kế Tường là một cuốn tiểu thuyết đầy tình tiết lâm ly. Thông minh, có chí song gặp đàn anh tồi. Rồi cứ nằm gọn trong móng vuốt của đàn anh phù thủy và làm âm binh mê muội đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Từ nhập thế, Đoàn Kế Tường chỉ có một lần làm đúng và làm theo ý mình. Là chống Cộng sản tự nguyện. Sau 30-4-1975, Tường thất chí, bỏ bê vợ con, sống lang thang ở các vỉa hè với chiếc xích lô đứng tên mình. Đạp xích lô để đủ tiền hút Lucky! Chán nghề đạp xích lô, Tường bán xe, tậu chiếc ba gác. Chán đạp xe ba gác,Tường tìm Dương Đức Dũng kiếm đường vào mật khu. Không có mật khu, hai chàng thành lập một tổ chức phản động, kết nạp toàn sinh viên, học sinh. Họ mời cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Tài chính do nhà quảng cáo Thái Sơn và Phó giám đốc khách sạn Palace bảo trợ. Hai chàng tuổi trẻ đều là ký giả nên hăng say xuất bản báo lậu. Bất hạnh cho cả hai và tổ chức là tên công an Đỗ Hữu Cảnh (luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng, nằm vùng) lọt vào tổ chức. Tất cả dính lưới Mai Chí Thọ. Muốn diệt trọn ổ, Mai Chí Thọ dùng Đoàn Kế Tường làm cò mồi. Những ngày đầu vừa bị bắt, công an ngụy trang thường dân dẫn Tường tới Caféterie Palace, bảo Tường ngồi riêng một bàn. Bất cứ ai quen biết Tường, sà lại chào hỏi Tường là bị nhúm. Phó giám đốc khách sạn Palace bị nhúm tại đây.
- Em ngồi đọc kinh thầm cầu nguyện đừng có ai quen biết vô đây. Em đã gặp anh Hoàng Anh Tuấn dắt xe đạp xì bánh ngang qua, em chỉ sợ anh ấy ngó thấy em.
Đoàn Kế Tường bị bắt cuối năm 1975.
- Anh ạ, cái màn này đã làm em choáng váng. Khối người kết tội em chỉ điểm bắt “đồng chí”.
Chuyện này, cả Tường lẫn Dũng và Thái Sơn đã kể cho tôi nghe ở đề lao Gia Định. Tôi càng yêu mến người bạn tuổi nhỏ của tôi. Trong Bầy sư tử lãng mạn, tôi có viết về Tường và Dũng để tỏ lòng ngưỡng mộ. Chúng tôi lại gặp nhau ở Chí Hòa. Dũng ăn đòn toét môi, nằm cachot FG một đêm. Tường ăn đòn oằn thân thể, nằm cachot FG ngót nghét một tháng. Sẽ chẳng có một dòng chữ nào viết về Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng và sư tử lãng mạn chống Cộng sản cô đơn và tuyệt vời ngay trên đất quê hương. Người ta đã truy điệu, đã suy tôn những liệt sĩ tưởng tượng hy sinh trong những cuộc chiến đấu chiêm bao. Nhưng mà đó không phải là chuyện của tôi. Chuyện của tôi chỉ là những anh em đang thoi thóp ở các miền tù ngục quê mẹ ngàn đời đòi đoạn.
--------------------------------
1 Hiện đã có mặt tại Huê Kỳ.
2 Hiện đã có mặt tại Pháp.
Chương trướcMục lụcChương sau
Chí Hòa không phải là đề lao Gia Định. Để có nhận xét này, nhiều tù nhân đã sưng mặt, phù mỏ. Kinh nghiệm Chí Hòa được phổ biến ở phòng mới. Bây giờ, mọi người mới vỡ lẽ, với Cộng sản không có đòi hỏi, không được phép đòi hỏi. Với Cộng sản, phải giành lại. Muốn giành lại, phải chiến đấu. Khi chưa đủ sức trực diện chiến đấu, cần biết “xếp tàn y lại để dành hơi.” Theo Cựu ước, có một thời im lặng và một thời lên tiếng. Đa số chúng ta không quán triệt cái thời của mình. Nên đã ồn ào lên tiếng vào thời cần thiết im lặng. Do đó, sự lên tiếng vội vàng đã lạc lõng trong hoang vu của thế sự. Mà, buồn thay, sự lên tiếng vội vàng thường hụt hơi. Cuối cùng, nó biến thể thành những gấu ó lẫn nhau vô tích sự, những chụp mũ bôi bẩn lẫn nhau bệ rạc. Rồi tiếng nói nào dõng dạc cho đúng thời? Tôi sợ rằng sẽ không có tiếng nói ấy.
A, tôi cần giới thiệu những nhân vật của phòng tôi. Trước hết là Trần Thành, nhà tài phiệt lừng lẫy Chợ Lớn, một trong những tài phiệt đã góp phần thao túng nền kinh tế miền Nam. Tất cả tỷ phú đều keo cú, bần tiện. Điều này là chân lý. Trần Thành thoát khỏi cái chân lý khốn kiếp. Ông ta hào sảng, cởi mở. Tôi nhớ, có thời gian ngắn sống chung với các ông Hoàng Kim Quy, Lý Sen, Lâm Huê Hồ, Trương Vĩ Nhiên, Trần Thành ở đề lao Gia Định, khu C-1, vào dịp đề lao bắt đăng ký tiền mặt, chỉ cho tù nhân giữ lại 30 đồng. Tỷ phú Trần Thành đã phát tiền tặng các tù nhân “con bà phước.” Ông ta không thèm đăng ký. Ai không nhận tiền, ông ta buồn bã, cố nằn nì được tặng. Trái lại, “vua kẽm gai” Hoàng Kim Quy khó ai xin nổi ông một điếu thuốc lào Cái Sắn chính gốc, hút xong là phê lăn kềnh. Tỷ phú Hoàng Kim Quy, nghị sĩ của nước Việt Nam Cộng Hòa, đã tặng tù nhân đề lao Gia Định, một “giai thoại” bất hủ. Ở đề lao, tù nhân được gửi tiền mua quà. Bài ca nhại lại nhạc và lời Quê em của Nguyễn Đức Toàn sau đây, diễn tả sinh hoạt đề lao:
Trong phòng giam khu C
Thường xuyên 40 người
Một tù hai gang chiếu
Trưa chờ cơm cháy
Sáng chờ chia nước sôi
Ngày điểm danh hai lần
Tờ mờ sáng tinh mơ
Anh em chưa thức dậy
Đã thấy hàng đầy sân
Thôi thì rau, thôi thì chuối
Tương chao, bánh mì, thuốc rê, thuốc lào…
Đủ các mặt hàng, từ dao cạo, cà-phê, trà, rượu, cán bộ phục vụ can phạm với giá cắt cổ. Đó là hiện tượng, không phải bản chất. Tỷ phú Hoàng Kim Quy gửi mua một ký cà-chua. Hôm đó, hàng về trễ. Khi chia, ông bận ngủ trưa. Lúc ông thức dậy, Trưởng phòng bảo ông nhận hàng. Nhà tỷ phú không nhận, ông bắt chia lại để ông chứng kiến. Cả phòng đành gom cà-chua một đống, chia lại. Tù nhân Hoàng Kim Quy đòi hỏi công bằng và hợp lý… chia hàng ở nhà tù, nhưng chưa hề thấy ông đòi hỏi công bằng và hợp lý cho dân chúng ở nghị trường. Mà sự công bằng ông đòi hỏi ở nhà tù cũng chỉ cho riêng ông. Ông lại chỉ đòi hỏi với các bạn đồng tù. Bởi vì, ông ta là một khuôn mặt tiêu biểu của cơ cấu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nên tôi thấy cần thiết nhắc lại “giai đoạn” bất hủ này. Những “chuyện buồn nhỏ nhặt” xẩy ra ở đề lao thường do các bậc “đại nhân” gây ra. Chẳng hạn, vị đại khoa bảng họ Vũ, ăn cắp chai tầu-vị-yểu (chai nhựa) của bạn đồng tù nghèo nàn, cãi nhau vì cơm chia cho mình có vẻ thiếu cân lạng, bị cai ngục mỉa mai: “Trí thức miền Nam các anh thế đấy a!” khiến đau lòng… trí thức. Nhưng ta trở lại tỷ phú Trần Thành.
Ông ta tình nguyện chùi rửa cầu tiêu và lau quét sàn phòng giam không cần các Tổ cắt cử trực sinh. Luôn luôn, trên môi điếu thuốc lá Ăng-lê, nhà tỷ phú Trần Thành làm công việc “‘đầy tớ” một cách vui vẻ. Không hề nghe ông ta thở dài, tiếc của, than thân, ông nói: “Còn sống, còn hy vọng làm lại.” Tinh thần lạc quan của ông ta đã dạy tôi can đảm chịu đựng. Tôi bỗng quên cay đắng, tủi nhục và nỗi chết. Tôi cũng nhớ nằm lòng câu nói của cai ngục Quỳnh: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản”. Sự khinh miệt của Cộng sản: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh” lại sôi sục đáy tim tôi. Mỗi tù nhân hiểu “học tập cải tạo” một ý.
Nhiều người khước từ những bài học Cộng sản. Riêng tôi, tôi thành thật cám ơn “lời vàng ngọc” của gã cai ngục tầm thường, có thể, hắn đã cường điệu, hắn đã cương, đã bứt khỏi giáo điều của các lãnh đạo hắn. Song, quý hóa thay là ngón võ “đem cái đạo của thiên hạ trả lại thiên hạ.” Tôi nhập tâm câu nói: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản.” Chúng ta đã, đang chiến đấu chống Cộng sản, chỉ tiếc rằng, trong chúng ta còn khá đông những kẻ tưởng tượng đau khổ mà chiến đấu. Và, tệ hại hơn, còn khá đông những kẻ nhục mạ nỗi đau khổ chống Cộng của người khác. Để độc quyền chống Cộng bằng đau khổ tưởng tượng. Chí Hòa là nơi tôi sẽ học hỏi nhiều hơn.
Nhân vật thứ hai của phòng tôi là Đào Mậu, Bang trưởng bang Quảng Đông, Saigon. Nhà tỷ phú này già nua, thâm trầm, ít nói, không có nét “đan thanh” nào cần diễn tả. Nhân vật thứ ba là Tăng Tài mà Đoàn Kế Tường đã phong chức Tư lệnh hải quân đường sông. Mọi vận chuyển lúa gạo đường sông miền Nam nằm trong tay ông Ba Tầu bụng phệ không biết viết cả chữ Tầu lẫn chữ Việt này. Tăng Tài, chắc chắn, thuộc huyết thống Tăng Sâm, rất có công lao vận chuyển thuốc Tây vào mật khu cho Cộng sản. Thế mà vẫn bị nhúm. Vì tư sản mại bản. Tư lệnh hải quân đường sông có bệnh thích cầm nhầm, bệnh “mất áo trắng đòi áo thâm.” Hôm chúng tôi bị khám hành lý, Đặng Hải Sơn xếp dọn đồ tù bị lục tung thấy lạc cái khăn tắm. Trưởng phòng yêu cầu anh em tự giác lôi hành lý của mình ra cho Đặng Hải Sơn tìm khăn. Cái khăn của Đặng Hải Sơn bị “lạc” vào bị của Tăng Tài. Vị tư lệnh hải quân đường sông thản nhiên nói: “Đây là khăn của tôi, nhưng nếu anh Sơn mất, tôi xé chia đôi”.
Đặng Hải Sơn ngao ngán: “Thôi, ông giữ mà dùng, giữ nguyên chiếc.” Dĩ nhiên, tỷ phú Tăng Tài cười rất đẹp và không cần… cám ơn.
Nhân vật thứ tư là Trương Viso. Nhà tư sản mại bản Việt 90% gốc Hoa 10% này có đức tính thích-hơn-người. Nước đã chia đều cho tù nhân dùng vào việc cá nhân. Trương Viso vẫn “chôm” nước xối cầu tiêu của phòng. Đoàn Kế Tường lãnh nhiệm vụ phân phối nước, chửi um lên. Trương Viso vẫn trơ ra. Anh em tặng Trương Viso hỗn danh Trương thớt me. Tôi hỏi ông ta:
- Ông không xấu hổ à?
Trương Viso tỉnh bơ:
- Xấu hổ gì? Đứa nào tức giận tôi, nó sẽ mau chết. Còn tôi, tôi cứ sống lâu.
Cái triết lý sống của Trương Viso sẽ hay lắm, nếu ông ta đừng xâm phạm vào quyền lợi của người khác. Người Tầu mưu sinh đất khách đã sống với triết lý đó. Mày cứ chửi ông, cứ coi thường ông đi, rốt cuộc ông giầu hơn mày, mạnh hơn mày.
Tôi vừa kể những khuôn mặt tư sản mại bản Chợ Lớn. Bây giờ, điểm mặt tư sản mại bản Saigon, Việt Nam chính gốc. Nhân vật cự phách hàng đầu vẫn là Phạm Quang Khai, tư lệnh hải quân đường biển. Ông Khai có những 50 chiếc tầu chở dầu chiến lược. Ông trở thành tỷ phú, được báo Newsweek của Mỹ xếp vào hạng 1 trong 10 người giầu nhất Việt Nam nhờ chiến tranh. Ông Khai không làm buồn ai, không làm hại ai cả nhưng vì quá tiếc của, vợ con lại… di tản từ khuya, ông đâm ra lẩm cẩm. Ông bị kẹt lại là do muốn di tản hết chổi cùn giế rách.
Chúa tầu mà không đi lọt, âu cũng là thiên định. Và còn là nguồn an ủi của những ai phải ở lại với Cộng sản. Ông tư lệnh hải quân đường biển Phạm Quang Khai có thú vui vá quần xà-lỏn. Hai cái quần của ông mỗi ngày một dầy, liệng xuống sông là chìm nghỉm. Đã thế, ông còn chơi râu. Tù nhân trên 50 tuổi, Đảng cho phép chơi râu, tuy Đảng rất thèm râu dành độc quyền cho Bác Hồ chơi. Ông Khai chơi râu, cai ngục khó chịu lắm. Hồi sống chung với ông Khai ở 1C-1 đề lao Gia Định, tắm sau ông là đợi dài. Ông… gội râu đã mất hai mươi phút, giặt quần xà-lỏn đụp hai mươi phút. Ông đeo kính lão cả giờ ngủ. Mỗi ngày, ông nằm “đạp xích-lô” ba lần, mỗi lần ông đếm dủ 3000 vòng. Để chữa bệnh trĩ, ông nói thế. Ông cũng đọc kinh, bấm đốt tay thay vì lần tràng hạt, mỗi ngày ba lần. Bốn giờ ông đã dậy đọc kinh, “đạp xích-lô”. Lúc ông đọc kinh, quan sát ông, tôi suýt phì cuời. Tay trái là tràng hạt, tay phải cầm quạt quạt phành phạch, miệng bập bập liên hồi. Tuy đọc kinh có vẻ tập trung tư tưởng lắm, nhưng đôi mắt ốc nhồi của ông vẫn ngó ra phía cửa xem cai ngục có đi tuần “đột xuất”. Hễ nghe bước chân cai ngục là ông Khai “phanh” miệng cái rốp. Sau khi đọc kinh, ông cung kính vái lậy tường tù và… tù nhân. Cai ngục nực ông vô cùng. Thằng Phách đã xỏ ông: “Anh Khai, anh đừng dỡ trò nhà có của đóng cửa đi ăn mày nhé! Cách mạng chưa tịch thu quần đùi của anh đâu. Anh bêu riếu cách mạng vừa vừa thôi.” Vậỵ là ông Khai liệng quần xà-lỏn đụp tại Chí Hòa. Ông đã giải phóng quần xà-lỏn, giải phóng công nhân xà-lỏn, không nỡ bóc lột thêm. Thú vui nặng tính chất “tỷ phú” của ông là làm cô-lếch-sông gói giấy đựng mì. Ăn mì xong, ông giữ lại cái bao, vuốt ve phẳng phiu, xếp ngay ngắn, cất vào bị. Anh em xin, làm đóm hút thuốc lào, ông không cho. Bị khám hành lý, cô-lếch-sông bao mì của ông bị cai ngục tịch thu, ông nằn nì xin lại vài cái. Cứ vậy, dài dài. Ông lẩm cẩm hay máu tỷ phú nó thế. Đồ thăm nuôi của ông, ông không tiêu thụ hết, nhất định để mốc vất thùng rác chứ chẳng dại cho các “con bà phước”. Đấy, nhà tỷ phú Phạm Quang Khai, ngang cơ tỷ phú Hoàng Kim Quy. Vua tầu dầu và vua kẽm gai giống hệt nhau.
Ông vua thứ ba, vua hóa chất Nguyễn Công Kha hỗn danh Kha muối 1, không đến nỗi keo cú và ích kỷ như hai vua tầu dầu, vua kẽm gai, nhưng có tính lo xa. Nghĩ rằng chỉ sợ hết thức ăn sớm, không chịu nổi canh bí rợ nấu muối. Ngày thăm nuôi, gia đình gửi vào ba miếng thịt bò bíp-tếch, một con gà rô-ti… Thay vì đã có sườn kho theo kiểu ‘’chả chìa”, thịt chà bông, thịt kho ăn dài hạn, bíp-tếch, gà rô-ti thưởng thức ngay cho sướng miệng. Không, người lo xa Nguyễn Công Kha ăn một miếng bíp-tếch bò thôi. Hai miếng kia rắc đầy muối, bỏ vô hũ, để dành tuần sau! Còn chú gà rô-ti, hôm sau đã có chất nhờn trên da, vua hóa chất nhờ bạn tù nghèo lột da, xé thịt rồí… ướp muối. Xương và da nhờn tặng “con bà phước”. Mất cả tỷ bạc mà vẫn ướp muối bò bíp-tếch thì… lạc quan thật. Ông Kha có hai niềm vui. Một: Khom lưng cúng Phật. Ông là người thân cận của hòa thượng Thích Tâm Châu. Một hôm, đang say mê cúng Phật, ông quên cai ngục Phách đứng ngoài hành lang theo rõi ông.
- Anh kia!
Vua hóa chất giật mình:
- Làm gì thế?
- Tôi tập thể dục, cán bộ ạ!
- Thành khẩn đi, anh lễ lạy ai?
- Dạ, tôi lễ Phật.
- Anh mất tự do rồi, cấm chỉ anh lễ Phật.
- Nhà nước chủ trương tự do tín ngưỡng.
- Trong tù không có tự do, hiểu chưa?
- Hiểu.
Ông Kha mất niềm vui cúng Phật. Hai: hàn những lọ nhựa, keo nhựa, xô nhựa bị thủng. Ông hàn giúp bất cứ ai nhờ ông. Để thay thế niềm vui cúng Phật, lợi dụng xuống tắm, ông lượm sợi giây điện lớn, cục đá nhỏ đem lên phòng chế kim khâu, ông Kha tỉ mỉ đục cái lỗ xuyên chỉ thì tuyệt. Vua hoá chất cung cấp kim may túi, may quần xà-lỏn, vá áo cho Đặng Hải Sơn, Mai Đức Khôi…
Nhân vật tư sản mại bản tôi sắp kể chưa lên hàng vua là Bùi Kim Bảng 2, con trai của giáo sư Bùi Hữu Sủng. Ông ta, chủ một viện Bào Chế Âu Dược, tròn như hột mít. Chỉ có một điều đáng nói về ông Bùi Kim Bảng. Các phòng giam tại Chí Hòa, cầu tiêu xây ở góc phòng, sát sàn nước. Phải leo lên cái tam cấp mới đại, tiểu tiện được. Do đó, tù nhân gọi công việc đại tiện là lên sân khấu. Ông Bùi Kim Bảng có thói quen lên sân khấu vào đúng bữa cơm trưa. Ác nghiệt thay, ông “diễn trò” giữa lúc anh em ăn dở dang. Trò của ông “thối” vô cùng, ông lại “chơi ra-phan”, chấp tất mọi la lối, chửi thề. Đó là mẫu trí thức chỉ biết mình và thói quen của mình. Khác hẳn người tự trọng Khai Trí Nguyễn Văn Trương, chờ khuya mới “lên sân khấu” vì mắc bệnh trĩ, không muốn phiền ai đợi mình lâu.
Ngoài mấy nhân vật tư sản mại bản, trừ Trần Thành, mà sống chung với họ mòn đời, chắc chắn, tôi không học được ở họ một điều gì hữu ích. Họ chỉ than van, oán trách rồi mơ ước Cộng sản thua. Để họ được trả lại những gì Cộng sản đã tước đoạt của họ. Nhân sinh quan của họ không thay đổi, dẫu họ đã bị xoáy tròn trong cơn lốc tháng 4 năm 1975 và đã tận mắt chứng kiến sự khốn cùng của dân tộc họ mà chính họ chịu trách nhiệm lớn. Có những kẻ sinh ra chỉ biết làm giầu và chẳng thèm biết đến ai. Những kẻ ấy, ở bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn chẳng thèm biết đến ai. Bất hạnh cho dân tộc ta là có khá nhiều hạng người ấy.
Tôi kể sang những nhân vật chính trị của một chính phủ… buồn cười: Chính phủ liên bang Đông Dương. Câu chuyện như thế này:
Cụ Đỗ Văn Lựu, cựu đại tá Ngự Lâm Quân, thời đeo lon trung úy đã đồn trú tại tô giới Thượng Hải, bố vợ của tướng Phạm Văn Phú. Cụ Lựu vốn là bạn thân của ông Bùi Ngọc Phương. Ông Phương, hẳn mọi người còn nhớ rằng, đã bị chính phủ Ngô Đình Diệm bỏ tù về tội Công ty dầu lửa chi đó. Cụ Lựu có một đệ tử tên là Nguyễn Văn Cương mà Đằng Giao tặng biệt đanh Cốc Chính Cương. Cốc Chính Cương, kỹ sư canh nông còn trẻ, được chế độ mới lưu dụng và xử dụng vào công tác đắp đập Ông Nhiêu làm thủy lợi. Đập Ông Nhiêu thất bại. Cốc Chính Cương bị phê bình phá hoại. Vừa lo sợ, vừa phẫn nộ, Cốc Chính Cương gặp cụ Lựu, phịa chuyện có 7000 tinh binh, sẵn sàng điều động. Cụ Lựu dậy hồn trẻ, muốn báo đáp non nước tấm thân già tin Cốc Chính Cương và nhập cuộc. Cụ rủ Bùi Ngọc Phương, con rể của tác giả Mồ Cô Phượng. Ông Phương mê cầu cơ và nhiều thủ đoạn, lại có máu lãnh tụ. Để chính thức được nhận là Tổng thống chính phủ Liên bang Đông Dương, ông Phương mời cụ Lựu và vài vị tổng trưởng về thánh thất Cao Đài. Ông thuê đồng tử, trinh nữ nhập cơ nói những điều ông đã dặn. Cơ lên, chỉ đúng ông Bùi Ngọc Phương mà phán “Chân mạng đế vương”. Cụ Lựu tin, nhiều tổng trưởng tin. Ngô Khởi dạy: Khi xuất quân, không tin cái thế tất thắng ở mình thì chỉ còn cách bói mu rùa. Thời gian sau 1975, con người bối rối, nôn nóng cứu nước đến mê muội, tin cơ là chuyện thường. Và Bùi Ngọc Phương hiểu tâm lý con người quá xá. Nhưng, những Lê Khải Trạch, Nguyễn Cao Thanh, Vũ Đăng Dung không tin cơ đâu. Họ tin 7000 tinh binh của Cốc Chính Cương mà họ tưởng là của tướng tuẫn tiết Phạm Văn Phú, vì cụ Đỗ Văn Lựu nói. Rốt cuộc tổng thống Bùi Ngọc Phương, phó thủ tướng Đỗ văn Lựu, các tổng trưởng vào tù. Cốc Chính Cương vào tù luôn. Phòng tôi có cụ Lựu, ông Phương, chàng Cương. Họ nhìn nhau cười trừ. Những chiến sĩ chống Cộng bằng… cầu cơ còn tiếu lâm hơn cả ông Đinh Xuân Cầu chống Cộng với Mỹ của Trương Phiên. Tôi bỗng thấy mình ngu dại. Có ai nguyền rủa kẻ sắp chết đuối bạ cái gì cũng níu không nhỉ?
Nhân nói về chính phủ Liên Bang Đông Dương… cầu cơ, tôi kể một câu chuyện xẩy ra tại Đề Lao Gia Định. Một tù nhân tâm sự với tôi rất thành khẩn:
- Ông tin tôi đi, Mỹ đã đổ quân lên Trường Sa, chờ ngày giải phóng Saigon. Nó viện trợ 2 tỷ đô la. Mấy trăm ngàn xe hơi Mazda đã có sẵn ở Trường Sa rồi.
- Dựa vào đâu mà ông bảo tôi tin?
- Cứ tin đi!
- Ai nóí?
- Thì cơ nói chứ ai nói!
Hơn một nghìn ông thầy bói đã bị đi học tập cải tạo mấy tháng chỉ vì dám đoán cái thế tất thua của Cộng sản và sự thành công vượt biên. Tôi mà chỉ sống chung với tỷ phú và tổng thống, tổng trưởng, ngày tháng tù sẽ dài vô tận. May mắn chừng nào, cái vũ trụ Chí Hòa của tôi còn có sát nhân, tướng cướp, án tích du đãng cũ, bộ đội đào ngũ, cán bộ mất phẩm chất cách mạng. Và Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường, Hoàng Mạnh Hùng, Đặng Hải Sơn, Khai Trí, Nguyễn Mạnh Côn, Phan Thành Trường, Mai Đức Khôi, Cốc Chính Cương… Phan Thành Trường, kỹ sư cầu cống, tốt nghiệp tại Pháp, con trai bà hiệu trưởng Trưng Vương. Anh về nước phục vụ, dạy học ở Trường Kỹ thuật Phú Thọ. Không chấp nhận chế độ Cộng sản, anh gia nhập tổ chức chống Cộng của những người lính nhẩy dù.
o O o
Vài nét về vài nhân vật của phòng mới của tôi do Phạm Quang Khai “lãnh đạo”. Những nhân vật đề lao mà tôi đã sống với họ như Phan Bá Thúc, Hà Năng Đắc… thì miễn kể. Niên trưởng phòng tôi là cụ Ngao Song, người Nùng, 80 tuổi, cựu đại úy Biệt khu Hải Yến. Nhi đồng phòng tôi là Nguyễn Ngọc Phước, 8 tuổi, móc túi ở bến xe đò. Đã có một tờ báo dành cho độc giả từ 7 đến 77 tuổi, phải có một nhà tù dành cho tù nhân từ 8 đến 80 tuổi. Trẻ không tha, già không thương là nhà tù Cộng sản.
Lần đầu tiên, kể từ ngày bị bắt, tôi mới có dịp sống chung phòng với anh Nguyễn Mạnh Côn. Cơn nghiện đã tha anh, không hành hạ anh nữa. Thuốc phiện hút chất nước trong cơ thể con người. Thiếu thuốc phiện, anh Côn “mập” ra, thứ mập thê thảm. Trông anh như bị phù. Mắt anh lờ đờ và tất cả tinh anh của anh biến mất.
Tính ra, tôi đã sang Chí Hòa hơn một tuần. Đoàn Kế Tường vẫn nằm cachot rùng rợn của khu FG. Đằng Giao đã chia cơm nước cho cachot FG kể rằng, các “lãnh tụ” Vinh Sơn nằm ở cachot, chưa bị xử tử. Cha Nghị, “tướng” Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đủ mặt. Cha Nghị đã mù vì tuổi già mà cachot tối om, tanh tưởi, nhầy nhụa. Tôi chờ Đoàn Kế Tường về tả tỉ mỉ bên trong cachot FG.
Không có Giáng Sinh tại Chí Hòa. Sau khi đã ổn định các phòng mới, tù nhân được mua giấy, phong bì, tem, bút viết thư báo tin cho gia đình biết trại mới và thể thức thăm nuôi. Bút viết xong phải nộp cai ngục. Gọi là thăm nuôi chứ chỉ nhận quà thôi. Lệ Chí Hòa lạ lắm. Có án mới được gặp vợ con, thân nhân. Chúng tôi là tù nhân không án tích, không xét xử. Khác với đề lao Gia Định, mỗi tháng, Chí Hòa cho nhận quà một lần. Gia đình không nhận thư là kể như đợi tháng sau. Thư tù thay thế giấy thông hành qua cửa khám. Vụ mua hàng dẹp bỏ. Chúng tôi phải chờ gần Tết mới nhận quà mừng xuân. Sinh hoạt của Chí Hòa, chúng tôi đã quen. Kẻng báo thức: Dậy, đánh răng, rửa mặt, chuẩn bị điểm danh. Điểm danh xong, xuống hồ xách nước. Màn xách nước sôi nổi nhất. Anh em tình nguyện lao động, cãi vã, giành giật phục vụ tập thể. Xách nước có lợi lớn. Thứ nhất, được múc một thùng xối từ đầu xuống chân làm một “quả” tắm chớp nhoáng. Thứ hai đem theo cái bình bốn lít lấy đầy nước xối cầu ưu tiên. Nếu bồ ruột đi xách nước, ta xung phong trần truồng, cầm bàn chải chà cầu, bồ của ta sẽ tặng ta trận tắm ngoạn mục trên “sân khấu”. Chúng tôi, 60 tù nhân, một ngày được cung cấp 20 thùng nước. Phòng có một cái phuy nên xô nhựa lớn nhỏ của tù nhân bị trưng dụng chứa nước. Phòng nhờ một tù nhân bảo quản nước. Năm ca nước cho mỗi người một ngày dùng vào các dịch vụ đánh răng, rửa mặt, rửa chén, rửa đít. Đi cầu chỉ xử dụng hai ca nước công dội cầu. Đi tiểu, một ca thôi. Ai xử dụng nước phải hỏi quản lý và bị giám sát. Bồ bịch thì du di. Quản lý nước thường lời cả xô. Chàng tắm thoải mái buổi tối nhưng chàng phải bỏ ngủ trưa để canh gác nước. Nước qúy nên có màn bán nước. Bốn ca một cục đường. Một ca một điếu thuốc lào thật phê. Những kẻ bán nước là “con bà phước”, không cần đánh răng vì không bàn chải và kem đánh răng, không cần rửa mặt và không cần rửa chén.
Người ta đã cho chúng tôi tắm đúng hạn kỳ. Tuần lễ hai lần tắm, mỗi lần 8 phút. Tắm không dám sát xà phòng. Đã tắm là khỏi giặt quần áo. Mà giặt quần áo là khỏi tắm. Bởi vậy, nhiều tù nhân chậm chạp chơi trò mặc quần áo vừa tắm vừa giặt. Tỷ phú Phạm Quang Khai hết thú gội râu. Đang tắm, chưa xối sạch xà phòng, nghe tu hít thổi, phải ra xếp hàng, điểm danh rồi lên phòng. Bệnh ghẻ ở Chí Hòa tái phát, leo thang vun vút.
Sau mục xách nước tới mục lau sàn phòng, chia nước sôi… âm ấm. Rồi pha bột, ngâm mì. Rồi cờ tướng, đô-mi-nô. Rồi thuốc lào vặt, tán láo. Rồi chờ cơm trưa. Kẻng báo ngủ trưa. Cả phòng im lặng. Không ngủ thì ngồi dựa tường, ngồi bó gối, nằm nhớ nhà, nhớ đời…
Trưa ở Chí Hòa hiu hắt vô cùng. Tôi chưa biết âm ty, hẳn nhiên, vì tôi chưa chết. Dẫu tôi chết, tôi khó phục sinh để diễn tả những gì tôi thấy dưới âm ty. Nhưng mà, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, tôi đã nghe rõ những âm thanh quái đản từ phòng dưới. Làm sao tôi viết chính xác những âm thanh một đời chỉ có một lần được nghe nhờ ngụp lặn giữa dòng bất hạnh? Cảm giác của tôi, lúc ấy, là rờn rợn, nổi da gà. Tôi đã hình tượng hàng tỷ con ròi lúc nhúc trên lớp phân đang ồn ào đòi hỏi một thứ quyền sống. Tôi cũng còn hình tượng một đại hội âm ty báo cáo thành quả tội ác của qủy sứ. Và liên hoan… Bây giờ, ngồi viết hồi ký Nhà tù, tôi thèm được, một lần nữa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe lại những âm thanh quái đản mà tôi nghĩ đã trở thành điệu ru tuyệt đời của tôi. Chí Hòa, tôi đã mô tả thật kỹ ở tiểu thuyết Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang. Tôi mô tả theo sự tường thuật của các tù nhân Chí Hòa. Đúng đấy nhưng chưa thực. Hôm nay mới thực, bất cứ một chi tiết nào của Chí Hòa, của Chí Hòa sau cái người ta gọi là cách mạng, giải phóng. Để có cái thực, tôi phải nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe những âm thanh quái đản. Thỉnh thoảng, ở cái sa mạc loài người đó, giọng nói nhọn hoắt của một nữ tù phóng ra: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người bệnh nặng’’. Giọng nói nhọn hoắt chìm vào im lặng cố tình. Ngay con chim sẻ đậu trên sợi kẽm gai của cửa gió phòng giam cũng buồn bã nín thinh. Nhân loại bên ngoài càng nín thinh. Và đồng loại nín thinh kỹ hơn. Đôi khi, đồng loại bên ngoài ầm ỹ chát chúa để khỏa lấp những vô tình chủ mưu. Khi đó, bên trong, giọng nói đã hụt hơi, rời rã: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người sắp chết”! Nhiều nhà văn triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất hay dạy triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất của chúng ta, hằng đề cập tới tiếng thét của cô đơn. Ở đâu chúng ta nghe rõ tiếng thét của cô đơn? Ở chấp vá, vay mượn tư tưởng của các triết gia thế giới rồi nhập nhằng nhận là sáng tạo của mình? Hoặc ở sự tưởng tượng sau cuộc vui chóng tàn? Hoặc ở cung cách làm dáng tư tưởng trong văn chương? Riêng tôi, tôi thấy tiếng thét của cô đơn ở những buổi trưa, những ban đêm tù ngục; tiếng thét của cô đơn ở ngay quê hương tôi, ở nơi tôi sinh ra, khôn lớn, đau khổ, chịu đựng và hy vọng. Nếu sự chịu đựng đau khổ để tạo dựng ngày mai hạnh phúc thì, tôi khẳng định rằng, ngày mai hạnh phúc của dân tộc tôi phải do người quê hương tôi tạo dựng ngay trên quê hương tôi. Hạnh phúc của dân tộc tôi không bao giờ ở Mỹ châu, Âu châu hay Úc châu, không bao giờ là những đồng đô-la lạc quyên mập mờ, không bao giờ là những chiến khu thuê rừng đất khách, không bao giờ là vo ve của bọn nhặng đấu thầu nỗi khổ, rao bán nghẹn ngào của dân tộc. Trước hết và sau hết, bọn giả vờ yêu nước chưa đủ kiến thức nghe và hiểu nỗi cô đơn của dân tộc họ. Cả Cộng sản lẫn quốc gia. Bổn phận của nhà văn là lay động cái bóng tối u mê phủ kín những tham vọng đê tiện làm què quặt dân tộc, làm u ám quê hương. Người ta đã khước từ cái sứ mạng cầm bút đó. Rốt cuộc, mặt trận mà Cộng sản sợ hãi nhất là Mặt trận Văn hoá thì hoàn toàn im lặng, thụ động. Thụ động buồn tênh trong cái thế tư tưởng quốc gia đối kháng tư tưởng mác xít, chủ nghĩa nhân bản đối kháng chủ nghĩa phi nhân. Đôi khi, tôi rất tội nghiệp tôi. Trải dài đời mình chịu đựng mọi oan khiên, nhục nhã để cống hiến đời sống, ít ra, những trang sách về tù ngục Cộng sản chính xác nhất, chẳng những vô tích sự mà còn bị căng thây lãnh hàng trăm mũi tên bẩn. Tôi dứt khoát tuyên bố, sau khi ký tên hoàn tất hồi ký Nhà tù và Trại tập trung, tác phẩm của tôi sẽ không còn hai tiếng Cộng sản nữa. Tôi không chống Cộng nữa. Tôi noi gương các tiên chỉ, lý tưởng văn nghệ hải ngoại, cúi gầm mặt trước bạo lực, thản nhiên trước những rên siết, quằn quại của tổ quốc, dân tộc, nói chuyện tình yêu, viết chuyện ăn uống. Để được tiếng đứng đắn, không công kích ai. Để được lòng cả quốc gia lẫn Cộng sản. Để được cả Cộng sản và quốc gia khen ngợi. Và được cả những đứa bần tiện nhất trên đời ngưỡng mộ. Tôi đã chọn lựa một thái độ. Tôi không ngu đi chống Cộng một mình, nhịn đói chống Cộng. Để bị quốc gia bêu nhục. Để bị Cộng sản nguyền rủa. Có lẽ, tôi nên trở về Chí Hòa của tôi.
Kẻng trưa báo thức: Dậy, chờ nước sôi. Phải nói nước đun sôi. Tôi chưa thấy nước sôi ở Chí Hòa bốc khói khi gánh lên phòng. Sinh hoạt phòng giam ồn ào. Lại cờ tướng, đô-mi-nô ăn đấm lưng, hút thuốc lào vặt, tán gẫu và ngồi thẫn thờ nhớ vợ, thương con. Láng giềng của tôi, phòng bên trái là tù hình sự, có Nguyễn Đăng Viên, anh ruột của nhà văn Mai Thảo; phòng bên phải là tù phản động gồm toàn con cháu các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ đi tắm ngang qua phòng nhau, chúng tôi nhận ra nhau dễ dàng. Người ta bảo các ông Ngô Khắc Tinh, Hồ Văn Âm bị giam ở Chí Hòa. Tôi chưa gặp mặt họ. Tôi ước ao chuyển phòng khắp 4 khu Chí Hòa. BC là khu tôi thích đến, vì trong truyện ngắn Ánh lửa đêm tù tôi đã tả một phòng giam BC do Nguyễn Thụy Long kể. Có một sự kiện buồn cười giữa Nguyễn Thụy Long và tôi. Tác giả Loan mắt nhung mới là du đãng thứ thiệt, tay giang hồ hạng nặng, từng nằm quân lao Gò Vấp, khám Chí Hòa. Nguyễn Thụy Long khoái tôi, ưa tâm sự với tôi về cuộc đời ngang dọc của anh. Long thật hiền. Anh em tặng biệt danh Trâu Nước Quách Tỉnh. Mê quãng ngày hành hiệp của Long, tôi viết Điệu ru nước mắt. Thấy tiểu thuyết du đãng thành công, Nguyễn Thụy Long bèn sáng tác Loan mắt nhung. Rồi hàng loạt tiểu thuyết bụi đời. Được nhờ giới thiệu Loan mắt nhung sau bìa sách, tôi đã cho Trần Đại lu mờ trong vùng trời giang hồ. Đến khi Nguyễn Đình Thiều viết loại truyện này, tôi để một Nguyễn Thụy Long tung hoành, khai thác đề tài mới. Tôi thích đến khu BC, bởi vậy. Nhân vật Quân của Ánh lửa đêm tù là hình ảnh Nguyễn Thụy Long.
Kỷ luật ở Chí Hòa “sắt thép” hơn đề lao Gia Định. Qua đây, kể như hồ sơ của chúng tôi đã khép lại, hết còn bị hành hạ tự khai. Thay vào sự hành hạ tinh thần, Chí Hòa khủng bố tinh thần, đày đọa thể xác và thường xuyên đe dọa tù nhân bằng những quyết định tự chế của từng cai ngục. Tư Long, tôi nhắc lại, là tên Cộng sản nằm vùng, bán vé và xếp chuyến xe đò Minh Trung lộ trình Saigon – Đà Lạt. Sau 30-4-75, hắn đeo quân hàm đại úy công an, nắm chức vụ Trưởng trại đề lao Gia Định. Bây giờ, Tư Long bị hạ tầng công tác, xuống chức Trưởng khu FG. Chắc chắn, vì lờ đờ bị hạ tầng công tác nên Tư Long đã hung hăng ở Chí Hòa. Cai ngục và đám trật tự thuộc hạ cai ngục đều hắc ám và thường xuyên rình mò phòng tôi. Có điều lạ là qua Chí Hòa, chúng tôi ăn cơm hai bữa với canh bắp cải hầm xương heo. Ăn no nê. Đằng Giao giải thích: Bếp do sĩ quan cảnh sát khu ED phụ trách và Bộ Nội Vụ cung cấp thực phẩm. Nhưng tuần trăng mật cơm canh chẳng kéo dài, Sở Công An tiếp thu bếp, tù nhân phải ăn cơm với bí rợ nấu muối. Và đội cấp dưỡng gồm lũ công an can tội hiếp dâm, ăn cướp… Ở Chí Hòa, người ta không phát chén, ca, muỗng, chiếu. Các “con bà phước” phải xin những cái bình nhựa đựng nước tương, nước mắm của tù nhân thừa bình, cắt bỏ phần trên, lấy phần dưới đựng canh. Cơm thì chia vào túi ny-lông. Bốc cơm, húp canh. Chúng tôi cắt bị cói may chiếu. Đặng Hải Sơn và Mai Đức Khôi đã trở thành tay thợ may tài tình. Mép chiếu viền vải đàng hoàng. Nhét tiền vào viền vải, chắc ăn nhất, cai ngục đâu ngờ mà lục xét.
Vài hàng về Mai Đức Khôi, hỗn danh Độc thủ phản động. Khôi, sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, chiến đấu cụt một cánh tay, chủ trương một hãng thông tấn tư. Can tội phản động. Dáng dấp thư sinh, bướng vô tả, ăn thua đủ với cai ngục nhưng nhường nhịn bạn bè, nhất là những người ít tuổi. Chỉ một tay thôi, Độc thủ phản động có thể cắt quần xà-lỏn, sửa sơ-mi bằng dao nắp lon sữa bò mài sắc và kim giây đồng do Nguyễn Công Kha chế tạo. Tất cả ba-lô may bằng túi đựng phân bón và chiếu may bằng bị cói phá ra của phòng đều đo Khôi cụt và Đặng Hải Sơn đảm trách. Thoạt đầu, “con bà phước” nằm sàn xi-măng. Qua vài kỳ thăm nuôi, ai cũng có chiếu made by Khôi cụt.
Đoàn Kế Tường đã ra cachot. Tường nói:
- Gần Tết rồi, nhớ anh em quá, đành làm kiểm điểm nhận lỗi và hứa không tái phạm. Với lại cachot Chí Hoà châm quá, không chịu đựng thêm nổi. Em đã cố gồng thử sức, rốt cục xìu.
