Sách
Page 6 of 50 • Share
Page 6 of 50 • 1 ... 5, 6, 7 ... 28 ... 50
Re: Sách
Jane Eyre | Tóm tắt, Nhân vật, Phân tích & Sự kiện
08 Nov, 2020 - delphipages
Jane Eyre , tiểu thuyết của Charlotte Brontë , xuất bản lần đầu vào năm 1847 với tên Jane Eyre: An Autobiography , với Currer Bell (bút danh của Brontë) được liệt kê là người biên tập. Được nhiều người coi là một tác phẩm kinh điển, nó đã mang lại sự chân thực mới cho tiểu thuyết thời Victoria với việc miêu tả chân thực cuộc sống nội tâm của một người phụ nữ, ghi nhận những cuộc đấu tranh của cô ấy với những ham muốn tự nhiên và hoàn cảnh xã hội.
(Từ trái sang) John Abbott, Orson Welles và Joan Fontaine trong Jane Eyre (1943), do Robert Stevenson đạo diễn.
1943 Hãng phim Twentieth Century-Fox
Tóm lược
Khi cuốn tiểu thuyết bắt đầu, nhân vật chính là một đứa trẻ mồ côi 10 tuổi sống với gia đình người chú của mình; cha mẹ cô đã chết vì bệnh sốt phát ban . Ngoài cô bảo mẫu, gia đình còn tẩy chay Jane. Sau đó, cô được gửi đến Viện Lowood khắc khổ , một trường học từ thiện , nơi cô và những cô gái khác bị ngược đãi; “Lowood”, như tên gọi, là điểm “thấp” trong cuộc đời trẻ của Jane. Tuy nhiên, khi đối mặt với những nghịch cảnh như vậy, cô ấy lại tập hợp được sức mạnh và sự tự tin.
Ở tuổi trưởng thành, sau vài năm