Có Đoàn Kế Tường, không khí phòng sinh động hẳn. Tường, dân Quảng Trị, giọng nói nặng nề khó nghe mà ham nói nhiều, nói lớn. Tính nóng nẩy, ưa dính vào chuyện bất bình của kẻ khác, không nể nang chi già trẻ, nếu già trẻ sai trái. Bản chất tốt nhưng đầy mặc cảm xuất thân bần hàn. Nằm cachot FG ngót bốn tuần, có lẽ, Đoàn Kế Tường đã truy nã kỹ lưỡng thân phận mình nên dáng điệu buồn bã, mệt mỏi. Tự nhiên, trong những tâm sự riêng tư, Tường bầy tỏ sự thù hận Uyên Thao và khai hết mọi lầm lẫn thuở cộng tác với nhật báo Sóng Thần. Tường hối hận đã gián tiếp dính vào vụ ám sát Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm Đông Phương. Có cuộc trần tình giữa Đoàn Kế Tường với Đằng Giao về chuyện hất Chu Tử khỏi Sóng Thần. Hoàng Mạnh Hùng và tôi ngồi nghe. Nội bộ Sóng Thần được mổ xẻ ở nhà tù Chí Hòa. Tôi đâm ra ớn. May mà tôi đã giã từ làng báo từ năm 1970. Và tôi không ngạc nhiên khi hay tin ký giả Đạm Phong bị bắn chết ở Hoa Kỳ.
- Nó cho cậu viết thư chưa?
- Rồi, ngay sau ký tên dưới bản kiểm điểm. Nó hứa đưa thư đến tận nhà.
- Nhà ai?
- Chị em.
- Còn vợ con?
- Thôi, các anh ạ, quên chuyên ấy đi.
Tôi thấy Đoàn Kế Tường rơm rớm nước mắt. Tường kể trận đòn hội chợ, kể những ngày cachot thê lương, kể những lần đối thoại trong bóng tối với cha Nghị, với Ali Hùng và với một nữ tù nhân. Cuộc đời Đoàn Kế Tường là một cuốn tiểu thuyết đầy tình tiết lâm ly. Thông minh, có chí song gặp đàn anh tồi. Rồi cứ nằm gọn trong móng vuốt của đàn anh phù thủy và làm âm binh mê muội đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Từ nhập thế, Đoàn Kế Tường chỉ có một lần làm đúng và làm theo ý mình. Là chống Cộng sản tự nguyện. Sau 30-4-1975, Tường thất chí, bỏ bê vợ con, sống lang thang ở các vỉa hè với chiếc xích lô đứng tên mình. Đạp xích lô để đủ tiền hút Lucky! Chán nghề đạp xích lô, Tường bán xe, tậu chiếc ba gác. Chán đạp xe ba gác,Tường tìm Dương Đức Dũng kiếm đường vào mật khu. Không có mật khu, hai chàng thành lập một tổ chức phản động, kết nạp toàn sinh viên, học sinh. Họ mời cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Tài chính do nhà quảng cáo Thái Sơn và Phó giám đốc khách sạn Palace bảo trợ. Hai chàng tuổi trẻ đều là ký giả nên hăng say xuất bản báo lậu. Bất hạnh cho cả hai và tổ chức là tên công an Đỗ Hữu Cảnh (luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng, nằm vùng) lọt vào tổ chức. Tất cả dính lưới Mai Chí Thọ. Muốn diệt trọn ổ, Mai Chí Thọ dùng Đoàn Kế Tường làm cò mồi. Những ngày đầu vừa bị bắt, công an ngụy trang thường dân dẫn Tường tới Caféterie Palace, bảo Tường ngồi riêng một bàn. Bất cứ ai quen biết Tường, sà lại chào hỏi Tường là bị nhúm. Phó giám đốc khách sạn Palace bị nhúm tại đây.
- Em ngồi đọc kinh thầm cầu nguyện đừng có ai quen biết vô đây. Em đã gặp anh Hoàng Anh Tuấn dắt xe đạp xì bánh ngang qua, em chỉ sợ anh ấy ngó thấy em.
Đoàn Kế Tường bị bắt cuối năm 1975.
- Anh ạ, cái màn này đã làm em choáng váng. Khối người kết tội em chỉ điểm bắt “đồng chí”.
Chuyện này, cả Tường lẫn Dũng và Thái Sơn đã kể cho tôi nghe ở đề lao Gia Định. Tôi càng yêu mến người bạn tuổi nhỏ của tôi. Trong Bầy sư tử lãng mạn, tôi có viết về Tường và Dũng để tỏ lòng ngưỡng mộ. Chúng tôi lại gặp nhau ở Chí Hòa. Dũng ăn đòn toét môi, nằm cachot FG một đêm. Tường ăn đòn oằn thân thể, nằm cachot FG ngót nghét một tháng. Sẽ chẳng có một dòng chữ nào viết về Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng và sư tử lãng mạn chống Cộng sản cô đơn và tuyệt vời ngay trên đất quê hương. Người ta đã truy điệu, đã suy tôn những liệt sĩ tưởng tượng hy sinh trong những cuộc chiến đấu chiêm bao. Nhưng mà đó không phải là chuyện của tôi. Chuyện của tôi chỉ là những anh em đang thoi thóp ở các miền tù ngục quê mẹ ngàn đời đòi đoạn.
--------------------------------
1 Hiện đã có mặt tại Huê Kỳ.
2 Hiện đã có mặt tại Pháp.
Chương trướcMục lụcChương sau
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 23
Trước Tết năm 1978 ba ngày, chúng tôi nhận được quà thăm nuôi của gia đình. Trừ các tù nhân “con bà phước”, thư từ của chúng tôi đã về tận nhà. Mỗi khu một ngày thăm nuôi. Không khí Chí Hòa rộn ràng những ngày cuối năm. Sự nhận quà ở Chí Hòa khác hẳn đề lao Gia Định. Có vẻ… dân chủ một tí. Tù nhân được gọi xuống phòng thăm nuôi nhận những túi bị đề tên mình. Trật tự viên khám đồ, không cần sự giám sát của cai ngục. Giả vờ vất hai gói thuốc lá xa túi quà của mình thì sự kiểm soát dính theo trạng từ qualoarement. Quên giả vờ hay tiếc của thì sự kiểm soát tỉ mỉ và bị hạch hỏi lung tung. Cái màn đổ thịt kho ra thau, dùng đũa khoắng tứ tung không có ở Chí Hòa. Được cái dễ này, mất cái dễ kia. Ở đề lao Gia Định, quà cáp vào, tù nhân loay hoay rỡ ra bỏ vào bị vào keo. Bánh kẹo, đường thẻ, mì vụn, sữa bột ưu tiên cất trước. Rồi mới đến nước mắm, mỡ phi hành, xì dầu, thịt kho, tôm kho… Những món cần tiêu thụ ngay như bánh cuốn, bún chả, phở xào để riêng ra. Thời gian dành cho dịch vụ “thăm nuôi” mất cả tiếng. Sau đó, mồ hôi toát đầm đìa, mỡ màng nhớp nhúa đầy tay. Làm một phát tắm gội thoải mái rồi enjoy là nhất. Ở Chí Hòa, chỉ có một ca nước rửa tay. Thưởng thức quà cáp của vợ con cũng kém phần hứng thú. Chẳng ai đặt ra, nhưng đã thành lệ: Tù có thăm nuôi mời “con bà phước” chung vui một bữa đầu tháng. Ở Chí Hòa đông anh em quen biết còn vui hơn. Ta chơi góp quà ăn liền enjoy tập thể. Đủ các thứ, đủ các món. Tết Chí Hòa, chúng tôi có dưa hấu, bánh chưng, giò chả… Tư Long cho phép “liên hoan” ba ngày Tết, tính từ đêm 30. Trong ba ngày này, miễn điểm đanh, miễn báo cáo và miễn… tắm. Lợi dụng “liên hoan”, chúng tôi xào mì, xào hủ tíu, nấu chè bột xả láng.
Đêm 30 Chí Hòa năm 1978 là đêm rộn rã nhất trong đời tù của tôi. Phòng bên phải loan tin:
- Đàn anh đón nghe nhé, chúng em ca nhạc trắng đêm.
- Đêm không ngủ hả?
- Dạ. Đêm chờ quân ta về.
- Có sân khấu không?
- Nhạc cụ, trống phách đàng hoàng.
Đoàn Kế Tường khoái lắm. Bản tính của Tường sống động. Tường đại diện phòng tôi liên hệ với phòng phản động trẻ.
- Đàn anh có thăm nuôi không?
- Có.
- Tưởng không có, đàn em thẩy sang.
- Thiếu cà-phê thôi.
- Cái đó chịu à. Này đàn anh, ô dưới các em gái hậu phương hứa hẹn hát chào mừng các anh trai tiền tuyến đấy.
Những phòng ô của FG dành riêng nhốt đàn bà, con gái và con nít có mẹ đi tù! Con nít theo mẹ đi tù, mẹ lại mang bầu và cha lao động cải tạo rừng già là một điểm sáng chói của chủ nghĩa Mác Lê bách chiến, bách thắng. Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, còn có người mẹ mang bầu dắt con vào tù về tội mua bán xăng nhớt của bộ đội nhân dân! Các nữ tù ở phòng ô được hưởng đặc ân, đặc lợi. Đặc lợi: hồ nước ngay trong phòng, nước tràn trề ngày đêm. Đặc ân: Hàng ngày ra dạo vườn hai tiếng, phơi quần áo, co quần áo. Nhiều em trẻ và mướt lắm, diện đáo để. Chúng tôi thường đứng sát tường, ngắm các em nhởn nhơ qua song sắt nhà tù. Khu FG là khu lẫy lừng, tù nhân phải lẫy lừng. Vậy đa số các em dưới ô FG, theo Đằng Giao, đều đã dính vào những vụ tán tỉnh yêu đương quý vị cán ngáo có Honda 90, Vespa Sprint dại gái, lùa quý vị này vào đường tình sử để bồ tèo lột Honda, Vespa và đôi khi, thủ tiêu luôn quý vị ấy. Đoàn Kế Tường nhiều sáng kiến. Tường chỉ chúng tôi từng em và đặt tên nhân vật nữ Kim Dung cho mỗi em.
Ngay chập tối, phòng phản động trẻ đã phóng tín hiệu xuống dưới ô:
- Trên văn nghệ trước, dưới văn nghệ sau nhé!
Dưới ô, một em trả lời.
- Ô-kê!
Các nhà tư sản mại bản sợ văn nghệ phiền phức, bèn đi ngủ sớm. Như thế, khỏi tham gia văn nghệ và có lý do chính đáng “làm việc” với cai ngục, nếu bị gọi ra.
- Đàn anh!
Đoàn Kế Tường đáp.
- Rõ.
- Tụi em chơi bạo đấy. “Thà một phút huy hoàng rồi sụp tối”…
- Chơi đi.
- Chơi chứ. Đàn anh yên chí, tụi em vừa tuyên thệ sống chết có nhau, trung thành với tổ quốc. Chỉ FG chơi thôi. Các khu khác vượt biên, hình sự lem nhem, bộ đội đào ngũ sẽ vểnh tai nghe.
- Bạo lắm.
Chúng tôi chờ đợi vài phút. Bỗng trỗi dậy một tiếng hô dõng dạc mà tôi nghĩ toàn thể tù nhân Chí Hòa đều nghe rõ.
- Nghiêm! Quốc kỳ chào!
Tôi vốn chán cái trò “chào cờ, mặc niệm, suy tôn tổng thống” từ ngày khôn lớn. Mười tuổi, tôi say mê chào cờ đỏ sao vàng, suy tôn Hồ Chủ Tịch. Vào đời, sự say mê nguội lạnh nhưng bị cưỡng bức chào cờ vàng ba sọc đỏ, suy tôn Ngô tổng thống ở ngoài đường, trong rạp xi-nê. Thì đành đứng nghiêm mà lòng ấm ức. Một lần, chỉ một lần thôi, tôi rưng rưng nước mắt thấy lá cờ quốc gia quen thuộc không còn nữa vào buổi sáng 1-5-1975. Tôi xuống phố. "Tôi đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ". Mưa rơi ngập mắt tôi. Bây giờ, nghe bạn tuổi nhỏ hô “nghiêm”, tự nhiên, tôi đứng nghiêm, lòng chứa chan hoài cảm và hồn phất phơ lá cờ tổ quốc. Cả phòng tôi đứng nghiêm, trừ những nhà tư sản mại bản và mấy tên bộ đội đào ngũ. Chúng tôi hướng mắt sang phòng bên cạnh, hình tưởng quốc kỳ, bàn thờ tổ quốc hương trầm nghi ngút. Bản quốc ca vang lên, hùng tráng. Bản quốc ca vang lên từ nhà tù Chí Hòa. Lâu đài âm thanh muốn rạn gẫy song sắt, xiềng gông. Chúng tôi hát theo. Rồi các khu khác hát theo. Cai ngục không có phản ứng. Họ cố tình “thả giàn” ba ngày Tết. Và họ sẽ bất lực đàn áp cả nhà tù. Sự nguội lạnh và rửng rưng chào cờ của tôi được hâm nóng và tha thiết đêm trừ tịch năm ấy. Từ đó, cờ tổ quốc trong tim tôi. Một đời chỉ cần chào cờ một lần thật xúc động. Tôi đã chào cờ một lần. Tôi ước ao được chào cờ thêm lần nữa, trên quê hương tôi. Ngoài ra, tôi sẽ khước từ chào cờ ở bất cứ nơi nào. Nó phù phiếm, giả tạo và chẳng cưu mang một ý nghĩa nào. Anh sẽ phản đối tôi, dĩ nhiên. Vì anh chưa hề hưởng hạnh phúc chào cờ, hát quốc ca trong khám Chí Hòa. Nếu anh có hạnh phúc ấy, anh sẽ phải suy nghĩ lại lòng yêu nước của anh. Người đau khổ sẵn sàng tin nghe người sung sướng. Nhưng người sung sướng khó mà tin nghe người đau khổ. Do đó, giữa anh và tôi đã có một biên giới, một đoạn tuyệt về ý niệm đời sống.
- Chú ý, phút mặc niệm các chiến sĩ hy sinh vì tổ quốc, các chiến sĩ bị Cộng sản sát hại bắt đầu…
Điệu sáo ai oán não nùng của Tiêu Sử phản động vụt bay khỏi phòng giam, lãng đãng trong vùng trời Chí Hòa. Im lặng tuyệt đối. Tiếng sáo buồn “mặc niệm” đã khiến chúng tôi rơm rớm lệ. Anh đã hiểu tại sao những tiểu thuyết của tôi sáng tác ở Pháp chỉ nhằm mục đích vinh tôn tuổi trẻ chiến đấu ở quê nhà. Bởi rằng tôi đã nhìn thấy họ chiến đấu, nhìn thấy họ sa cơ, nhìn thấy họ tin tưởng, nhìn thấy họ bất khuất. Tôi đã nhìn thấy họ can đảm cả trong lúc sa cơ thất thế. Nhân danh họ, nhân danh lòng son sắt và sự chịu đựng thống khổ của họ, tôi có quyền khinh bỉ những kẻ mộng du chiến đấu, những kẻ giả hình chiến đấu dẫn dắt những tâm hồn đích thực chiến đấu vào chiêm bao. Tiếng sáo ngừng lại. Phút mặc niệm chấm dứt. Không có suy tôn lãnh tụ. Lãnh tụ nào đáng suy tôn? Lãnh tụ đáng suy tôn là tuổi trẻ Việt Nam anh dũng, là sư tử lãng mạn của dân tộc. Họ vừa mới làm lễ chào cờ, mặc niệm. Họ vừa mới hát quốc ca trong tù. Họ thách đố bạo lực và quyền uy Cộng sản.
- Bây giờ sang phần văn nghệ, đàn anh ạ!
- Vẫn lắng tai nghe đây.
- Mở đầu chương trình, DzũngThị Nghè trình bày ca khúc Vết thù trên lưng ngựa hoang của Phạm Duy tặng anh Duyên Anh.
Dzũng Thị Nghè chắc phải mê Dzũng Đakao lắm. Chú nào đó đã mánh mung dấu được cây Harmonica nhỏ. Chú thổi nhạc dạo. Sáo hòa theo. Giọng hát Dzũng Thị Nghè đầm ấm. Giàn trống là mấy cái xô nhựa và thau nhôm. Tôi thấy “văn nghệ khám” sáng giá quá. Tôi rất cảm động được hát tặng bài hát mở đầu, bài hát Phạm Duy lấy ý một đoạn trong Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang làm lời. Tôi không ngờ, lưu lạc bất cứ một trại giam nào, một phòng tù nào cũng gặp khá đông độc giả của mình. Mà độc giả tuổi trẻ yêu mến tôi nhất. Họ đến với tôi, an ủi tôi, giúp đỡ tôi, săn sóc tôi. Và đó chính là tai họa. Tai họa tới từ hai phía 1. Tôi chăm chú nghe Dzũng Thị Nghè. Bài hát dứt, chúng tôi vỗ tay. Phòng phản động trẻ vỗ tay quyết liệt. Dưới ô, các em gái “bis bis” loạn xì ngầu. Tiếng hát Dzũng Thị Nghè, tiếng hát của tuổi trẻ hiên ngang như tiếng nhạc Thạch Sanh. Tiếng hát xuyên qua tường xi-măng cốt sắt, luồn qua trần phòng, sàn phòng, lách ngang chấn song tù, lan tỏa khắp không gian. Tiếng hát tin tưởng một niềm vui lệch đất, nghiêng trời.
- Sau đây Hiền lừa hát tặng anh Đoàn Kế Tường và các anh bản Ra khơi của Phạm Duy.
Hiền lừa hẳn đá bóng ngang cơ Bồn lừa. Chú nhỏ hát thật tốt. Đến đoạn cuối, hợp ca bốn bè. Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng cảm khái hát theo. Văn nghệ do phòng phản động trẻ đảm trách kéo dài khoảng hai tiếng đồng hò thì được kết thúc bằng bài Quê em của Nguyễn Đức Toàn. Cả phòng hát. Khi tới câu: “Bao là gươm, bao là súng, dựng lưỡi lê lên đi lấy lại làng xưa. Bao lòng dân, bao chờ mong, quân ta sẽ về, quân ta sắp về”.., các bạn trẻ reo hò:
- Quân ta sắp về rồi!
- Quân ta về giải phóng Saigon tới nơi rồi…
- Quân ta phải về, anh em vững niềm tin.
Vỗ tay tưng bừng. Cứ như pháo mừng thắng trận. Bỗng nhiên, bên phòng hình sự rầm rầm la lối. Đoàn Kế Tường hỏi vọng sang:
- Chuyện gì thế?
- À, có thằng khốn nó hát “quân ta đếch về”, tụi này sửa nó cho bõ ghét.
- Thôi bỏ qua đi, nó cũng mong quân ta về nhưng quân ta chưa về, nó nản nó than “quân ta đếch về” đấy.
- Ô-kê, nghe anh.
Bây giờ, các em tù nữ chơi văn nghệ. Các em hát toàn nhạc sến. Vậy mà nghe cũng thấm thía. Lâu lâu nghe nhạc sến triết lý “hai với hai là bốn, thực tế thế mà khôn” hay “con Thúy con Hồng nhìn em khẽ nói, Tao biết rồi mày đang đón người yêu”… thú vị ra phết. Tôi chỉ đủ can đảm lắng tai nghe hai ca khúc sến. Bèn đi nằm. Văn nghệ dưới ô thiếu hấp dẫn nên nó tàn mau. Nửa khuya, có lẽ cảm khái văn nghệ phòng tập thể, một giọng hát tuyệt vời từ cachot bung ra. Ali Hùng. Đích thị người nhái Ali Hùng. Chàng diễn tả ca khúc Tôi ru em ngủ của Trịnh Công Sơn. Chúng tôi đang nằm, ngồi hết dậy nghe người tử tù gửi một thông điệp cuối cùng cho đời sống. Đã nhiều đêm, ở đề lao Gia Định tôi nghe tiếng sáo gió của Ali Hùng. Đêm nay, tôi nghe chàng hát. Cachot FG Chí Hòa xoáy mòn thân phận của tử tù trước ngày nó trở về cát bụi. Tôi chưa thấy, ở một chế độ nào, tù nhân bị tuyên án xử tử và Chủ tịch Nhà Nước khước từ sự khoan hồng mà vẫn phải kéo dài tháng ngày đợi chết trong quan tài xi-măng. Đúng vậy, cachot FG Chí Hòa là thứ quan tài xi-măng. Tôi đã biết những cachots FG xây sát cầu thang mỗi lần xuống sân tắm. Tận mắt, tôi nhìn nước ở sàn cachot rỉ ra nhễu giọt liên tục. Thì tôi đoán nổi sự ẩm ướt thường xuyên. Không có ánh sáng vào cachot FG.
Người ta đã kiểm soát được ánh sáng. Có lẽ, khoa học kỹ thuật Cộng sản đang nghiên cứu phương pháp kiểm soát không khí. Và Nội quy của nhà tù Cộng sản sẽ có điều cấm tù nhân thở tự do.
Một chút về cachot FG Chí Hòa: Chiều dài của cachot 1 thước 50 phân. Chiều ngang, 70 phân. Chiều cao, 1 thước 80 phân. Tường bê-tông cốt sắt. Cửa sắt dày, ba ổ khoá. Một ô cửa nhỏ giữa cửa lớn đúng tầm mắt tù nhân đứng để cho cai ngục rọi đèn vô xem tù nhân còn sống hay đã chết và để đưa cơm nước cho tù nhân. Cachot FG Chí Hòa trên lầu chót, hai dẫy đối diện, cách nhau một hành lang hẹp không đèn, dù đèn vàng hiu hắt. Do đó, cachot ngàn năm tối tăm. Dưỡng khí lùa vào hành lang. Tù nhân hít thở qua 6 cửa nhỏ, gọi là “cửa gió”. Bên trong cachot có cái xô. Tù nhân tiểu tiện, đại tiện vô đó. Không có giấy chùi đít. Tù nhân sẽ noi gương súc vật nếu không muốn xé quần áo làm giẻ chùi hay nếu không muốn nhịn uống dùng nước rửa đít. Mỗi ngày, tù nhân được phát hai ca nước đun sôi. Không có chiếu. Tù nhân nằm, ngồi trên sàn xi-măng đã đóng lớp phân tiểu khô quánh của các tù nhân bị nhốt ở cachot qua nhiều chế độ. Con người đã được chủ nghĩa Cộng sản ưu việt bảo vệ với đầy đủ phẩm cách làm người. Nó hít thở nhiều uế khí, nhiều thán khí và rất ít dưỡng khí. Nó chỉ được mặc một bộ quần áo. Hàng tuần, chủ nghĩa ưu ái cho nó đi tắm một lần. Nó xách xô phân tiểu theo. Trước hết, nó đổ phân tiểu xuống cống, rửa sạch xô. Rồi nó tắm gội, giặt quần áo. Chủ nghĩa giám sát nó trần truồng tắm gội. Vì chủ nghĩa quản lý con người. Không tìm ra sự trắc ẩn trong danh từ quản lý nên chủ nghĩa mặc kệ sự ghẻ lở của con người tắm thiếu xà phòng. Con người tắm xong, giặt quần áo xong, vắt khô quần áo rồi mặc và xách xô lên cachot đợi lần tắm giặt, đổ phân tiểu kế tiếp. Nó sẽ phơi quần áo trên giây thân thể trong bóng tối mịt mù cho đến khi khô. Ấy đó, cachot FG Chí Hòa, nơi các tử tù Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đã sống chờ chết, nơi Đoàn Kế Tường đã sống và đã phát biểu: “Với cachot FG, mọi thứ cachot trên đời đều vô nghĩa”, nơi báo chí Mỹ không bao giờ sủa ăng ẳng đòi “cải thiện chế độ lao tù”. Có cơ may nào dẫn họ vào cachot FG Chí Hòa? Những kẻ từng gang họng lên án “Chuồng Cọp Côn Sơn" sẽ xấu hổ lắm khi họ được phép “tham quan” – tham quan thôi – một cachot thứ yếu của khu FG khám Chí Hòa dưới chế độ quang vinh Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lê Thanh Minh, đại úy trốn trình diện học tập, người đã từng coi tù Cộng sản ở Côn Sơn, nói với tôi hồi chúng tôi sống ở phòng 6C-1 đề lao Gia Định: “Chuồng cọp thấm mẹ gì! Nó chỉ là thứ cũi sắt nhốt những thằng vi phạm kỷ luật, những thằng sách động tù nhân. Nó rực rỡ ánh sáng và tràn đầy dưỡng khí”. Đại úy Lê Thanh Minh mới chỉ so sánh Chuồng Cọp với cachot khu A đề lao Gia Định mà anh đã bị nhốt. Trên tất cả những điều tôi muốn nói, tôi muốn hỏi báo chí Mỹ đã từng ủng ẳng đòi Việt Nam Cộng Hòa “cải thiện chế độ lao tù” là họ nghĩ gì về những tử tội phải kéo dài tháng ngày đợi chết ở cachot FG Chí Hòa. Có nên phất ngọn cờ Quyền Chết của con người bên cạnh Quyền Sống của con người? Và tôi cũng muốn hỏi qúy vị tự xưng mình là Đại Diện cho tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng ở Việt Nam, đòi hỏi Cộng sản – có vị còn hách dịch bắt Cộng sản Việt Nam – thả hết tù nhân ra khỏi các nhà tù, có vị nào đã nằm tù Cộng sản? Tôi biết đích xác những vị to mồm nhất đều là những vị đã phè phỡn, ít nhất, 20 năm ở ngoại quốc. Hôm nay, quý vị ấy đấu thầu tù nhân bằng nước bọt, quý vị ấy dùng tù nhân làm thang để leo lên sự nghiệp ái quốc, ái quần. Quý vị ấy tưởng tượng nỗi khổ của tù nhân, mở đồ hộp cho chó ăn mà liên tưởng cảnh đói của tù nhân quê hương. Nếu quý vị còn liêm sỉ nên câm họng lại. Bởi vì, có đến 99 phần 100 tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng, tù nhân của lương tâm đã, đang nằm trong các nhà tù Cộng sản Việt Nam, bị đày đọa quằn quại thì có, bị hành hạ khốn đốn thì có, nhưng rên siết thì không. Và, chắc chắn, ai cũng muốn phỉ nhổ vào mặt những kẻ đấu thầu nỗi khổ của mình. Tôi dám nói điều này: Tất cả những lên tiếng của bất cứ một cá nhân, một hội đoàn nào yêu cầu Cộng sản thả tù nhân đều vô tích sự và chỉ làm phiền tù nhân. Cái tích sự, nếu có – bắt buộc phải có, đi buôn cần kiếm lời – là ồn ào quảng cáo tên tuổi mình. Người Việt Nam quốc gia hải ngoại chỉ có mỗi cách can thiệp hữu hiệu nhất cho tù nhân là đầy đủ lực lượng quân sự giải phóng dân tộc, xóa bỏ mọi nhà tù, trại tập trung Cộng sản. Cách thứ hai, kém hữu hiệu, nhưng làm tăng sự can đảm để tù nhân sống mà hy vọng ngày được giải phóng là âm thầm vận động Amnesty international, âm thầm vận động các Tổ chức quốc tế có thế lực, âm thầm vận động với chính phủ các nước viện trợ nhân đạo cho Cộng sản Việt Nam để họ làm áp lực, để họ can thiệp cho tù nhân đỡ bị hành hạ điêu đứng và cho những tù nhân già cả, bệnh hoạn được tha. Cách thứ ba thiết thực nhưng khó thực hiện, là đóng góp tiền bạc, mua thuốc, gửi tiền tặng vợ con tù nhân để vợ con họ vững lòng nuôi chồng đợi ngày đoàn tụ gia đình. Cách này khó thực hiện vì sẽ chẳng vị đại diện nào chịu bỏ tiền mà quyên tiền thì tiền cứ muốn chạy vào túi riêng! Trên mọi địa hạt, hai kẻ đối nghịch không nhường nhau một bước. Cộng sản không thể bảo quốc gia đừng chống nó. Quốc gia không thể “ra lệnh” cho Cộng sản thả tù vô điều kiện. Tranh đấu là tốt, nhưng chớ quên lô-gích. Những kẻ thích đại diện hư ảo, thích nhân danh hư không (ai cho phép đại diện, ai cho phép nhân danh) thường giả vờ quên lô-gích, biết chuyện phù phiếm, vẫn rêu rao lấy danh. Nghĩ mà đau cho tù nhân. Họ chẳng biết cachot FG, chẳng được chào cờ, mặc niệm ở khám Chí Hòa, đã đành, họ còn chẳng biết 20 năm chiến tranh, dân tộc họ ra sao; họ ngậm miệng hôm qua, họ to mồm hôm nay và to mồm hơn cả tù nhân đã kinh qua ngục tù Cộng sản! Bọn đấu thầu nỗi khổ sao hiểu nổi cái hào sảng của tù nhân, hiểu sao nổi cung cách sống chờ chết mòn của tù nhân. Cái hào sảng của Ali Hùng, chẳng hạn, sống đợi chết, vẫn Tôi ru em ngủ.
Giọng Ali Hùng bồng bềnh lãng mạn, chan chứa cảm xúc. Hòa âm cho bản nhạc chàng hát là nỗi hiu quanh ngục tù. Nơi tiếng hát bay ra, cachot FG, như nơi tiếng đàn Thạch Sanh thoát lên. Đã cổ tích dưới hang lấp kín đá. Sẽ cổ tích Chí Hòa mai sau. Người ta sẽ kể cachot của Ali Hùng lớp phân dầy mấy phân, thấm nước mắt của tù nhân oan khiên, thấm máu của tù nhân tự sát, qua các triều đại, qua những cách mạng. Người ta sẽ ngợi ca đoạn kết cổ tích Chí Hòa y hệt đoạn kết cổ tích Thạch Sanh. Không có con người trả thù con người. Lý Thông trở về đời sống hèn mọn của nó. Con người Thạch Sanh không nỡ giết nó. Nhưng trời không tha nó, Trời bắt nó chết thảm. Những đứa gian ác sẽ hoá thành bọ hung hết. Thạch Sanh ở mãi với lòng người, ngự trị mãi hồn đời. Ali Hùng và những ai làm tốt, làm đẹp cho quê hương sẽ ở mãi lòng người, ngự trị mãi hồn đời. Chàng biết uống giọt sống cuối cùng, dám uống giọt sống cuối cùng. Những người tử tù kéo dài thời gian đợi chết ấy không cần ai đại diện họ xin kẻ thù họ cả. Bọn đại diện, bọn cai thầu tù ngục đã vấy nhơ lên sự thản nhiên sống chểt của họ. Ali Hùng đó, chàng đã làm xong bổn phận của chàng với dân tộc chàng. Chàng thơ thới đợi ngày về đất. Trước khi nhập cõi, cái chết gần kề, trong bóng tối mông lung của thời đại, Ali Hùng vẫn lên tiếng.
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa đông
Em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa thu
Em đi trong sương mù
Gọi cây lá vào mùa
Con đường thật buồn
Một ngày cuối đông
Con đường mịt mù
Một ngày cuối thu
Em vào mùa hạ
Nắng thắp trên cao
Và mùa xuân nào
Ngẩn ngơ tình mới
Đi nhẹ vào đời
Thầm thì gót chân
Em gọi nụ hồng
Vừa tàn cuối sân
Nghe tình chợt buồn
Trong lá xôn xao
Để mùa xuân sau
Mua riêng tình sầu
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa xuân
Em hôn một nụ hồng
Hỏi thăm về giọt nắng
Tôi ru em ngủ
Hạ cũng vừa sang
Em hôn lên tay mình
Để chua xót tình trần
Chàng kết thúc ca khúc chàng diễn tả bằng cái “fade out”: Em hôn lên tay mình, để chua xót tình trần… em hôn lên tay mình, để chua xót tình trần… Rồi bốn bề im lặng. Em hôn lên tay em và em chua xót cuộc đời, chua xót tình người. Còn anh không chua xót gì cả, anh không cần em đại diện anh xin kẻ thù của anh tha anh, em hiểu chưa? Chúng tôi ngồi hút thuốc rê, thuốc lào chờ Ali Hùng hát thêm bài mới hay thổi sáo gió. Thiên hạ đã ngủ hết. Và Ali Hùng cũng bặt tiếng. Tôi hiểu Ali Hùng đuối sức rồi. Cachot FG đã xử tử anh từng phút. Những phát súng găm thân thể anh, hôm nào đó, khi anh dựa lưng cột sân bắn, sẽ là những phát súng ân huệ. Người ta sẽ ban ân huệ chết cho anh ra sao, Ali Hùng? Trước hết, người ta bắt anh há rộng miệng, tống kín họng anh một trái chanh để anh hết đòi hỏi một ân huệ cuối cùng dành cho tử tù. Rồi, người ta bịt mắt anh. Không có linh mục rửa tội giùm anh đâu. Anh bị âm thầm dẫn đến một huyệt mộ đào sẵn. Chắc chắn, vào đêm khuya. Người ta kê súng vô thái dương anh, bóp cò. Anh rơi luôn xuống huyệt. Người ta lấp đất và san phẳng. Chẳng có bia mộ đâu. Những cái chết đích thực của anh hùng quốc gia, quốc gia chân chính, đừng hòng người quốc gia biết để làm lễ truy điệu, đừng hòng người quốc gia biết ngày chết để làm giỗ chạp. “Chinh phu tử sĩ mấy người, nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”. Ai đã gọi hồn Ali Hùng nhỉ?
Chúng tôi trải qua ba ngày Tết ở Chí Hòa. Theo… truyền thống nhà tù Cộng sản, ba ngày Tết tù nhân được ăn cơm với thịt. Cộng cả ba ngày, mỗi tù nhân hưởng một lạng thịt. Văn nghệ rộn ràng trọn ba ngày. Với tôi, văn nghệ chấm dứt sau bài ca của Ali Hùng. Sinh hoạt Chí Hoà trở lại bình thường. Tỷ phú Trần Thành đổi phòng và được giữ chức nuôi lợn. Hàng ngày, ông xách cái xô đến các phòng xin cơm thừa. Làm gì còn cơm thừa? Ông Tư Nhì có cái ghe đánh cá bên Chánh Hưng. Vì không chịu gia nhập Hợp tác xã, muốn làm ăn cá thể, ông bị vào tù và ghe của ông bị tiếp quản. Nhân vật Tư Nhì to con, cao lớn, bụng phệ như ông ve dầu Nhị Thiên Đường, hàm răng vàng chóe, vui tính, tốt dạ. Vì ông Tư Nhì khoẻ, phòng đề cử ông nhiệm vụ chia cơm. Chức quản lý nước đã giao lại cho Đoàn Kế Tường, lý do: Tường không ngủ trưa. Được một tuần yên lành sau Tết thì phòng phản động trẻ bị chuyển khu nguyên vẹn. Đó là phản ứng muộn màng của Chí Hòa đối với đêm văn nghệ trừ tịch. Lãnh đạo đã họp và quyết định phân tán mỏng phòng phản động trẻ. Sẽ khối chú vào cachot. Cai ngục Phách bắt đầu có thái độ với phòng của chúng tôi.
Một sáng điểm danh như thường lệ, Trưởng phòng Phạm Quang Khai mặc quần xà lỏn, áo sơ mi, đứng nghiêm:
- Báo cáo cán bộ, phòng 60 người, hiện diện đủ.
Chúng tôi ngồi xếp hàng 5, mỗi hàng 10 người. Mọi hôm, ông Khai báo cáo thế là xong. Nhưng cai ngục Phách dở chứng:
- Ai dạy anh báo cáo thế?
- Tôi vẫn báo cáo.
- Anh thuộc Nội quy không, đọc điều 1 xem nào!
Ông Khai quíu lưỡi. Chẳng có thằng tù nào thèm thuộc Nội quy cả, vì không thèm học.
- Anh phải học Nội quy, cả phòng phải học Nội quy Chí Hòa. Riêng anh, làm đến chức Trướng phòng thì nên biết cách báo cáo. Anh phải đọc sơ yếu lý lịch rồi mới báo cáo. Rõ chưa?
- Rõ.
- Báo cáo lại.
Ông Khai đứng nghiêm:
- Tôi, Phạm Quang Khai, sinh năm 19… tại..,, hộ khẩu thường trú số… đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, thành phố Hồ Chí Minh, can tội tư sản mại bản, bị bắt ngày… tháng… năm 1975, Trưởng phòng báo cáo cán bộ phòng có 60 can phạm, hiện diện đủ.
Cai ngục Phách, thằng oắt tì, gật gù:
- Được.
Buổi chiều, hắn tới đưa cho ông Khai 4 trang Nội quy đánh máy gồm 44 điều. Nội quy đề lao Gia Định có 11 điều thôi. Sáng hôm sau, vẫn cai ngục Phách điểm danh. Ông Khai báo cáo xong, hắn “giáo dục”:
- Anh Khai đọc Nội quy, cả phòng lắng nghe học thuộc. Tôi sẽ bắt đọc, anh nào không thuộc Nội quy sẽ bị cấm tắm, cấm nhận quà… Rõ chưa?
- Rõ.
Trưởng phòng Phạm Quang Khai đau khổ đọc 4 trang Nội quy và chúng tôi đau khổ ngồi bó gối nghe.
- Anh Khai!
- Dạ.
- Sao anh đọc như ăn cướp vậy, mắt liến la liến láu? Mai đọc thật chậm.
- Dạ.
Cai ngục Phách nhận chỉ thị hành phòng tôi. Phòng hình sự bên cạnh đâu phải đọc Nội quy. Nhờ tiết mục học thuộc Nội quy, Đoàn Kế Tường chế ra trò giải trí. Tường cầm Nội quy, phổ nhạc vào những điều khoản, thứ nhạc hát xong thì quên mình đã hát gì. Chúng tôi nghe Tường hát, ôm bụng cười. Tường bảo học kiểu này chóng thuộc. Trong cảnh khốn cùng, kẻ nào làm cho người khác cười vui, kẻ ấy là Bồ Tát. Đoàn Kế Tường đã là Bồ Tát. Giữa không khí sôi nổi học Nội quy, phòng chúng tôi tiếp nhận linh mục Nguyễn Văn Tự Do và anh Đình (tôi không nhớ rõ họ, hình như Võ Xuân Đình). Linh mục Nguyễn Văn Tự Do, tên căn cước là Nguyễn Văn Tự, người giảng Phúc Âm trên Đài Phát Thanh Saigon. Ông bị bắt về vụ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Vụ này hơi ly kỳ và được thần thoại hoá ở đề lao Gia Định năm 1977.
Tù nóng kể cho tù nguội 2: Đức Mẹ hiện ra ở nhà thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Thiên hạ hay tin, ào ào kéo về hành hương, cầu nguyện. Hoa dâng lễ ngập cả nhà thờ, Cộng sản không ngăn cấm nổi. Có một người tê liệt ngồi trên xe lăn, sai vợ con chở tới và đẩy xe vào nhà thờ cầu khẩn ân huệ. Anh ta đứng dậy, chạy nhẩy bình thường. Cộng sản sợ hãi, bắt anh ta đem đi đâu chẳng rõ. Đồng thời, một số linh mục cũng bị bắt, trong số đó có linh mục Nguyễn Văn Tự Do và linh mục Hoài Linh 3. Ngoài các linh mục còn thêm một nhân vật “kỳ bí” Hồ Ngọc Anh. Nhân vật này bị Cộng sản chọc mù mắt ở cachot, Đức Mẹ vẫn ban ân nhìn đời sống rõ như ban ngày, bị Cộng sản bỏ đói, Đức Mẹ vẫn nuôi nấng… Vân vân. Hồ Ngọc Anh nằm cachot khu A đề lao Gia Định. Tôi không tin. Gặp linh mục Nguyễn Văn Tự Do, ông không chịu giải thích. Nhưng ông thích bàn luận chuyện chính trị. Và ông bị kết tội phản động. Anh Đình nói là anh cộng tác với nhật báo Chính Luận, rất thân Đặng Văn Sung. Tổng số tù nhân phòng tôi nâng lên 62 người. Có linh mục Tự Do, các tù nhân Thiên Chúa giáo mừng ra mặt. Chúa đã gửi linh mục Tự Do đến phòng của chúng tôi.
Trưởng phòng Phạm Quang Khai bị đọc Nội quy hai tuần liền mệt đừ. Ông ta chưa thuộc hết và chúng tôi, mỗi người mới thuộc vài điều đề phòng bị cai ngục Phách truy bài. Hắn chưa truy bài “học tập’" thì bị đổi sang khu khác cùng với cai ngục Quỳnh. Cai ngục mới điểm đanh. Trưởng phòng Khai báo cáo kiểu cai ngục Phách, bị hạch hỏi:
- Sao anh râu ria thế?
Ông Khai ngẩn tò te:
- Tôi già rồi, được phép để râu.
- Râu ria là dài dòng chứ không phải râu của anh. Râu của anh ai thèm quan tâm. Báo cáo vắn tắt.
Vậy là ông Khai thoát nạn kể sơ yếu lý lịch đọc Nội quy 44 điều. Làm Trưởng phòng khổ vô cùng. Thế mà ông Khai khoái. Ông ôm luôn chức Thư ký phòng, ông chủ tọa các phiên họp cuối tuần rồi ông gò lưng tôm nắn nót biên bản. Dường như, những người đã có địa vị chức tước xã hội thì ở nơi chốn nào, hoàn cảnh nào vẫn thích chức tước, địa vị.
Hai hung thần Quỳnh, Phách cút, Đoàn Kế Tường hát cho cả phòng nghe bài Em đến nuôi anh một chiều mưa, nhạc Tô Vũ, lời Đoàn Kế Tường.
Em đến nuôi anh một chiều mưa
Em đến nuôi anh một chiều đông
Nuôi lần này ở ngay khám Chí Hòa
Em đến nuôi anh lầm than quá
Cầm cái phong bì
bước qua cổng khám
là đến phòng nuôi
Em đến nuôi anh trình xong giấy
Em đến nuôi anh bàn cu Phách
gần bên thằng Quỳnh
Mặt nhìn mặt hồi lâu Tư Long mới phán một câu
“Hiện thời còn đây
Ngày mai nuôi đâu
thư sẽ gửi sau
Nếu hên xuống Long Thành
Nếu xui tới Lao Bảo
Và xa hơn, ngoài Bắc
Nếu không gắng học tập
Sẽ chui ấp Hoả Lò
Cải tạo thêm mười năm
Chắc mai mốt anh về
Sẽ lê giống anh Quang què
hay là cuộc đời buồn như Ngao Song
như Nguyễn Mạnh Côn
Lòng nhủ thầm lần sau nuôi anh
một túi đầy hơn
Em ước mơ kỳ thăm nuôi tới
Em đến nuôi anh còn khu F
Và chưa chầu trời…
Quang què tức là đại úy nhẩy dù Quang (tôi không nhớ họ anh ta), ông Đô trưởng của 3C-1 mà tôi đã giới thiệu sơ sơ ở phần thứ hai Nhà tù, hiện đang sống chung phòng với chúng tôi. Sống chung với chúng tôi nên kể ông Phường trưởng Phạm văn Diện, bạn đồng nằm vùng của Vũ Hạnh. Nhờ nằm vùng, Diện được chỉ định làm Phường trưởng một Phường thuộc quận 3. Rồi bị kết án “mất phẩm chất cách mạng”. Và vô tù. Diện vẫn nuôi hy vọng cách mạng sẽ soi sáng nỗi oan cho mình. Anh ta có vẻ nguy hiểm nhưng nể nang Đoàn Kế Tường. Tường ngông nghênh, chấp hết, ăn nói mạnh bạo, phản động quyết liệt. Có tài nhại nhạc, nhại thơ. Đoàn Kế Tường đã nhại bài Đi chơi chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Rất tiếc, tôi nhớ có vài câu, xin ghi ra đây gọi là nhớ người bạn tù:
Hôm nay ngày thăm nuôi
Xe cộ chạy ngược xuôi
Tay em xách cái giỏ
Tay kia cầm gói xôi…
Được anh em tán thưởng Em đến nuôi anh một chiều mưa, Đoàn Kế Tường chế tạo thêm Kỷ vật cho em đưa tên các bô lão râu dài, bệnh tật của phòng vào lời:
Em hỏi anh
Em hỏi anh: Bao giờ trở lại
Xin trả lời đến Tết mới về.
Anh trở về thành cụ Ngao Song
hay ít ra cũng bằng cụ Hà Năng Đắc
Anh trở về già như cụ Lựu
Anh trở về tóc trắng Nguyễn Mạnh Côn
Anh trở về
Đem bệnh trĩ của Nguyễn Văn Trương
hay bệnh lao của Bùi Kim Bảng
Anh trở về
điếc lòi Phan Bá Thúc…
Cứ thế, ngày trôi nhanh. Nhờ Bồ Tát Đoàn Kế Tường. Tù đầy không hứa hẹn chi cả. Chúng tôi luôn luôn ở tư thế chuẩn bị đổi phòng, chuyển trại, luôn luôn nghĩ rằng tương lai nghẹn ngào hơn hiện tại.
--------------------------------
1 Sẽ viết rõ ở Trại tập trung.
2 Tù nóng: Tù vừa mới bị bắt. Tù nguội: Tù đã nằm đề lao lâu.
3 Cũng làm nhạc nhưng không phải nhạc sĩ Hoài Linh.
Trước Tết năm 1978 ba ngày, chúng tôi nhận được quà thăm nuôi của gia đình. Trừ các tù nhân “con bà phước”, thư từ của chúng tôi đã về tận nhà. Mỗi khu một ngày thăm nuôi. Không khí Chí Hòa rộn ràng những ngày cuối năm. Sự nhận quà ở Chí Hòa khác hẳn đề lao Gia Định. Có vẻ… dân chủ một tí. Tù nhân được gọi xuống phòng thăm nuôi nhận những túi bị đề tên mình. Trật tự viên khám đồ, không cần sự giám sát của cai ngục. Giả vờ vất hai gói thuốc lá xa túi quà của mình thì sự kiểm soát dính theo trạng từ qualoarement. Quên giả vờ hay tiếc của thì sự kiểm soát tỉ mỉ và bị hạch hỏi lung tung. Cái màn đổ thịt kho ra thau, dùng đũa khoắng tứ tung không có ở Chí Hòa. Được cái dễ này, mất cái dễ kia. Ở đề lao Gia Định, quà cáp vào, tù nhân loay hoay rỡ ra bỏ vào bị vào keo. Bánh kẹo, đường thẻ, mì vụn, sữa bột ưu tiên cất trước. Rồi mới đến nước mắm, mỡ phi hành, xì dầu, thịt kho, tôm kho… Những món cần tiêu thụ ngay như bánh cuốn, bún chả, phở xào để riêng ra. Thời gian dành cho dịch vụ “thăm nuôi” mất cả tiếng. Sau đó, mồ hôi toát đầm đìa, mỡ màng nhớp nhúa đầy tay. Làm một phát tắm gội thoải mái rồi enjoy là nhất. Ở Chí Hòa, chỉ có một ca nước rửa tay. Thưởng thức quà cáp của vợ con cũng kém phần hứng thú. Chẳng ai đặt ra, nhưng đã thành lệ: Tù có thăm nuôi mời “con bà phước” chung vui một bữa đầu tháng. Ở Chí Hòa đông anh em quen biết còn vui hơn. Ta chơi góp quà ăn liền enjoy tập thể. Đủ các thứ, đủ các món. Tết Chí Hòa, chúng tôi có dưa hấu, bánh chưng, giò chả… Tư Long cho phép “liên hoan” ba ngày Tết, tính từ đêm 30. Trong ba ngày này, miễn điểm đanh, miễn báo cáo và miễn… tắm. Lợi dụng “liên hoan”, chúng tôi xào mì, xào hủ tíu, nấu chè bột xả láng.
Đêm 30 Chí Hòa năm 1978 là đêm rộn rã nhất trong đời tù của tôi. Phòng bên phải loan tin:
- Đàn anh đón nghe nhé, chúng em ca nhạc trắng đêm.
- Đêm không ngủ hả?
- Dạ. Đêm chờ quân ta về.
- Có sân khấu không?
- Nhạc cụ, trống phách đàng hoàng.
Đoàn Kế Tường khoái lắm. Bản tính của Tường sống động. Tường đại diện phòng tôi liên hệ với phòng phản động trẻ.
- Đàn anh có thăm nuôi không?
- Có.
- Tưởng không có, đàn em thẩy sang.
- Thiếu cà-phê thôi.
- Cái đó chịu à. Này đàn anh, ô dưới các em gái hậu phương hứa hẹn hát chào mừng các anh trai tiền tuyến đấy.
Những phòng ô của FG dành riêng nhốt đàn bà, con gái và con nít có mẹ đi tù! Con nít theo mẹ đi tù, mẹ lại mang bầu và cha lao động cải tạo rừng già là một điểm sáng chói của chủ nghĩa Mác Lê bách chiến, bách thắng. Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, còn có người mẹ mang bầu dắt con vào tù về tội mua bán xăng nhớt của bộ đội nhân dân! Các nữ tù ở phòng ô được hưởng đặc ân, đặc lợi. Đặc lợi: hồ nước ngay trong phòng, nước tràn trề ngày đêm. Đặc ân: Hàng ngày ra dạo vườn hai tiếng, phơi quần áo, co quần áo. Nhiều em trẻ và mướt lắm, diện đáo để. Chúng tôi thường đứng sát tường, ngắm các em nhởn nhơ qua song sắt nhà tù. Khu FG là khu lẫy lừng, tù nhân phải lẫy lừng. Vậy đa số các em dưới ô FG, theo Đằng Giao, đều đã dính vào những vụ tán tỉnh yêu đương quý vị cán ngáo có Honda 90, Vespa Sprint dại gái, lùa quý vị này vào đường tình sử để bồ tèo lột Honda, Vespa và đôi khi, thủ tiêu luôn quý vị ấy. Đoàn Kế Tường nhiều sáng kiến. Tường chỉ chúng tôi từng em và đặt tên nhân vật nữ Kim Dung cho mỗi em.
Ngay chập tối, phòng phản động trẻ đã phóng tín hiệu xuống dưới ô:
- Trên văn nghệ trước, dưới văn nghệ sau nhé!
Dưới ô, một em trả lời.
- Ô-kê!
Các nhà tư sản mại bản sợ văn nghệ phiền phức, bèn đi ngủ sớm. Như thế, khỏi tham gia văn nghệ và có lý do chính đáng “làm việc” với cai ngục, nếu bị gọi ra.
- Đàn anh!
Đoàn Kế Tường đáp.
- Rõ.
- Tụi em chơi bạo đấy. “Thà một phút huy hoàng rồi sụp tối”…
- Chơi đi.
- Chơi chứ. Đàn anh yên chí, tụi em vừa tuyên thệ sống chết có nhau, trung thành với tổ quốc. Chỉ FG chơi thôi. Các khu khác vượt biên, hình sự lem nhem, bộ đội đào ngũ sẽ vểnh tai nghe.
- Bạo lắm.
Chúng tôi chờ đợi vài phút. Bỗng trỗi dậy một tiếng hô dõng dạc mà tôi nghĩ toàn thể tù nhân Chí Hòa đều nghe rõ.
- Nghiêm! Quốc kỳ chào!
Tôi vốn chán cái trò “chào cờ, mặc niệm, suy tôn tổng thống” từ ngày khôn lớn. Mười tuổi, tôi say mê chào cờ đỏ sao vàng, suy tôn Hồ Chủ Tịch. Vào đời, sự say mê nguội lạnh nhưng bị cưỡng bức chào cờ vàng ba sọc đỏ, suy tôn Ngô tổng thống ở ngoài đường, trong rạp xi-nê. Thì đành đứng nghiêm mà lòng ấm ức. Một lần, chỉ một lần thôi, tôi rưng rưng nước mắt thấy lá cờ quốc gia quen thuộc không còn nữa vào buổi sáng 1-5-1975. Tôi xuống phố. "Tôi đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ". Mưa rơi ngập mắt tôi. Bây giờ, nghe bạn tuổi nhỏ hô “nghiêm”, tự nhiên, tôi đứng nghiêm, lòng chứa chan hoài cảm và hồn phất phơ lá cờ tổ quốc. Cả phòng tôi đứng nghiêm, trừ những nhà tư sản mại bản và mấy tên bộ đội đào ngũ. Chúng tôi hướng mắt sang phòng bên cạnh, hình tưởng quốc kỳ, bàn thờ tổ quốc hương trầm nghi ngút. Bản quốc ca vang lên, hùng tráng. Bản quốc ca vang lên từ nhà tù Chí Hòa. Lâu đài âm thanh muốn rạn gẫy song sắt, xiềng gông. Chúng tôi hát theo. Rồi các khu khác hát theo. Cai ngục không có phản ứng. Họ cố tình “thả giàn” ba ngày Tết. Và họ sẽ bất lực đàn áp cả nhà tù. Sự nguội lạnh và rửng rưng chào cờ của tôi được hâm nóng và tha thiết đêm trừ tịch năm ấy. Từ đó, cờ tổ quốc trong tim tôi. Một đời chỉ cần chào cờ một lần thật xúc động. Tôi đã chào cờ một lần. Tôi ước ao được chào cờ thêm lần nữa, trên quê hương tôi. Ngoài ra, tôi sẽ khước từ chào cờ ở bất cứ nơi nào. Nó phù phiếm, giả tạo và chẳng cưu mang một ý nghĩa nào. Anh sẽ phản đối tôi, dĩ nhiên. Vì anh chưa hề hưởng hạnh phúc chào cờ, hát quốc ca trong khám Chí Hòa. Nếu anh có hạnh phúc ấy, anh sẽ phải suy nghĩ lại lòng yêu nước của anh. Người đau khổ sẵn sàng tin nghe người sung sướng. Nhưng người sung sướng khó mà tin nghe người đau khổ. Do đó, giữa anh và tôi đã có một biên giới, một đoạn tuyệt về ý niệm đời sống.
- Chú ý, phút mặc niệm các chiến sĩ hy sinh vì tổ quốc, các chiến sĩ bị Cộng sản sát hại bắt đầu…
Điệu sáo ai oán não nùng của Tiêu Sử phản động vụt bay khỏi phòng giam, lãng đãng trong vùng trời Chí Hòa. Im lặng tuyệt đối. Tiếng sáo buồn “mặc niệm” đã khiến chúng tôi rơm rớm lệ. Anh đã hiểu tại sao những tiểu thuyết của tôi sáng tác ở Pháp chỉ nhằm mục đích vinh tôn tuổi trẻ chiến đấu ở quê nhà. Bởi rằng tôi đã nhìn thấy họ chiến đấu, nhìn thấy họ sa cơ, nhìn thấy họ tin tưởng, nhìn thấy họ bất khuất. Tôi đã nhìn thấy họ can đảm cả trong lúc sa cơ thất thế. Nhân danh họ, nhân danh lòng son sắt và sự chịu đựng thống khổ của họ, tôi có quyền khinh bỉ những kẻ mộng du chiến đấu, những kẻ giả hình chiến đấu dẫn dắt những tâm hồn đích thực chiến đấu vào chiêm bao. Tiếng sáo ngừng lại. Phút mặc niệm chấm dứt. Không có suy tôn lãnh tụ. Lãnh tụ nào đáng suy tôn? Lãnh tụ đáng suy tôn là tuổi trẻ Việt Nam anh dũng, là sư tử lãng mạn của dân tộc. Họ vừa mới làm lễ chào cờ, mặc niệm. Họ vừa mới hát quốc ca trong tù. Họ thách đố bạo lực và quyền uy Cộng sản.
- Bây giờ sang phần văn nghệ, đàn anh ạ!
- Vẫn lắng tai nghe đây.
- Mở đầu chương trình, DzũngThị Nghè trình bày ca khúc Vết thù trên lưng ngựa hoang của Phạm Duy tặng anh Duyên Anh.
Dzũng Thị Nghè chắc phải mê Dzũng Đakao lắm. Chú nào đó đã mánh mung dấu được cây Harmonica nhỏ. Chú thổi nhạc dạo. Sáo hòa theo. Giọng hát Dzũng Thị Nghè đầm ấm. Giàn trống là mấy cái xô nhựa và thau nhôm. Tôi thấy “văn nghệ khám” sáng giá quá. Tôi rất cảm động được hát tặng bài hát mở đầu, bài hát Phạm Duy lấy ý một đoạn trong Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang làm lời. Tôi không ngờ, lưu lạc bất cứ một trại giam nào, một phòng tù nào cũng gặp khá đông độc giả của mình. Mà độc giả tuổi trẻ yêu mến tôi nhất. Họ đến với tôi, an ủi tôi, giúp đỡ tôi, săn sóc tôi. Và đó chính là tai họa. Tai họa tới từ hai phía 1. Tôi chăm chú nghe Dzũng Thị Nghè. Bài hát dứt, chúng tôi vỗ tay. Phòng phản động trẻ vỗ tay quyết liệt. Dưới ô, các em gái “bis bis” loạn xì ngầu. Tiếng hát Dzũng Thị Nghè, tiếng hát của tuổi trẻ hiên ngang như tiếng nhạc Thạch Sanh. Tiếng hát xuyên qua tường xi-măng cốt sắt, luồn qua trần phòng, sàn phòng, lách ngang chấn song tù, lan tỏa khắp không gian. Tiếng hát tin tưởng một niềm vui lệch đất, nghiêng trời.
- Sau đây Hiền lừa hát tặng anh Đoàn Kế Tường và các anh bản Ra khơi của Phạm Duy.
Hiền lừa hẳn đá bóng ngang cơ Bồn lừa. Chú nhỏ hát thật tốt. Đến đoạn cuối, hợp ca bốn bè. Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng cảm khái hát theo. Văn nghệ do phòng phản động trẻ đảm trách kéo dài khoảng hai tiếng đồng hò thì được kết thúc bằng bài Quê em của Nguyễn Đức Toàn. Cả phòng hát. Khi tới câu: “Bao là gươm, bao là súng, dựng lưỡi lê lên đi lấy lại làng xưa. Bao lòng dân, bao chờ mong, quân ta sẽ về, quân ta sắp về”.., các bạn trẻ reo hò:
- Quân ta sắp về rồi!
- Quân ta về giải phóng Saigon tới nơi rồi…
- Quân ta phải về, anh em vững niềm tin.
Vỗ tay tưng bừng. Cứ như pháo mừng thắng trận. Bỗng nhiên, bên phòng hình sự rầm rầm la lối. Đoàn Kế Tường hỏi vọng sang:
- Chuyện gì thế?
- À, có thằng khốn nó hát “quân ta đếch về”, tụi này sửa nó cho bõ ghét.
- Thôi bỏ qua đi, nó cũng mong quân ta về nhưng quân ta chưa về, nó nản nó than “quân ta đếch về” đấy.
- Ô-kê, nghe anh.
Bây giờ, các em tù nữ chơi văn nghệ. Các em hát toàn nhạc sến. Vậy mà nghe cũng thấm thía. Lâu lâu nghe nhạc sến triết lý “hai với hai là bốn, thực tế thế mà khôn” hay “con Thúy con Hồng nhìn em khẽ nói, Tao biết rồi mày đang đón người yêu”… thú vị ra phết. Tôi chỉ đủ can đảm lắng tai nghe hai ca khúc sến. Bèn đi nằm. Văn nghệ dưới ô thiếu hấp dẫn nên nó tàn mau. Nửa khuya, có lẽ cảm khái văn nghệ phòng tập thể, một giọng hát tuyệt vời từ cachot bung ra. Ali Hùng. Đích thị người nhái Ali Hùng. Chàng diễn tả ca khúc Tôi ru em ngủ của Trịnh Công Sơn. Chúng tôi đang nằm, ngồi hết dậy nghe người tử tù gửi một thông điệp cuối cùng cho đời sống. Đã nhiều đêm, ở đề lao Gia Định tôi nghe tiếng sáo gió của Ali Hùng. Đêm nay, tôi nghe chàng hát. Cachot FG Chí Hòa xoáy mòn thân phận của tử tù trước ngày nó trở về cát bụi. Tôi chưa thấy, ở một chế độ nào, tù nhân bị tuyên án xử tử và Chủ tịch Nhà Nước khước từ sự khoan hồng mà vẫn phải kéo dài tháng ngày đợi chết trong quan tài xi-măng. Đúng vậy, cachot FG Chí Hòa là thứ quan tài xi-măng. Tôi đã biết những cachots FG xây sát cầu thang mỗi lần xuống sân tắm. Tận mắt, tôi nhìn nước ở sàn cachot rỉ ra nhễu giọt liên tục. Thì tôi đoán nổi sự ẩm ướt thường xuyên. Không có ánh sáng vào cachot FG.
Người ta đã kiểm soát được ánh sáng. Có lẽ, khoa học kỹ thuật Cộng sản đang nghiên cứu phương pháp kiểm soát không khí. Và Nội quy của nhà tù Cộng sản sẽ có điều cấm tù nhân thở tự do.
Một chút về cachot FG Chí Hòa: Chiều dài của cachot 1 thước 50 phân. Chiều ngang, 70 phân. Chiều cao, 1 thước 80 phân. Tường bê-tông cốt sắt. Cửa sắt dày, ba ổ khoá. Một ô cửa nhỏ giữa cửa lớn đúng tầm mắt tù nhân đứng để cho cai ngục rọi đèn vô xem tù nhân còn sống hay đã chết và để đưa cơm nước cho tù nhân. Cachot FG Chí Hòa trên lầu chót, hai dẫy đối diện, cách nhau một hành lang hẹp không đèn, dù đèn vàng hiu hắt. Do đó, cachot ngàn năm tối tăm. Dưỡng khí lùa vào hành lang. Tù nhân hít thở qua 6 cửa nhỏ, gọi là “cửa gió”. Bên trong cachot có cái xô. Tù nhân tiểu tiện, đại tiện vô đó. Không có giấy chùi đít. Tù nhân sẽ noi gương súc vật nếu không muốn xé quần áo làm giẻ chùi hay nếu không muốn nhịn uống dùng nước rửa đít. Mỗi ngày, tù nhân được phát hai ca nước đun sôi. Không có chiếu. Tù nhân nằm, ngồi trên sàn xi-măng đã đóng lớp phân tiểu khô quánh của các tù nhân bị nhốt ở cachot qua nhiều chế độ. Con người đã được chủ nghĩa Cộng sản ưu việt bảo vệ với đầy đủ phẩm cách làm người. Nó hít thở nhiều uế khí, nhiều thán khí và rất ít dưỡng khí. Nó chỉ được mặc một bộ quần áo. Hàng tuần, chủ nghĩa ưu ái cho nó đi tắm một lần. Nó xách xô phân tiểu theo. Trước hết, nó đổ phân tiểu xuống cống, rửa sạch xô. Rồi nó tắm gội, giặt quần áo. Chủ nghĩa giám sát nó trần truồng tắm gội. Vì chủ nghĩa quản lý con người. Không tìm ra sự trắc ẩn trong danh từ quản lý nên chủ nghĩa mặc kệ sự ghẻ lở của con người tắm thiếu xà phòng. Con người tắm xong, giặt quần áo xong, vắt khô quần áo rồi mặc và xách xô lên cachot đợi lần tắm giặt, đổ phân tiểu kế tiếp. Nó sẽ phơi quần áo trên giây thân thể trong bóng tối mịt mù cho đến khi khô. Ấy đó, cachot FG Chí Hòa, nơi các tử tù Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đã sống chờ chết, nơi Đoàn Kế Tường đã sống và đã phát biểu: “Với cachot FG, mọi thứ cachot trên đời đều vô nghĩa”, nơi báo chí Mỹ không bao giờ sủa ăng ẳng đòi “cải thiện chế độ lao tù”. Có cơ may nào dẫn họ vào cachot FG Chí Hòa? Những kẻ từng gang họng lên án “Chuồng Cọp Côn Sơn" sẽ xấu hổ lắm khi họ được phép “tham quan” – tham quan thôi – một cachot thứ yếu của khu FG khám Chí Hòa dưới chế độ quang vinh Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lê Thanh Minh, đại úy trốn trình diện học tập, người đã từng coi tù Cộng sản ở Côn Sơn, nói với tôi hồi chúng tôi sống ở phòng 6C-1 đề lao Gia Định: “Chuồng cọp thấm mẹ gì! Nó chỉ là thứ cũi sắt nhốt những thằng vi phạm kỷ luật, những thằng sách động tù nhân. Nó rực rỡ ánh sáng và tràn đầy dưỡng khí”. Đại úy Lê Thanh Minh mới chỉ so sánh Chuồng Cọp với cachot khu A đề lao Gia Định mà anh đã bị nhốt. Trên tất cả những điều tôi muốn nói, tôi muốn hỏi báo chí Mỹ đã từng ủng ẳng đòi Việt Nam Cộng Hòa “cải thiện chế độ lao tù” là họ nghĩ gì về những tử tội phải kéo dài tháng ngày đợi chết ở cachot FG Chí Hòa. Có nên phất ngọn cờ Quyền Chết của con người bên cạnh Quyền Sống của con người? Và tôi cũng muốn hỏi qúy vị tự xưng mình là Đại Diện cho tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng ở Việt Nam, đòi hỏi Cộng sản – có vị còn hách dịch bắt Cộng sản Việt Nam – thả hết tù nhân ra khỏi các nhà tù, có vị nào đã nằm tù Cộng sản? Tôi biết đích xác những vị to mồm nhất đều là những vị đã phè phỡn, ít nhất, 20 năm ở ngoại quốc. Hôm nay, quý vị ấy đấu thầu tù nhân bằng nước bọt, quý vị ấy dùng tù nhân làm thang để leo lên sự nghiệp ái quốc, ái quần. Quý vị ấy tưởng tượng nỗi khổ của tù nhân, mở đồ hộp cho chó ăn mà liên tưởng cảnh đói của tù nhân quê hương. Nếu quý vị còn liêm sỉ nên câm họng lại. Bởi vì, có đến 99 phần 100 tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng, tù nhân của lương tâm đã, đang nằm trong các nhà tù Cộng sản Việt Nam, bị đày đọa quằn quại thì có, bị hành hạ khốn đốn thì có, nhưng rên siết thì không. Và, chắc chắn, ai cũng muốn phỉ nhổ vào mặt những kẻ đấu thầu nỗi khổ của mình. Tôi dám nói điều này: Tất cả những lên tiếng của bất cứ một cá nhân, một hội đoàn nào yêu cầu Cộng sản thả tù nhân đều vô tích sự và chỉ làm phiền tù nhân. Cái tích sự, nếu có – bắt buộc phải có, đi buôn cần kiếm lời – là ồn ào quảng cáo tên tuổi mình. Người Việt Nam quốc gia hải ngoại chỉ có mỗi cách can thiệp hữu hiệu nhất cho tù nhân là đầy đủ lực lượng quân sự giải phóng dân tộc, xóa bỏ mọi nhà tù, trại tập trung Cộng sản. Cách thứ hai, kém hữu hiệu, nhưng làm tăng sự can đảm để tù nhân sống mà hy vọng ngày được giải phóng là âm thầm vận động Amnesty international, âm thầm vận động các Tổ chức quốc tế có thế lực, âm thầm vận động với chính phủ các nước viện trợ nhân đạo cho Cộng sản Việt Nam để họ làm áp lực, để họ can thiệp cho tù nhân đỡ bị hành hạ điêu đứng và cho những tù nhân già cả, bệnh hoạn được tha. Cách thứ ba thiết thực nhưng khó thực hiện, là đóng góp tiền bạc, mua thuốc, gửi tiền tặng vợ con tù nhân để vợ con họ vững lòng nuôi chồng đợi ngày đoàn tụ gia đình. Cách này khó thực hiện vì sẽ chẳng vị đại diện nào chịu bỏ tiền mà quyên tiền thì tiền cứ muốn chạy vào túi riêng! Trên mọi địa hạt, hai kẻ đối nghịch không nhường nhau một bước. Cộng sản không thể bảo quốc gia đừng chống nó. Quốc gia không thể “ra lệnh” cho Cộng sản thả tù vô điều kiện. Tranh đấu là tốt, nhưng chớ quên lô-gích. Những kẻ thích đại diện hư ảo, thích nhân danh hư không (ai cho phép đại diện, ai cho phép nhân danh) thường giả vờ quên lô-gích, biết chuyện phù phiếm, vẫn rêu rao lấy danh. Nghĩ mà đau cho tù nhân. Họ chẳng biết cachot FG, chẳng được chào cờ, mặc niệm ở khám Chí Hòa, đã đành, họ còn chẳng biết 20 năm chiến tranh, dân tộc họ ra sao; họ ngậm miệng hôm qua, họ to mồm hôm nay và to mồm hơn cả tù nhân đã kinh qua ngục tù Cộng sản! Bọn đấu thầu nỗi khổ sao hiểu nổi cái hào sảng của tù nhân, hiểu sao nổi cung cách sống chờ chết mòn của tù nhân. Cái hào sảng của Ali Hùng, chẳng hạn, sống đợi chết, vẫn Tôi ru em ngủ.
Giọng Ali Hùng bồng bềnh lãng mạn, chan chứa cảm xúc. Hòa âm cho bản nhạc chàng hát là nỗi hiu quanh ngục tù. Nơi tiếng hát bay ra, cachot FG, như nơi tiếng đàn Thạch Sanh thoát lên. Đã cổ tích dưới hang lấp kín đá. Sẽ cổ tích Chí Hòa mai sau. Người ta sẽ kể cachot của Ali Hùng lớp phân dầy mấy phân, thấm nước mắt của tù nhân oan khiên, thấm máu của tù nhân tự sát, qua các triều đại, qua những cách mạng. Người ta sẽ ngợi ca đoạn kết cổ tích Chí Hòa y hệt đoạn kết cổ tích Thạch Sanh. Không có con người trả thù con người. Lý Thông trở về đời sống hèn mọn của nó. Con người Thạch Sanh không nỡ giết nó. Nhưng trời không tha nó, Trời bắt nó chết thảm. Những đứa gian ác sẽ hoá thành bọ hung hết. Thạch Sanh ở mãi với lòng người, ngự trị mãi hồn đời. Ali Hùng và những ai làm tốt, làm đẹp cho quê hương sẽ ở mãi lòng người, ngự trị mãi hồn đời. Chàng biết uống giọt sống cuối cùng, dám uống giọt sống cuối cùng. Những người tử tù kéo dài thời gian đợi chết ấy không cần ai đại diện họ xin kẻ thù họ cả. Bọn đại diện, bọn cai thầu tù ngục đã vấy nhơ lên sự thản nhiên sống chểt của họ. Ali Hùng đó, chàng đã làm xong bổn phận của chàng với dân tộc chàng. Chàng thơ thới đợi ngày về đất. Trước khi nhập cõi, cái chết gần kề, trong bóng tối mông lung của thời đại, Ali Hùng vẫn lên tiếng.
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa đông
Em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa thu
Em đi trong sương mù
Gọi cây lá vào mùa
Con đường thật buồn
Một ngày cuối đông
Con đường mịt mù
Một ngày cuối thu
Em vào mùa hạ
Nắng thắp trên cao
Và mùa xuân nào
Ngẩn ngơ tình mới
Đi nhẹ vào đời
Thầm thì gót chân
Em gọi nụ hồng
Vừa tàn cuối sân
Nghe tình chợt buồn
Trong lá xôn xao
Để mùa xuân sau
Mua riêng tình sầu
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa xuân
Em hôn một nụ hồng
Hỏi thăm về giọt nắng
Tôi ru em ngủ
Hạ cũng vừa sang
Em hôn lên tay mình
Để chua xót tình trần
Chàng kết thúc ca khúc chàng diễn tả bằng cái “fade out”: Em hôn lên tay mình, để chua xót tình trần… em hôn lên tay mình, để chua xót tình trần… Rồi bốn bề im lặng. Em hôn lên tay em và em chua xót cuộc đời, chua xót tình người. Còn anh không chua xót gì cả, anh không cần em đại diện anh xin kẻ thù của anh tha anh, em hiểu chưa? Chúng tôi ngồi hút thuốc rê, thuốc lào chờ Ali Hùng hát thêm bài mới hay thổi sáo gió. Thiên hạ đã ngủ hết. Và Ali Hùng cũng bặt tiếng. Tôi hiểu Ali Hùng đuối sức rồi. Cachot FG đã xử tử anh từng phút. Những phát súng găm thân thể anh, hôm nào đó, khi anh dựa lưng cột sân bắn, sẽ là những phát súng ân huệ. Người ta sẽ ban ân huệ chết cho anh ra sao, Ali Hùng? Trước hết, người ta bắt anh há rộng miệng, tống kín họng anh một trái chanh để anh hết đòi hỏi một ân huệ cuối cùng dành cho tử tù. Rồi, người ta bịt mắt anh. Không có linh mục rửa tội giùm anh đâu. Anh bị âm thầm dẫn đến một huyệt mộ đào sẵn. Chắc chắn, vào đêm khuya. Người ta kê súng vô thái dương anh, bóp cò. Anh rơi luôn xuống huyệt. Người ta lấp đất và san phẳng. Chẳng có bia mộ đâu. Những cái chết đích thực của anh hùng quốc gia, quốc gia chân chính, đừng hòng người quốc gia biết để làm lễ truy điệu, đừng hòng người quốc gia biết ngày chết để làm giỗ chạp. “Chinh phu tử sĩ mấy người, nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”. Ai đã gọi hồn Ali Hùng nhỉ?
Chúng tôi trải qua ba ngày Tết ở Chí Hòa. Theo… truyền thống nhà tù Cộng sản, ba ngày Tết tù nhân được ăn cơm với thịt. Cộng cả ba ngày, mỗi tù nhân hưởng một lạng thịt. Văn nghệ rộn ràng trọn ba ngày. Với tôi, văn nghệ chấm dứt sau bài ca của Ali Hùng. Sinh hoạt Chí Hoà trở lại bình thường. Tỷ phú Trần Thành đổi phòng và được giữ chức nuôi lợn. Hàng ngày, ông xách cái xô đến các phòng xin cơm thừa. Làm gì còn cơm thừa? Ông Tư Nhì có cái ghe đánh cá bên Chánh Hưng. Vì không chịu gia nhập Hợp tác xã, muốn làm ăn cá thể, ông bị vào tù và ghe của ông bị tiếp quản. Nhân vật Tư Nhì to con, cao lớn, bụng phệ như ông ve dầu Nhị Thiên Đường, hàm răng vàng chóe, vui tính, tốt dạ. Vì ông Tư Nhì khoẻ, phòng đề cử ông nhiệm vụ chia cơm. Chức quản lý nước đã giao lại cho Đoàn Kế Tường, lý do: Tường không ngủ trưa. Được một tuần yên lành sau Tết thì phòng phản động trẻ bị chuyển khu nguyên vẹn. Đó là phản ứng muộn màng của Chí Hòa đối với đêm văn nghệ trừ tịch. Lãnh đạo đã họp và quyết định phân tán mỏng phòng phản động trẻ. Sẽ khối chú vào cachot. Cai ngục Phách bắt đầu có thái độ với phòng của chúng tôi.
Một sáng điểm danh như thường lệ, Trưởng phòng Phạm Quang Khai mặc quần xà lỏn, áo sơ mi, đứng nghiêm:
- Báo cáo cán bộ, phòng 60 người, hiện diện đủ.
Chúng tôi ngồi xếp hàng 5, mỗi hàng 10 người. Mọi hôm, ông Khai báo cáo thế là xong. Nhưng cai ngục Phách dở chứng:
- Ai dạy anh báo cáo thế?
- Tôi vẫn báo cáo.
- Anh thuộc Nội quy không, đọc điều 1 xem nào!
Ông Khai quíu lưỡi. Chẳng có thằng tù nào thèm thuộc Nội quy cả, vì không thèm học.
- Anh phải học Nội quy, cả phòng phải học Nội quy Chí Hòa. Riêng anh, làm đến chức Trướng phòng thì nên biết cách báo cáo. Anh phải đọc sơ yếu lý lịch rồi mới báo cáo. Rõ chưa?
- Rõ.
- Báo cáo lại.
Ông Khai đứng nghiêm:
- Tôi, Phạm Quang Khai, sinh năm 19… tại..,, hộ khẩu thường trú số… đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, thành phố Hồ Chí Minh, can tội tư sản mại bản, bị bắt ngày… tháng… năm 1975, Trưởng phòng báo cáo cán bộ phòng có 60 can phạm, hiện diện đủ.
Cai ngục Phách, thằng oắt tì, gật gù:
- Được.
Buổi chiều, hắn tới đưa cho ông Khai 4 trang Nội quy đánh máy gồm 44 điều. Nội quy đề lao Gia Định có 11 điều thôi. Sáng hôm sau, vẫn cai ngục Phách điểm danh. Ông Khai báo cáo xong, hắn “giáo dục”:
- Anh Khai đọc Nội quy, cả phòng lắng nghe học thuộc. Tôi sẽ bắt đọc, anh nào không thuộc Nội quy sẽ bị cấm tắm, cấm nhận quà… Rõ chưa?
- Rõ.
Trưởng phòng Phạm Quang Khai đau khổ đọc 4 trang Nội quy và chúng tôi đau khổ ngồi bó gối nghe.
- Anh Khai!
- Dạ.
- Sao anh đọc như ăn cướp vậy, mắt liến la liến láu? Mai đọc thật chậm.
- Dạ.
Cai ngục Phách nhận chỉ thị hành phòng tôi. Phòng hình sự bên cạnh đâu phải đọc Nội quy. Nhờ tiết mục học thuộc Nội quy, Đoàn Kế Tường chế ra trò giải trí. Tường cầm Nội quy, phổ nhạc vào những điều khoản, thứ nhạc hát xong thì quên mình đã hát gì. Chúng tôi nghe Tường hát, ôm bụng cười. Tường bảo học kiểu này chóng thuộc. Trong cảnh khốn cùng, kẻ nào làm cho người khác cười vui, kẻ ấy là Bồ Tát. Đoàn Kế Tường đã là Bồ Tát. Giữa không khí sôi nổi học Nội quy, phòng chúng tôi tiếp nhận linh mục Nguyễn Văn Tự Do và anh Đình (tôi không nhớ rõ họ, hình như Võ Xuân Đình). Linh mục Nguyễn Văn Tự Do, tên căn cước là Nguyễn Văn Tự, người giảng Phúc Âm trên Đài Phát Thanh Saigon. Ông bị bắt về vụ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Vụ này hơi ly kỳ và được thần thoại hoá ở đề lao Gia Định năm 1977.
Tù nóng kể cho tù nguội 2: Đức Mẹ hiện ra ở nhà thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Thiên hạ hay tin, ào ào kéo về hành hương, cầu nguyện. Hoa dâng lễ ngập cả nhà thờ, Cộng sản không ngăn cấm nổi. Có một người tê liệt ngồi trên xe lăn, sai vợ con chở tới và đẩy xe vào nhà thờ cầu khẩn ân huệ. Anh ta đứng dậy, chạy nhẩy bình thường. Cộng sản sợ hãi, bắt anh ta đem đi đâu chẳng rõ. Đồng thời, một số linh mục cũng bị bắt, trong số đó có linh mục Nguyễn Văn Tự Do và linh mục Hoài Linh 3. Ngoài các linh mục còn thêm một nhân vật “kỳ bí” Hồ Ngọc Anh. Nhân vật này bị Cộng sản chọc mù mắt ở cachot, Đức Mẹ vẫn ban ân nhìn đời sống rõ như ban ngày, bị Cộng sản bỏ đói, Đức Mẹ vẫn nuôi nấng… Vân vân. Hồ Ngọc Anh nằm cachot khu A đề lao Gia Định. Tôi không tin. Gặp linh mục Nguyễn Văn Tự Do, ông không chịu giải thích. Nhưng ông thích bàn luận chuyện chính trị. Và ông bị kết tội phản động. Anh Đình nói là anh cộng tác với nhật báo Chính Luận, rất thân Đặng Văn Sung. Tổng số tù nhân phòng tôi nâng lên 62 người. Có linh mục Tự Do, các tù nhân Thiên Chúa giáo mừng ra mặt. Chúa đã gửi linh mục Tự Do đến phòng của chúng tôi.
Trưởng phòng Phạm Quang Khai bị đọc Nội quy hai tuần liền mệt đừ. Ông ta chưa thuộc hết và chúng tôi, mỗi người mới thuộc vài điều đề phòng bị cai ngục Phách truy bài. Hắn chưa truy bài “học tập’" thì bị đổi sang khu khác cùng với cai ngục Quỳnh. Cai ngục mới điểm đanh. Trưởng phòng Khai báo cáo kiểu cai ngục Phách, bị hạch hỏi:
- Sao anh râu ria thế?
Ông Khai ngẩn tò te:
- Tôi già rồi, được phép để râu.
- Râu ria là dài dòng chứ không phải râu của anh. Râu của anh ai thèm quan tâm. Báo cáo vắn tắt.
Vậy là ông Khai thoát nạn kể sơ yếu lý lịch đọc Nội quy 44 điều. Làm Trưởng phòng khổ vô cùng. Thế mà ông Khai khoái. Ông ôm luôn chức Thư ký phòng, ông chủ tọa các phiên họp cuối tuần rồi ông gò lưng tôm nắn nót biên bản. Dường như, những người đã có địa vị chức tước xã hội thì ở nơi chốn nào, hoàn cảnh nào vẫn thích chức tước, địa vị.
Hai hung thần Quỳnh, Phách cút, Đoàn Kế Tường hát cho cả phòng nghe bài Em đến nuôi anh một chiều mưa, nhạc Tô Vũ, lời Đoàn Kế Tường.
Em đến nuôi anh một chiều mưa
Em đến nuôi anh một chiều đông
Nuôi lần này ở ngay khám Chí Hòa
Em đến nuôi anh lầm than quá
Cầm cái phong bì
bước qua cổng khám
là đến phòng nuôi
Em đến nuôi anh trình xong giấy
Em đến nuôi anh bàn cu Phách
gần bên thằng Quỳnh
Mặt nhìn mặt hồi lâu Tư Long mới phán một câu
“Hiện thời còn đây
Ngày mai nuôi đâu
thư sẽ gửi sau
Nếu hên xuống Long Thành
Nếu xui tới Lao Bảo
Và xa hơn, ngoài Bắc
Nếu không gắng học tập
Sẽ chui ấp Hoả Lò
Cải tạo thêm mười năm
Chắc mai mốt anh về
Sẽ lê giống anh Quang què
hay là cuộc đời buồn như Ngao Song
như Nguyễn Mạnh Côn
Lòng nhủ thầm lần sau nuôi anh
một túi đầy hơn
Em ước mơ kỳ thăm nuôi tới
Em đến nuôi anh còn khu F
Và chưa chầu trời…
Quang què tức là đại úy nhẩy dù Quang (tôi không nhớ họ anh ta), ông Đô trưởng của 3C-1 mà tôi đã giới thiệu sơ sơ ở phần thứ hai Nhà tù, hiện đang sống chung phòng với chúng tôi. Sống chung với chúng tôi nên kể ông Phường trưởng Phạm văn Diện, bạn đồng nằm vùng của Vũ Hạnh. Nhờ nằm vùng, Diện được chỉ định làm Phường trưởng một Phường thuộc quận 3. Rồi bị kết án “mất phẩm chất cách mạng”. Và vô tù. Diện vẫn nuôi hy vọng cách mạng sẽ soi sáng nỗi oan cho mình. Anh ta có vẻ nguy hiểm nhưng nể nang Đoàn Kế Tường. Tường ngông nghênh, chấp hết, ăn nói mạnh bạo, phản động quyết liệt. Có tài nhại nhạc, nhại thơ. Đoàn Kế Tường đã nhại bài Đi chơi chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Rất tiếc, tôi nhớ có vài câu, xin ghi ra đây gọi là nhớ người bạn tù:
Hôm nay ngày thăm nuôi
Xe cộ chạy ngược xuôi
Tay em xách cái giỏ
Tay kia cầm gói xôi…
Được anh em tán thưởng Em đến nuôi anh một chiều mưa, Đoàn Kế Tường chế tạo thêm Kỷ vật cho em đưa tên các bô lão râu dài, bệnh tật của phòng vào lời:
Em hỏi anh
Em hỏi anh: Bao giờ trở lại
Xin trả lời đến Tết mới về.
Anh trở về thành cụ Ngao Song
hay ít ra cũng bằng cụ Hà Năng Đắc
Anh trở về già như cụ Lựu
Anh trở về tóc trắng Nguyễn Mạnh Côn
Anh trở về
Đem bệnh trĩ của Nguyễn Văn Trương
hay bệnh lao của Bùi Kim Bảng
Anh trở về
điếc lòi Phan Bá Thúc…
Cứ thế, ngày trôi nhanh. Nhờ Bồ Tát Đoàn Kế Tường. Tù đầy không hứa hẹn chi cả. Chúng tôi luôn luôn ở tư thế chuẩn bị đổi phòng, chuyển trại, luôn luôn nghĩ rằng tương lai nghẹn ngào hơn hiện tại.
--------------------------------
1 Sẽ viết rõ ở Trại tập trung.
2 Tù nóng: Tù vừa mới bị bắt. Tù nguội: Tù đã nằm đề lao lâu.
3 Cũng làm nhạc nhưng không phải nhạc sĩ Hoài Linh.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 24
Giữa tháng 3 năm 1978, Tư Long ra lệnh cho chúng tôi lên một phòng trên lầu 3. Phòng này, tù nhân vừa bị chuyển khu hay chuyển trại, bừa bãi rác rưới. Tôi đã viết, Cộng sản "giải phóng" tù nhân chế độ cũ chiều 30-4-1975 thì ngay sáng sớm 1-5-1975 đã có tù mới. Và tù cũ lần lượt bị lùa vào. Thực sự, Chí Hòa đã xao xuyến từ 28-4-1975. Tù nhân nào "đấm mõm" chúa ngục là ra về thơ thới hân hoan. Đến trưa 30-4-1975, cả chúa ngục lẫn tù nhân "tốt số" bỏ Chí Hòa mà chạy. Còn lại đám tù "xấu số" không thể phá cửa ngục, đành đợi cách mạng "giải phóng". Một tù nhân de luxe không được "giải phóng": Ông tướng Trần Quốc Lịch.
Người ta đồn rằng, ở Chí Hòa có nhiều ma, đặc biệt là Con Ma Vú Dài mà nhật báo Hoà Bình của linh mục Trần Du đã khai thác ròng rã mấy tháng. Con ma vú dài, chúng tôi không được hân hạnh… ngắm vú nó. Nhưng, tôi biết chính xác đã nhiều tù nhân tự tử hay chết đòn, chết bệnh ở Chí Hoà. Tại sao biết chính xác? Vì, tôi đã sống chung phòng với một cán bộ cải huấn khám Chí Hòa. Oan hồn, chướng khí dầy đặc vùng tù ngục này. Người ta bảo rằng, chỉ khi nào tất cả cửa phòng giam, cổng khám, mở tung ra một lượt, oan hồn mới phiêu diêu miền cực lạc hay về thiên đàng và chướng khí mới tiêu tan. Cửa phòng giam, cổng khám đã mở tung một lượt. Oan hồn mới, chướng khí mới dầy đặc hơn. Ở Việt Nam, sau mỗi cách mạng thì tỷ số nhà tù tăng lên. Nhà tù thực dân trên quê hương tôi khiêm tốn hơn nhà tù cách mạng, bất kể cách mạng gì. Hãy nói cách mạng vô sản giải phóng con người. Nó giải phóng nhà tù Chí Hòa ra sao?
Các ống nước dẫn lên lầu bị cắt. Tấm bảng để tù nhân giỏi dạy học tù nhân dốt bị gỡ. Cấm dạy dỗ lẫn nhau. Dạy dỗ kiến thức đồng nghĩa với tuyên truyền phản động. Cấm bút. Cấm giấy. Tù nhân lúc nhúc trong phòng giam như đàn gà kỹ nghệ. Cách mạng không sơn lại tường tù. Do đó, tường phòng giam chúng tôi còn đầy máu muỗi, máu rệp, còn đầy tên tù nhân ghi rõ năm tháng tiền giải phóng, còn đầy những lời thề huyết hận giang hồ. Trên một bức tường có vẽ hình con rồng đang lộn bằng gạch non. Vốn thận trọng và sợ trách nhiệm, ông Trưởng phòng Phạm Quang Khai quan sát tỉ mỉ phòng mới. Rồi ông báo cáo vụ con rồng với trật tự. Trật tự báo cáo Tư Long. Chúa ngục Tư Long lồng lộn chạy lên. Hắn điên tiết vì đám tù cũ đã "chơi" hắn. Long là rồng. Chúa ngục Rồng mà tù dám cho rồng lộn thì… phản động quá, xúc phạm nặng nề tới cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng.
- Trưởng phòng đâu?
Ông Khai le te bước sát tường:
- Tôi đây.
- Ai vẽ con rồng?
- Tôi không biết
- Anh phải biết.
- Chúng tôi vừa lên đây, thấy rồng đã vẽ sẵn, vội vàng báo cáo ngay.
- Anh vẽ.
- Tôi không vẽ.
- Đồng bọn anh vẽ.
- Thưa cán bộ, chúng tôi không vẽ.
- Tôi bảo anh vẽ.
- Tôi đâu dám vẽ
- Vậy anh biết ai vẽ. Tôi chỉ thị anh kiếm ra ai vẽ nội trong một giờ. Không kiếm ra, cả phòng chịu kỷ luật.
Tư Long hầm hầm bỏ xuống với đám trật tự đầu trâu mặt ngựa. Ông Khai, nhà tỷ phú Phạm Quang Khai, vua tầu dầu chiến lược Phạm Quang Khai bị tên bán vé xe đò át giọng thì ngồi thừ, đau khổ. Đổi đời mà. Con lạc đà có thể chui qua lỗ kim, ông Khai khó mà tìm được thằng nào vẽ con rồng lộn xỏ Tư Long. Ông thở dài thườn thượt, trong khi, anh em quét phòng, chia chỗ nằm. Nước trong phòng không còn một giọt, cầu tiêu ngập phân, thối um, tanh tưởi. Sàn nước nhơ nhớp. Chẳng cần một giờ, Tư Long sai liền trật tự lên dán miếng giấy "niêm phong" phòng và tuyên bố:
- Cúp nước một tuần. Cúp tắm một tuần.
Tưởng tượng một tuần lễ không có nước xối cầu! Anh em nhao nhao cào cấu ông Khai:
- Nhanh nhẩu đoảng, thật thà hư...
- Con rồng kệ mẹ nó, con c… cũng có sao! Báo cáo, báo cáo…
- Già mà ngu.
- Đọc kinh ra nước đi!
Ôi cha, ông Khai lãnh búa. Đúng là trên đe dưới búa. Chức sắc nhà tù khổ vậy đó. Tội nghiệp ông Khai. Ông đã bị cai ngục đì, còn bị anh em rủa. Đạo đức như linh mục Tự Do, hiền lành như anh Võ Xuân Đình mà cũng chê ông Khai tối dạ. Với Cộng sản thì phải gian dối, thành thật là lãnh đòn. Cái triết lý sống giả khùng của Bẩy Bốp Nguyễn Ngọc Tân hay nhất. Nguyền rủa ông Khai chán chê đâm ra mỏi miệng. Đành chịu đựng một hình phạt hiện thực xã hội chủ nghĩa, một hình phạt mà tôi tin rằng, ở Pháp, Bùi Kim Bảng vẫn nhớ, ở Mỹ, Hoàng Mạnh Hùng, Nguyễn Công Kha chưa quên. Nhưng nhân loại chưa biết. Các vị đại diện tù đòi hỏi nhân quyền chưa biết. Rằng, con người đã có những ngày sống như con vật.
Chúng tôi bị cúp hai lần tắm. Không sao. Nhưng một tuần không rửa mặt, đánh răng, không có nước rửa bát, rửa đít, xối cầu tiêu thì hãi hùng quá. Cai ngục Quỳnh đã dạy: "Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản". Mấy ai nhập tâm câu này? Thay vì chịu đựng để, nói theo Tố Hữu, "Nuôi đi em cho đến lớn đến già, mầm hận ấy trong lòng xương ống máu. Để mai mốt thêm hăng hồn chiến đấu, mà hôm nay em đã nhóm trong lòng", người ta hết than vãn lại gấu ó lẫn nhau. Dân tộc đã trưởng thành sau kinh qua lịch sử nghẹn ngào 30-4-1975, song vẫn còn nhiều người chưa khôn lớn, kể cả người trong tù và người ngoài tù, người trong nước và người ngoài nước. Chúng ta hằng nhắc nhở Phù Sai nằm gai nuốt mật nhớ thù, Câu Tiển nếm phân nuôi hận. Nhắc nhở thôi, chúng ta không thích noi gương… Ba Tầu. Ba Tầu là Ba Tầu, dẫu thù hận ở không gian và thời gian nào cũng đồng dạng, đồng tình. À, chúng ta sẽ chỉ thích anh Ba Tầu Hàn Tín. Mới bị dở nón chào thằng cai ngục đã nghĩ mình khuất thân ghê gớm, đã so sánh mình với Hàn Tín. Có tài năng như Hàn Tín hãy so sánh với Hàn Tín. Nhưng Hàn Tín xin cơm thuở bần hàn chứ không chịu "ăn cắp cháy, ăn vụng thịt, ăn tranh phần cơm heo". Tôi cần "phanh" tôi lại, trở về kỷ luật khốn kiếp mà Cộng sản bắt chúng tôi chịu đựng. Mỗi ngày, chúng tôi, mỗi tù nhân, chỉ được hai ca nước uống. Hai ca khoảng nửa lít. Nước uống cung cấp sáng và trưa. Cơm canh đều đặn. Nửa lít nước một ngày cho một tù nhân sống trong phòng giam 62 người, một người ba gang tay chỗ nằm. Trời đang mùa nắng, mồ hôi thường xuyên toát ra, nửa lít nước kỷ luật! Chúng tôi không dám pha bột, pha sữa, pha mì, không dám đánh răng, rửa mặt. Tự nhiên, cả phòng khen anh Nguyễn Mạnh Côn và tặng anh biệt danh Dr. Anti-Hynos, vì từ khi vào tù, anh Côn khước từ đánh răng. Chúng tôi phải xé áo, xé quần thành những miếng nhỏ. Để lau chén, muỗng sau bữa ăn. Và để chùi đít sau khi đại tiện. Tôi cố nhịn ỉa đến mức tối đa. Tôi thèm táo bón. Bất hạnh thay, vào đúng cơn khốn khó này, nhiều anh em bị bệnh tiêu chẩy. Trưởng phòng Phạm Quang Khai kêu gọi anh em khắc phục… ỉa! Người ta có thể nhịn ăn, nhịn uống chứ không thể nhịn đái, nhịn ỉa. Cầu tiêu ngập gần ngang mức gạch, xây cao che phần không tiện để ra của "kép tù" trên "sân khấu". Rốt cục, các "kép tù" đành ngồi trên hàng gạch xây, coi như "màn nhung" mà "diễn tuồng" đại tiện. Ông anh kết nghĩa Khai Trí của tôi đau khổ nhất. "Ai đau khổ vì bệnh trĩ"? Không khí phòng giam "ngạt ngào" mùi phân tiểu. Chúng tôi thở, chúng tôi ăn, chúng tôi uống, chúng tôi ngủ, chúng tôi ước mơ, chúng tôi hy vọng trong mùi phân tiểu nồng nặc.
Có lẽ, dưói ngọn cờ quang vinh của Đảng và bằng thành tích bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác Lê, các thứ vi trùng đều bị tiêu diệt hết. Nên, tù nhân không được chích ngừa một thứ bệnh gì cả. Cũng tốt thôi. Qua ngày thứ hai, Tư Long cho phép xách hai thùng nước dội cầu. Cầu đã đầy nghẹt, hai thùng nước thấm thía gì! Giá có con lươn anh hùng, lươn dũng sĩ thả vô trước vài tiếng đồng hồ rồi dội mạnh nước là "thông suốt vấn đề khẩn trương" và "hồ hởi phấn khởi" và "đột xuất bay mùi hương cách mạng". Chúa ngục Tư Long gian ác không cho mượn cây gậy thọc cầu. Thành thử phân ì ạch rút như sự tiến bộ ì ạch của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vậy đó, chúng tôi chịu đựng liên tiếp bốn ngàỵ. Thấy không có ai chết, Tư Long "giải phóng" phòng của chúng tôi ngày thứ năm. Chúng tôi xách nước "giải phóng" cầu tiêu", chà sàn nước, rửa phuy… Chúng tôi tắm gội. Vẫn chỉ 8 phút. Lúc ấy mới hiểu hạnh phúc đánh răng và hạnh phúc… rửa đít.
Sinh hoạt của phòng dần dà trở lại bình thường.
Thời kỳ này, chiến tranh biên giới Miên-Việt đã gay go. Các tỷ phú Tầu, các nhà tư sản mại bản không được ra ngoài làm việc nữa. Trần Thành hết nghề nuôi heo. Trương Vĩ Nhiên hết nghề y tá. Trương Vĩ Nhiên độc quyền nhập cảng phim ảnh Hồng Kông, Đài Loan. Anh ta là chủ nhiều rạp chiếu bóng lớn. Ở đề lao Gia Định, anh gánh cơm cho các phòng khu C-1. Cộng sản chọn có hai nhà tư sản mại bản đưa ra tòa: Lý Sen và Trương Vĩ Nhiên. Lý Sen lãnh án 15 năm. Trương Vĩ Nhiên 20 năm. Đến năm 1982, toàn bộ tư sản mại bản Chợ Lớn được tha hết. Không nghe nói Lý Sen, Trương Vĩ Nhiên có "trúng số" hay không. Những ngày Trương Vĩ Nhiên làm y tá, chúng tôi dễ chịu. Anh đề nghị bác sĩ Việt cộng cho tù nhân giữ hết thuốc tư. Chúng tôi khỏi đăng ký thuốc ở Y Tế, mất công ốm đau phải xin rút thuốc. Tư Long vẫn "ghim" phòng của chúng tôi. Hắn chủ trương "đong đo, cân đếm" tinh vi. Một tù nhân nửa lít nước uống và một lít nước xử dụng dịch vụ cá nhân, mỗi ngày. Tư Long nghiêm cấm trò "tắm gỡ" khi xuống hồ xách nước. Tù nhân chơi màn múc đầy thùng rồi nhấn mạnh cho nước trong hồ tràn ra "tắm gỡ", Tư Long cấm luôn. Hắn cấm đem theo bình múc nước riêng. Cuối cùng, cấm nước nhễu trên hành lang. Những người tình nguyện xách nước hết tình nguyện. Phòng lại ủy cho tổ. Tổ cắt người vác nước. Tư Long bắt vác nước trên vai không được nhỏ một giọt nào. Thành ra, thùng nước không đầy. Tôi nhớ bốn ngày cấm nước, chúng tôi đứng trên lầu nhìn xuống hồ. Thấy bọn trật tự đánh bóng chuyền xong thì nhẩy vào hồ nước đùa rỡn. Tư Long muốn chúng tôi đau đớn. Hắn đã nhầm. Đảng của hắn đã nhầm. Chủ nghĩa của hắn đã nhầm. Nếu đích thực là con người, đắm chìm trong bất cứ một nghịch cảnh nào, con người vẫn tồn tại với đầy đủ ý nghĩa làm người.
Một số anh em được gọi đi lao cải ở trại tập trung. Cai ngục nói rõ đi lao động cải tạo. Tôi dùng chữ được thay chữ bị. Thoát khỏi FG đã hạnh phúc, thoát khỏi Chí Hòa hạnh phúc nhân lên. Vậy thì Chí Hòa không phải là chốn cải tạo trường kỳ, là chốn tù nhân nằm chờ chết mòn bằng bệnh hoạn, bằng tuyệt vọng. Rồi sẽ đi… Những cuộc phiêu lưu mới đang đợi những bước chân sắp tê liệt. Trong số anh em đi lao cải có Phan Thành Trường, Nguyễn Đình Bách, Quang què, Cốc Chính Cương… Thời kỳ này, Cao Dao 1 đã "thống lĩnh" một "ngọn núi" Chí Hòa. Võ Long Triều từ đề lao Gia Định sang. Nguyễn Đan Quế cũng đã có mặt. Họ không vào phòng tôi. Nhóm luật sư "Nhân Quyền" ngự ở khu AH. Tôi không nghe kể tên Huỳnh Thành Vị. Như vậy, Chí Hòa đã nhiều nhân vật. Càng đông càng vui. Khu FG thay đổi toàn bộ cai ngục. Tư Long vẫn còn nhưng hắn không lảng vảng rình mò nữa. Một tên cai ngục mà Đoàn Kế Tường đặt cho hắn cái tên "Đề Xuất" – vì hắn ưa hỏi phòng có đề xuất gì không sau khi điểm danh – đã tặng chúng tôi một bài học đề xuất. Hắn hỏi hoài khiến ông Khai phải… đề xuất:
- Báo cáo cán bộ, phòng chật chội quá.
- Bao nhiêu người?
- Năm mươi nhăm.
- Tôi ghi nhận, sẽ nghiên cứu giải quyết
Ngay buổi trưa, cửa phòng mở, ông Khai nhận thêm 15 tù nhân hình sự gồm các tội móc túi ăn trộm. Dĩ nhiên, ông Khai lại bị công kích về tội "ngứa mồm" đề xuất. Đoàn Kế Tường ra mặt chống đối ông Khai. Chưa hết đâu, hôm sau, ông Khai tiếp nhận 5 tù nhân hình sự khác. Các tù nhân hình sự được chuyển tới Chí Hòa đều đã nằm ở nhà giam các quận. Mà nhà giam các quận là nơi con người biến thành ròi bọ. Hoàng Mạnh Hùng đã nằm nhà giam quận 3 một tháng. Anh kể những tệ trạng khốn kiếp xẩy ra. Cai ngục ngó lơ, mặc kệ vua tù và triều đình lộng hành. Thảm cảnh ức hiếp, bóc lột tù yếu và bắt cả tù yếu làm công việc "thổi kèn" để thoả mãn thú tính của tù mạnh còn ghê tởm gấp bội những "xen" tôi đã diễn tả về các phòng tạm giữ trong tiểu thuyết của tôi. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, vệ sinh ở các nhà giam các quận thả nổi. Chấy rận lổm ngổm, ghẻ lở kềnh càng. Một tháng tắm một lần. Ốm no bò dậy. Những màn đấm đá tàn bạo. Những màn trốn ngục táo bạo. Vua tù dám mua cai ngục một chai xì-dầu thủy tinh giá cắt cổ. Nó sai đàn em đập chai, nhắm bụng nó mà đâm mạnh. Đừng đâm chết. Bị thương nặng thôi. Cai ngục chở nó tới bệnh viện Đô Thành. Nó… vượt ngục ở đây dễ dàng.
Bị mắc mưu "đề xuất", phòng chúng tôi rộn ràng tiếng văng tục, chửi thề, lổm ngổm chấy, rận, cái ghẻ… Sự tranh giành cơm nước, chỗ nằm sinh động một đời tù Cộng sản. Rồi cũng quen đi vì đã có lần chịu đựng bốn ngày kỷ luật cúp nước. Tôi đã tưởng những mùi thối tha, tanh tưởi của phân tiểu, của máu mủ tù ngục sẽ làm mình quên bất cứ mùi tanh tưởi, thối tha nào bên ngoài, khi tôi ra đời. Rốt cuộc, tôi lại phải tương tư những mùi thối tha, tanh tưởi, hôi hám của tù ngục. Bởi vì, những mùi nồng nặc nhất của tù ngục vẫn thơm hơn những mùi kháng chiến, đấu tranh của đám cai thầu vô lại, của bọn mưu đồ danh phận bằng nỗi bất hạnh của dân tộc và tổ quốc chúng nó.
Phòng chúng tôi đã chẵn 70 mạng. Nước giới hạn, tắm giặt giới hạn, bệnh ghẻ tái phát và tăng trưởng thật lẹ. Tôi bị cảm cúm. Đoàn Kế Tường xoa dầu cù là, cạo gió. Ở "chuồng" lâu ngày, da chúng tôi mỏng và thịt bủng. Những vết cạo gió chẳng cần đợi lâu, hôm sau thôi, đã nhiễm trùng, sưng mủ. Tôi đã trải qua "mùa ghẻ" đề lao Gia Định. Thêm "mùa ghẻ" Chí Hòa. Tất cả tù nhân đều bị một thứ nấm "ăn" ở hạ bộ gây ngứa khó chịu. Hễ gãi mạnh xước da là thành ghẻ mủ ngay lập tức. Bởi vậy, tiến sĩ Hoàng Mạnh Hùng sáng tạo một kiểu gãi thần sầu. Dùng bàn chải đánh răng mà… chà ghẻ! Chà nhẹ nhàng. Bệnh ghẻ nham hiểm như Cộng sản. Ban ngày nó không hành mình, đợi lúc mình nằm ngủ nó mới ngứa. Hòa tấu khúc "đàn Ta-Lư" thường chơi đêm khuya. Âm thanh phóng ra đời sống chỉ là những tiếng "xoàn xoạt" liên tục. Vậy thì, bàn chải gãi ghẻ ban đêm và đánh răng ban ngày! Chúng tôi đã nuốt cái ghẻ. Anh Nguyễn Mạnh Côn ca ngợi ghẻ, nếu ghẻ mọc một mụn duy nhất ở đốt xương sống cuối cùng, gần hậu môn. Anh bảo có thằng cái ghẻ để gãi cũng đê mê lắm. Anh Côn nhận xét đúng. Để móng tay ngón út đùa bỡn với chú cái ghẻ ở đốt xương cùng thì tuyệt cú mèo. Nếu cái ghẻ là những thằng chụp mũ, là những thằng phản phúc, là những thằng hèn mọn bắn sau lưng, núp bóng tối đâm lén ta, chúng nó rất xứng đáng nằm ở đốt xương sống cuối cùng, gần hậu môn ta. Thiếu những thằng này, cuộc đời giảm nhiều thú vị. Ở trong bất hạnh, bạn cần tìm kiếm hạnh phúc. Tôi kiếm hạnh phúc từ ca nước ấm. Giúm muối bỏ vô, tôi lên "sân khấu" ngâm "toàn bộ". Ôi, đang ngứa bạo mà ngâm nước nóng, sướng sao mà sướng. Sướng hơn làm tình, sướng rên mé đìu hiu… Nếu tôi được soi gương lúc tôi thả "toàn bộ" vào nước nóng, tôi sẽ có định nghĩa chính xác về các tĩnh tử nghệt, thộn, đờ đẫn… Phi ghẻ bất thành tù. Gãi trong cơn ngứa đã đời lắm, nhưng xót xa sau cơn ngứa. Ngâm nước nóng trong cơn ngứa, đang ngâm thì đê mê mà ngâm xong thì "hồ hởi phấn khởi." Nhân vật tiểu thuyết của tôi nằm khám Chí Hòa bị ghẻ nước, đã khám phá ra chân lý hạnh phúc. Là đốt nến cho nhễu từng giọt xuống mỗi mụn ghẻ. Sức nóng của giọt nến vừa độ không làm phỏng da nên mỗi giọt nhỏ xuống một mụn ghẻ cơ hồ mỗi giọt sướng nhỏ xuống hồn. Nến không thể dùng cho hạ bộ, cái hạ bộ đen thui, mỏng teo. Phải nước ấm và muối. Nước ấm gây cảm khoái và muối làm se. Cái tứ khoái của cổ nhân cần thêm khoái lấy ráy tai, khoái ngoáy lỗ ghèn, khoái gãi ghẻ, khoái ngâm hạ bộ ghẻ vào nước ấm… Khoái lấy ráy tai, người Việt Nam nào chả biết, chả thích. Khoái ngoáy lỗ ghèn, ít ai biết. Nếu biết, người ta sẽ nghiện. Ở tù, bạn đến phòng nào cũng kiếm ra một vài tài năng lấy ráy tai, ngoáy lỗ ghèn, tẩm quất. Người ta chọn sợi tóc dài nhất trên đầu bạn, nhổ ra, chập đôi, se lại. Có tí an-côn rửa sợi tóc càng tốt, không có chẳng sao. Bạn nằm thẳng cẳng. Người ta vạch mắt bạn, đưa sợi tóc vào cái lỗ ghèn ở đầu con mắt, người ta xoáy sợi tóc. Cảm giác của bạn lâng lâng. Nước mẳt bạn trào ra. Bạn khoái tỉ cao độ, hắt xì hơi. Và bạn sẽ hiểu, trên đời có nhiều lạc thú, những lạc thú thiếu be bét trong cuốn Lạc thú ở đời của ông Lâm Ngữ Đường. Đời bạn, luôn luôn, gặp những lúc muốn hắt xì hơi mà không hắt xì hơi nổi. Bạn khó chịu. Bạn tức tối. Bạn ngước nhìn mặt trời hoài, vẫn không hắt xì hơi. Bạn thèm hắt xì hơi. Một phát thôi, bạn sẽ sảng khoái liền. Bạn ơi, lúc ấy, bạn được ngoáy lỗ ghèn, bạn sẽ hắt xì hơi lu bù. Anh Nguyễn Mạnh Côn đã thử ngoáy lỗ ghèn. Và anh ấy tuyên bố: "Sướng gấp bội say thuốc phiện." Ngoáy lỗ ghèn dễ dàng thôi, muốn lâng lâng thì được lâng lâng tức thời, chỉ cần tốn một sợi tóc. Ngâm hạ bộ ghẻ vào nước ấm, bạn sẽ nhịn uống bột Bích Chi và rồi, chính cái ca nhựa bạn ngâm hạ bộ, bạn sẽ múc nước đánh răng, rửa mặt và uống bột Bích Chi.
Vào thời kỳ ghẻ ngứa tưng bừng này, chúng tôi không được ăn cơm nữa. Chí Hòa luộc bột mì nuôi tù nhân. Mỗi bữa, mỗi tù nhân nhận hai cục bột luộc to bằng nắm tay. Bột mì của Đức Giáo Hoàng tặng bị pha với bột khoai mì xã hội chủ nghĩa. Bột luộc ăn với canh bí rợ nấu muối. Đề lao Gia Định còn chịu khó gọt vỏ bí, chứ Chí Hòa để nguyên vỏ. Tôi sợ nhà bếp lười biếng rửa luôn. Tù nhân phải se giây ni-lông rút từ bị đựng phân bón 2 làm… dao cắt bột thành từng khoanh. Có người cầu kỳ cắt bột nhỏ như con cờ, chan canh vào mà nuốt. Linh mục Nguyễn Văn Tự Do chế một lối súp tù. Ông bấu bột ngâm nước đường. Bột rữa ra, ông khuấy đều mà húp. Đa số cầm cả cục bột ngoạm cho xong chuyện. Tôi cũng ngoạm cả cục. Tay cầm tán đường mía, tay cầm bột luộc, tôi ăn. Ăn để sống. Đôi khi, tự an ủi mình, tự vuốt ve mình cho bớt tủi vì chậm chân không di tản kịp, chúng tôi vừa gãi ghẻ vừa hội thảo:
- Con người ăn nổi mấy bữa một ngày?
- Ba.
- Chúng ta đã ăn ba bữa.
- Đúng.
- Ăn sơn hào hải vị, ăn Hamburger, McDonald, uống Whiskey, Cognac, Coca, Pepsi, Fanta… đi cầu có thơm không nhỉ?
- Thối.
- Chúng ta đã đi cầu cũng thế.
- Lái xe Cadillac, hay Mercedes và nằm tù rồi có chết không?
- Chết hết.
- Thế nào là sống?
- Biết tận cùng của thống khổ.
- Chúng ta đã sống. Đã sống, đã biết sống. Thế đủ rồi. Ai có thể từ sự biết sống của mình, gởi lại cho đời sống điều gì đó càng tốt. Chẳng gửi lại thì thôi.
Như thế, chúng tôi đã ngoạm bột luộc, an phận ngoạm bột luộc. Tuyệt nhiên, chúng tôi không bình phẩm những người may mắn thoát vòng tù tội và đang sung sướng ở nước ngoài. Chúng tôi không hề biết gì về họ. Không hề biết gì về người khác mà phán xét người ta là thái độ của quân vô lại. Có lẽ, tôi không nên điểm mặt vô lại. Tự chúng nó, chúng nó đã chường nguyên mặt vô lại. Xin cám ơn quan tòa Thời Gian.
Cuối tháng 3-1978, bọn sát nhân, bọn trộm cắp bị chuyển trại. Tình trạng hỗn loạn của phòng tôi chấm dứt.
Nhà tư sản mại bản Đào Mậu rồi Tăng Tài được thả. Lệnh tha đọc ngay tại phòng. Chúng tôi hân hạnh tiếp đón thượng khách: Linh mục Nguyễn Quang Minh, nhân vật hàng đầu của vụ án nhà thờ Vinh Sơn. Cùng với linh mục Nguyễn Quang Minh còn có linh mục Chức và vài người nữa. Linh mục Chức nói hơi nhiều, nói gần như ba hoa chích chòe. Ngược lại, linh mục Minh trầm lặng. Ông nằm hàng giữa phòng, cả ngày ngồi trầm tư. Các con chiên quấn quanh linh mục Minh nhờ ông "làm lễ." Tôi đã chứng kiến cảnh linh mục treo mùng ngồi trong, con chiên xưng tội ngồi ngoài, hồi tôi ở chung với linh mục Pham Minh Thiện tại đề lao Gia Định. Nhưng cảnh "rước lễ" ở Chí Hòa, tôi nghĩ, là cảnh "rước lễ" bi thảm và tuyệt vời nhất của lịch sử Thiên Chúa giáo. Nửa đêm, chờ tù nhân ngoại đạo ngủ kỹ, linh mục Nguyễn Quang Minh ngồi dậy. Ông cũng mặc quần xà lỏn, áo sơ-mi như mọi tù nhân. Tôi không biết, không hỏi bằng cách nào linh mục Minh có "bánh thánh" và "rượu lễ." Vốn là tù nhân khó ngủ, thao thức gần sáng mới nhắm mắt, nên tôi đã được nghe nhiều điều lạ xẩy ra ban đêm. Thí dụ những lời báo cáo hồ đồ của tù nhân ở cachot, những tiếng khóc của con nít, những câu hát của nữ tù dưới ô… Và rồi, được chứng kiến cảnh "rước lễ". Ở Chí Hòa, không có tuần tra ban đêm. Khi kẻng báo ngủ điểm, các cửa sắt hành lang khóa kỹ. Những việc vi phạm Nội quy có sợ là sợ những tên bộ đội đào ngũ, những tên cán bộ mất phẩm chất cách mạng nhòm ngó thôi.
Cùng lúc linh mục Minh ngồi dậy, các con chiên cũng lần lượt ngồi hết dậy, vì đã dặn dò "đêm lễ," tất cả đều giả vờ ngủ. Dưới ánh điện vàng, linh mục Nguyễn Quang Minh áo sơ-mi, quần xà lỏn, ngồi khoanh chân thầm thì rao Phúc Âm. Các con chiên tội nghiệp chung quanh đang kính cẩn hướng về Cha của họ. Hình tưởng Chúa Jesus "thấy quần chúng, bèn leo lên núi. Khi ngài đã ngồi thì các môn đồ tớì cùng Ngài. Ngài mở miệng dạy họ:
Phước cho kẻ có lòng nghèo khó, vì nước Trời là của kẻ ấy.
Phước cho kẻ buồn thảm, vì sẽ được yên ủi.
Phước cho kẻ nhu mì, vì sẽ thừa thọ đất.
Phước cho kẻ đói khát về sự công nghĩa, vì sẽ được no đủ.
Phước cho kẻ hav thương xót, vì sẽ được thương xót.
Phước cho kẻ cỏ lòng trong sạch, vì sẽ thấy được Đức Chúa Trời.
Phước cho kẻ chịu bắt bớ vì sự công nghĩa, vì nước Trời là của kẻ ấy.
Phước cho các ngươi khi người ta lăng nhục, bắt bớ và vu cho mọi điều ác vì cớ ta.
Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng các ngươi trên Trời là lớn… 3
Linh mục Nguyễn Quang Minh ở trong hoàn cảnh khốn khó hơn. Quân dữ bốn bề. Ông không có núi mà leo. Ông ngồi giữa căn phòng hôi hám của khu FG Chí Hòa làm sáng danh Thiên Chúa. Chắc chắn, Chúa Jesus đã ban phép truyền âm cho linh mục Minh để ông giảng Phúc Âm cho con tin theo "bí kíp" truyền âm. Vẫn bài giảng bất hủ đó thôi, tôi nghĩ vậy. Ông bác bỏ mọi nghi lễ của Giáo Hội. Nghi lễ vụ hình thức. Hình thức là giả dối. Chúa nghèo, Chúa không giầu. Chúa đi chân đất. Chúa đâu có trình diễn như Đức Giáo Hoàng. Nên Chúa đã là Chúa. Linh mục Nguyễn Quang Minh mang hình ảnh Chúa, tâm hồn Chúa vào Chí Hòa. Ông ngồi một lúc thì dơ tay lên. Lần lượt, các con chiên đứng dậy, rời chỗ nằm của mình, giả vờ ngang qua chỗ Cha, ngồi xuống, há miệng nhận "bánh thánh" rồi giả vờ lên cầu tiêu, rồi trở về chỗ của mình. Linh mục Nguyễn Quang Minh sẽ lên nước Thiên Đàng gặp Chúa Jesus, sẽ kể cho Chúa Jésụs nghe chuyện "sống đạo giữa tù" dưới thế. Các ông cha di tản, vượt biên về hết Địa Ngục, cần báo trước, Địa Ngục có nhiều món hấp dẫn hơn Thiên Đường. Chúa Jesus tìm đến chỗ cùng khổ. Các ông cha tìm đến nước Mỹ sung sướng. Chúa ơi, kẻ ngoại đạo thương Ngài lắm. Ngài bị khá đông chiên ghẻ nhân danh Ngài mà buôn bán, đổi chác…
Linh mục Nguyễn Quang Minh là người khả kính. Ông sống chung với chúng tôi đến cuối tháng 4 năm 1978, thì rời phòng. Từ đó, tôi không được nghe nói gì về ông nữa. Tôi đã đàm thoại với ông hai lần. Cả hai lần, ông đều khẳng định: "ông tin tôi chứ, ông Duyên Anh? Không to tát như người Cộng sản phóng đại. Không có đường hầm, không có đài phát thanh, không có máy in bạc giả, không có súng đạn, không có chống trả gì trong nhà thờ Vinh Sơn cả". Phải, không có gì cả. Linh mục Nguyễn Quang Minh không bao giờ làm phản động. Người Cộng sản đã chọn nhà thờ Vinh Sơn, đã bịa đặt thế. Mục đích của họ là dằn mặt những người Thiên Chúa giáo quá khích hậu thuẫn Đức Cha Thuận về thay thế Tổng giám mục Bình và lấy cớ bắt nhốt một số linh mục và trí thức công giáo. Một số tổ chức chống Cộng sản sau 30-4-75 do các lãnh tụ công giáo lãnh đạo đều bị ghép dính vào vụ nhà thờ Vinh Sơn, kể luôn tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng và Ali Hùng.
Linh mục Minh, linh mục Chức và những người dính líu vụ Vinh Sơn xuống phòng lầu 1 dành cho những tù nhân đã thành án. Nhưng tử tù Vinh Sơn vẫn thoi thóp trên cachot FG. Chúng tôi gặp mặt Ali Hùng lần chót hôm chàng được xuống hành lang xế phòng tôi tắm nắng. Người nhái Ali Hùng đã thành bộ xương cách trí. Mắt chàng trũng sâu, thâm quầng. Người tử tù biết mình chết, biết mình phải chết mà cứ bị kéo dài nỗi sống thảm. Nhân loại vẫn chưa vỡ lẽ Cộng sản đâu. Chúng ta cần "giáo dục" nhân loại: Dưới chế độ Cộng sản, sống đã nhục nhã mà chết càng nhục nhằn. Muốn sống không được sống, muốn chết không được chết. Hình như, nhân loại dần dà mất tính người. Bạn thử công khai giết một con chó nấu rựa mận ở nước Pháp coi, cô đào Brigitte Bardot sẽ điên lên, sẽ nhân danh Hội Bảo Vệ Súc Vật truy tố bạn ra tòa án. Thế nhưng, bọn khủng bổ sát hại "đồng bào" cô ta, cô ta không có ý kiến. Đó là nhân loại, là lương tri, mọi chuyện để bắn phá giáo đường, xúc phạm thánh là trắc ẩn, là xúc động dành cho đồng loại của nó, thời đại của nó.
Một tuần, sau ngày linh mục Nguyễn Quang Minh ra đi, linh mục Nguyễn Văn Tự Do ra đi nốt. Đoàn Kế Tường nóng lòng đi lao cải. Phiên họp cuối tuần nào, Tường cũng xin ghi vào biên bản. "Tôi tình nguyện lao động cải tạo mười năm." Sự tình nguyện của Đoàn Kế Tường trở thành chuyên hài hước. Không ai trả lời Tường cả. Với Tường, ở phòng tập thể hai tháng là thời gian quá lâu. Tường bực bội, gây gỗ lung tung. Người bị Tường gây gỗ thường xuyên là Trưởng phòng Phạm Quang Khai. Song song vụ gây gỗ Tường-Khai là vụ đấu tranh tư tưởng quốc gia, Cộng sản giữa Mai Đức Khôi và Phạm Văn Diện. Tôi nhớ Khôi cụt đã kê tủ đứng vào họng Phạm Văn Diện câu này: "Anh mất mẹ nó phẩm chất cách mạng rồi, đợi bao giờ lấy lại phẩm chất cách mạng hãy đấu tranh với tôi. Cỡ tôi đâu thèm đấu tranh tư tưởng với cựu phường trưởng." Khôi cụt yêu cầu ghi vào biên bản. Và Khôi cụt liên tục "ra làm việc" cả tuần. Trước Khôi cụt, Quang què đã công kích Diện những lần Diện thở giọng Cộng sản trong buổi họp. Nhưng Phạm Văn Diện, nhờ bị Khôi cụt chửi thẳng mặt, được thay thế Phạm Quang Khai nắm chức Trưởng phòng. Diện biết điều, gặp riêng Khôi cụt xin lỗi. Có Diện cai trị, bọn bộ đội đào ngũ ngoan ngoãn. Diện nể nang Tường nên mọi chuyện trong phòng tốt đẹp. Đoàn Kế Tường hết đối tượng công kích thì bầy trò chọc cười Tư Nhì. Ông Tư Nhì chuyên hút thuốc lá nhãn hiệu Lá Vàng 20 điếu gói bằng bao ni-lông. Anh ta nhiều thuốc mà hút tiết kiệm, không đốt liên miên giống chúng tôi. Muốn được Tư Nhì tặng nguyên gói, Đoàn Kế Tường và Dương Đức Dũng phải song ca hai bè một đoạn nhạc của Phạm Duy, theo điệu bài Tiếng đàn tôi.
Ông Tư Nhì ơi
Cả phòng hết thuốc rê rồi,
Ông Tư Nhì ơi!
Mình ông còn Lá Vàng thôi…
Để quên ngày tháng Chí Hòa, Đoàn Kế Tường và Dương Đức Dũng thi hát nhạc sến xem ai thuộc nhiều nhạc sến nhất. Kiến thức nhạc sến của tôi dồi dào vào dịp này. Đoàn Kế Tường có khiếu hài hước, có trí nhớ thật tốt. Tường thuộc nhạc "cách mạng" đủ bài. Bài nào Tường cũng chêm một câu phản động. Thí dụ, bài Cô gái vót chông.
*√_%
... Còn giặc Mỹ cọp beo
Khi còn giặc Mỹ cọp beo
Em chưa ngừng tay vót chông rào làng
Nhưng mai đây giặc chạy rồi
Tre rừng ta làm nhà làm chòi cao
Tường hát rất thành khẩn:
… Nhưng nay mai giặc chạy rồi
Thằng Việt Nam lại nhốt thằng Việt Nam…
Một hôm, cả phòng cười lăn lộn. Ông Khai cười rung râu, Tường mượn cuốn lịch tay Quân đội nhân dân của bạn tù xem. Dở trang ghi lộ trình hỏa xa, Tường đọc lớn:
"Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1000 ki-lô-mét. Thành phố Hồ Chí Minh, Chí Hoà, 1 ki-lô-mét. Thành phố Hồ Chí Minh, đề lao Gia Định, 3 kí-lô-mét… Thành phố Hồ Chí Minh, nhà tôi, 100 ngàn ki-lô-mét!"
Ấy đó, niềm vui FG. Chúng tôi buồn như vậy, vui như vậy. Cạnh nỗi buồn, niềm vui còn có khoái gãi ghẻ và khoái ngoáy lỗ ghèn. Mọi việc sẽ bình thường, nếu con người can đảm chịu đựng và cố gắng tìm kiếm sự bí ẩn trong thống khổ.
--------------------------------
1 Đã sang Bỉ năm 1984 và chết ở Bỉ năm 1986. Một người tài giỏi, không thích hợp với bất cứ chế độ nào và ở bất cứ chế độ nào cũng nằm tù.
2 Thân nhân thường mua túi đựng phân bón chứa quà gửi vào cho được nhiều và tiện.
3 Bài giảng trên núi của chúa Jesus theo Thánh Matthew, trong Kinh Thánh, bản tiếng Việt của hội Gideons quốc tế.
Giữa tháng 3 năm 1978, Tư Long ra lệnh cho chúng tôi lên một phòng trên lầu 3. Phòng này, tù nhân vừa bị chuyển khu hay chuyển trại, bừa bãi rác rưới. Tôi đã viết, Cộng sản "giải phóng" tù nhân chế độ cũ chiều 30-4-1975 thì ngay sáng sớm 1-5-1975 đã có tù mới. Và tù cũ lần lượt bị lùa vào. Thực sự, Chí Hòa đã xao xuyến từ 28-4-1975. Tù nhân nào "đấm mõm" chúa ngục là ra về thơ thới hân hoan. Đến trưa 30-4-1975, cả chúa ngục lẫn tù nhân "tốt số" bỏ Chí Hòa mà chạy. Còn lại đám tù "xấu số" không thể phá cửa ngục, đành đợi cách mạng "giải phóng". Một tù nhân de luxe không được "giải phóng": Ông tướng Trần Quốc Lịch.
Người ta đồn rằng, ở Chí Hòa có nhiều ma, đặc biệt là Con Ma Vú Dài mà nhật báo Hoà Bình của linh mục Trần Du đã khai thác ròng rã mấy tháng. Con ma vú dài, chúng tôi không được hân hạnh… ngắm vú nó. Nhưng, tôi biết chính xác đã nhiều tù nhân tự tử hay chết đòn, chết bệnh ở Chí Hoà. Tại sao biết chính xác? Vì, tôi đã sống chung phòng với một cán bộ cải huấn khám Chí Hòa. Oan hồn, chướng khí dầy đặc vùng tù ngục này. Người ta bảo rằng, chỉ khi nào tất cả cửa phòng giam, cổng khám, mở tung ra một lượt, oan hồn mới phiêu diêu miền cực lạc hay về thiên đàng và chướng khí mới tiêu tan. Cửa phòng giam, cổng khám đã mở tung một lượt. Oan hồn mới, chướng khí mới dầy đặc hơn. Ở Việt Nam, sau mỗi cách mạng thì tỷ số nhà tù tăng lên. Nhà tù thực dân trên quê hương tôi khiêm tốn hơn nhà tù cách mạng, bất kể cách mạng gì. Hãy nói cách mạng vô sản giải phóng con người. Nó giải phóng nhà tù Chí Hòa ra sao?
Các ống nước dẫn lên lầu bị cắt. Tấm bảng để tù nhân giỏi dạy học tù nhân dốt bị gỡ. Cấm dạy dỗ lẫn nhau. Dạy dỗ kiến thức đồng nghĩa với tuyên truyền phản động. Cấm bút. Cấm giấy. Tù nhân lúc nhúc trong phòng giam như đàn gà kỹ nghệ. Cách mạng không sơn lại tường tù. Do đó, tường phòng giam chúng tôi còn đầy máu muỗi, máu rệp, còn đầy tên tù nhân ghi rõ năm tháng tiền giải phóng, còn đầy những lời thề huyết hận giang hồ. Trên một bức tường có vẽ hình con rồng đang lộn bằng gạch non. Vốn thận trọng và sợ trách nhiệm, ông Trưởng phòng Phạm Quang Khai quan sát tỉ mỉ phòng mới. Rồi ông báo cáo vụ con rồng với trật tự. Trật tự báo cáo Tư Long. Chúa ngục Tư Long lồng lộn chạy lên. Hắn điên tiết vì đám tù cũ đã "chơi" hắn. Long là rồng. Chúa ngục Rồng mà tù dám cho rồng lộn thì… phản động quá, xúc phạm nặng nề tới cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng.
- Trưởng phòng đâu?
Ông Khai le te bước sát tường:
- Tôi đây.
- Ai vẽ con rồng?
- Tôi không biết
- Anh phải biết.
- Chúng tôi vừa lên đây, thấy rồng đã vẽ sẵn, vội vàng báo cáo ngay.
- Anh vẽ.
- Tôi không vẽ.
- Đồng bọn anh vẽ.
- Thưa cán bộ, chúng tôi không vẽ.
- Tôi bảo anh vẽ.
- Tôi đâu dám vẽ
- Vậy anh biết ai vẽ. Tôi chỉ thị anh kiếm ra ai vẽ nội trong một giờ. Không kiếm ra, cả phòng chịu kỷ luật.
Tư Long hầm hầm bỏ xuống với đám trật tự đầu trâu mặt ngựa. Ông Khai, nhà tỷ phú Phạm Quang Khai, vua tầu dầu chiến lược Phạm Quang Khai bị tên bán vé xe đò át giọng thì ngồi thừ, đau khổ. Đổi đời mà. Con lạc đà có thể chui qua lỗ kim, ông Khai khó mà tìm được thằng nào vẽ con rồng lộn xỏ Tư Long. Ông thở dài thườn thượt, trong khi, anh em quét phòng, chia chỗ nằm. Nước trong phòng không còn một giọt, cầu tiêu ngập phân, thối um, tanh tưởi. Sàn nước nhơ nhớp. Chẳng cần một giờ, Tư Long sai liền trật tự lên dán miếng giấy "niêm phong" phòng và tuyên bố:
- Cúp nước một tuần. Cúp tắm một tuần.
Tưởng tượng một tuần lễ không có nước xối cầu! Anh em nhao nhao cào cấu ông Khai:
- Nhanh nhẩu đoảng, thật thà hư...
- Con rồng kệ mẹ nó, con c… cũng có sao! Báo cáo, báo cáo…
- Già mà ngu.
- Đọc kinh ra nước đi!
Ôi cha, ông Khai lãnh búa. Đúng là trên đe dưới búa. Chức sắc nhà tù khổ vậy đó. Tội nghiệp ông Khai. Ông đã bị cai ngục đì, còn bị anh em rủa. Đạo đức như linh mục Tự Do, hiền lành như anh Võ Xuân Đình mà cũng chê ông Khai tối dạ. Với Cộng sản thì phải gian dối, thành thật là lãnh đòn. Cái triết lý sống giả khùng của Bẩy Bốp Nguyễn Ngọc Tân hay nhất. Nguyền rủa ông Khai chán chê đâm ra mỏi miệng. Đành chịu đựng một hình phạt hiện thực xã hội chủ nghĩa, một hình phạt mà tôi tin rằng, ở Pháp, Bùi Kim Bảng vẫn nhớ, ở Mỹ, Hoàng Mạnh Hùng, Nguyễn Công Kha chưa quên. Nhưng nhân loại chưa biết. Các vị đại diện tù đòi hỏi nhân quyền chưa biết. Rằng, con người đã có những ngày sống như con vật.
Chúng tôi bị cúp hai lần tắm. Không sao. Nhưng một tuần không rửa mặt, đánh răng, không có nước rửa bát, rửa đít, xối cầu tiêu thì hãi hùng quá. Cai ngục Quỳnh đã dạy: "Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản". Mấy ai nhập tâm câu này? Thay vì chịu đựng để, nói theo Tố Hữu, "Nuôi đi em cho đến lớn đến già, mầm hận ấy trong lòng xương ống máu. Để mai mốt thêm hăng hồn chiến đấu, mà hôm nay em đã nhóm trong lòng", người ta hết than vãn lại gấu ó lẫn nhau. Dân tộc đã trưởng thành sau kinh qua lịch sử nghẹn ngào 30-4-1975, song vẫn còn nhiều người chưa khôn lớn, kể cả người trong tù và người ngoài tù, người trong nước và người ngoài nước. Chúng ta hằng nhắc nhở Phù Sai nằm gai nuốt mật nhớ thù, Câu Tiển nếm phân nuôi hận. Nhắc nhở thôi, chúng ta không thích noi gương… Ba Tầu. Ba Tầu là Ba Tầu, dẫu thù hận ở không gian và thời gian nào cũng đồng dạng, đồng tình. À, chúng ta sẽ chỉ thích anh Ba Tầu Hàn Tín. Mới bị dở nón chào thằng cai ngục đã nghĩ mình khuất thân ghê gớm, đã so sánh mình với Hàn Tín. Có tài năng như Hàn Tín hãy so sánh với Hàn Tín. Nhưng Hàn Tín xin cơm thuở bần hàn chứ không chịu "ăn cắp cháy, ăn vụng thịt, ăn tranh phần cơm heo". Tôi cần "phanh" tôi lại, trở về kỷ luật khốn kiếp mà Cộng sản bắt chúng tôi chịu đựng. Mỗi ngày, chúng tôi, mỗi tù nhân, chỉ được hai ca nước uống. Hai ca khoảng nửa lít. Nước uống cung cấp sáng và trưa. Cơm canh đều đặn. Nửa lít nước một ngày cho một tù nhân sống trong phòng giam 62 người, một người ba gang tay chỗ nằm. Trời đang mùa nắng, mồ hôi thường xuyên toát ra, nửa lít nước kỷ luật! Chúng tôi không dám pha bột, pha sữa, pha mì, không dám đánh răng, rửa mặt. Tự nhiên, cả phòng khen anh Nguyễn Mạnh Côn và tặng anh biệt danh Dr. Anti-Hynos, vì từ khi vào tù, anh Côn khước từ đánh răng. Chúng tôi phải xé áo, xé quần thành những miếng nhỏ. Để lau chén, muỗng sau bữa ăn. Và để chùi đít sau khi đại tiện. Tôi cố nhịn ỉa đến mức tối đa. Tôi thèm táo bón. Bất hạnh thay, vào đúng cơn khốn khó này, nhiều anh em bị bệnh tiêu chẩy. Trưởng phòng Phạm Quang Khai kêu gọi anh em khắc phục… ỉa! Người ta có thể nhịn ăn, nhịn uống chứ không thể nhịn đái, nhịn ỉa. Cầu tiêu ngập gần ngang mức gạch, xây cao che phần không tiện để ra của "kép tù" trên "sân khấu". Rốt cục, các "kép tù" đành ngồi trên hàng gạch xây, coi như "màn nhung" mà "diễn tuồng" đại tiện. Ông anh kết nghĩa Khai Trí của tôi đau khổ nhất. "Ai đau khổ vì bệnh trĩ"? Không khí phòng giam "ngạt ngào" mùi phân tiểu. Chúng tôi thở, chúng tôi ăn, chúng tôi uống, chúng tôi ngủ, chúng tôi ước mơ, chúng tôi hy vọng trong mùi phân tiểu nồng nặc.
Có lẽ, dưói ngọn cờ quang vinh của Đảng và bằng thành tích bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác Lê, các thứ vi trùng đều bị tiêu diệt hết. Nên, tù nhân không được chích ngừa một thứ bệnh gì cả. Cũng tốt thôi. Qua ngày thứ hai, Tư Long cho phép xách hai thùng nước dội cầu. Cầu đã đầy nghẹt, hai thùng nước thấm thía gì! Giá có con lươn anh hùng, lươn dũng sĩ thả vô trước vài tiếng đồng hồ rồi dội mạnh nước là "thông suốt vấn đề khẩn trương" và "hồ hởi phấn khởi" và "đột xuất bay mùi hương cách mạng". Chúa ngục Tư Long gian ác không cho mượn cây gậy thọc cầu. Thành thử phân ì ạch rút như sự tiến bộ ì ạch của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vậy đó, chúng tôi chịu đựng liên tiếp bốn ngàỵ. Thấy không có ai chết, Tư Long "giải phóng" phòng của chúng tôi ngày thứ năm. Chúng tôi xách nước "giải phóng" cầu tiêu", chà sàn nước, rửa phuy… Chúng tôi tắm gội. Vẫn chỉ 8 phút. Lúc ấy mới hiểu hạnh phúc đánh răng và hạnh phúc… rửa đít.
Sinh hoạt của phòng dần dà trở lại bình thường.
Thời kỳ này, chiến tranh biên giới Miên-Việt đã gay go. Các tỷ phú Tầu, các nhà tư sản mại bản không được ra ngoài làm việc nữa. Trần Thành hết nghề nuôi heo. Trương Vĩ Nhiên hết nghề y tá. Trương Vĩ Nhiên độc quyền nhập cảng phim ảnh Hồng Kông, Đài Loan. Anh ta là chủ nhiều rạp chiếu bóng lớn. Ở đề lao Gia Định, anh gánh cơm cho các phòng khu C-1. Cộng sản chọn có hai nhà tư sản mại bản đưa ra tòa: Lý Sen và Trương Vĩ Nhiên. Lý Sen lãnh án 15 năm. Trương Vĩ Nhiên 20 năm. Đến năm 1982, toàn bộ tư sản mại bản Chợ Lớn được tha hết. Không nghe nói Lý Sen, Trương Vĩ Nhiên có "trúng số" hay không. Những ngày Trương Vĩ Nhiên làm y tá, chúng tôi dễ chịu. Anh đề nghị bác sĩ Việt cộng cho tù nhân giữ hết thuốc tư. Chúng tôi khỏi đăng ký thuốc ở Y Tế, mất công ốm đau phải xin rút thuốc. Tư Long vẫn "ghim" phòng của chúng tôi. Hắn chủ trương "đong đo, cân đếm" tinh vi. Một tù nhân nửa lít nước uống và một lít nước xử dụng dịch vụ cá nhân, mỗi ngày. Tư Long nghiêm cấm trò "tắm gỡ" khi xuống hồ xách nước. Tù nhân chơi màn múc đầy thùng rồi nhấn mạnh cho nước trong hồ tràn ra "tắm gỡ", Tư Long cấm luôn. Hắn cấm đem theo bình múc nước riêng. Cuối cùng, cấm nước nhễu trên hành lang. Những người tình nguyện xách nước hết tình nguyện. Phòng lại ủy cho tổ. Tổ cắt người vác nước. Tư Long bắt vác nước trên vai không được nhỏ một giọt nào. Thành ra, thùng nước không đầy. Tôi nhớ bốn ngày cấm nước, chúng tôi đứng trên lầu nhìn xuống hồ. Thấy bọn trật tự đánh bóng chuyền xong thì nhẩy vào hồ nước đùa rỡn. Tư Long muốn chúng tôi đau đớn. Hắn đã nhầm. Đảng của hắn đã nhầm. Chủ nghĩa của hắn đã nhầm. Nếu đích thực là con người, đắm chìm trong bất cứ một nghịch cảnh nào, con người vẫn tồn tại với đầy đủ ý nghĩa làm người.
Một số anh em được gọi đi lao cải ở trại tập trung. Cai ngục nói rõ đi lao động cải tạo. Tôi dùng chữ được thay chữ bị. Thoát khỏi FG đã hạnh phúc, thoát khỏi Chí Hòa hạnh phúc nhân lên. Vậy thì Chí Hòa không phải là chốn cải tạo trường kỳ, là chốn tù nhân nằm chờ chết mòn bằng bệnh hoạn, bằng tuyệt vọng. Rồi sẽ đi… Những cuộc phiêu lưu mới đang đợi những bước chân sắp tê liệt. Trong số anh em đi lao cải có Phan Thành Trường, Nguyễn Đình Bách, Quang què, Cốc Chính Cương… Thời kỳ này, Cao Dao 1 đã "thống lĩnh" một "ngọn núi" Chí Hòa. Võ Long Triều từ đề lao Gia Định sang. Nguyễn Đan Quế cũng đã có mặt. Họ không vào phòng tôi. Nhóm luật sư "Nhân Quyền" ngự ở khu AH. Tôi không nghe kể tên Huỳnh Thành Vị. Như vậy, Chí Hòa đã nhiều nhân vật. Càng đông càng vui. Khu FG thay đổi toàn bộ cai ngục. Tư Long vẫn còn nhưng hắn không lảng vảng rình mò nữa. Một tên cai ngục mà Đoàn Kế Tường đặt cho hắn cái tên "Đề Xuất" – vì hắn ưa hỏi phòng có đề xuất gì không sau khi điểm danh – đã tặng chúng tôi một bài học đề xuất. Hắn hỏi hoài khiến ông Khai phải… đề xuất:
- Báo cáo cán bộ, phòng chật chội quá.
- Bao nhiêu người?
- Năm mươi nhăm.
- Tôi ghi nhận, sẽ nghiên cứu giải quyết
Ngay buổi trưa, cửa phòng mở, ông Khai nhận thêm 15 tù nhân hình sự gồm các tội móc túi ăn trộm. Dĩ nhiên, ông Khai lại bị công kích về tội "ngứa mồm" đề xuất. Đoàn Kế Tường ra mặt chống đối ông Khai. Chưa hết đâu, hôm sau, ông Khai tiếp nhận 5 tù nhân hình sự khác. Các tù nhân hình sự được chuyển tới Chí Hòa đều đã nằm ở nhà giam các quận. Mà nhà giam các quận là nơi con người biến thành ròi bọ. Hoàng Mạnh Hùng đã nằm nhà giam quận 3 một tháng. Anh kể những tệ trạng khốn kiếp xẩy ra. Cai ngục ngó lơ, mặc kệ vua tù và triều đình lộng hành. Thảm cảnh ức hiếp, bóc lột tù yếu và bắt cả tù yếu làm công việc "thổi kèn" để thoả mãn thú tính của tù mạnh còn ghê tởm gấp bội những "xen" tôi đã diễn tả về các phòng tạm giữ trong tiểu thuyết của tôi. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, vệ sinh ở các nhà giam các quận thả nổi. Chấy rận lổm ngổm, ghẻ lở kềnh càng. Một tháng tắm một lần. Ốm no bò dậy. Những màn đấm đá tàn bạo. Những màn trốn ngục táo bạo. Vua tù dám mua cai ngục một chai xì-dầu thủy tinh giá cắt cổ. Nó sai đàn em đập chai, nhắm bụng nó mà đâm mạnh. Đừng đâm chết. Bị thương nặng thôi. Cai ngục chở nó tới bệnh viện Đô Thành. Nó… vượt ngục ở đây dễ dàng.
Bị mắc mưu "đề xuất", phòng chúng tôi rộn ràng tiếng văng tục, chửi thề, lổm ngổm chấy, rận, cái ghẻ… Sự tranh giành cơm nước, chỗ nằm sinh động một đời tù Cộng sản. Rồi cũng quen đi vì đã có lần chịu đựng bốn ngày kỷ luật cúp nước. Tôi đã tưởng những mùi thối tha, tanh tưởi của phân tiểu, của máu mủ tù ngục sẽ làm mình quên bất cứ mùi tanh tưởi, thối tha nào bên ngoài, khi tôi ra đời. Rốt cuộc, tôi lại phải tương tư những mùi thối tha, tanh tưởi, hôi hám của tù ngục. Bởi vì, những mùi nồng nặc nhất của tù ngục vẫn thơm hơn những mùi kháng chiến, đấu tranh của đám cai thầu vô lại, của bọn mưu đồ danh phận bằng nỗi bất hạnh của dân tộc và tổ quốc chúng nó.
Phòng chúng tôi đã chẵn 70 mạng. Nước giới hạn, tắm giặt giới hạn, bệnh ghẻ tái phát và tăng trưởng thật lẹ. Tôi bị cảm cúm. Đoàn Kế Tường xoa dầu cù là, cạo gió. Ở "chuồng" lâu ngày, da chúng tôi mỏng và thịt bủng. Những vết cạo gió chẳng cần đợi lâu, hôm sau thôi, đã nhiễm trùng, sưng mủ. Tôi đã trải qua "mùa ghẻ" đề lao Gia Định. Thêm "mùa ghẻ" Chí Hòa. Tất cả tù nhân đều bị một thứ nấm "ăn" ở hạ bộ gây ngứa khó chịu. Hễ gãi mạnh xước da là thành ghẻ mủ ngay lập tức. Bởi vậy, tiến sĩ Hoàng Mạnh Hùng sáng tạo một kiểu gãi thần sầu. Dùng bàn chải đánh răng mà… chà ghẻ! Chà nhẹ nhàng. Bệnh ghẻ nham hiểm như Cộng sản. Ban ngày nó không hành mình, đợi lúc mình nằm ngủ nó mới ngứa. Hòa tấu khúc "đàn Ta-Lư" thường chơi đêm khuya. Âm thanh phóng ra đời sống chỉ là những tiếng "xoàn xoạt" liên tục. Vậy thì, bàn chải gãi ghẻ ban đêm và đánh răng ban ngày! Chúng tôi đã nuốt cái ghẻ. Anh Nguyễn Mạnh Côn ca ngợi ghẻ, nếu ghẻ mọc một mụn duy nhất ở đốt xương sống cuối cùng, gần hậu môn. Anh bảo có thằng cái ghẻ để gãi cũng đê mê lắm. Anh Côn nhận xét đúng. Để móng tay ngón út đùa bỡn với chú cái ghẻ ở đốt xương cùng thì tuyệt cú mèo. Nếu cái ghẻ là những thằng chụp mũ, là những thằng phản phúc, là những thằng hèn mọn bắn sau lưng, núp bóng tối đâm lén ta, chúng nó rất xứng đáng nằm ở đốt xương sống cuối cùng, gần hậu môn ta. Thiếu những thằng này, cuộc đời giảm nhiều thú vị. Ở trong bất hạnh, bạn cần tìm kiếm hạnh phúc. Tôi kiếm hạnh phúc từ ca nước ấm. Giúm muối bỏ vô, tôi lên "sân khấu" ngâm "toàn bộ". Ôi, đang ngứa bạo mà ngâm nước nóng, sướng sao mà sướng. Sướng hơn làm tình, sướng rên mé đìu hiu… Nếu tôi được soi gương lúc tôi thả "toàn bộ" vào nước nóng, tôi sẽ có định nghĩa chính xác về các tĩnh tử nghệt, thộn, đờ đẫn… Phi ghẻ bất thành tù. Gãi trong cơn ngứa đã đời lắm, nhưng xót xa sau cơn ngứa. Ngâm nước nóng trong cơn ngứa, đang ngâm thì đê mê mà ngâm xong thì "hồ hởi phấn khởi." Nhân vật tiểu thuyết của tôi nằm khám Chí Hòa bị ghẻ nước, đã khám phá ra chân lý hạnh phúc. Là đốt nến cho nhễu từng giọt xuống mỗi mụn ghẻ. Sức nóng của giọt nến vừa độ không làm phỏng da nên mỗi giọt nhỏ xuống một mụn ghẻ cơ hồ mỗi giọt sướng nhỏ xuống hồn. Nến không thể dùng cho hạ bộ, cái hạ bộ đen thui, mỏng teo. Phải nước ấm và muối. Nước ấm gây cảm khoái và muối làm se. Cái tứ khoái của cổ nhân cần thêm khoái lấy ráy tai, khoái ngoáy lỗ ghèn, khoái gãi ghẻ, khoái ngâm hạ bộ ghẻ vào nước ấm… Khoái lấy ráy tai, người Việt Nam nào chả biết, chả thích. Khoái ngoáy lỗ ghèn, ít ai biết. Nếu biết, người ta sẽ nghiện. Ở tù, bạn đến phòng nào cũng kiếm ra một vài tài năng lấy ráy tai, ngoáy lỗ ghèn, tẩm quất. Người ta chọn sợi tóc dài nhất trên đầu bạn, nhổ ra, chập đôi, se lại. Có tí an-côn rửa sợi tóc càng tốt, không có chẳng sao. Bạn nằm thẳng cẳng. Người ta vạch mắt bạn, đưa sợi tóc vào cái lỗ ghèn ở đầu con mắt, người ta xoáy sợi tóc. Cảm giác của bạn lâng lâng. Nước mẳt bạn trào ra. Bạn khoái tỉ cao độ, hắt xì hơi. Và bạn sẽ hiểu, trên đời có nhiều lạc thú, những lạc thú thiếu be bét trong cuốn Lạc thú ở đời của ông Lâm Ngữ Đường. Đời bạn, luôn luôn, gặp những lúc muốn hắt xì hơi mà không hắt xì hơi nổi. Bạn khó chịu. Bạn tức tối. Bạn ngước nhìn mặt trời hoài, vẫn không hắt xì hơi. Bạn thèm hắt xì hơi. Một phát thôi, bạn sẽ sảng khoái liền. Bạn ơi, lúc ấy, bạn được ngoáy lỗ ghèn, bạn sẽ hắt xì hơi lu bù. Anh Nguyễn Mạnh Côn đã thử ngoáy lỗ ghèn. Và anh ấy tuyên bố: "Sướng gấp bội say thuốc phiện." Ngoáy lỗ ghèn dễ dàng thôi, muốn lâng lâng thì được lâng lâng tức thời, chỉ cần tốn một sợi tóc. Ngâm hạ bộ ghẻ vào nước ấm, bạn sẽ nhịn uống bột Bích Chi và rồi, chính cái ca nhựa bạn ngâm hạ bộ, bạn sẽ múc nước đánh răng, rửa mặt và uống bột Bích Chi.
Vào thời kỳ ghẻ ngứa tưng bừng này, chúng tôi không được ăn cơm nữa. Chí Hòa luộc bột mì nuôi tù nhân. Mỗi bữa, mỗi tù nhân nhận hai cục bột luộc to bằng nắm tay. Bột mì của Đức Giáo Hoàng tặng bị pha với bột khoai mì xã hội chủ nghĩa. Bột luộc ăn với canh bí rợ nấu muối. Đề lao Gia Định còn chịu khó gọt vỏ bí, chứ Chí Hòa để nguyên vỏ. Tôi sợ nhà bếp lười biếng rửa luôn. Tù nhân phải se giây ni-lông rút từ bị đựng phân bón 2 làm… dao cắt bột thành từng khoanh. Có người cầu kỳ cắt bột nhỏ như con cờ, chan canh vào mà nuốt. Linh mục Nguyễn Văn Tự Do chế một lối súp tù. Ông bấu bột ngâm nước đường. Bột rữa ra, ông khuấy đều mà húp. Đa số cầm cả cục bột ngoạm cho xong chuyện. Tôi cũng ngoạm cả cục. Tay cầm tán đường mía, tay cầm bột luộc, tôi ăn. Ăn để sống. Đôi khi, tự an ủi mình, tự vuốt ve mình cho bớt tủi vì chậm chân không di tản kịp, chúng tôi vừa gãi ghẻ vừa hội thảo:
- Con người ăn nổi mấy bữa một ngày?
- Ba.
- Chúng ta đã ăn ba bữa.
- Đúng.
- Ăn sơn hào hải vị, ăn Hamburger, McDonald, uống Whiskey, Cognac, Coca, Pepsi, Fanta… đi cầu có thơm không nhỉ?
- Thối.
- Chúng ta đã đi cầu cũng thế.
- Lái xe Cadillac, hay Mercedes và nằm tù rồi có chết không?
- Chết hết.
- Thế nào là sống?
- Biết tận cùng của thống khổ.
- Chúng ta đã sống. Đã sống, đã biết sống. Thế đủ rồi. Ai có thể từ sự biết sống của mình, gởi lại cho đời sống điều gì đó càng tốt. Chẳng gửi lại thì thôi.
Như thế, chúng tôi đã ngoạm bột luộc, an phận ngoạm bột luộc. Tuyệt nhiên, chúng tôi không bình phẩm những người may mắn thoát vòng tù tội và đang sung sướng ở nước ngoài. Chúng tôi không hề biết gì về họ. Không hề biết gì về người khác mà phán xét người ta là thái độ của quân vô lại. Có lẽ, tôi không nên điểm mặt vô lại. Tự chúng nó, chúng nó đã chường nguyên mặt vô lại. Xin cám ơn quan tòa Thời Gian.
Cuối tháng 3-1978, bọn sát nhân, bọn trộm cắp bị chuyển trại. Tình trạng hỗn loạn của phòng tôi chấm dứt.
Nhà tư sản mại bản Đào Mậu rồi Tăng Tài được thả. Lệnh tha đọc ngay tại phòng. Chúng tôi hân hạnh tiếp đón thượng khách: Linh mục Nguyễn Quang Minh, nhân vật hàng đầu của vụ án nhà thờ Vinh Sơn. Cùng với linh mục Nguyễn Quang Minh còn có linh mục Chức và vài người nữa. Linh mục Chức nói hơi nhiều, nói gần như ba hoa chích chòe. Ngược lại, linh mục Minh trầm lặng. Ông nằm hàng giữa phòng, cả ngày ngồi trầm tư. Các con chiên quấn quanh linh mục Minh nhờ ông "làm lễ." Tôi đã chứng kiến cảnh linh mục treo mùng ngồi trong, con chiên xưng tội ngồi ngoài, hồi tôi ở chung với linh mục Pham Minh Thiện tại đề lao Gia Định. Nhưng cảnh "rước lễ" ở Chí Hòa, tôi nghĩ, là cảnh "rước lễ" bi thảm và tuyệt vời nhất của lịch sử Thiên Chúa giáo. Nửa đêm, chờ tù nhân ngoại đạo ngủ kỹ, linh mục Nguyễn Quang Minh ngồi dậy. Ông cũng mặc quần xà lỏn, áo sơ-mi như mọi tù nhân. Tôi không biết, không hỏi bằng cách nào linh mục Minh có "bánh thánh" và "rượu lễ." Vốn là tù nhân khó ngủ, thao thức gần sáng mới nhắm mắt, nên tôi đã được nghe nhiều điều lạ xẩy ra ban đêm. Thí dụ những lời báo cáo hồ đồ của tù nhân ở cachot, những tiếng khóc của con nít, những câu hát của nữ tù dưới ô… Và rồi, được chứng kiến cảnh "rước lễ". Ở Chí Hòa, không có tuần tra ban đêm. Khi kẻng báo ngủ điểm, các cửa sắt hành lang khóa kỹ. Những việc vi phạm Nội quy có sợ là sợ những tên bộ đội đào ngũ, những tên cán bộ mất phẩm chất cách mạng nhòm ngó thôi.
Cùng lúc linh mục Minh ngồi dậy, các con chiên cũng lần lượt ngồi hết dậy, vì đã dặn dò "đêm lễ," tất cả đều giả vờ ngủ. Dưới ánh điện vàng, linh mục Nguyễn Quang Minh áo sơ-mi, quần xà lỏn, ngồi khoanh chân thầm thì rao Phúc Âm. Các con chiên tội nghiệp chung quanh đang kính cẩn hướng về Cha của họ. Hình tưởng Chúa Jesus "thấy quần chúng, bèn leo lên núi. Khi ngài đã ngồi thì các môn đồ tớì cùng Ngài. Ngài mở miệng dạy họ:
Phước cho kẻ có lòng nghèo khó, vì nước Trời là của kẻ ấy.
Phước cho kẻ buồn thảm, vì sẽ được yên ủi.
Phước cho kẻ nhu mì, vì sẽ thừa thọ đất.
Phước cho kẻ đói khát về sự công nghĩa, vì sẽ được no đủ.
Phước cho kẻ hav thương xót, vì sẽ được thương xót.
Phước cho kẻ cỏ lòng trong sạch, vì sẽ thấy được Đức Chúa Trời.
Phước cho kẻ chịu bắt bớ vì sự công nghĩa, vì nước Trời là của kẻ ấy.
Phước cho các ngươi khi người ta lăng nhục, bắt bớ và vu cho mọi điều ác vì cớ ta.
Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng các ngươi trên Trời là lớn… 3
Linh mục Nguyễn Quang Minh ở trong hoàn cảnh khốn khó hơn. Quân dữ bốn bề. Ông không có núi mà leo. Ông ngồi giữa căn phòng hôi hám của khu FG Chí Hòa làm sáng danh Thiên Chúa. Chắc chắn, Chúa Jesus đã ban phép truyền âm cho linh mục Minh để ông giảng Phúc Âm cho con tin theo "bí kíp" truyền âm. Vẫn bài giảng bất hủ đó thôi, tôi nghĩ vậy. Ông bác bỏ mọi nghi lễ của Giáo Hội. Nghi lễ vụ hình thức. Hình thức là giả dối. Chúa nghèo, Chúa không giầu. Chúa đi chân đất. Chúa đâu có trình diễn như Đức Giáo Hoàng. Nên Chúa đã là Chúa. Linh mục Nguyễn Quang Minh mang hình ảnh Chúa, tâm hồn Chúa vào Chí Hòa. Ông ngồi một lúc thì dơ tay lên. Lần lượt, các con chiên đứng dậy, rời chỗ nằm của mình, giả vờ ngang qua chỗ Cha, ngồi xuống, há miệng nhận "bánh thánh" rồi giả vờ lên cầu tiêu, rồi trở về chỗ của mình. Linh mục Nguyễn Quang Minh sẽ lên nước Thiên Đàng gặp Chúa Jesus, sẽ kể cho Chúa Jésụs nghe chuyện "sống đạo giữa tù" dưới thế. Các ông cha di tản, vượt biên về hết Địa Ngục, cần báo trước, Địa Ngục có nhiều món hấp dẫn hơn Thiên Đường. Chúa Jesus tìm đến chỗ cùng khổ. Các ông cha tìm đến nước Mỹ sung sướng. Chúa ơi, kẻ ngoại đạo thương Ngài lắm. Ngài bị khá đông chiên ghẻ nhân danh Ngài mà buôn bán, đổi chác…
Linh mục Nguyễn Quang Minh là người khả kính. Ông sống chung với chúng tôi đến cuối tháng 4 năm 1978, thì rời phòng. Từ đó, tôi không được nghe nói gì về ông nữa. Tôi đã đàm thoại với ông hai lần. Cả hai lần, ông đều khẳng định: "ông tin tôi chứ, ông Duyên Anh? Không to tát như người Cộng sản phóng đại. Không có đường hầm, không có đài phát thanh, không có máy in bạc giả, không có súng đạn, không có chống trả gì trong nhà thờ Vinh Sơn cả". Phải, không có gì cả. Linh mục Nguyễn Quang Minh không bao giờ làm phản động. Người Cộng sản đã chọn nhà thờ Vinh Sơn, đã bịa đặt thế. Mục đích của họ là dằn mặt những người Thiên Chúa giáo quá khích hậu thuẫn Đức Cha Thuận về thay thế Tổng giám mục Bình và lấy cớ bắt nhốt một số linh mục và trí thức công giáo. Một số tổ chức chống Cộng sản sau 30-4-75 do các lãnh tụ công giáo lãnh đạo đều bị ghép dính vào vụ nhà thờ Vinh Sơn, kể luôn tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng và Ali Hùng.
Linh mục Minh, linh mục Chức và những người dính líu vụ Vinh Sơn xuống phòng lầu 1 dành cho những tù nhân đã thành án. Nhưng tử tù Vinh Sơn vẫn thoi thóp trên cachot FG. Chúng tôi gặp mặt Ali Hùng lần chót hôm chàng được xuống hành lang xế phòng tôi tắm nắng. Người nhái Ali Hùng đã thành bộ xương cách trí. Mắt chàng trũng sâu, thâm quầng. Người tử tù biết mình chết, biết mình phải chết mà cứ bị kéo dài nỗi sống thảm. Nhân loại vẫn chưa vỡ lẽ Cộng sản đâu. Chúng ta cần "giáo dục" nhân loại: Dưới chế độ Cộng sản, sống đã nhục nhã mà chết càng nhục nhằn. Muốn sống không được sống, muốn chết không được chết. Hình như, nhân loại dần dà mất tính người. Bạn thử công khai giết một con chó nấu rựa mận ở nước Pháp coi, cô đào Brigitte Bardot sẽ điên lên, sẽ nhân danh Hội Bảo Vệ Súc Vật truy tố bạn ra tòa án. Thế nhưng, bọn khủng bổ sát hại "đồng bào" cô ta, cô ta không có ý kiến. Đó là nhân loại, là lương tri, mọi chuyện để bắn phá giáo đường, xúc phạm thánh là trắc ẩn, là xúc động dành cho đồng loại của nó, thời đại của nó.
Một tuần, sau ngày linh mục Nguyễn Quang Minh ra đi, linh mục Nguyễn Văn Tự Do ra đi nốt. Đoàn Kế Tường nóng lòng đi lao cải. Phiên họp cuối tuần nào, Tường cũng xin ghi vào biên bản. "Tôi tình nguyện lao động cải tạo mười năm." Sự tình nguyện của Đoàn Kế Tường trở thành chuyên hài hước. Không ai trả lời Tường cả. Với Tường, ở phòng tập thể hai tháng là thời gian quá lâu. Tường bực bội, gây gỗ lung tung. Người bị Tường gây gỗ thường xuyên là Trưởng phòng Phạm Quang Khai. Song song vụ gây gỗ Tường-Khai là vụ đấu tranh tư tưởng quốc gia, Cộng sản giữa Mai Đức Khôi và Phạm Văn Diện. Tôi nhớ Khôi cụt đã kê tủ đứng vào họng Phạm Văn Diện câu này: "Anh mất mẹ nó phẩm chất cách mạng rồi, đợi bao giờ lấy lại phẩm chất cách mạng hãy đấu tranh với tôi. Cỡ tôi đâu thèm đấu tranh tư tưởng với cựu phường trưởng." Khôi cụt yêu cầu ghi vào biên bản. Và Khôi cụt liên tục "ra làm việc" cả tuần. Trước Khôi cụt, Quang què đã công kích Diện những lần Diện thở giọng Cộng sản trong buổi họp. Nhưng Phạm Văn Diện, nhờ bị Khôi cụt chửi thẳng mặt, được thay thế Phạm Quang Khai nắm chức Trưởng phòng. Diện biết điều, gặp riêng Khôi cụt xin lỗi. Có Diện cai trị, bọn bộ đội đào ngũ ngoan ngoãn. Diện nể nang Tường nên mọi chuyện trong phòng tốt đẹp. Đoàn Kế Tường hết đối tượng công kích thì bầy trò chọc cười Tư Nhì. Ông Tư Nhì chuyên hút thuốc lá nhãn hiệu Lá Vàng 20 điếu gói bằng bao ni-lông. Anh ta nhiều thuốc mà hút tiết kiệm, không đốt liên miên giống chúng tôi. Muốn được Tư Nhì tặng nguyên gói, Đoàn Kế Tường và Dương Đức Dũng phải song ca hai bè một đoạn nhạc của Phạm Duy, theo điệu bài Tiếng đàn tôi.
Ông Tư Nhì ơi
Cả phòng hết thuốc rê rồi,
Ông Tư Nhì ơi!
Mình ông còn Lá Vàng thôi…
Để quên ngày tháng Chí Hòa, Đoàn Kế Tường và Dương Đức Dũng thi hát nhạc sến xem ai thuộc nhiều nhạc sến nhất. Kiến thức nhạc sến của tôi dồi dào vào dịp này. Đoàn Kế Tường có khiếu hài hước, có trí nhớ thật tốt. Tường thuộc nhạc "cách mạng" đủ bài. Bài nào Tường cũng chêm một câu phản động. Thí dụ, bài Cô gái vót chông.
*√_%
... Còn giặc Mỹ cọp beo
Khi còn giặc Mỹ cọp beo
Em chưa ngừng tay vót chông rào làng
Nhưng mai đây giặc chạy rồi
Tre rừng ta làm nhà làm chòi cao
Tường hát rất thành khẩn:
… Nhưng nay mai giặc chạy rồi
Thằng Việt Nam lại nhốt thằng Việt Nam…
Một hôm, cả phòng cười lăn lộn. Ông Khai cười rung râu, Tường mượn cuốn lịch tay Quân đội nhân dân của bạn tù xem. Dở trang ghi lộ trình hỏa xa, Tường đọc lớn:
"Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1000 ki-lô-mét. Thành phố Hồ Chí Minh, Chí Hoà, 1 ki-lô-mét. Thành phố Hồ Chí Minh, đề lao Gia Định, 3 kí-lô-mét… Thành phố Hồ Chí Minh, nhà tôi, 100 ngàn ki-lô-mét!"
Ấy đó, niềm vui FG. Chúng tôi buồn như vậy, vui như vậy. Cạnh nỗi buồn, niềm vui còn có khoái gãi ghẻ và khoái ngoáy lỗ ghèn. Mọi việc sẽ bình thường, nếu con người can đảm chịu đựng và cố gắng tìm kiếm sự bí ẩn trong thống khổ.
--------------------------------
1 Đã sang Bỉ năm 1984 và chết ở Bỉ năm 1986. Một người tài giỏi, không thích hợp với bất cứ chế độ nào và ở bất cứ chế độ nào cũng nằm tù.
2 Thân nhân thường mua túi đựng phân bón chứa quà gửi vào cho được nhiều và tiện.
3 Bài giảng trên núi của chúa Jesus theo Thánh Matthew, trong Kinh Thánh, bản tiếng Việt của hội Gideons quốc tế.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 25
Chiến dịch đánh tư sản năm 1978 tàn bạo đến nỗi Chí Hòa leo thang tù nhân. Phòng của tôi chứa 90 người. 90 người thay phiên lên “sân khấu”, điều này thôi đã đủ nói lên sự bi đát của chế độ ngục tù cộng sản. 90 tù nhân một cái cầu tiêu hạn chế nước xối. Khó mà hiểu tại sao tôi còn sống sót. Khó mà hiểu tại sao chúng tôi còn sống sót. Khó mà hiểu tại sao con người có thể vượt qua những hình phạt của thù hận để tồn tại. Và, càng khó mà hiểu tại sao con người thích trừng trị con người nghiệt ngã thế. Tôi đối nghịch tư tưởng cộng sản, người cộng sản bắt tôi, giam nhốt tôi, hành hạ tôi là điều “công bình, hợp lý” nặng tính chất lê-nin-nít. Nhưng cơ man đàn bà buôn bán và con cái họ vì sự “hợp lý” nào mà phải vào tù, phải ngồi bó gối suốt đêm ở sân Chí Hòa, khóc lóc sầu thảm? Ánh sáng quang vinh của Đảng có vinh quang thêm? Marx không bần tiện thế. Engels không bần tiện thế. Chỉ có lãnh tụ cộng sản Việt Nam mới vô liêm sỉ bắt đàn bà, con nít lùa vào các nhà tù về tội buôn bán mà họ nâng quan điểm lên hàng tư sản. Suốt đời, tôi mãi mãi bị ám ảnh bởi tiếng khóc khô cổ nghẹn lời của những người vợ, chồng đã bị lưu đầy, vợ con còn bị tước đoạt chỗ dung thân, bị tống vào tù, bị phơi nắng, dầm sương hai ngày đêm mới “nghiên cứu” phòng nhốt dồn họ vào chen chúc nhau nằm, ngồi như súc vật. Tố Hữu ca ngợi Hồ Chí Minh: “Tự do cho mỗi đời nô lệ,” rồi chính Tố Hữu và đồng bọn biến đồng bào thành nô lệ, thứ nô lệ tồi tệ hơn cả nô lệ thời trung cổ. Bài học của cai ngục Quỳnh đánh thức tôi: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống cộng sản.’’ Tôi đã nghiến răng nuốt đau khổ, từng phút, từng giây. Với tôi, đau khổ là thực phẩm nuôi dưỡng tôi khôn lớn. Văn chương một chút và lãng mạn một chút, tôi mơ ước khám phá ra niềm bí ẩn của đời sống trong cực kỳ thống khổ. Những trang sách của ngày mai sẽ đỡ tẻ nhạt hơn những trang sách ngày qua. Có lẽ không, chắc chắn, ước mơ đã cho tôi sự tồn tại.
Sau chiến dịch đánh tư sản, Chí Hòa mở cửa đón tiếp các giáo viên Việt gốc Hoa mà họ bảo là thân Trung Cộng và làm gián điệp cho Trung Cộng. Những người này, trước 1975, đã cộng tác mật thiết với Việt cộng, đã “nằm vùng” Chợ Lớn. Thêm nữa là những người khờ khạo, nghe lời Mai Chí Thọ, đăng ký về Tầu. Trung Cộng dựng vở “Hoa nạn” chơi Việt cộng phản bội đàn anh. Hai chiếc tầu của họ đã vào vùng biển Vũng Tầu. Trung Cộng gây áp lực thì chỉ khổ Tàu máu mặt ở Chợ Lớn. Chí Hòa đầy nghẹt tù… Tầu. Nền tù ngục sầm uất, phát đạt. Chiến tranh biên giới Miên – Việt càng ngày càng khốc liệt. Chúng tôi biết qua những mảnh giấy báo “ngụy trang” gói quà thăm nuôi. Ở Chí Hòa, tù nhân cách biệt hẳn với xã hội loài người. Không được nghe ra-đi-ô, không được đọc báo. Tù nhân mòn mỏi theo tiếng kẻng răn đe. Tôi đã ngỡ mình sẽ chết tại khu FG. Bất ngờ, tháng 7-1978, chúng tôi chuyển sang khu AH, cả phòng.
AH là thiên đường của Chí Hòa so với FG địa ngục. Không còn ED chế độ riêng lẻ và đặc biệt nữa. Nhà Nước xã hội chủ nghĩa đã thống nhất nhà tù Chí Hòa. Bốn khu đều thuộc quyền quản lý của Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn ăn uống giống nhau nhưng cung cách quản chế khác nhau, tùy thuộc Trưởng khu. Trưởng khu AH tên là Vũ. Anh ta còn trẻ, trên 30 tuổi, tóc hơi loăn xoăn, bồng bềnh, khuôn mặt tươi tỉnh. Đợi chúng tôi chia chỗ nằm, sắp xếp hành lý xong, anh ta đến với hai cai ngục, trẻ như anh ta. Trưởng khu Vũ tự giới thiệu tên tuổi, chức vụ của mình, rồi “tâm sự”:
- Chúng tôi không phải là công an gốc. Đồng chí Thuận, đồng chí Phong đây và tôi đều từ quân đội điều sang ngành công an quản giáo can phạm. Chúng tôi đảm trách khu AH. Tất cả sẽ dễ dàng với anh em trong khả năng của chúng tôi, yêu cầu anh em đừng gây khó khăn cho chúng tôi. Ai làm Trưởng phòng bên FG?
Phạm Văn Diện đáp:
- Báo cáo cán bộ, tôi.
- Anh tiếp tục làm Trưởng phòng. Chúng tôi sẽ cố gắng giữ quân số phòng các anh là 50, tối đa 60. Anh chuẩn bị cho anh em đi tắm.
Trưởng khu Vũ nói năng nhẹ nhàng. Rõ ràng, anh ta không phải là cai tù chuyên nghiệp như Hai Phận vĩ đại, cai tù nằm vùng như Tư Long anh hùng. Anh ta là lính.
Người lính chiến, dưới bất cứ chế độ nào, dưới bất cứ mầu cờ nào, đều hào sảng hơn công an, cảnh sát. Sự dễ dàng mở màn bằng cuộc tắm giặt “bao giờ xong thì tự giác xếp hàng.” Ông Phạm Quang Khai lại được gội râu. Chúng tôi tắm giặt cạn mấy hồ nước, nước chẩy vô không kịp. Mấy tháng tắm 8 phút không dám xát xà phòng, nay được kỳ cọ, xát xà phòng, cảm giác hạnh phúc tràn trề. Trưởng khu Vũ ngồi hút thuốc lá chờ chúng tôi tắm và dẫn chúng tôi về phòng. Chúng tôi phơi quần áo ở hành lang trước phòng mình. Anh ta nói:
- Vì thiếu cán bộ mà lại đông phòng, chúng tôi không thể cho các anh tắm mỗi ngày một lần. Vậy một tuần các anh tắm ba lần, mỗi lần nửa tiếng đồng hồ. Nước dùng trong phòng sẽ tăng lên.
Chúng tôi được cấp thêm một cái phuy. Mấy ngày đầu, xuống hồ xách nước, tự do xối nước. Rồi AH dùng máy bơm nước lên các lầu. Chúng tôi xách nước vào phòng đỡ vất vả. Trưởng khu Vũ cho chứa nước vào các xô, các bình cá nhân, ngoài hai phuy đầy tràn. Nước ê hề, nạn ăn cắp, sự gây gỗ chia nước chấm dứt. Trật tự khu AH hoàn toàn mới và không đến nỗi cô hồn. Một hôm, có thằng trật tự FG sang AH, chúng tôi xầm xì, lo ngại. Trưởng khu Vũ biết, anh ta trấn an ngay:
- AH là AH, FG là FG.Tất cả do cán bộ không do trật tự.
Nhưng Trưởng khu Vũ đuổi tên trật tự FG xuống lầu 2. Anh ta cho chúng tôi mượn tông-đơ, kéo, lưỡi lam. Chúng tôi cắt tóc cho nhau. Và tôi biến thành thợ hớt tóc “hạng nhất.” Những khách hàng đầu tiên bị tôi “thí nghiệm” đều có những mái tóc đặc biệt. Tôi đã chơi kiểu tóc Jules César cho văn hào Nguyễn Mạnh Côn, kiểu tóc Indonésie cho Đoàn Kế Tường, kiểu tóc Tintin cho Đằng Giao… Cuối cùng, tôi chỉ còn cắt kéo tỉa dao. Và thân chủ của tôi là Ngụy Nghiên Trinh, Dương Đức Dũng, Hoàng Mạnh Hùng. AH là thiên đường của Chí Hòa so với FG địa ngục là vậy. Tôi không hiểu sự dễ dãi có nằm trong chính sách của Đảng? Có một chiều, sau khi điểm danh, Trưởng khu Vũ ở lại xem chúng tôi sinh hoạt. Rồi anh ta hỏi:
- Anh nào là Nguyễn Mạnh Côn?
Anh Côn đứng dậy:
- Tôi đây.
- Anh ngồi yên đi, đừng đứng dậy. Anh nào là Đằng Giao?
- Tôi đây.
- Anh nào là Duyên Anh?
- Tôi đây.
- Anh nào là Đoàn Kế Tường?
- Tôi đây.
- Dương Đức Dũng?
- Tôi đây.
- Đặng Hải Sơn?
- Tôi đây.
- Mai Đức Khôi?
- Tôi đây.
- Các anh nhà văn, nhà báo, các anh có tội với Đảng chứ không có tội với ai hết. Các anh lao động đầu óc, khác mấy anh tư sản mại bản. Tôi kính trọng các anh với tư cách cá nhân. Tôi là bộ đội, đang là công an tạm thời, chờ chuyển ngành hoặc giải ngũ. Tôi đã lấy vợ. Vợ tôi người Thủ Đức.
Chúng tôi “hội thảo bỏ túi” và đồng ý với nhau nên thận trọng với những dễ dãi của AH. Trưởng khu Vũ thích nói chuyện vớí “các anh nhà văn nhà báo”. Anh ta mời chúng tôi hút thuốc lá và không ngần ngại đến xin thuốc lá chúng tôi khi hết. Trưởng khu Vũ dễ dãi với toàn khu AH. Đặc trách lầu 3 có cai ngục Thuận và Phong cũng dễ dãi. Đằng Giao được gọi ra ngoài trang trí phòng họp và vẽ Nội san Chí Hòa, tối tối đem về phòng một bình nước nóng hổi. Tôi có những đêm ngủ ngon lành. Hạnh phúc tới về đêm. Hạnh phúc trong ca nước ấm pha muối ngâm “cái sự thừa thãi” mà gây rắc rối ở tù. AH cho phép tù nhân ra hành lang phơi nắng tuần lẽ hai lần và tự do nói chuyên với phòng lân cận. AH và FG, là hai thái cực. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai thái cực. Cộng sản đầy rẫy mâu thuẫn.
Ở AH, chúng tôi đã nhìn rõ Ngô Khắc Tỉnh, Hồ Văn Châm vì hồ tắm của AH sát khu BC. Chúng tôi còn thấy mấy người Đại Hàn trên phòng. Thời kỳ này, Nguyễn Đình Toàn đã từ đề lao Gia Định qua Chí Hòa và “trụ trì” khu FG. Đứng ở hành lang AH phơi nắng, tôi nhìn Nguyễn Đình Toàn gầy ốm tắm dưới hồ nước FG. DươngĐức Dũng đã sống chung với Nguyễn Đình Toàn tại 5C-2 đề lao Gia Định và được tác giả Tro than dạy truyền khẩu mấy ca khúc như Saigon, niềm nhớ không tên, Lưu đầy giữa quê nhà… Cũng vào thời kỳ này, tướng cướp lừng danh Điền Khắc Kim đã bị đem ra nhốt ở Thanh Hóa, bị dẫn về khu AH. Cả khu xôn xao vì súng lên đạn dẫn độ Điền Khắc Kim lên cachot. Sinh hoạt của chúng tôi lại đều đặn, bình thường, buồn bã. Nhiều người đã quên FG bốn ngày cúp nước hãi hùng. Tất cả đã quên bài giảng của cai ngục Quỳnh; “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chống cộng sản.” Chúng ta có một đức tính khả ái. Là dễ quên đau khổ. Ngay ở trong tù. Một chút sướng nhỏ đã đủ quên khổ lớn. Và hễ được vuốt ve là quên tranh đấu. Người cộng sản ưa xử dụng hai danh từ bản chất và hiện tượng. Tôi cho rằng trưởng khu Vũ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Bởi vì, khi con người vụt thức tìm lại cái bản chất đích thực của nó, chủ nghĩa cộng sản sẽ nghiêm chỉnh phê bình nó mang hiện tượng xấu. Cái tốt đối với chúng ta là cái xấu đối với cộng sản. Nói rõ ràng hơn, cái thiện của con người, cộng sản gọi là hiện tượng. Cái ác của cộng sản, họ gọi là bản chất. Hiện tượng và bản chất lại còn được xử dụng lung tung. Đảng sai, Đảng đổ vạ cho cán bộ và bảo đó là hiện tượng. Đảng đúng, Đảng bảo đó là bản chất. Bản chất của Đảng, thực ra, chỉ là gian ác và gian ác. Vậy nên chấp nhận hiện tượng của Trưởng khu Vũ, thứ hiện tượng dễ chịu và đối nghịch bản chất Tư Long, bản chất Đảng.
Dần dà, chúng tôi nhận ra Trưởng khu Vũ không “đóng kịch.” Anh ta còn nhiều tính người. Anh ta còn là con người. Đừng hòng một chúa ngục tặng tù nhân thuốc lá và tỉnh bơ xin thuốc lá tù nhân. Tôi suy nghĩ mãi về sự gần gũi của con người và sự tìm đến nhau của con người. Và đó là cảm hứng Thơ tù của tôi, cũng là oan khiên của đời tôi. Một hôm, cai ngục Thuận gọi Nguyễn Mạnh Côn, Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng và tôi ra “làm việc.” Ở bàn giấy đầu hành lang đã pha sẵn bình trà và những cái ly nhựa. Trưởng khu Vũ chờ chúng tôi. Anh ta rót trà:
- Làm việc gì đâu. Lấy cớ mời các anh ra uống trà chơi. Các anh chịu khó đứng nhé!
Xong tuần trà, anh ta nói:
- Các anh không ở đây lâu đâu. Tôi cũng không ở đây lâu đâu. Tôi không thích công tác quản giáo tù nhân. Tôi ít tuổi hơn các anh, xin các anh một điều: Đừng chống đối cán bộ quản giáo, bất cứ nơi nào. Họ không có quyền bắt các anh, không có quyền tha các anh nhưng có quyền hành hạ các anh, đầy đọa các anh vào chỗ chết thảm.
Thật khó hiểu Trưởng khu Vũ. Tác giả Cộng sản là gì? Nguyễn Mạnh Côn về phòng bình luận: “Thằng đó không phải là cộng sản.” Tôi bỗng nhớ câu thơ bất hủ của Hoàng Cầm: Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam. Trưởng khu Vũ cư xử tốt với mọi tù nhân, anh ta nặng cảm tình với nhà văn, nhà báo 1. Nhờ một tên trật tự hiền lành làm môi giới, chúng tôi “mua” cai ngục Thuận bằng quần tây, áo sơ-mi mang vào tù mà khó mặc về nhà. Cai ngục Thuận thèm ăn diện, mặc cả tiền luôn. Thế là, chúng tôi lần lượt gặp mặt vợ con. Chuyện này, trưởng khu Vũ không hề biết- Mà chúng tôi không ngu kể cho anh ta nghe.
Đầu tháng 8, Phạm Văn Diện đi lao động cải tạo. Nguyễn Sơn La và Nguyễn Kiến Thiết phòng cạnh, đổi sang phòng chúng tôi. Nguyễn Sơn La, đại úy quân đội nhân dân, dân Quỳnh Côi, Thái Bình, giải phóng miền Nam xong thì được chuyển sang ngành thương nghiệp, can tội mất phẩm chất cách mạng, vào tù. Anh ta làm Trưởng phòng. Nguyễn Sơn La vui nhộn, thật thà và không ngại ngần khoe sơ yếu lý lịch… bần cố nông. Anh ta bảo vì thèm ăn ngon, mặc đẹp mà xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.
- Bố tôi đặt tên tôi là Sơn La vì tiên đoán sẽ mất tỉnh Sơn La.
Anh ta nói oang oang. Đã hai lần ra tòa, lần nào cũng đeo quân hàm và huân chương đầy ngực. Nguyễn Kiến Thiết, thiếu úy quân đội nhân dân, đệ tử của Nguyễn Sơn La, chung một tội thụ hưởng khẩn trương, quên Bác quên Đảng. Anh ta làm trật tự phòng. Cả hai phản động hơn phản động. Trưởng khu Vũ phá lệ Chí Hòa, không phát giấy làm biên bản họp cuối tuần, Nguyễn Sơn La dẹp bỏ họp cuối tuần luỏn. Sau hết, điểm danh buổi sáng cũng lơ là. Tháng 8 năm 1978, thằng con trai đầu lòng của tôi trốn khỏi Việt Nam. Tôi nhận thư nhà bảo tin: “Cu Tí về Long Xuyên, nhưng còn rong chơi dọc đường.” Tôi lo lắng vô cùng. Chỉ sợ Cu Tí bị bắt, bố tù, con tù thì rắc rối to. Hầu như, từ hôm con tôi xuống thuyền, ngày nào tôi cũng có thư. Đến hôm, thư nhà báo tin: “Cu Tí ghé cù lao ông Chưởng rồi mới về ở với cậu Tư.” Tôi thở phào sung sướng. Con tôi đã tới hòn đảo nào đó. Nghĩa là tôi không sợ nó vào nhà tù cộng sản. 19 tuổi, tôi làm cuộc phiêu lưu Hà Nội – Saigon, tưởng đã dài. 16 tuổi, Chương còm phiêu lưu vĩ đại hơn tôi, gian khổ hơn tôi. Con tôi đã vượt biển thành công, tôi nuôi hy vọng mới: Vợ tôi sẽ đưa một hai đứa con tôi ra đi thành công. Còn tôi, tôi bình thản sống đời tù, “sống bằng không mà chết cũng bằng không.” Tôi đã sống một thuở bơ vơ và sẽ sống tiếp thuở bơ vơ còn lại.
Ở AH, Bùi Kim Bảng và Ngụy Nghiên Trinh nhận lệnh tha. Bùi Kim Bảng, nhân vật thần sầu, kịch sĩ lên “sân khấu” đúng giờ giấc, cũng để lại một kỷ niệm… tư sản mại bản. Ông ta nằm cạnh tên tù hình sự Lê Anh Kiệt. Biết chắc mình được về, ông ta nhờ cai ngục đem lại tặng Lê Anh Kiệt cái bị cói có hai món đồ. Lê Anh Kiệt hí hửng dở ra. Một: Gói thuốc lá Saigon giải phóng đầu lọc còn đầy nhưng đã mốc thếch. Hai: Gói tôm khô đã mọc rêu xanh. Tên tù hình sự đành liệng vô thùng rác. Ông Bùi Kim Bảng không hút thuốc lá. Dịp Tết, gia đình ông gửi cho ông một gói mừng xuân, ông mời tôi một điếu, hút một điếu rồi để dành chờ được tha mới… tặng đệ tử. Ông Bảng về xum họp gia đình, cả phòng mừng rỡ. Chúng tôi có thể yên lòng ăn cơm trưa, ông Bảng về, ông Phạm Quang Khai mất trộm. Mấy thằng hình sự cấu kết “đi chợ” gần hết “kho” thực phẩm của ông. Ông la lối rùm beng, kê khai hàng chục thứ. Trưởng phòng Nguyễn Sơn La yêu cầu anh em cho ông Khai khám hành lý. ông thu hồi ít bánh, ít mì, sữa bột, đường, thịt chà bông của ông, chúng nó đã ăn bằng hết hồi đêm. Nguyễn Sơn La không báo cáo Trưởng khu và cai ngục. Ông Phạm Quang Khai mất trộm, ông "ướp muối” Nguyễn Công Kha giật mình, Ồng Kha nuôi thằng bộ đội đào ngũ tên Việt, ông gửi nó giữ hộ mấy kí-lô thịt chà bông. Nó treo gần cầu tiêu. Mỗi ngày, đi cầu, ông Kha đều kiểm soát. Ông phấn khởi vì cái bị cói lúc nào cũng nặng. Thấy bạn mất bò, ông lo, ông gở bị xuống, định đem về chỗ mình. Than ôi, chỉ có mấy cục gạch!
- Sao thế này, Việt?
- Cháu không biết.
- Tao nuôi ong tay áo à?
- Ai bảo ông nuôi ong?
Nhà tư sản giận tím mặt. Vô sản nhà tù đã vùng lên và đã thắng lợi tư sản mại bản. “Bạn tù, tình nhà thổ.” Một tên tù cảm khái nói. Ăn no nê thịt chà bông của ông Khai, và ông Kha xong, đám hình sự lên đường đi lao cải. Hai nhà tư sản tiếc rẻ. Giá chúng nó đi sớm vài ngày!
Phòng chúng tôi tiếp nhận một số tù nhân vượt biên và hai ông già Tàu, can tội đăng ký hồi hương Trung quốc. Một ông tên Dương Hải Làn, ông kia Hoàng Mậu Thìn. Ông Dương đỏ da, thắm thịt, khuôn mặt giống hệt Lê Nin. Ông Hoàng nhỏ thó, thấp bé. Hai ông nằm cạnh nhau, thân thiết nhau vô cùng. Tháng 9-1978, Chí Hòa có dịch… kiết lỵ. Tôi quên chưa kể, giữa tháng 7, tù nhân không còn được ăn bột luộc nữa. Mà ăn bo bo. Bo bo nhai mỏi răng, nuốt mỏi cổ. Thoạt mới ăn, bo bo nấu như nấu cơm, thấy là lạ. Bo bo tiêu hóa thật nhanh. Ăn chừng nửa tiếng đồng hồ sau là lên “sân khấu” ào ào. Rồi đói. Mới hay, bo bo chẳng béo bổ gì. Nhiều tù nhân ăn bo bo bị bệnh tiêu chảy. Tiêu chẩy biến sang kiết lỵ. Tưởng tượng một phòng giam có mười tù nhân kiết lỵ thường xuyên trên “sân khấu.” Tanh tưởi đến buồn mửa. Y tế ở Chí Hòa tồi tệ lắm, kém xa đề lao Gia Định. Thiếu thuốc riêng là khốn khổ khi bênh hoạn. Sợ kiết lỵ truyền nhiễm cả phòng, Trưởng khu Vũ dành riêng một phòng nhốt những tù nhân mắc bệnh. Đó chỉ là sáng kiến riêng của Trưởng khu Vũ, không phải chính sách y tế của các nhà tù xã hội chủ nghĩa.
Dịch… kiết lỵ coi như không đe dọa phòng của chúng tôi nữa. Thì bất đồ ông Dương Hải Làn ngã bệnh. Ông sốt có hai hôm mà hốc hác rõ rệt, da giẻ tái lại. Bác sĩ khu AH, một bà Nam bộ tập kết, đến khám bệnh cho ông Dương Hải Làn cười mỉa ông giả vờ ốm. Và không cho uống thuốc. Bác sĩ tù có nhiều vị vĩ đại hơn Bác Hồ. Tỷ dụ, bác sĩ Lý Sen. Nhà tư sản mại bản Chợ Lớn này thừa liêm sỉ đeo ống nghe rà tim phổi bệnh nhân tù. Hãy nghe những lời khuyến cáo của bác sĩ Lý Sen ở đề lao Gia Định:
- Gội đầu nhớ khom lưng mà xối nước. Đứng thẳng xối nước, con vi trùng gàu nó bám vào dái, nó kết tụ ở đấy là sinh ghẻ!
Tôi không hiểu ông Dương Hải Làn bệnh gì và biến chứng của nó, cũng không hiểu bệnh khởi sự từ lúc nào, nhưng cười mỉa ông ta ốm giả vờ thì bà bác sĩ Việt cộng (bác sĩ đàng hoàng) này bất hủ. Sang ngày thứ tư, ông Dương Hải Làn hôn mê, cứ ôm chặt ông Hoàng Mậu Thìn mà rên ư ử. Ông ta bỏ ăn uống, tiểu tiện ra chỗ nằm. Trưởng phòng Nguyễn Sơn La báo cáo. Bác sĩ Quang của đề lao Gia Định khám bệnh. Ông Dương Hải Làn được khiêng ra khỏi phòng. Và ông chết trên đường đến bệnh viện Chợ Rẫy. Chúng tôi được uống mỗi ngày bốn viên thuốc và cấm phòng đúng một tuần. Nghĩa là không được ra ngoài tắm và phơi nắng. Ông Dương Hải Làn chết vì bệnh đau màng óc. Ông ta chết rồi, nhà tù mới cho phòng tôi uống thuốc ngừa đau màng óc và lập “hàng rào” y tế. May sao, chúng tôi không có ai… chết theo ông Dương Hải Làn.
Sau khi lệnh cô lập phòng tôi bãi bỏ, Trưởng khu Vũ gọi tôi ra “làm việc.” Anh ta mời tôi uống trà Thái Nguyên, hút thuốc lá Sông Cầu.
- Hôm qua có mấy người ngoại quốc thăm Chí Hòa.
- Phái đoàn nào đó, cán bộ?
- Ân xá quốc tế!
- Họ đến làm gì?
- Thăm anh.
- Thăm tôi?
- Lãnh đạo chỉ cho họ gặp anh Cao Dao và khước từ không cho gặp anh. Anh có khả năng được tha sớm đấỵ.
Trưởng khu Vũ gọi tôi ra báo tin thế. Tôi biết vậy, ngậm miệng chẳng nói với ai. Tự đấy sự tuyệt vọng của tôi vừa le lói một ánh lửa hy vọng. Chắc chắn, Amnesty International đã can thiệp cho một số nhà văn, nhà báo mà tôi may mắn lọt vào danh sách ấy. Tôi biết tôi không thể bị thủ tiêu, bây giờ can đảm hơn mà chịu đựng chờ ngày về đời. Tôi cảm giác mạnh khỏe, bền bỉ. Tôi đã mơ hồ thấy niềm bí ẩn của đời sống. Hôm qua không giống hôm nay và ngày mai khác hẵn ngày mai kế tiếp. Bỗng nhiên, tôi trở thành người trầm lặng nhất trong phòng. Tôi không khó chịu chuyện “’tổng thống” Bùi Ngọc Phương “tuyển lựa” nhân viên cho Phủ tổng thống ở nhà tù nữa, dù ông ta vẫn tiếp tục ngớ ngẩn. Nếu có người lạc quan coi Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam là con nít, người ấv chỉ là “tổng thống cầu cơ” Bùi Ngọc Phương. Ông ta bảo ông ta chơi thân với ông đại sứ Mỹ bên Thái Lan và ông yêu cầu Trưởng khu cho ông giấy ông viết thư nhờ bạn ông giàn xểp với Đặng Tiểu Bình đừng lộn xộn chuyện Việt Nam! Trưởng khu Vũ đùa bỡn:
- Anh có biết thư anh sẽ đến đâu không?
- Biết chứ.
- Đến đâu?
- Thái Lan.
- Đến cát-sô. Anh là tổng thống cát-sô. Thế mà cũng có người theo anh chống cộng sản!
Phó thủ tướng Đỗ Văn Lựu rầu rĩ tổng thống đến thối ruột. Tổng thống y hệt Lão Ngoan Đồng, chấp nhận cuộc phỏng vấn tranh cử của ký giả Dương Đức Dũng một cách thành khẩn. Và ngồi bói bài đoán vận nước! Nhưng mà tổng thống và phó tổng thống đã ra đi. Buổi chiều hôm ấy, cai ngục Thuận đến gọi:
- Anh Bùi Ngọc Phương.
- Có.
- Anh Đỗ Văn Lựu.
- Có.
- Hai anh chuẩn bị hành trang khẩn trương.
Cai ngục Thuận khuất bỏng. Tổng thống không thèm thu xếp hành lý tù. Người đứng giữa phòng, vỗ tay ba tiếng:
- Anh em thân mến!
Tổng thống ứng khẩu bài diễn văn hứa hẹn nẩy lửa:
- Giờ phút quan trọng của lịch sử đã điểm…
Mới đến đây thì cai ngục Thuận xuất hiện đột xuất. Tổng thống đang hùng dũng, trầm giọng:
- Những ngày sống với anh em, nếu tôi có gì sơ sót, anh em bỏ qua đi nhé! Cám ơn…
Và tổng thổng vội vàng gom đồ tù ra đi. Tổng thống ra đi, phòng giam buồn hẳn. Những bạn tù đề lao Gia Định của tôi lần lượt ra đi. Tôi sẽ nhớ suốt đời tán đường của cụ Đỗ Văn Lựu. Hôm đó, chúng tôi hết đường ăn bột luộc. Thấy tôi gặm bột suông, cụ Lựu đem cho một tán. Đằng Giao bẻ tư, chia phần cho Tường, Dũng và tôi. Cắn nhìn từng chút đường đã thấy ngọt lịm họng. Hạnh phúc nó vẫn đơn sơ và đến đúng lúc người ta cần định nghĩa nó. Từ khi tôi còn viết nhật báo Sống, tôi đã không ưa Đằng Giao. Anh ta cũng chẳng ưa gì tôi. Vào tù, chúng tôi trở thành thân thiết gần như sống chết có nhau. Vì chúng tôi đã hiểu nhau, thương nhau. Đằng Giao làm cho tôi tất cả những gì anh ta có thể làm ở khu AH Chí Hòa, kể luôn việc, trước khi về phòng, nhóm bếp, nấu nước sôi, đổ bình xách về để tôi ngâm ghẻ và pha bột Bích Chi, pha mì. Anh ta không mày tao, không ông tôi với tôi nữa. Mà gọi tôi là “ông thầy.”
- Được ra, ông thầy dọt không?
- Dọt chứ.
- Ông thầy vẫn viết à?
- Chứ biết làm nghề mẹ gì?
- Tư tưởng của ông thầy tôi sợ lại làm ông thầy khốn đốn. Tôi, xưa ghét ông thầy cay đắng, sống chung với ông thầy mới thấy chúng nó xét đoán sai lầm. Khó ai chứa nổi tâm hồn ông thầy.
- Có ông, thừa rồi.
Đằng Giao vào nghề báo rất ly kỳ. Anh ta tên thật là Trần Duy Cát, bạn thân của Đỗ Tiến Đức, cùng nhóm anh em di cư Nhà Hát Tây. Đỗ Tiến Đức, thuở mới viết lách ký bút hiệu Đằng Giao. Cậu Cát thất nghiệp dài, nhờ Đức xúi vào làm nhân viên dân sự Nha Chiến Tranh Tâm Lý, mỗi kỳ Chiến sĩ cộng hòa viết một bài do Đỗ Tiến Đức cung cấp, ký Đằng Giao. Cậu Cát, lúc rảnh rỗi, ngồi vẽ vớ vần giết thì giờ. Thư ký tòa soạn Chiến sĩ cộng hòa thấy cậu vẽ đẹp bèn sai cậu vẽ thay vì viết. Cậu Cát mừng húm. Cậu vẫn ký Đằng Giao. Bạn vàng Đỗ Tiến Đức tặng cậu bút hiệu đó luôn. Rồi Đằng Giao trở thành người trình bày tuần báo, tạp chí đẹp nhất Sàigòn, nhà “cách mạng” lối trình bày nhật báo không phi lê dọc. Dĩ nhiên, cậu bắt chước báo Tây. Sự lủng củng giữa Trọng Tấn và Hoàng Anh Tuấn đã biến Đằng Giao thành thư ký tòa soạn nhật báo Thân Dân, Tranh Đấu và Sống. Đằng Giao là một hiện tượng thư ký tòa soạn, một thư ký tòa soạn không biết viết bài, dù chỉ viết một cái tin.
- Ông thầy, ông thành thật nghĩ gì về người cộng sản?
- Nói theo kiểu Nhậm Ngã Hành nhé.
- Ừ.
- Tôi khen nó giỏi và tôi khinh nó hèn.
- Nó giỏi?
- Nó đã chiến thắng, nó đã bỏ tù chúng ta.
- Nó hèn?
- Nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp như cầu thủ bóng đá nhà nghề, cấm viết như treo giò vĩnh viễn. Là đủ thỏa mãn thù hận rồi. Bắt nhốt chúng ta, hành hạ chúng ta mà chi.
- Ông thầy đúng.
- Đúng chứ. Như ông, tội tình chi mà chúng nó hầm lâu vậy? Chúng nó nhúm cả vợ ông, cả đứa con sơ sinh của ông vào tù. Cộng sản bần tiện, không tuyết hận nổi Chu Tử, chúng nó om ông.
Đằng Giao im lặng. Người họa sĩ này chỉ cằm cọ và chưa hề vẽ bức tranh chống Cộng nào. Biệt kích văn nghệ Dương Nghiễm Mậu, cộng sản tha sớm. Biệt kích văn nghệ Nhã Ca, cộng sản tha sớm. Có 9 tháng tù. Biệt kích văn nghệ Doãn Quốc Sĩ, 4 năm. Biệt kích văn nghệ Duyên Anh, 5 năm 5 tháng. Đằng Giao lâu hơn 2.
- Cộng sản còn ngu nữa.
- Ngu sao, ông thầy?
- Nó mang trọng tội với dân tộc, với tổ quốc. Nó đã làm hỏng cái cơ may nghìn năm một thuở mà nhân loại thèm muốn.
- Là sao?
- Là cơ may văn minh, văn hóa, khoa học, kỹ thuật Đông Tây tổng hợp trên quê hương Việt Nam. Đem những tinh hoa nó học ở Liên Xô, ở Đông Âu về, hòa với tinh hoa ta học ở Mỹ, ở Đức, ở Pháp, ở Nhật về sẽ thành cái của Việt Nam. Hai mươi năm Mỹ đào tạo cho miền Nam bao nhiêu chuyên viên, chưa kịp xử dụng, nó bỏ tù và bỏ… chợ trời. Đến nỗi, người ta phải chuồn khỏi xứ sở. Nó không ngu thì nó kiêu ngạo ngu xuẩn. Nó sẽ tiếc hộc máu mồm. Muộn rồi. Cái truyền thống trả thù vặt của dân tộc mình cứ thế tiếp nối, không ngóc đầu lên nổi. Triều đại nọ phá hủy mọi công trình của triều đại kia. Người nào hay hơn ta là y rằng ta không phục, không tranh đua mà chỉ tìm cách bôi bẩn.
- Thôi, ông thầy ạ! Tôi mong ông thầy ở lại với tôi khi được tha. Ông thày chả nên đi.
- Hiểu rồi, ông ơi! Tôi biết đi cũng dở, ở không xong. Số tôi nó vậy, trót vậy.
- Tôi không đi. Tôi thề tôi không đi.
Đó là lần Đằng Giao nói chuyện với tôi lâu nhất, từ dạo chúng tôi sống chung ở Chí Hòa. Tôi mơ hồ thấy tôi sắp chuyển trại. Tháng 9, ăn cơm với thịt heo mừng “ngày lễ lớn” xong, Chí Hòa đi lao động cải tạo sôi nổi. Liên tiếp một tháng, đêm nào cũng ồn ào tiễn đưa, dặn dò. Tù hình sự nói văng mạng. Chẳng ai thèm kiểm soát ngôn ngữ, tư tưởng lúc chuyển trại đêm khuya. Các anh trên lầu của các khu tha hồ nhận bừa các em dưới ô là người tình. Anh chị đối thoại nẩy lửa. Đoàn Kế Tường đã thức, đứng sát tường, ngó qua song sắt quan sát. Tường mơ ước dựng một bộ tiểu thuyết về nhà tù. Tôi thì lại mơ ước dựng một tiểu thuyết với nhan đề Ở một nơi không có nhà tù. Cuối cùng, tôi mơ ước viết truyện thần thoại. Nhưng mọi ước mơ sẽ chỉ nhằm mục đích trả lời cộng sản: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh.” Ước mơ đó, tưởng đã tàn lụi ở những ngày cuối đề lao Gia Định và ở những ngày đầu Chí Hòa, bây giờ lại hừng hực trong tâm hồn tôi. Có lẽ, tôi là tù nhân may mắn đã nhập tâm bài học đáng giá của cai ngục cộng sản: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống cộng sản.” Tối cố học, tôi chăm học. Rốt cuộc, sự thống khổ đã trở thành không tưởng với những ai xa lạ nó. Giữa những người đó và tôi đã có một cuộc ly dị buồn bã. Và tôi là con gọng vó bơi ngược giòng. Bao nhiêu con gọng vó bơi ngược giòng trong thờỉ đại khốn kiếp của tôi. Tôi đã chê cộng sản ngu, đại ngu, chí ngu là làm mất cơ may nghìn năm một thuở. Hỏi một câu ngớ ngẩn chơi. Nếu Quốc Gia Bắc tiến chiếm Hà Nội, thì sự việc sẽ xảy ra như thế nào? Tôi e rằng cũng giống cộng sản chiếm Saigon, sợ còn tệ hơn. Bởi vì, cái truyền thống trả thù vặt của dân tộc ta nó án ngữ tầm nhìn xa của sự nghiệp kiến quốc. Cho nên, người Việt Nam cứu nước rất giỏi mà giữ nước thì rất dở, làm cho dân giầu nước mạnh càng quá dở. Vấn đề đặt ra cho những người muốn làm lại quê hương Việt Nam. Thù hận dân tộc đã không giải quyết được gì, sẽ không giải quyết được gì. Phải truy nã thân phận mình, phải ra công tìm lại bằng được nhân sinh quan Việt Nam nguyên thủy thì mới hy vọng có ngày mai đại phúc của giống nòi. Điều này, tôi muốn nói với cả người cộng sản lẫn người quốc gia. Tư tưởng chiến đấu của tôi thể hiện rõ rệt trong hai tác phẩm Sỏi đá ngậm ngùi và Một người Nga ở Saigon. Tôi là người Việt Nam. Tôi không chống đối dân tộc và tổ quốc tôi. Nhưng tôi chống đối bất cứ một chủ nghĩa, một chế độ nào không đem lại hạnh phúc cho dân tộc tôi, tước đoạt phẩm cách làm người, chà đạp tự do, dân chủ, tạo dựng thù hận, hình phạt, tù ngục, chiến tranh… Những chủ nghĩa, chế độ ấy mang bất cứ một nhãn hiệu nào, tư bản hay vô sản, cộng sản hay quốc gia, tôi đều chống đối. Và ngay cả một chế độ nào đạt nổi lý tưởng thanh bình, hạnh phúc, yêu thương, đoàn tụ cho dân tộc, nhà văn không được phép quên lãng bổn phận phản kháng. Để hạnh phúc thăng hoa. Thiên đường nối tiếp những thiên đường. Chúng ta đang sống trong bối cảnh lịch sử mà nhân loại và dân tộc cần thiết những tiếng thét phẫn nộ của tư tưởng đối nghịch mọi tư tưởng phi nhân. Nhưng, hình như, những tiếng thét đó chỉ đem lại bất hạnh cho nhà văn phản kháng. Y luôn luôn bị khu trừ ở những nơi y ngậm thống khổ nhả từng sợi giây máu thức tỉnh thù hận. Thù hận trút xuống y không thương xót.
Cho nên, tôi thường nuối tiếc ước mơ tôi đã mơ ước trong nhà tù. Giá tôi không được thả về, giá tôi không đánh đu với số phận vượt biên ra ngoại quốc, tôi, mãi mãi, hình tưởng bên ngoài như mơ ước trong tù của tôi. Tôi sẽ mang mơ ước xuống huyệt mộ. Cầu mơ của tôi, tiểu thuyết của tôi, tôi đã không cho nhân vật của tôi đến cầu mơ. Mà tôi, tôi ngu dại đến cầu mơ. Có gì bên kia dốc mơ? Bạn có thể trả lời giùm tôi. Và rồi, cho phép tôi trở lại Chí Hòa.
--------------------------------
1 Đầu năm 1982, tôi gặp cai ngục Thuận. Anh ta bị sa thải khỏi ngành công an, lấy cô vợ miền Nam làm nghề uốn tóc. Trưởng khu Vũ cũng bị sa thải. Cai ngục Phong mê một em tù, giúp em này trốn trại. Anh chị rủ nhau vượt biên, bị bắt và nằm tù chưa ra. Thuận kể vậy: Anh ta xin tôi 100 bạc.
2 Đằng Giao về sau tôi 9 tháng.
Chiến dịch đánh tư sản năm 1978 tàn bạo đến nỗi Chí Hòa leo thang tù nhân. Phòng của tôi chứa 90 người. 90 người thay phiên lên “sân khấu”, điều này thôi đã đủ nói lên sự bi đát của chế độ ngục tù cộng sản. 90 tù nhân một cái cầu tiêu hạn chế nước xối. Khó mà hiểu tại sao tôi còn sống sót. Khó mà hiểu tại sao chúng tôi còn sống sót. Khó mà hiểu tại sao con người có thể vượt qua những hình phạt của thù hận để tồn tại. Và, càng khó mà hiểu tại sao con người thích trừng trị con người nghiệt ngã thế. Tôi đối nghịch tư tưởng cộng sản, người cộng sản bắt tôi, giam nhốt tôi, hành hạ tôi là điều “công bình, hợp lý” nặng tính chất lê-nin-nít. Nhưng cơ man đàn bà buôn bán và con cái họ vì sự “hợp lý” nào mà phải vào tù, phải ngồi bó gối suốt đêm ở sân Chí Hòa, khóc lóc sầu thảm? Ánh sáng quang vinh của Đảng có vinh quang thêm? Marx không bần tiện thế. Engels không bần tiện thế. Chỉ có lãnh tụ cộng sản Việt Nam mới vô liêm sỉ bắt đàn bà, con nít lùa vào các nhà tù về tội buôn bán mà họ nâng quan điểm lên hàng tư sản. Suốt đời, tôi mãi mãi bị ám ảnh bởi tiếng khóc khô cổ nghẹn lời của những người vợ, chồng đã bị lưu đầy, vợ con còn bị tước đoạt chỗ dung thân, bị tống vào tù, bị phơi nắng, dầm sương hai ngày đêm mới “nghiên cứu” phòng nhốt dồn họ vào chen chúc nhau nằm, ngồi như súc vật. Tố Hữu ca ngợi Hồ Chí Minh: “Tự do cho mỗi đời nô lệ,” rồi chính Tố Hữu và đồng bọn biến đồng bào thành nô lệ, thứ nô lệ tồi tệ hơn cả nô lệ thời trung cổ. Bài học của cai ngục Quỳnh đánh thức tôi: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống cộng sản.’’ Tôi đã nghiến răng nuốt đau khổ, từng phút, từng giây. Với tôi, đau khổ là thực phẩm nuôi dưỡng tôi khôn lớn. Văn chương một chút và lãng mạn một chút, tôi mơ ước khám phá ra niềm bí ẩn của đời sống trong cực kỳ thống khổ. Những trang sách của ngày mai sẽ đỡ tẻ nhạt hơn những trang sách ngày qua. Có lẽ không, chắc chắn, ước mơ đã cho tôi sự tồn tại.
Sau chiến dịch đánh tư sản, Chí Hòa mở cửa đón tiếp các giáo viên Việt gốc Hoa mà họ bảo là thân Trung Cộng và làm gián điệp cho Trung Cộng. Những người này, trước 1975, đã cộng tác mật thiết với Việt cộng, đã “nằm vùng” Chợ Lớn. Thêm nữa là những người khờ khạo, nghe lời Mai Chí Thọ, đăng ký về Tầu. Trung Cộng dựng vở “Hoa nạn” chơi Việt cộng phản bội đàn anh. Hai chiếc tầu của họ đã vào vùng biển Vũng Tầu. Trung Cộng gây áp lực thì chỉ khổ Tàu máu mặt ở Chợ Lớn. Chí Hòa đầy nghẹt tù… Tầu. Nền tù ngục sầm uất, phát đạt. Chiến tranh biên giới Miên – Việt càng ngày càng khốc liệt. Chúng tôi biết qua những mảnh giấy báo “ngụy trang” gói quà thăm nuôi. Ở Chí Hòa, tù nhân cách biệt hẳn với xã hội loài người. Không được nghe ra-đi-ô, không được đọc báo. Tù nhân mòn mỏi theo tiếng kẻng răn đe. Tôi đã ngỡ mình sẽ chết tại khu FG. Bất ngờ, tháng 7-1978, chúng tôi chuyển sang khu AH, cả phòng.
AH là thiên đường của Chí Hòa so với FG địa ngục. Không còn ED chế độ riêng lẻ và đặc biệt nữa. Nhà Nước xã hội chủ nghĩa đã thống nhất nhà tù Chí Hòa. Bốn khu đều thuộc quyền quản lý của Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn ăn uống giống nhau nhưng cung cách quản chế khác nhau, tùy thuộc Trưởng khu. Trưởng khu AH tên là Vũ. Anh ta còn trẻ, trên 30 tuổi, tóc hơi loăn xoăn, bồng bềnh, khuôn mặt tươi tỉnh. Đợi chúng tôi chia chỗ nằm, sắp xếp hành lý xong, anh ta đến với hai cai ngục, trẻ như anh ta. Trưởng khu Vũ tự giới thiệu tên tuổi, chức vụ của mình, rồi “tâm sự”:
- Chúng tôi không phải là công an gốc. Đồng chí Thuận, đồng chí Phong đây và tôi đều từ quân đội điều sang ngành công an quản giáo can phạm. Chúng tôi đảm trách khu AH. Tất cả sẽ dễ dàng với anh em trong khả năng của chúng tôi, yêu cầu anh em đừng gây khó khăn cho chúng tôi. Ai làm Trưởng phòng bên FG?
Phạm Văn Diện đáp:
- Báo cáo cán bộ, tôi.
- Anh tiếp tục làm Trưởng phòng. Chúng tôi sẽ cố gắng giữ quân số phòng các anh là 50, tối đa 60. Anh chuẩn bị cho anh em đi tắm.
Trưởng khu Vũ nói năng nhẹ nhàng. Rõ ràng, anh ta không phải là cai tù chuyên nghiệp như Hai Phận vĩ đại, cai tù nằm vùng như Tư Long anh hùng. Anh ta là lính.
Người lính chiến, dưới bất cứ chế độ nào, dưới bất cứ mầu cờ nào, đều hào sảng hơn công an, cảnh sát. Sự dễ dàng mở màn bằng cuộc tắm giặt “bao giờ xong thì tự giác xếp hàng.” Ông Phạm Quang Khai lại được gội râu. Chúng tôi tắm giặt cạn mấy hồ nước, nước chẩy vô không kịp. Mấy tháng tắm 8 phút không dám xát xà phòng, nay được kỳ cọ, xát xà phòng, cảm giác hạnh phúc tràn trề. Trưởng khu Vũ ngồi hút thuốc lá chờ chúng tôi tắm và dẫn chúng tôi về phòng. Chúng tôi phơi quần áo ở hành lang trước phòng mình. Anh ta nói:
- Vì thiếu cán bộ mà lại đông phòng, chúng tôi không thể cho các anh tắm mỗi ngày một lần. Vậy một tuần các anh tắm ba lần, mỗi lần nửa tiếng đồng hồ. Nước dùng trong phòng sẽ tăng lên.
Chúng tôi được cấp thêm một cái phuy. Mấy ngày đầu, xuống hồ xách nước, tự do xối nước. Rồi AH dùng máy bơm nước lên các lầu. Chúng tôi xách nước vào phòng đỡ vất vả. Trưởng khu Vũ cho chứa nước vào các xô, các bình cá nhân, ngoài hai phuy đầy tràn. Nước ê hề, nạn ăn cắp, sự gây gỗ chia nước chấm dứt. Trật tự khu AH hoàn toàn mới và không đến nỗi cô hồn. Một hôm, có thằng trật tự FG sang AH, chúng tôi xầm xì, lo ngại. Trưởng khu Vũ biết, anh ta trấn an ngay:
- AH là AH, FG là FG.Tất cả do cán bộ không do trật tự.
Nhưng Trưởng khu Vũ đuổi tên trật tự FG xuống lầu 2. Anh ta cho chúng tôi mượn tông-đơ, kéo, lưỡi lam. Chúng tôi cắt tóc cho nhau. Và tôi biến thành thợ hớt tóc “hạng nhất.” Những khách hàng đầu tiên bị tôi “thí nghiệm” đều có những mái tóc đặc biệt. Tôi đã chơi kiểu tóc Jules César cho văn hào Nguyễn Mạnh Côn, kiểu tóc Indonésie cho Đoàn Kế Tường, kiểu tóc Tintin cho Đằng Giao… Cuối cùng, tôi chỉ còn cắt kéo tỉa dao. Và thân chủ của tôi là Ngụy Nghiên Trinh, Dương Đức Dũng, Hoàng Mạnh Hùng. AH là thiên đường của Chí Hòa so với FG địa ngục là vậy. Tôi không hiểu sự dễ dãi có nằm trong chính sách của Đảng? Có một chiều, sau khi điểm danh, Trưởng khu Vũ ở lại xem chúng tôi sinh hoạt. Rồi anh ta hỏi:
- Anh nào là Nguyễn Mạnh Côn?
Anh Côn đứng dậy:
- Tôi đây.
- Anh ngồi yên đi, đừng đứng dậy. Anh nào là Đằng Giao?
- Tôi đây.
- Anh nào là Duyên Anh?
- Tôi đây.
- Anh nào là Đoàn Kế Tường?
- Tôi đây.
- Dương Đức Dũng?
- Tôi đây.
- Đặng Hải Sơn?
- Tôi đây.
- Mai Đức Khôi?
- Tôi đây.
- Các anh nhà văn, nhà báo, các anh có tội với Đảng chứ không có tội với ai hết. Các anh lao động đầu óc, khác mấy anh tư sản mại bản. Tôi kính trọng các anh với tư cách cá nhân. Tôi là bộ đội, đang là công an tạm thời, chờ chuyển ngành hoặc giải ngũ. Tôi đã lấy vợ. Vợ tôi người Thủ Đức.
Chúng tôi “hội thảo bỏ túi” và đồng ý với nhau nên thận trọng với những dễ dãi của AH. Trưởng khu Vũ thích nói chuyện vớí “các anh nhà văn nhà báo”. Anh ta mời chúng tôi hút thuốc lá và không ngần ngại đến xin thuốc lá chúng tôi khi hết. Trưởng khu Vũ dễ dãi với toàn khu AH. Đặc trách lầu 3 có cai ngục Thuận và Phong cũng dễ dãi. Đằng Giao được gọi ra ngoài trang trí phòng họp và vẽ Nội san Chí Hòa, tối tối đem về phòng một bình nước nóng hổi. Tôi có những đêm ngủ ngon lành. Hạnh phúc tới về đêm. Hạnh phúc trong ca nước ấm pha muối ngâm “cái sự thừa thãi” mà gây rắc rối ở tù. AH cho phép tù nhân ra hành lang phơi nắng tuần lẽ hai lần và tự do nói chuyên với phòng lân cận. AH và FG, là hai thái cực. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai thái cực. Cộng sản đầy rẫy mâu thuẫn.
Ở AH, chúng tôi đã nhìn rõ Ngô Khắc Tỉnh, Hồ Văn Châm vì hồ tắm của AH sát khu BC. Chúng tôi còn thấy mấy người Đại Hàn trên phòng. Thời kỳ này, Nguyễn Đình Toàn đã từ đề lao Gia Định qua Chí Hòa và “trụ trì” khu FG. Đứng ở hành lang AH phơi nắng, tôi nhìn Nguyễn Đình Toàn gầy ốm tắm dưới hồ nước FG. DươngĐức Dũng đã sống chung với Nguyễn Đình Toàn tại 5C-2 đề lao Gia Định và được tác giả Tro than dạy truyền khẩu mấy ca khúc như Saigon, niềm nhớ không tên, Lưu đầy giữa quê nhà… Cũng vào thời kỳ này, tướng cướp lừng danh Điền Khắc Kim đã bị đem ra nhốt ở Thanh Hóa, bị dẫn về khu AH. Cả khu xôn xao vì súng lên đạn dẫn độ Điền Khắc Kim lên cachot. Sinh hoạt của chúng tôi lại đều đặn, bình thường, buồn bã. Nhiều người đã quên FG bốn ngày cúp nước hãi hùng. Tất cả đã quên bài giảng của cai ngục Quỳnh; “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chống cộng sản.” Chúng ta có một đức tính khả ái. Là dễ quên đau khổ. Ngay ở trong tù. Một chút sướng nhỏ đã đủ quên khổ lớn. Và hễ được vuốt ve là quên tranh đấu. Người cộng sản ưa xử dụng hai danh từ bản chất và hiện tượng. Tôi cho rằng trưởng khu Vũ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Bởi vì, khi con người vụt thức tìm lại cái bản chất đích thực của nó, chủ nghĩa cộng sản sẽ nghiêm chỉnh phê bình nó mang hiện tượng xấu. Cái tốt đối với chúng ta là cái xấu đối với cộng sản. Nói rõ ràng hơn, cái thiện của con người, cộng sản gọi là hiện tượng. Cái ác của cộng sản, họ gọi là bản chất. Hiện tượng và bản chất lại còn được xử dụng lung tung. Đảng sai, Đảng đổ vạ cho cán bộ và bảo đó là hiện tượng. Đảng đúng, Đảng bảo đó là bản chất. Bản chất của Đảng, thực ra, chỉ là gian ác và gian ác. Vậy nên chấp nhận hiện tượng của Trưởng khu Vũ, thứ hiện tượng dễ chịu và đối nghịch bản chất Tư Long, bản chất Đảng.
Dần dà, chúng tôi nhận ra Trưởng khu Vũ không “đóng kịch.” Anh ta còn nhiều tính người. Anh ta còn là con người. Đừng hòng một chúa ngục tặng tù nhân thuốc lá và tỉnh bơ xin thuốc lá tù nhân. Tôi suy nghĩ mãi về sự gần gũi của con người và sự tìm đến nhau của con người. Và đó là cảm hứng Thơ tù của tôi, cũng là oan khiên của đời tôi. Một hôm, cai ngục Thuận gọi Nguyễn Mạnh Côn, Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng và tôi ra “làm việc.” Ở bàn giấy đầu hành lang đã pha sẵn bình trà và những cái ly nhựa. Trưởng khu Vũ chờ chúng tôi. Anh ta rót trà:
- Làm việc gì đâu. Lấy cớ mời các anh ra uống trà chơi. Các anh chịu khó đứng nhé!
Xong tuần trà, anh ta nói:
- Các anh không ở đây lâu đâu. Tôi cũng không ở đây lâu đâu. Tôi không thích công tác quản giáo tù nhân. Tôi ít tuổi hơn các anh, xin các anh một điều: Đừng chống đối cán bộ quản giáo, bất cứ nơi nào. Họ không có quyền bắt các anh, không có quyền tha các anh nhưng có quyền hành hạ các anh, đầy đọa các anh vào chỗ chết thảm.
Thật khó hiểu Trưởng khu Vũ. Tác giả Cộng sản là gì? Nguyễn Mạnh Côn về phòng bình luận: “Thằng đó không phải là cộng sản.” Tôi bỗng nhớ câu thơ bất hủ của Hoàng Cầm: Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam. Trưởng khu Vũ cư xử tốt với mọi tù nhân, anh ta nặng cảm tình với nhà văn, nhà báo 1. Nhờ một tên trật tự hiền lành làm môi giới, chúng tôi “mua” cai ngục Thuận bằng quần tây, áo sơ-mi mang vào tù mà khó mặc về nhà. Cai ngục Thuận thèm ăn diện, mặc cả tiền luôn. Thế là, chúng tôi lần lượt gặp mặt vợ con. Chuyện này, trưởng khu Vũ không hề biết- Mà chúng tôi không ngu kể cho anh ta nghe.
Đầu tháng 8, Phạm Văn Diện đi lao động cải tạo. Nguyễn Sơn La và Nguyễn Kiến Thiết phòng cạnh, đổi sang phòng chúng tôi. Nguyễn Sơn La, đại úy quân đội nhân dân, dân Quỳnh Côi, Thái Bình, giải phóng miền Nam xong thì được chuyển sang ngành thương nghiệp, can tội mất phẩm chất cách mạng, vào tù. Anh ta làm Trưởng phòng. Nguyễn Sơn La vui nhộn, thật thà và không ngại ngần khoe sơ yếu lý lịch… bần cố nông. Anh ta bảo vì thèm ăn ngon, mặc đẹp mà xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.
- Bố tôi đặt tên tôi là Sơn La vì tiên đoán sẽ mất tỉnh Sơn La.
Anh ta nói oang oang. Đã hai lần ra tòa, lần nào cũng đeo quân hàm và huân chương đầy ngực. Nguyễn Kiến Thiết, thiếu úy quân đội nhân dân, đệ tử của Nguyễn Sơn La, chung một tội thụ hưởng khẩn trương, quên Bác quên Đảng. Anh ta làm trật tự phòng. Cả hai phản động hơn phản động. Trưởng khu Vũ phá lệ Chí Hòa, không phát giấy làm biên bản họp cuối tuần, Nguyễn Sơn La dẹp bỏ họp cuối tuần luỏn. Sau hết, điểm danh buổi sáng cũng lơ là. Tháng 8 năm 1978, thằng con trai đầu lòng của tôi trốn khỏi Việt Nam. Tôi nhận thư nhà bảo tin: “Cu Tí về Long Xuyên, nhưng còn rong chơi dọc đường.” Tôi lo lắng vô cùng. Chỉ sợ Cu Tí bị bắt, bố tù, con tù thì rắc rối to. Hầu như, từ hôm con tôi xuống thuyền, ngày nào tôi cũng có thư. Đến hôm, thư nhà báo tin: “Cu Tí ghé cù lao ông Chưởng rồi mới về ở với cậu Tư.” Tôi thở phào sung sướng. Con tôi đã tới hòn đảo nào đó. Nghĩa là tôi không sợ nó vào nhà tù cộng sản. 19 tuổi, tôi làm cuộc phiêu lưu Hà Nội – Saigon, tưởng đã dài. 16 tuổi, Chương còm phiêu lưu vĩ đại hơn tôi, gian khổ hơn tôi. Con tôi đã vượt biển thành công, tôi nuôi hy vọng mới: Vợ tôi sẽ đưa một hai đứa con tôi ra đi thành công. Còn tôi, tôi bình thản sống đời tù, “sống bằng không mà chết cũng bằng không.” Tôi đã sống một thuở bơ vơ và sẽ sống tiếp thuở bơ vơ còn lại.
Ở AH, Bùi Kim Bảng và Ngụy Nghiên Trinh nhận lệnh tha. Bùi Kim Bảng, nhân vật thần sầu, kịch sĩ lên “sân khấu” đúng giờ giấc, cũng để lại một kỷ niệm… tư sản mại bản. Ông ta nằm cạnh tên tù hình sự Lê Anh Kiệt. Biết chắc mình được về, ông ta nhờ cai ngục đem lại tặng Lê Anh Kiệt cái bị cói có hai món đồ. Lê Anh Kiệt hí hửng dở ra. Một: Gói thuốc lá Saigon giải phóng đầu lọc còn đầy nhưng đã mốc thếch. Hai: Gói tôm khô đã mọc rêu xanh. Tên tù hình sự đành liệng vô thùng rác. Ông Bùi Kim Bảng không hút thuốc lá. Dịp Tết, gia đình ông gửi cho ông một gói mừng xuân, ông mời tôi một điếu, hút một điếu rồi để dành chờ được tha mới… tặng đệ tử. Ông Bảng về xum họp gia đình, cả phòng mừng rỡ. Chúng tôi có thể yên lòng ăn cơm trưa, ông Bảng về, ông Phạm Quang Khai mất trộm. Mấy thằng hình sự cấu kết “đi chợ” gần hết “kho” thực phẩm của ông. Ông la lối rùm beng, kê khai hàng chục thứ. Trưởng phòng Nguyễn Sơn La yêu cầu anh em cho ông Khai khám hành lý. ông thu hồi ít bánh, ít mì, sữa bột, đường, thịt chà bông của ông, chúng nó đã ăn bằng hết hồi đêm. Nguyễn Sơn La không báo cáo Trưởng khu và cai ngục. Ông Phạm Quang Khai mất trộm, ông "ướp muối” Nguyễn Công Kha giật mình, Ồng Kha nuôi thằng bộ đội đào ngũ tên Việt, ông gửi nó giữ hộ mấy kí-lô thịt chà bông. Nó treo gần cầu tiêu. Mỗi ngày, đi cầu, ông Kha đều kiểm soát. Ông phấn khởi vì cái bị cói lúc nào cũng nặng. Thấy bạn mất bò, ông lo, ông gở bị xuống, định đem về chỗ mình. Than ôi, chỉ có mấy cục gạch!
- Sao thế này, Việt?
- Cháu không biết.
- Tao nuôi ong tay áo à?
- Ai bảo ông nuôi ong?
Nhà tư sản giận tím mặt. Vô sản nhà tù đã vùng lên và đã thắng lợi tư sản mại bản. “Bạn tù, tình nhà thổ.” Một tên tù cảm khái nói. Ăn no nê thịt chà bông của ông Khai, và ông Kha xong, đám hình sự lên đường đi lao cải. Hai nhà tư sản tiếc rẻ. Giá chúng nó đi sớm vài ngày!
Phòng chúng tôi tiếp nhận một số tù nhân vượt biên và hai ông già Tàu, can tội đăng ký hồi hương Trung quốc. Một ông tên Dương Hải Làn, ông kia Hoàng Mậu Thìn. Ông Dương đỏ da, thắm thịt, khuôn mặt giống hệt Lê Nin. Ông Hoàng nhỏ thó, thấp bé. Hai ông nằm cạnh nhau, thân thiết nhau vô cùng. Tháng 9-1978, Chí Hòa có dịch… kiết lỵ. Tôi quên chưa kể, giữa tháng 7, tù nhân không còn được ăn bột luộc nữa. Mà ăn bo bo. Bo bo nhai mỏi răng, nuốt mỏi cổ. Thoạt mới ăn, bo bo nấu như nấu cơm, thấy là lạ. Bo bo tiêu hóa thật nhanh. Ăn chừng nửa tiếng đồng hồ sau là lên “sân khấu” ào ào. Rồi đói. Mới hay, bo bo chẳng béo bổ gì. Nhiều tù nhân ăn bo bo bị bệnh tiêu chảy. Tiêu chẩy biến sang kiết lỵ. Tưởng tượng một phòng giam có mười tù nhân kiết lỵ thường xuyên trên “sân khấu.” Tanh tưởi đến buồn mửa. Y tế ở Chí Hòa tồi tệ lắm, kém xa đề lao Gia Định. Thiếu thuốc riêng là khốn khổ khi bênh hoạn. Sợ kiết lỵ truyền nhiễm cả phòng, Trưởng khu Vũ dành riêng một phòng nhốt những tù nhân mắc bệnh. Đó chỉ là sáng kiến riêng của Trưởng khu Vũ, không phải chính sách y tế của các nhà tù xã hội chủ nghĩa.
Dịch… kiết lỵ coi như không đe dọa phòng của chúng tôi nữa. Thì bất đồ ông Dương Hải Làn ngã bệnh. Ông sốt có hai hôm mà hốc hác rõ rệt, da giẻ tái lại. Bác sĩ khu AH, một bà Nam bộ tập kết, đến khám bệnh cho ông Dương Hải Làn cười mỉa ông giả vờ ốm. Và không cho uống thuốc. Bác sĩ tù có nhiều vị vĩ đại hơn Bác Hồ. Tỷ dụ, bác sĩ Lý Sen. Nhà tư sản mại bản Chợ Lớn này thừa liêm sỉ đeo ống nghe rà tim phổi bệnh nhân tù. Hãy nghe những lời khuyến cáo của bác sĩ Lý Sen ở đề lao Gia Định:
- Gội đầu nhớ khom lưng mà xối nước. Đứng thẳng xối nước, con vi trùng gàu nó bám vào dái, nó kết tụ ở đấy là sinh ghẻ!
Tôi không hiểu ông Dương Hải Làn bệnh gì và biến chứng của nó, cũng không hiểu bệnh khởi sự từ lúc nào, nhưng cười mỉa ông ta ốm giả vờ thì bà bác sĩ Việt cộng (bác sĩ đàng hoàng) này bất hủ. Sang ngày thứ tư, ông Dương Hải Làn hôn mê, cứ ôm chặt ông Hoàng Mậu Thìn mà rên ư ử. Ông ta bỏ ăn uống, tiểu tiện ra chỗ nằm. Trưởng phòng Nguyễn Sơn La báo cáo. Bác sĩ Quang của đề lao Gia Định khám bệnh. Ông Dương Hải Làn được khiêng ra khỏi phòng. Và ông chết trên đường đến bệnh viện Chợ Rẫy. Chúng tôi được uống mỗi ngày bốn viên thuốc và cấm phòng đúng một tuần. Nghĩa là không được ra ngoài tắm và phơi nắng. Ông Dương Hải Làn chết vì bệnh đau màng óc. Ông ta chết rồi, nhà tù mới cho phòng tôi uống thuốc ngừa đau màng óc và lập “hàng rào” y tế. May sao, chúng tôi không có ai… chết theo ông Dương Hải Làn.
Sau khi lệnh cô lập phòng tôi bãi bỏ, Trưởng khu Vũ gọi tôi ra “làm việc.” Anh ta mời tôi uống trà Thái Nguyên, hút thuốc lá Sông Cầu.
- Hôm qua có mấy người ngoại quốc thăm Chí Hòa.
- Phái đoàn nào đó, cán bộ?
- Ân xá quốc tế!
- Họ đến làm gì?
- Thăm anh.
- Thăm tôi?
- Lãnh đạo chỉ cho họ gặp anh Cao Dao và khước từ không cho gặp anh. Anh có khả năng được tha sớm đấỵ.
Trưởng khu Vũ gọi tôi ra báo tin thế. Tôi biết vậy, ngậm miệng chẳng nói với ai. Tự đấy sự tuyệt vọng của tôi vừa le lói một ánh lửa hy vọng. Chắc chắn, Amnesty International đã can thiệp cho một số nhà văn, nhà báo mà tôi may mắn lọt vào danh sách ấy. Tôi biết tôi không thể bị thủ tiêu, bây giờ can đảm hơn mà chịu đựng chờ ngày về đời. Tôi cảm giác mạnh khỏe, bền bỉ. Tôi đã mơ hồ thấy niềm bí ẩn của đời sống. Hôm qua không giống hôm nay và ngày mai khác hẵn ngày mai kế tiếp. Bỗng nhiên, tôi trở thành người trầm lặng nhất trong phòng. Tôi không khó chịu chuyện “’tổng thống” Bùi Ngọc Phương “tuyển lựa” nhân viên cho Phủ tổng thống ở nhà tù nữa, dù ông ta vẫn tiếp tục ngớ ngẩn. Nếu có người lạc quan coi Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam là con nít, người ấv chỉ là “tổng thống cầu cơ” Bùi Ngọc Phương. Ông ta bảo ông ta chơi thân với ông đại sứ Mỹ bên Thái Lan và ông yêu cầu Trưởng khu cho ông giấy ông viết thư nhờ bạn ông giàn xểp với Đặng Tiểu Bình đừng lộn xộn chuyện Việt Nam! Trưởng khu Vũ đùa bỡn:
- Anh có biết thư anh sẽ đến đâu không?
- Biết chứ.
- Đến đâu?
- Thái Lan.
- Đến cát-sô. Anh là tổng thống cát-sô. Thế mà cũng có người theo anh chống cộng sản!
Phó thủ tướng Đỗ Văn Lựu rầu rĩ tổng thống đến thối ruột. Tổng thống y hệt Lão Ngoan Đồng, chấp nhận cuộc phỏng vấn tranh cử của ký giả Dương Đức Dũng một cách thành khẩn. Và ngồi bói bài đoán vận nước! Nhưng mà tổng thống và phó tổng thống đã ra đi. Buổi chiều hôm ấy, cai ngục Thuận đến gọi:
- Anh Bùi Ngọc Phương.
- Có.
- Anh Đỗ Văn Lựu.
- Có.
- Hai anh chuẩn bị hành trang khẩn trương.
Cai ngục Thuận khuất bỏng. Tổng thống không thèm thu xếp hành lý tù. Người đứng giữa phòng, vỗ tay ba tiếng:
- Anh em thân mến!
Tổng thống ứng khẩu bài diễn văn hứa hẹn nẩy lửa:
- Giờ phút quan trọng của lịch sử đã điểm…
Mới đến đây thì cai ngục Thuận xuất hiện đột xuất. Tổng thống đang hùng dũng, trầm giọng:
- Những ngày sống với anh em, nếu tôi có gì sơ sót, anh em bỏ qua đi nhé! Cám ơn…
Và tổng thổng vội vàng gom đồ tù ra đi. Tổng thống ra đi, phòng giam buồn hẳn. Những bạn tù đề lao Gia Định của tôi lần lượt ra đi. Tôi sẽ nhớ suốt đời tán đường của cụ Đỗ Văn Lựu. Hôm đó, chúng tôi hết đường ăn bột luộc. Thấy tôi gặm bột suông, cụ Lựu đem cho một tán. Đằng Giao bẻ tư, chia phần cho Tường, Dũng và tôi. Cắn nhìn từng chút đường đã thấy ngọt lịm họng. Hạnh phúc nó vẫn đơn sơ và đến đúng lúc người ta cần định nghĩa nó. Từ khi tôi còn viết nhật báo Sống, tôi đã không ưa Đằng Giao. Anh ta cũng chẳng ưa gì tôi. Vào tù, chúng tôi trở thành thân thiết gần như sống chết có nhau. Vì chúng tôi đã hiểu nhau, thương nhau. Đằng Giao làm cho tôi tất cả những gì anh ta có thể làm ở khu AH Chí Hòa, kể luôn việc, trước khi về phòng, nhóm bếp, nấu nước sôi, đổ bình xách về để tôi ngâm ghẻ và pha bột Bích Chi, pha mì. Anh ta không mày tao, không ông tôi với tôi nữa. Mà gọi tôi là “ông thầy.”
- Được ra, ông thầy dọt không?
- Dọt chứ.
- Ông thầy vẫn viết à?
- Chứ biết làm nghề mẹ gì?
- Tư tưởng của ông thầy tôi sợ lại làm ông thầy khốn đốn. Tôi, xưa ghét ông thầy cay đắng, sống chung với ông thầy mới thấy chúng nó xét đoán sai lầm. Khó ai chứa nổi tâm hồn ông thầy.
- Có ông, thừa rồi.
Đằng Giao vào nghề báo rất ly kỳ. Anh ta tên thật là Trần Duy Cát, bạn thân của Đỗ Tiến Đức, cùng nhóm anh em di cư Nhà Hát Tây. Đỗ Tiến Đức, thuở mới viết lách ký bút hiệu Đằng Giao. Cậu Cát thất nghiệp dài, nhờ Đức xúi vào làm nhân viên dân sự Nha Chiến Tranh Tâm Lý, mỗi kỳ Chiến sĩ cộng hòa viết một bài do Đỗ Tiến Đức cung cấp, ký Đằng Giao. Cậu Cát, lúc rảnh rỗi, ngồi vẽ vớ vần giết thì giờ. Thư ký tòa soạn Chiến sĩ cộng hòa thấy cậu vẽ đẹp bèn sai cậu vẽ thay vì viết. Cậu Cát mừng húm. Cậu vẫn ký Đằng Giao. Bạn vàng Đỗ Tiến Đức tặng cậu bút hiệu đó luôn. Rồi Đằng Giao trở thành người trình bày tuần báo, tạp chí đẹp nhất Sàigòn, nhà “cách mạng” lối trình bày nhật báo không phi lê dọc. Dĩ nhiên, cậu bắt chước báo Tây. Sự lủng củng giữa Trọng Tấn và Hoàng Anh Tuấn đã biến Đằng Giao thành thư ký tòa soạn nhật báo Thân Dân, Tranh Đấu và Sống. Đằng Giao là một hiện tượng thư ký tòa soạn, một thư ký tòa soạn không biết viết bài, dù chỉ viết một cái tin.
- Ông thầy, ông thành thật nghĩ gì về người cộng sản?
- Nói theo kiểu Nhậm Ngã Hành nhé.
- Ừ.
- Tôi khen nó giỏi và tôi khinh nó hèn.
- Nó giỏi?
- Nó đã chiến thắng, nó đã bỏ tù chúng ta.
- Nó hèn?
- Nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp như cầu thủ bóng đá nhà nghề, cấm viết như treo giò vĩnh viễn. Là đủ thỏa mãn thù hận rồi. Bắt nhốt chúng ta, hành hạ chúng ta mà chi.
- Ông thầy đúng.
- Đúng chứ. Như ông, tội tình chi mà chúng nó hầm lâu vậy? Chúng nó nhúm cả vợ ông, cả đứa con sơ sinh của ông vào tù. Cộng sản bần tiện, không tuyết hận nổi Chu Tử, chúng nó om ông.
Đằng Giao im lặng. Người họa sĩ này chỉ cằm cọ và chưa hề vẽ bức tranh chống Cộng nào. Biệt kích văn nghệ Dương Nghiễm Mậu, cộng sản tha sớm. Biệt kích văn nghệ Nhã Ca, cộng sản tha sớm. Có 9 tháng tù. Biệt kích văn nghệ Doãn Quốc Sĩ, 4 năm. Biệt kích văn nghệ Duyên Anh, 5 năm 5 tháng. Đằng Giao lâu hơn 2.
- Cộng sản còn ngu nữa.
- Ngu sao, ông thầy?
- Nó mang trọng tội với dân tộc, với tổ quốc. Nó đã làm hỏng cái cơ may nghìn năm một thuở mà nhân loại thèm muốn.
- Là sao?
- Là cơ may văn minh, văn hóa, khoa học, kỹ thuật Đông Tây tổng hợp trên quê hương Việt Nam. Đem những tinh hoa nó học ở Liên Xô, ở Đông Âu về, hòa với tinh hoa ta học ở Mỹ, ở Đức, ở Pháp, ở Nhật về sẽ thành cái của Việt Nam. Hai mươi năm Mỹ đào tạo cho miền Nam bao nhiêu chuyên viên, chưa kịp xử dụng, nó bỏ tù và bỏ… chợ trời. Đến nỗi, người ta phải chuồn khỏi xứ sở. Nó không ngu thì nó kiêu ngạo ngu xuẩn. Nó sẽ tiếc hộc máu mồm. Muộn rồi. Cái truyền thống trả thù vặt của dân tộc mình cứ thế tiếp nối, không ngóc đầu lên nổi. Triều đại nọ phá hủy mọi công trình của triều đại kia. Người nào hay hơn ta là y rằng ta không phục, không tranh đua mà chỉ tìm cách bôi bẩn.
- Thôi, ông thầy ạ! Tôi mong ông thầy ở lại với tôi khi được tha. Ông thày chả nên đi.
- Hiểu rồi, ông ơi! Tôi biết đi cũng dở, ở không xong. Số tôi nó vậy, trót vậy.
- Tôi không đi. Tôi thề tôi không đi.
Đó là lần Đằng Giao nói chuyện với tôi lâu nhất, từ dạo chúng tôi sống chung ở Chí Hòa. Tôi mơ hồ thấy tôi sắp chuyển trại. Tháng 9, ăn cơm với thịt heo mừng “ngày lễ lớn” xong, Chí Hòa đi lao động cải tạo sôi nổi. Liên tiếp một tháng, đêm nào cũng ồn ào tiễn đưa, dặn dò. Tù hình sự nói văng mạng. Chẳng ai thèm kiểm soát ngôn ngữ, tư tưởng lúc chuyển trại đêm khuya. Các anh trên lầu của các khu tha hồ nhận bừa các em dưới ô là người tình. Anh chị đối thoại nẩy lửa. Đoàn Kế Tường đã thức, đứng sát tường, ngó qua song sắt quan sát. Tường mơ ước dựng một bộ tiểu thuyết về nhà tù. Tôi thì lại mơ ước dựng một tiểu thuyết với nhan đề Ở một nơi không có nhà tù. Cuối cùng, tôi mơ ước viết truyện thần thoại. Nhưng mọi ước mơ sẽ chỉ nhằm mục đích trả lời cộng sản: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh.” Ước mơ đó, tưởng đã tàn lụi ở những ngày cuối đề lao Gia Định và ở những ngày đầu Chí Hòa, bây giờ lại hừng hực trong tâm hồn tôi. Có lẽ, tôi là tù nhân may mắn đã nhập tâm bài học đáng giá của cai ngục cộng sản: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống cộng sản.” Tối cố học, tôi chăm học. Rốt cuộc, sự thống khổ đã trở thành không tưởng với những ai xa lạ nó. Giữa những người đó và tôi đã có một cuộc ly dị buồn bã. Và tôi là con gọng vó bơi ngược giòng. Bao nhiêu con gọng vó bơi ngược giòng trong thờỉ đại khốn kiếp của tôi. Tôi đã chê cộng sản ngu, đại ngu, chí ngu là làm mất cơ may nghìn năm một thuở. Hỏi một câu ngớ ngẩn chơi. Nếu Quốc Gia Bắc tiến chiếm Hà Nội, thì sự việc sẽ xảy ra như thế nào? Tôi e rằng cũng giống cộng sản chiếm Saigon, sợ còn tệ hơn. Bởi vì, cái truyền thống trả thù vặt của dân tộc ta nó án ngữ tầm nhìn xa của sự nghiệp kiến quốc. Cho nên, người Việt Nam cứu nước rất giỏi mà giữ nước thì rất dở, làm cho dân giầu nước mạnh càng quá dở. Vấn đề đặt ra cho những người muốn làm lại quê hương Việt Nam. Thù hận dân tộc đã không giải quyết được gì, sẽ không giải quyết được gì. Phải truy nã thân phận mình, phải ra công tìm lại bằng được nhân sinh quan Việt Nam nguyên thủy thì mới hy vọng có ngày mai đại phúc của giống nòi. Điều này, tôi muốn nói với cả người cộng sản lẫn người quốc gia. Tư tưởng chiến đấu của tôi thể hiện rõ rệt trong hai tác phẩm Sỏi đá ngậm ngùi và Một người Nga ở Saigon. Tôi là người Việt Nam. Tôi không chống đối dân tộc và tổ quốc tôi. Nhưng tôi chống đối bất cứ một chủ nghĩa, một chế độ nào không đem lại hạnh phúc cho dân tộc tôi, tước đoạt phẩm cách làm người, chà đạp tự do, dân chủ, tạo dựng thù hận, hình phạt, tù ngục, chiến tranh… Những chủ nghĩa, chế độ ấy mang bất cứ một nhãn hiệu nào, tư bản hay vô sản, cộng sản hay quốc gia, tôi đều chống đối. Và ngay cả một chế độ nào đạt nổi lý tưởng thanh bình, hạnh phúc, yêu thương, đoàn tụ cho dân tộc, nhà văn không được phép quên lãng bổn phận phản kháng. Để hạnh phúc thăng hoa. Thiên đường nối tiếp những thiên đường. Chúng ta đang sống trong bối cảnh lịch sử mà nhân loại và dân tộc cần thiết những tiếng thét phẫn nộ của tư tưởng đối nghịch mọi tư tưởng phi nhân. Nhưng, hình như, những tiếng thét đó chỉ đem lại bất hạnh cho nhà văn phản kháng. Y luôn luôn bị khu trừ ở những nơi y ngậm thống khổ nhả từng sợi giây máu thức tỉnh thù hận. Thù hận trút xuống y không thương xót.
Cho nên, tôi thường nuối tiếc ước mơ tôi đã mơ ước trong nhà tù. Giá tôi không được thả về, giá tôi không đánh đu với số phận vượt biên ra ngoại quốc, tôi, mãi mãi, hình tưởng bên ngoài như mơ ước trong tù của tôi. Tôi sẽ mang mơ ước xuống huyệt mộ. Cầu mơ của tôi, tiểu thuyết của tôi, tôi đã không cho nhân vật của tôi đến cầu mơ. Mà tôi, tôi ngu dại đến cầu mơ. Có gì bên kia dốc mơ? Bạn có thể trả lời giùm tôi. Và rồi, cho phép tôi trở lại Chí Hòa.
--------------------------------
1 Đầu năm 1982, tôi gặp cai ngục Thuận. Anh ta bị sa thải khỏi ngành công an, lấy cô vợ miền Nam làm nghề uốn tóc. Trưởng khu Vũ cũng bị sa thải. Cai ngục Phong mê một em tù, giúp em này trốn trại. Anh chị rủ nhau vượt biên, bị bắt và nằm tù chưa ra. Thuận kể vậy: Anh ta xin tôi 100 bạc.
2 Đằng Giao về sau tôi 9 tháng.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Nhà tù - Duyên Anh (hồi ký)
CHƯƠNG 26
Nhà tù của tôi
rất nhiều tiếng gọi không thể vọng ra bên ngoài
Những tiếng gọi bỡn đùa sự hoang vắng
những tiếng gọi chọc cười niềm trắc ẩn
mà tôi nghe ròng rã nghìn đêm
mà tôi nghe tưởng đã khùng điên
bởi mỗi lần một tù nhân vĩnh biệt
Báo cáo cán bộ: Cachot có người chết
Thế giới vẫn phóng lên sáng rực tín hiệu nhân quyền
Và nhà tù của tôi vẫn bóng tối triền miên
ở biệt giam hàng chục kiểu còng ngồi còng đứng
còng chéo hai tay còng chung một cụm
còng rướn ngón chân còng dộng ngược đầu
còng khoan dung một lối chết thật lâu
để thấm thía lòng yêu tự do dân chủ
Báo cáo cán bộ: Cachot có người tự tử
Nhân loại thường cảm thông nỗi khổ rất mùa màng
và phải rất thời trang
nên cụ thể dễ biến thành trừu tượng
Nỗi khổ khác hẳn niềm sung sướng
nó cần quên ngay
nó không được phép rên xiết dài dài
Một đêm mưa lạnh
tôi nghe tiếng trẻ thơ kêu kinh hoàng trong hiu quạnh
Bố ơi bố ơi Mẹ chết rồi
Anh khó hiểu nổi nhà tù của tôi
Người cha bị lưu đầy ra hải đảo
Người mẹ mang bầu dắt con theo cải tạo
Bài thơ nhan đề Tiếng gọi không thể vọng ra ngoài tôi làm ở khu AH Chí Hòa. Bài này và 15 bài khác không có trong tập Thơ Tù� 1) nhưng tôi đã cho dịch sang Pháp văn trọn vẹn 30 bài thơ tù của tôi, 30 bài thơ tôi đã đọc ỏ Centre Pompidou, Paris; Theatre Action, Grenoble; Salle des fêtes, Paris 7è. 2
Đề lao Gia Định và Chí Hòa gây cho tôi nhiều cảm hứng thơ. Phải đợi qua AH, "đời sống" thoải mái, tôi mới sáng tác. Ở bài Chút tâm sự của người làm thơ trong tù, trên đầu tập Thơ Tù, tôi đã viết rõ, tưởng chẳng cần diễn tả thêm. AH mỗi ngày mỗi vơi bạn tù tốt nên phải dùng thơ lấp vào. Ông Tư Nhì đã được tha. Anh Võ Xuân Đình, anh Mai Đức Khôi đã đi lao cải. Ở nhà tù, mỗi lần chia tay kể như mỗi lần vĩnh quyết. Tôi nghĩ nên ghi cái cảm xúc ấv vào thơ. Ít ra, nó cũng bớt ẩn ức vô tích sự. Thế thì, tôi đã làm khá nhiều thơ, ở Chí Hòa. Khác với Đoàn Kế Tường, buồn quả hóa khùng, khùng quá cứ nhè ông Phạm Quang Khai mà sinh sự. Mấy ông tư sản mại bản Việt Nam có thú vui khó ngửi. Là thường xuyên khoe khoang sự phú quý đã trở thành "vang bóng một thời." Lại khoe oang oang:
- Thằng út nhà tôi sang năm tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Con cháu gái lớn, tiến sĩ kinh tế rồi.
- Các cháu tôi cũng tiến sĩ, kỹ sư hết.
Đoàn Kế Tường xía vào:
- Chưa hay đâu. Con cu ly bến tầu, con điếm, con ma-cô tốt nghiệp tiến sĩ, kỹ sư mới bảnh. Còn con cái bọn làm giầu bằng chiến tranh, muốn bảnh và xứng đáng khoe khoang phải đậu bằng cấp ma-cô, đĩ điếm, trộm cắp!
Các nhà tư sản mại bản nín thinh. Vì đúng quá. Lần khác, một nhà tư sản mại bản cao hứng kể thành tích đóng góp cho công cuộc chống cộng:
- Tôi đã tặng thương phế binh 200 xe lăn, mỗi Tết đều lì xì cảnh sát quốc gia vài triệu.
Đoàn Kế Tường nổi giận:
- Ông hút máu họ 2 lít, ông chích cho họ một ống sérum. Mà ông xuất tiền túi bao giờ? Ông bị phạt thuế, xin xỏ tiền phạt mua xe lăn tặng lính què. Của sở thuế, phúc ông. Ông lưu manh số một.
Nhà tư sản mại bản lại nín thinh. Cứ vậy, tối ngày, Chí Hòa công kích lẫn nhau khiến hồn thơ của tôi bay lên cachot. Tôi bắt đầu thèm động. Cái động lao cải ở trại tập trung. Con người bị giam hãm một nơi chật chội quá lâu đâm ra bẩn tính, hẹp hòi, cố chấp. Riết rồi, chỉ thấy ở nhau những điều xấu xa mà quên ở nhau những điều tốt đẹp. Và rồi, khi thoát đời tù vẫn quên những điều tốt đẹp mà chỉ nhớ những điều xấu xa nẩy sinh ở nơi tù túng, nơi con người bị xếp dưới hàng con vật. Tôi nghĩ, sống mãi với cái tĩnh, cái tĩnh ao tù của Sở Công An, của đề lao Gia Định, của Chí Hòa, da đã mỏng, thịt đã bủng mà hồn càng mỏng, càng bủng. Như bốn ngày bị Tư Long cúp nước, mọi người gần gũi nhau, thông cảm nhau. Như những ngày thoải mái AH, mọi người xa rời nhau, khó chịu nhau cả túi thăm nuôi lớn và túi thăm nuôi bé. Buồn, nản nhất là chỉ tù nhân Việt Nam gấu ó tù nhân Việt Nam. Tù nhân Ba Tầu không gấu ó nhau, không quan tâm đến sinh hoạt của tù nhân Việt Nam. Tôi thèm cái động của lao cải. Để xem, ngoài trời, con người tù có cao cả hơn, đại lượng hơn.
Phòng của chúng tôi lại thu nhận những người bệnh kiết lỵ bị cách ly trả về. Vi trùng Amibe khinh thường "thuốc dân tộc" của chế độ cộng sản. Bệnh kiết lỵ khó tiêu diệt ở nhà tù. Tôi thấy một điều thật mâu thuẫn. Những người mắc bệnh tiêu chẩy "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" lên kiết lỵ đều thuộc… giai cấp "con bà phước," giai cấp vô sản chính thống trong nhà tù. Giai cấp tư sản ăn thịt bò bíp-tếch "ướp muối" cả tuần, ăn gà rô-ti thiu "ướp muối" cả tháng, đâu có bị tiêu chẩy, kiết lỵ. Tôi đã ăn, ròng rã mấy năm, thịt kho ướp tầu vị ỵểu trong keo nhựa đến nỗi thịt chua lè. Mà vẫn không hề bị tiêu chẩy, kiết lỵ. Nhưng "con bà phước" ăn cơm, ăn bột luộc, ăn bo bo với canh bí nấu muối thì bị Tào Tháo đuổi tơi bời. Mâu thuẫn này nặng nề ngoài đời. Kẻ nghèo suốt đời kiết, dẫu cách mạng vô sản là cách mạng của người nghèo. Công an khu vực chơi với vô sản chính thống thì đói, chơi với tư sản thì no, lại còn được tặng quần bò� 3 của con cháu tư sản phản động theo Mỹ gửi về. Những kẻ chống cộng sản đã không chịu khai thác kỹ lưỡng cái mâu thuẫn này.
Để tôi đếm những bạn tù đề lao Gia Định của tôi xem còn ai: Hoàng Mạnh Hùng, Đặng Hải Sơn, Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng, Phạm Quang Khai. Tư tưởng chiến đấu mới của tuổi trẻ rải rác trong tiểu thuyết của tôi bắt nguồn từ những buổi thầm thì đàm thoại với Hoàng Mạnh Hùng ở nhà tù. Anh ta quy định rõ rệt Hà Nội là phỉ quyền, Sàigòn là ngụy quyền. Từ sau chính biến tháng 3 năm 1945, Việt Nam chưa có chính quyền. Người Việt Nam chân chính phải chiến đấu để tạo dựng một chính quyền thì mới giương danh chính nghĩa quốc gia. Anh ta chống đổ máu, chống tàn sát thêm ở Việt Nam. Tàn sát 500 tên lãnh tụ lớn, nhỏ của cộng sản Việt Nam. Là đủ. Hạnh phúc phải được ban phát cùng khắp. Tốt nghiệp tiến sĩ bên Mỹ, về nước anh ta khước từ chức vụ Thứ trưởng Văn hóa Giáo dục, dạy ở Thủ Đức. Vợ con đi Mỹ trước cả 1975, anh ta ở lại chiến đấu. Tồi đồng ý với anh ta nhiều điểm. Đặng Hải Sơn, nghị viên đơn vị Tùng Nghĩa, không tái tranh cử vì không thích làm bù nhìn nữa. Anh ta tâm sự một câu đáng suy nghĩ: "Phải ra Cam Ranh, nhìn thông non Đà Lạt mà Trần Thiện Khiêm và bè lũ bán cho Nhật, nó chặt ngọn, chặt gốc vất lại, chỉ lấy một khúc giữa thôi, khi ấy không yêu nước sẽ thấy yêu nước." Đặng Hải Sơn về Sàigòn làm báo, chủ trương cơ sở xuất bản Hải Âu với Trần Dạ Từ. Anh ta cùng quan điểm với Hoàng Mạnh Hùng. Tôi rất quý mến Đặng Hải Sơn. Anh ta trầm tính, sâu sắc 4. Đoàn Kế Tường và Dương Đức Dũng kể và vẽ sơ đồ cachots đề lao Gia Định, Chí Hòa thật chi tiết cho tôi nghe. Nhờ đó, tôi mô tả cachot FG không sai mấy.
Bạn tù tôi đã sống với họ, đã vui buồn cùng họ từ Gia Định rồi lại sống với họ, vui buồn cùng họ bên Chí Hòa còn có năm người. Chẳng biết hôm nào chúng tôi vĩnh biệt nhau.
° ° °
Giữa tháng 11 năm 1978, cai ngục Thuận đem đến một danh sách. Hắn ta đứng ngoài hành lang đọc lớn:
- Nguyễn Mạnh Côn.
- Có.
- Đặng Hải Sơn.
- Có.
- Nguyễn Thái Hà.
- Có.
- Vũ Mộng Long.
- Có.
- Chuẩn bị đồ cá nhân.
Cả phòng xôn xao. Khai Trí, Phạm Quang Khai, Nguyễn Công Kha thở phào. Vì thoát lao cải. Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng buồn hiu. Vì danh sách thiếu tên mình. Cửa phòng mở. Đằng Giao hớt hãi vào:
- Tôi cũng đi.
- Không đọc tên ông mà.
- Thằng Thuận bảo tôi về chuẩn bị hành lý.
Thu xếp hành lý thật nhanh. Chúng tôi còn thì giờ tạm biệt nhau, ông Khai bắt tay tôi:
- Ông đi may mắn.
- Cám ơn ông.
Đoàn Kế Tường ôm lấy tôi, khóc như con nít. Tôi nhớ lời hai của Đoàn Kế Tường ở Trả lại em yêu của Phạm Duy, bèn rống lên lấy khí thế cơ hồ Kinh Kha qua Dịch Thủy:
… Anh sẽ ra đi về tận miền Bắc
Anh sẽ ra đi
Chẳng mong ngày về
Trả lại em yêu
Chí Hòa chật chội
Kỷ luật Tư Long
Ngón đòn cu Phách
Buổi chiều thăm nuôi
Ngóng hoài em tới
Nuốt nhanh miếng thịt
Nuối tim con mình…
Cai ngục Thuận đã trở lại. Chúng tôi rời phòng. Giã từ AH. Giã từ phòng giam đã giúp mình thoát chết bệnh đau màng óc. Tôi đeo bị, xách giỏ, bước xuống dưới, ngồi xếp hàng cạnh phòng của các tù nữ. Ở đâv, đã có một nhóm tù ngồi đợi lệnh. Sau khi gom đủ số tù nhân các khu ghi trong danh sách, cai ngục Thuận dẫn chúng tôi sang khu BC.
Cai ngục khu BC tiếp nhận chúng tôi, điểm sổ, điểm danh, ký tên vào danh sách rồi đưa chúng tôi lên lầu 3.
Tôi biết thêm BC. Chí Hòa bát giác hay Chí Hòa bát quái có bốn khu, tôi đã đặt chân lên ba khu. BC chỉ là chỗ dừng chân, lâu nhất chứng hai tuần lễ. Từ đây, tôi sẽ bị tống đến một chân trời lao cải nào đó. Ở phòng mới BC toàn tù nhân lạ và chung một tội: Phản động. Chung một tội không phải là chung một tâm sự. Trong lịch sử chống cộng sản ở Việt Nam, chưa giai đoạn nào "phồn thịnh" như giai đoạn này. Đủ tầng lớp quần chúng chống cộng sau 30-4-1975. Trí thức có. Bình dân có. Nông dân có. Công nhân có. Nghèo có. Giàu có. Ông già có. Niên thiếu có. Phụ nữ có. Sinh viên có. Học sinh có. Thậm chí, lơ xe đò, phu nhà đòn cũng nức lòng tham gia các tổ chức chống cộng sản. Tù nhân chính trị hiện hành đông hơn tù nhân sĩ quan và viên chức chế độ cũ trình diện học tập cải tạo. Chẳng ai biết, chẳng ai đếm xỉa đến cái khối tù nhân chính trị vô danh này. Thế giới thường băn khoăn cho số phận mấy ông công chức cao cấp phủ Tổng thống. Và muốn cứu các tù nhân… tư tưởng nàv! Để giải trí cho đỡ buồn thì can thiệp với Nhà Nước cộng sản thả ông sư vượt biên, ông cố đạo vượt biên, ông nghị sĩ hay ông bộ trưởng đều phúc đức cả. Những kẻ chiến đấu đích thực không cần ai can thiệp xin tha. Chiến đấu là chấp nhận thiệt thòi. Anh lơ xe đò, anh phu nhà đòn, chắc chắn, không bao giờ thèm quan tâm cái tước vị Chủ tịch hay Tổng thống. Nhưng vào tù, các anh khổ hơn những ông chiến đấu với âm mưu Chủ tịch, Tổng thống. Hiển nhiên, các anh ấy sẽ bị liệt vào giai cấp "con bà phước." Chung một tội mà không chung một tâm sự là vậy.
Ổn định chỗ nằm xong, Đằng Giao hỏi tôi:
- Mình sẽ đi đâu, ông thầy?
Tôi lắc đầu:
- Chịu.
- Tôi thèm đi xa.
- Tận nơi nào?
- Sơn La, Lào Kay..
- Nếu chúng ta là sĩ quan, là viên chức cao cấp, là nghị sĩ, là dân biểu. Bọn mình là nhà văn, nhà báo độc lập, thiếu "hân hạnh" thăm Lăng Bác. Chỗ xa nhất, theo tôi, mình có thể đến là Gia Lai, Kontum.
- Trại Gia Trung.
- Có cả chục trại ở Gia Lai, Kontum. Được nhập trại Gia Trung, mình sẽ gặp các ông Doãn Quốc Sĩ, Mặc Thu, Thái Thủy, Thanh Thương Hoàng, Trịnh Viết Thành, Chóe, Tô Ngọc…
- Tôi muốn mình đến một nơi nó cấm mình thư từ về và nhận thư từ đến. Kéo dài thêm sự vô vọng của vợ con, tôi nản quá.
- Bạn ơi, tôi cũng muốn vợ con tôi coi như tôi đã chết.
Không có tù nhân nào bất hạnh hơn tù nhân không được xét xử, không có án phạt. Chúng tôi mòn mỏi. Vợ con chúng tôi mòn mỏi. Tôi cảm tưởng tôi tù trong, vợ con tôi tù ngoài. Sự trừng phạt của hận thù khiếp đảm quá. Tôi đã viết bài thơ tặng nó.
Gửi cho anh đôi mắt
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết nhìn sự trơ trẽn ngục tù
và nó thấy nó bọ hung lầm lũi
Gửi cho anh cái mũi
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ngửi mùi tanh tưởi cachot
và nó thấy nó côn trùng câm nín
Gửi cho anh cái miệng
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ăn thực phẩm trâu bò
và nó thấy nó nghìn năm rác rưởi
Gửi cho anh cái lưỡi
để anh ráp vô họng hận thù
Nó sẽ biết tập tành nói chuyện thương yêu, lãng mạn, mộng mơ
và nó thấy nó xụt xùi muốn khóc
Gửi cho anh bộ óc
Gửi cho anh trái tim
Gửi cho anh ái tình
Gửi cho anh cuộc đời dạt dào cảm xúc
Gửi cho anh con người hào hoa đích thực
Gửi cho anh
gửi tặng hận thù
(Thư Tù, trong tuyển tập Poèmes de prison).
Gửi tặng thù hận hay gửi tặng những kẻ nuôi dưỡng thù hận dân tộc, thù hận con người?
- Tôi xuống tinh thần rồi, ông thầy ạ!
- Xuống tinh thần nguy hiểm lắm.
- Chết là cùng.
- Chết dai dẳng, chết không đúng ý mình muốn. Mà chết vô ích. Ngu sao chết, sống để nhìn chứ. Bạn ơi, coi như mình chết thì được, chết thật thì không nên. Niềm bí ẩn của đời sống thường đến thật chậm. Bạn biết chúng ta sống bao nhiêu ngày trong tù chưa?
Đằng Giao tính nhẩm:
- 31 tháng, tức là 930 ngày.
Tôi nói:
- Cổ nhân phán: Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Ta cứ coi rằng một ngày tù của cổ nhân bằng một ngàn ngày tù cộng sản của ta, thì 930 X 1000, ta đã nằm tù 930,000 năm rồi bạn ạ! Ta nhập cõi từ khuya, lo chi chuyện sống chết.
Đằng Giao cười méo xệch:
- Ông thầy an ủi tôi hay an ủi ông thầy?
Tôi chớp mắt:
- Ta an ủi nhau, Đằng Giao ạ!
Quả thật, chúng tôi đã trải qua 930,000 năm ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định, ở Chí Hòa. Có gã tù nhân nào đó đã ngạo nghễ nói: "Mười năm tù như một giấc ngủ trưa." 930,000 năm chỉ là 930,000 giấc ngủ trưa. Thu nó lại, 930 ngày mới bằng một góc giấc ngủ trưa. Có chi phải ồn ào cái nỗi tù đầy của mình nhỉ?
Chúng tôi ở BC đã đuợc một tuần, sinh hoạt như AH. Đằng Giao bị chỉ định làm Trưởng phòng. Mỗi sáng nhìn sang AH, tôi thấy quần áo phất lia. Bèn hiểu là Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng hỏi thăm mình. Ở BC, nhìn xuống hồ tắm, tôi thấy rõ bộ trưởng Ngô Khắc Tĩnh hơn. ông vốn thấp, mặc quần xà lỏn, áo thung, ông càng thấp, ông Thợ Lặn 5 hết ngụp lăn trong danh vọng quyền bính mà lặn ngụp trong ngục tù. Ngắm ông xách hai thùng nước bỗng tội nghiệp ông vô cùng.
Đến ngày thứ 10, một cán bộ hồ sơ đến phòng, mở rộng cửa "làm việc" với chúng tôi. Chiếc bàn gỗ kê sát cửa. Anh ta gọi tên từng tù nhân và yêu cầu tù nhân bước gần bàn, đứng nghiêm, đọc sơ yếu lỷ lịch của mình để anh ta xem hồ sơ ghi đúng hay sai. Mỗi tù nhân riêng một hồ sơ đựng trong một tấm bìa. Đằng Giao, Nguyễn Mạnh Côn "can tội văn nghệ sĩ phản động," cán bộ hồ sơ xác nhận đúng. Anh ta nói thêm:
- Các anh đi lao động cải tạo đúng 3 năm thì về. Còn vài tháng nữa thôi, án phạt tính từ ngày các anh bị bắt.
Đến lượt tôi khai "can tội nhà vàn phản động" cán bộ hồ sơ lắc đầu:
- Anh nghề nghiệp "nhà văn phản động", can tội đảng viên Duy Dân trốn trình diện học tập, trong tổ chức chống phá cách mạng hiện hành. Nhưng anh cũng đúng 3 năm là được tha.
Tôi bàng hoàng giây lát. Rồi tôi xét lại Hai Nghiêm và lão cán bộ của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trung ương 6. Cộng sản không bao giờ nói thật. Cộng sản chơi trò giả đạo đức rất tài. Tôi quên mất lời khuyên của người công an chấp pháp miền Nam đã "làm việc" với tôi lần đầu tiên ở Sở Công An: "Trong tù, tuyệt đối không tin ai." Nhưng mà tội gì thì tội, không được xét xử, không có án phạt thì ngày về xa lơ xa lắc. Tôi không tin lời anh cán bộ hồ sơ nữa. Đằng Giao càng không tin. Tù nhân tự hào là mình từng đi guốc vào bụng cộng sản, mình đã nằm tù cộng sản năm 1948 là Nguyễn Mạnh Côn, thì tin tưởng ra mặt.
Trật tự đem cơm trưa hôm ấy là con trai của nhà thơ phúng biếm nổi tiếng một thời, can tội trộm cắp. Cậu ta cho chúng tôi biết chúng tôi sẽ rời Chí Hòa sáng sớm ngày mai.
- Đi đâu?
- Cháu không biết.
- Gần hay xa.
- Còn tùy.
- Tùy gì?
- Tùy thực phẩm ăn đường. Nhà bếp đang lo luộc bột. Hễ các chú được phát ít thì đi gần, phát nhiều thì đi xa.
Cậu con trai của nhà thơ nói đúng. Sáng sớm hôm sau, trước giờ kẽng báo thức, chúng tôi được lệnh rời phòng. Vệ binh võ trang giải chúng tôi xuống sân vòng ngoài. Tôi không còn thấy bên trong Chí Hòa. Vĩnh biệt nó, vĩnh biệt FG, AH, BC. Chúng tôi bị chia thành bốn nhóm, đứng xếp hàng đôi. Kẽng báo thức điểm một lúc thì bốn chiếc xe vận tải chuyên chở súc vật chầm chậm chạy vào. Rồi xe quay đầu lại. Nhóm chúng tôi đầu danh sách nên được "chiếu cố" trước. Cán bộ hồ sơ, hôm nay, mặc đồng phục công an nhân dân, đeo súng ngắn. Vệ binh rất đông, kè kè AK nạp đạn.
- Nguyễn Mạnh Côn.
- Có.
- Lên xe!
Người ta phát cho mỗi tù nhân một cục bột luộc khá lớn. Đi gần thôi, tôi nghĩ thế. Tù nhân ném hành lý lên sàn xe rồi leo sau. Không có thang. Mỗi chiếc xe tải nhồi nhét 50 thằng tù. Chở heo, tối đa, 30 con. Đằng Giao và tôi lên xe sau cùng. Trần xe và thành xe đan lưới sắt lợp vải bố. Cửa sau là song sắt lớn, hàn xì vững chắc. Tù nhân lên xe xong, cửa khóa chặt và vải bố buông kín. Tuy nhiên, vẫn có thể he hé vải bố nhìn ra. Tôi thấv, trên nóc ca-bin xe sau tôi, một vệ binh ôm súng ngồi. Trong ca-bin, một vệ binh khác. Ngoài ra, còn một chiếc jeep gắn đại liên. Đảng và Nhà Nước cộng sản võ trang hùng hậu dẫn độ đám tù ốm đi học tập cải tạo.
- Ông thầy đoán thử, nó đưa mình về nghĩa địa nào? Đằng Giao hỏi.
- Lát nữa sẽ biết. Tôi nói.
- Thử cho đở buồn.
- Nếu xe ra đường Lê Văn Duyệt, rẽ trái là mình đi Kà Tum, Trảng Lớn.
- Rẽ phải?
- Lại đợi đến bùng binh đường tầu. Rẽ phải, ta về miền Tây, ta vô trại Vườn Đào ở Cai Lậy hay xuống Năm Căn, Cái Đước… Đi thẳng rồi rẽ trái, ta xuôi chiều Phan Thanh Giản ra xa lộ Biên Hòa. Hễ qua cầu Đòng Nai, ta ra miền Trung. Mà một cục bột, tôi cho rằng, mình ghé Rừng Lá thôi.
- Có thể Long Thành, Suối Máu chăng?
- Với cộng sản, cái gì cũng có thể.
Xe đã chuyển bánh lạo xạo trên lớp đá răm. Lát sau, nó qua cổng khám lớn Chí Hòa mà cách mạng vô sản gọi là Trại cải Tạo Trường Kỳ. Bây giờ mới thực sự giã biệt Chí Hòa, nơi chốn mà nô lệ hay độc lập, cách mạng nhân vị hay cách mạng vô sản, chỉ thấy người Việt Nam bắt nhốt người Việt Nam, chỉ thấy người Việt Nam đọa đày người Việt Nam. Xe đang chạy từ từ. Đường Hòa Hưng đây. Tôi hé tấm bố, cố tìm một cách vô vọng xem có thấy vợ con mình ngơ ngác đứng trên hè phố đợi chuyến xe tù ngang qua. Cảnh tượng đìu hiu vô cùng. Tấm bảng quán Ly Tao của danh ca Ngọc Long đã hạ. "Kẻ đi, người lại dáng lao xao." Đằng Giao và tôi căng mắt nhìn Saigon. Xe rẽ bên phải. Chúng tôi thoát Kà Tum, Trảng Lớn. Xe qua bùng binh đường tầu, chạy thẳng luôn. Chúng tôi hết về miền Tây. Xe rẽ xuôi chiều Phan Thanh Giản. Tôi phải nhường chỗ cho anh em khác. Cũng chẳng thích ngắm thêm nỗi ưu phiền giăng mắc kín thành phố thân yêu cũ.
Tôi đã vỡ lòng cay đắng ở sở Công An. Tôi đã nhập môn thống khổ ở đề lao Gia Định. Đau thương của tôi, tôi rấm ở Chí Hòa, kể như đã chín. Đã chín những hệ lụy trong cái tĩnh của nhà tù. Còn những hệ lụy nào nữa, sắp phơi ra cái động của trại tập trung. Tôi sẽ mang về cái gì hay chẳng bao giờ mang về cái gì. Tôi sẽ tồn tại hay tôi sẽ bị hủy diệt. Điều đó không quan trọng, không cần thiết. Sự quan trọng là biết sống và dám uống tới giọt đắng cuối cùng của cuộc sống. Tôi sẽ cố gắng sống với hy vọng được thưởng thức giọt đắng cuối cùng của cuộc sống. Để khôn lớn và để không thẹn làm người.
Ivry sur Seine
Tháng 5-1987
--------------------------------
1 Thơ Tù, Nam Á, Paris 1984.
2 Poèmes de prison. Les Editions de Caux, Thụy Sĩ, sắp xuất bản.
3 Việt Cộng gọi quần Jean là quần bò.
4 Đặng Hải Sơn vượt ngục Sa-Ác TH-6 năm 1980, thành công, vẫn sống "lưu vong" tại Saigon.
5 Bút hiệu viết báo của Ngô Khắc Tĩnh, ông đã khoe như vậy.
6 Amnesty International và International Pen, trong những thư gửi cho nhà cầm quyền Việt Nam can thiệp trả tự do cho tôi, đều được trả lời: Duyên Anh không phải là nhà văn. Và họ đã khước từ phái đoàn AI xin gặp tôi tháng 8-1978. Nhưng trong Giấy Ra Trại, họ vẫn ghi tôi can tội "nhà văn phản động".
Hết
Nhà tù của tôi
rất nhiều tiếng gọi không thể vọng ra bên ngoài
Những tiếng gọi bỡn đùa sự hoang vắng
những tiếng gọi chọc cười niềm trắc ẩn
mà tôi nghe ròng rã nghìn đêm
mà tôi nghe tưởng đã khùng điên
bởi mỗi lần một tù nhân vĩnh biệt
Báo cáo cán bộ: Cachot có người chết
Thế giới vẫn phóng lên sáng rực tín hiệu nhân quyền
Và nhà tù của tôi vẫn bóng tối triền miên
ở biệt giam hàng chục kiểu còng ngồi còng đứng
còng chéo hai tay còng chung một cụm
còng rướn ngón chân còng dộng ngược đầu
còng khoan dung một lối chết thật lâu
để thấm thía lòng yêu tự do dân chủ
Báo cáo cán bộ: Cachot có người tự tử
Nhân loại thường cảm thông nỗi khổ rất mùa màng
và phải rất thời trang
nên cụ thể dễ biến thành trừu tượng
Nỗi khổ khác hẳn niềm sung sướng
nó cần quên ngay
nó không được phép rên xiết dài dài
Một đêm mưa lạnh
tôi nghe tiếng trẻ thơ kêu kinh hoàng trong hiu quạnh
Bố ơi bố ơi Mẹ chết rồi
Anh khó hiểu nổi nhà tù của tôi
Người cha bị lưu đầy ra hải đảo
Người mẹ mang bầu dắt con theo cải tạo
Bài thơ nhan đề Tiếng gọi không thể vọng ra ngoài tôi làm ở khu AH Chí Hòa. Bài này và 15 bài khác không có trong tập Thơ Tù� 1) nhưng tôi đã cho dịch sang Pháp văn trọn vẹn 30 bài thơ tù của tôi, 30 bài thơ tôi đã đọc ỏ Centre Pompidou, Paris; Theatre Action, Grenoble; Salle des fêtes, Paris 7è. 2
Đề lao Gia Định và Chí Hòa gây cho tôi nhiều cảm hứng thơ. Phải đợi qua AH, "đời sống" thoải mái, tôi mới sáng tác. Ở bài Chút tâm sự của người làm thơ trong tù, trên đầu tập Thơ Tù, tôi đã viết rõ, tưởng chẳng cần diễn tả thêm. AH mỗi ngày mỗi vơi bạn tù tốt nên phải dùng thơ lấp vào. Ông Tư Nhì đã được tha. Anh Võ Xuân Đình, anh Mai Đức Khôi đã đi lao cải. Ở nhà tù, mỗi lần chia tay kể như mỗi lần vĩnh quyết. Tôi nghĩ nên ghi cái cảm xúc ấv vào thơ. Ít ra, nó cũng bớt ẩn ức vô tích sự. Thế thì, tôi đã làm khá nhiều thơ, ở Chí Hòa. Khác với Đoàn Kế Tường, buồn quả hóa khùng, khùng quá cứ nhè ông Phạm Quang Khai mà sinh sự. Mấy ông tư sản mại bản Việt Nam có thú vui khó ngửi. Là thường xuyên khoe khoang sự phú quý đã trở thành "vang bóng một thời." Lại khoe oang oang:
- Thằng út nhà tôi sang năm tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Con cháu gái lớn, tiến sĩ kinh tế rồi.
- Các cháu tôi cũng tiến sĩ, kỹ sư hết.
Đoàn Kế Tường xía vào:
- Chưa hay đâu. Con cu ly bến tầu, con điếm, con ma-cô tốt nghiệp tiến sĩ, kỹ sư mới bảnh. Còn con cái bọn làm giầu bằng chiến tranh, muốn bảnh và xứng đáng khoe khoang phải đậu bằng cấp ma-cô, đĩ điếm, trộm cắp!
Các nhà tư sản mại bản nín thinh. Vì đúng quá. Lần khác, một nhà tư sản mại bản cao hứng kể thành tích đóng góp cho công cuộc chống cộng:
- Tôi đã tặng thương phế binh 200 xe lăn, mỗi Tết đều lì xì cảnh sát quốc gia vài triệu.
Đoàn Kế Tường nổi giận:
- Ông hút máu họ 2 lít, ông chích cho họ một ống sérum. Mà ông xuất tiền túi bao giờ? Ông bị phạt thuế, xin xỏ tiền phạt mua xe lăn tặng lính què. Của sở thuế, phúc ông. Ông lưu manh số một.
Nhà tư sản mại bản lại nín thinh. Cứ vậy, tối ngày, Chí Hòa công kích lẫn nhau khiến hồn thơ của tôi bay lên cachot. Tôi bắt đầu thèm động. Cái động lao cải ở trại tập trung. Con người bị giam hãm một nơi chật chội quá lâu đâm ra bẩn tính, hẹp hòi, cố chấp. Riết rồi, chỉ thấy ở nhau những điều xấu xa mà quên ở nhau những điều tốt đẹp. Và rồi, khi thoát đời tù vẫn quên những điều tốt đẹp mà chỉ nhớ những điều xấu xa nẩy sinh ở nơi tù túng, nơi con người bị xếp dưới hàng con vật. Tôi nghĩ, sống mãi với cái tĩnh, cái tĩnh ao tù của Sở Công An, của đề lao Gia Định, của Chí Hòa, da đã mỏng, thịt đã bủng mà hồn càng mỏng, càng bủng. Như bốn ngày bị Tư Long cúp nước, mọi người gần gũi nhau, thông cảm nhau. Như những ngày thoải mái AH, mọi người xa rời nhau, khó chịu nhau cả túi thăm nuôi lớn và túi thăm nuôi bé. Buồn, nản nhất là chỉ tù nhân Việt Nam gấu ó tù nhân Việt Nam. Tù nhân Ba Tầu không gấu ó nhau, không quan tâm đến sinh hoạt của tù nhân Việt Nam. Tôi thèm cái động của lao cải. Để xem, ngoài trời, con người tù có cao cả hơn, đại lượng hơn.
Phòng của chúng tôi lại thu nhận những người bệnh kiết lỵ bị cách ly trả về. Vi trùng Amibe khinh thường "thuốc dân tộc" của chế độ cộng sản. Bệnh kiết lỵ khó tiêu diệt ở nhà tù. Tôi thấy một điều thật mâu thuẫn. Những người mắc bệnh tiêu chẩy "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" lên kiết lỵ đều thuộc… giai cấp "con bà phước," giai cấp vô sản chính thống trong nhà tù. Giai cấp tư sản ăn thịt bò bíp-tếch "ướp muối" cả tuần, ăn gà rô-ti thiu "ướp muối" cả tháng, đâu có bị tiêu chẩy, kiết lỵ. Tôi đã ăn, ròng rã mấy năm, thịt kho ướp tầu vị ỵểu trong keo nhựa đến nỗi thịt chua lè. Mà vẫn không hề bị tiêu chẩy, kiết lỵ. Nhưng "con bà phước" ăn cơm, ăn bột luộc, ăn bo bo với canh bí nấu muối thì bị Tào Tháo đuổi tơi bời. Mâu thuẫn này nặng nề ngoài đời. Kẻ nghèo suốt đời kiết, dẫu cách mạng vô sản là cách mạng của người nghèo. Công an khu vực chơi với vô sản chính thống thì đói, chơi với tư sản thì no, lại còn được tặng quần bò� 3 của con cháu tư sản phản động theo Mỹ gửi về. Những kẻ chống cộng sản đã không chịu khai thác kỹ lưỡng cái mâu thuẫn này.
Để tôi đếm những bạn tù đề lao Gia Định của tôi xem còn ai: Hoàng Mạnh Hùng, Đặng Hải Sơn, Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng, Phạm Quang Khai. Tư tưởng chiến đấu mới của tuổi trẻ rải rác trong tiểu thuyết của tôi bắt nguồn từ những buổi thầm thì đàm thoại với Hoàng Mạnh Hùng ở nhà tù. Anh ta quy định rõ rệt Hà Nội là phỉ quyền, Sàigòn là ngụy quyền. Từ sau chính biến tháng 3 năm 1945, Việt Nam chưa có chính quyền. Người Việt Nam chân chính phải chiến đấu để tạo dựng một chính quyền thì mới giương danh chính nghĩa quốc gia. Anh ta chống đổ máu, chống tàn sát thêm ở Việt Nam. Tàn sát 500 tên lãnh tụ lớn, nhỏ của cộng sản Việt Nam. Là đủ. Hạnh phúc phải được ban phát cùng khắp. Tốt nghiệp tiến sĩ bên Mỹ, về nước anh ta khước từ chức vụ Thứ trưởng Văn hóa Giáo dục, dạy ở Thủ Đức. Vợ con đi Mỹ trước cả 1975, anh ta ở lại chiến đấu. Tồi đồng ý với anh ta nhiều điểm. Đặng Hải Sơn, nghị viên đơn vị Tùng Nghĩa, không tái tranh cử vì không thích làm bù nhìn nữa. Anh ta tâm sự một câu đáng suy nghĩ: "Phải ra Cam Ranh, nhìn thông non Đà Lạt mà Trần Thiện Khiêm và bè lũ bán cho Nhật, nó chặt ngọn, chặt gốc vất lại, chỉ lấy một khúc giữa thôi, khi ấy không yêu nước sẽ thấy yêu nước." Đặng Hải Sơn về Sàigòn làm báo, chủ trương cơ sở xuất bản Hải Âu với Trần Dạ Từ. Anh ta cùng quan điểm với Hoàng Mạnh Hùng. Tôi rất quý mến Đặng Hải Sơn. Anh ta trầm tính, sâu sắc 4. Đoàn Kế Tường và Dương Đức Dũng kể và vẽ sơ đồ cachots đề lao Gia Định, Chí Hòa thật chi tiết cho tôi nghe. Nhờ đó, tôi mô tả cachot FG không sai mấy.
Bạn tù tôi đã sống với họ, đã vui buồn cùng họ từ Gia Định rồi lại sống với họ, vui buồn cùng họ bên Chí Hòa còn có năm người. Chẳng biết hôm nào chúng tôi vĩnh biệt nhau.
° ° °
Giữa tháng 11 năm 1978, cai ngục Thuận đem đến một danh sách. Hắn ta đứng ngoài hành lang đọc lớn:
- Nguyễn Mạnh Côn.
- Có.
- Đặng Hải Sơn.
- Có.
- Nguyễn Thái Hà.
- Có.
- Vũ Mộng Long.
- Có.
- Chuẩn bị đồ cá nhân.
Cả phòng xôn xao. Khai Trí, Phạm Quang Khai, Nguyễn Công Kha thở phào. Vì thoát lao cải. Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng buồn hiu. Vì danh sách thiếu tên mình. Cửa phòng mở. Đằng Giao hớt hãi vào:
- Tôi cũng đi.
- Không đọc tên ông mà.
- Thằng Thuận bảo tôi về chuẩn bị hành lý.
Thu xếp hành lý thật nhanh. Chúng tôi còn thì giờ tạm biệt nhau, ông Khai bắt tay tôi:
- Ông đi may mắn.
- Cám ơn ông.
Đoàn Kế Tường ôm lấy tôi, khóc như con nít. Tôi nhớ lời hai của Đoàn Kế Tường ở Trả lại em yêu của Phạm Duy, bèn rống lên lấy khí thế cơ hồ Kinh Kha qua Dịch Thủy:
… Anh sẽ ra đi về tận miền Bắc
Anh sẽ ra đi
Chẳng mong ngày về
Trả lại em yêu
Chí Hòa chật chội
Kỷ luật Tư Long
Ngón đòn cu Phách
Buổi chiều thăm nuôi
Ngóng hoài em tới
Nuốt nhanh miếng thịt
Nuối tim con mình…
Cai ngục Thuận đã trở lại. Chúng tôi rời phòng. Giã từ AH. Giã từ phòng giam đã giúp mình thoát chết bệnh đau màng óc. Tôi đeo bị, xách giỏ, bước xuống dưới, ngồi xếp hàng cạnh phòng của các tù nữ. Ở đâv, đã có một nhóm tù ngồi đợi lệnh. Sau khi gom đủ số tù nhân các khu ghi trong danh sách, cai ngục Thuận dẫn chúng tôi sang khu BC.
Cai ngục khu BC tiếp nhận chúng tôi, điểm sổ, điểm danh, ký tên vào danh sách rồi đưa chúng tôi lên lầu 3.
Tôi biết thêm BC. Chí Hòa bát giác hay Chí Hòa bát quái có bốn khu, tôi đã đặt chân lên ba khu. BC chỉ là chỗ dừng chân, lâu nhất chứng hai tuần lễ. Từ đây, tôi sẽ bị tống đến một chân trời lao cải nào đó. Ở phòng mới BC toàn tù nhân lạ và chung một tội: Phản động. Chung một tội không phải là chung một tâm sự. Trong lịch sử chống cộng sản ở Việt Nam, chưa giai đoạn nào "phồn thịnh" như giai đoạn này. Đủ tầng lớp quần chúng chống cộng sau 30-4-1975. Trí thức có. Bình dân có. Nông dân có. Công nhân có. Nghèo có. Giàu có. Ông già có. Niên thiếu có. Phụ nữ có. Sinh viên có. Học sinh có. Thậm chí, lơ xe đò, phu nhà đòn cũng nức lòng tham gia các tổ chức chống cộng sản. Tù nhân chính trị hiện hành đông hơn tù nhân sĩ quan và viên chức chế độ cũ trình diện học tập cải tạo. Chẳng ai biết, chẳng ai đếm xỉa đến cái khối tù nhân chính trị vô danh này. Thế giới thường băn khoăn cho số phận mấy ông công chức cao cấp phủ Tổng thống. Và muốn cứu các tù nhân… tư tưởng nàv! Để giải trí cho đỡ buồn thì can thiệp với Nhà Nước cộng sản thả ông sư vượt biên, ông cố đạo vượt biên, ông nghị sĩ hay ông bộ trưởng đều phúc đức cả. Những kẻ chiến đấu đích thực không cần ai can thiệp xin tha. Chiến đấu là chấp nhận thiệt thòi. Anh lơ xe đò, anh phu nhà đòn, chắc chắn, không bao giờ thèm quan tâm cái tước vị Chủ tịch hay Tổng thống. Nhưng vào tù, các anh khổ hơn những ông chiến đấu với âm mưu Chủ tịch, Tổng thống. Hiển nhiên, các anh ấy sẽ bị liệt vào giai cấp "con bà phước." Chung một tội mà không chung một tâm sự là vậy.
Ổn định chỗ nằm xong, Đằng Giao hỏi tôi:
- Mình sẽ đi đâu, ông thầy?
Tôi lắc đầu:
- Chịu.
- Tôi thèm đi xa.
- Tận nơi nào?
- Sơn La, Lào Kay..
- Nếu chúng ta là sĩ quan, là viên chức cao cấp, là nghị sĩ, là dân biểu. Bọn mình là nhà văn, nhà báo độc lập, thiếu "hân hạnh" thăm Lăng Bác. Chỗ xa nhất, theo tôi, mình có thể đến là Gia Lai, Kontum.
- Trại Gia Trung.
- Có cả chục trại ở Gia Lai, Kontum. Được nhập trại Gia Trung, mình sẽ gặp các ông Doãn Quốc Sĩ, Mặc Thu, Thái Thủy, Thanh Thương Hoàng, Trịnh Viết Thành, Chóe, Tô Ngọc…
- Tôi muốn mình đến một nơi nó cấm mình thư từ về và nhận thư từ đến. Kéo dài thêm sự vô vọng của vợ con, tôi nản quá.
- Bạn ơi, tôi cũng muốn vợ con tôi coi như tôi đã chết.
Không có tù nhân nào bất hạnh hơn tù nhân không được xét xử, không có án phạt. Chúng tôi mòn mỏi. Vợ con chúng tôi mòn mỏi. Tôi cảm tưởng tôi tù trong, vợ con tôi tù ngoài. Sự trừng phạt của hận thù khiếp đảm quá. Tôi đã viết bài thơ tặng nó.
Gửi cho anh đôi mắt
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết nhìn sự trơ trẽn ngục tù
và nó thấy nó bọ hung lầm lũi
Gửi cho anh cái mũi
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ngửi mùi tanh tưởi cachot
và nó thấy nó côn trùng câm nín
Gửi cho anh cái miệng
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ăn thực phẩm trâu bò
và nó thấy nó nghìn năm rác rưởi
Gửi cho anh cái lưỡi
để anh ráp vô họng hận thù
Nó sẽ biết tập tành nói chuyện thương yêu, lãng mạn, mộng mơ
và nó thấy nó xụt xùi muốn khóc
Gửi cho anh bộ óc
Gửi cho anh trái tim
Gửi cho anh ái tình
Gửi cho anh cuộc đời dạt dào cảm xúc
Gửi cho anh con người hào hoa đích thực
Gửi cho anh
gửi tặng hận thù
(Thư Tù, trong tuyển tập Poèmes de prison).
Gửi tặng thù hận hay gửi tặng những kẻ nuôi dưỡng thù hận dân tộc, thù hận con người?
- Tôi xuống tinh thần rồi, ông thầy ạ!
- Xuống tinh thần nguy hiểm lắm.
- Chết là cùng.
- Chết dai dẳng, chết không đúng ý mình muốn. Mà chết vô ích. Ngu sao chết, sống để nhìn chứ. Bạn ơi, coi như mình chết thì được, chết thật thì không nên. Niềm bí ẩn của đời sống thường đến thật chậm. Bạn biết chúng ta sống bao nhiêu ngày trong tù chưa?
Đằng Giao tính nhẩm:
- 31 tháng, tức là 930 ngày.
Tôi nói:
- Cổ nhân phán: Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Ta cứ coi rằng một ngày tù của cổ nhân bằng một ngàn ngày tù cộng sản của ta, thì 930 X 1000, ta đã nằm tù 930,000 năm rồi bạn ạ! Ta nhập cõi từ khuya, lo chi chuyện sống chết.
Đằng Giao cười méo xệch:
- Ông thầy an ủi tôi hay an ủi ông thầy?
Tôi chớp mắt:
- Ta an ủi nhau, Đằng Giao ạ!
Quả thật, chúng tôi đã trải qua 930,000 năm ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định, ở Chí Hòa. Có gã tù nhân nào đó đã ngạo nghễ nói: "Mười năm tù như một giấc ngủ trưa." 930,000 năm chỉ là 930,000 giấc ngủ trưa. Thu nó lại, 930 ngày mới bằng một góc giấc ngủ trưa. Có chi phải ồn ào cái nỗi tù đầy của mình nhỉ?
Chúng tôi ở BC đã đuợc một tuần, sinh hoạt như AH. Đằng Giao bị chỉ định làm Trưởng phòng. Mỗi sáng nhìn sang AH, tôi thấy quần áo phất lia. Bèn hiểu là Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng hỏi thăm mình. Ở BC, nhìn xuống hồ tắm, tôi thấy rõ bộ trưởng Ngô Khắc Tĩnh hơn. ông vốn thấp, mặc quần xà lỏn, áo thung, ông càng thấp, ông Thợ Lặn 5 hết ngụp lăn trong danh vọng quyền bính mà lặn ngụp trong ngục tù. Ngắm ông xách hai thùng nước bỗng tội nghiệp ông vô cùng.
Đến ngày thứ 10, một cán bộ hồ sơ đến phòng, mở rộng cửa "làm việc" với chúng tôi. Chiếc bàn gỗ kê sát cửa. Anh ta gọi tên từng tù nhân và yêu cầu tù nhân bước gần bàn, đứng nghiêm, đọc sơ yếu lỷ lịch của mình để anh ta xem hồ sơ ghi đúng hay sai. Mỗi tù nhân riêng một hồ sơ đựng trong một tấm bìa. Đằng Giao, Nguyễn Mạnh Côn "can tội văn nghệ sĩ phản động," cán bộ hồ sơ xác nhận đúng. Anh ta nói thêm:
- Các anh đi lao động cải tạo đúng 3 năm thì về. Còn vài tháng nữa thôi, án phạt tính từ ngày các anh bị bắt.
Đến lượt tôi khai "can tội nhà vàn phản động" cán bộ hồ sơ lắc đầu:
- Anh nghề nghiệp "nhà văn phản động", can tội đảng viên Duy Dân trốn trình diện học tập, trong tổ chức chống phá cách mạng hiện hành. Nhưng anh cũng đúng 3 năm là được tha.
Tôi bàng hoàng giây lát. Rồi tôi xét lại Hai Nghiêm và lão cán bộ của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trung ương 6. Cộng sản không bao giờ nói thật. Cộng sản chơi trò giả đạo đức rất tài. Tôi quên mất lời khuyên của người công an chấp pháp miền Nam đã "làm việc" với tôi lần đầu tiên ở Sở Công An: "Trong tù, tuyệt đối không tin ai." Nhưng mà tội gì thì tội, không được xét xử, không có án phạt thì ngày về xa lơ xa lắc. Tôi không tin lời anh cán bộ hồ sơ nữa. Đằng Giao càng không tin. Tù nhân tự hào là mình từng đi guốc vào bụng cộng sản, mình đã nằm tù cộng sản năm 1948 là Nguyễn Mạnh Côn, thì tin tưởng ra mặt.
Trật tự đem cơm trưa hôm ấy là con trai của nhà thơ phúng biếm nổi tiếng một thời, can tội trộm cắp. Cậu ta cho chúng tôi biết chúng tôi sẽ rời Chí Hòa sáng sớm ngày mai.
- Đi đâu?
- Cháu không biết.
- Gần hay xa.
- Còn tùy.
- Tùy gì?
- Tùy thực phẩm ăn đường. Nhà bếp đang lo luộc bột. Hễ các chú được phát ít thì đi gần, phát nhiều thì đi xa.
Cậu con trai của nhà thơ nói đúng. Sáng sớm hôm sau, trước giờ kẽng báo thức, chúng tôi được lệnh rời phòng. Vệ binh võ trang giải chúng tôi xuống sân vòng ngoài. Tôi không còn thấy bên trong Chí Hòa. Vĩnh biệt nó, vĩnh biệt FG, AH, BC. Chúng tôi bị chia thành bốn nhóm, đứng xếp hàng đôi. Kẽng báo thức điểm một lúc thì bốn chiếc xe vận tải chuyên chở súc vật chầm chậm chạy vào. Rồi xe quay đầu lại. Nhóm chúng tôi đầu danh sách nên được "chiếu cố" trước. Cán bộ hồ sơ, hôm nay, mặc đồng phục công an nhân dân, đeo súng ngắn. Vệ binh rất đông, kè kè AK nạp đạn.
- Nguyễn Mạnh Côn.
- Có.
- Lên xe!
Người ta phát cho mỗi tù nhân một cục bột luộc khá lớn. Đi gần thôi, tôi nghĩ thế. Tù nhân ném hành lý lên sàn xe rồi leo sau. Không có thang. Mỗi chiếc xe tải nhồi nhét 50 thằng tù. Chở heo, tối đa, 30 con. Đằng Giao và tôi lên xe sau cùng. Trần xe và thành xe đan lưới sắt lợp vải bố. Cửa sau là song sắt lớn, hàn xì vững chắc. Tù nhân lên xe xong, cửa khóa chặt và vải bố buông kín. Tuy nhiên, vẫn có thể he hé vải bố nhìn ra. Tôi thấv, trên nóc ca-bin xe sau tôi, một vệ binh ôm súng ngồi. Trong ca-bin, một vệ binh khác. Ngoài ra, còn một chiếc jeep gắn đại liên. Đảng và Nhà Nước cộng sản võ trang hùng hậu dẫn độ đám tù ốm đi học tập cải tạo.
- Ông thầy đoán thử, nó đưa mình về nghĩa địa nào? Đằng Giao hỏi.
- Lát nữa sẽ biết. Tôi nói.
- Thử cho đở buồn.
- Nếu xe ra đường Lê Văn Duyệt, rẽ trái là mình đi Kà Tum, Trảng Lớn.
- Rẽ phải?
- Lại đợi đến bùng binh đường tầu. Rẽ phải, ta về miền Tây, ta vô trại Vườn Đào ở Cai Lậy hay xuống Năm Căn, Cái Đước… Đi thẳng rồi rẽ trái, ta xuôi chiều Phan Thanh Giản ra xa lộ Biên Hòa. Hễ qua cầu Đòng Nai, ta ra miền Trung. Mà một cục bột, tôi cho rằng, mình ghé Rừng Lá thôi.
- Có thể Long Thành, Suối Máu chăng?
- Với cộng sản, cái gì cũng có thể.
Xe đã chuyển bánh lạo xạo trên lớp đá răm. Lát sau, nó qua cổng khám lớn Chí Hòa mà cách mạng vô sản gọi là Trại cải Tạo Trường Kỳ. Bây giờ mới thực sự giã biệt Chí Hòa, nơi chốn mà nô lệ hay độc lập, cách mạng nhân vị hay cách mạng vô sản, chỉ thấy người Việt Nam bắt nhốt người Việt Nam, chỉ thấy người Việt Nam đọa đày người Việt Nam. Xe đang chạy từ từ. Đường Hòa Hưng đây. Tôi hé tấm bố, cố tìm một cách vô vọng xem có thấy vợ con mình ngơ ngác đứng trên hè phố đợi chuyến xe tù ngang qua. Cảnh tượng đìu hiu vô cùng. Tấm bảng quán Ly Tao của danh ca Ngọc Long đã hạ. "Kẻ đi, người lại dáng lao xao." Đằng Giao và tôi căng mắt nhìn Saigon. Xe rẽ bên phải. Chúng tôi thoát Kà Tum, Trảng Lớn. Xe qua bùng binh đường tầu, chạy thẳng luôn. Chúng tôi hết về miền Tây. Xe rẽ xuôi chiều Phan Thanh Giản. Tôi phải nhường chỗ cho anh em khác. Cũng chẳng thích ngắm thêm nỗi ưu phiền giăng mắc kín thành phố thân yêu cũ.
Tôi đã vỡ lòng cay đắng ở sở Công An. Tôi đã nhập môn thống khổ ở đề lao Gia Định. Đau thương của tôi, tôi rấm ở Chí Hòa, kể như đã chín. Đã chín những hệ lụy trong cái tĩnh của nhà tù. Còn những hệ lụy nào nữa, sắp phơi ra cái động của trại tập trung. Tôi sẽ mang về cái gì hay chẳng bao giờ mang về cái gì. Tôi sẽ tồn tại hay tôi sẽ bị hủy diệt. Điều đó không quan trọng, không cần thiết. Sự quan trọng là biết sống và dám uống tới giọt đắng cuối cùng của cuộc sống. Tôi sẽ cố gắng sống với hy vọng được thưởng thức giọt đắng cuối cùng của cuộc sống. Để khôn lớn và để không thẹn làm người.
Ivry sur Seine
Tháng 5-1987
--------------------------------
1 Thơ Tù, Nam Á, Paris 1984.
2 Poèmes de prison. Les Editions de Caux, Thụy Sĩ, sắp xuất bản.
3 Việt Cộng gọi quần Jean là quần bò.
4 Đặng Hải Sơn vượt ngục Sa-Ác TH-6 năm 1980, thành công, vẫn sống "lưu vong" tại Saigon.
5 Bút hiệu viết báo của Ngô Khắc Tĩnh, ông đã khoe như vậy.
6 Amnesty International và International Pen, trong những thư gửi cho nhà cầm quyền Việt Nam can thiệp trả tự do cho tôi, đều được trả lời: Duyên Anh không phải là nhà văn. Và họ đã khước từ phái đoàn AI xin gặp tôi tháng 8-1978. Nhưng trong Giấy Ra Trại, họ vẫn ghi tôi can tội "nhà văn phản động".
Hết
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Page 4 of 4 • 1, 2, 3, 4
Similar topics
» Duyên Số Gặp Ma
» Jen, Duyên, chu vô hỏi ni tí
» chị Béo and Bé Làm Duyên
» Duyen ơi,
» Duyên ơi .....
» Jen, Duyên, chu vô hỏi ni tí
» chị Béo and Bé Làm Duyên
» Duyen ơi,
» Duyên ơi .....
Page 4 of 4
Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum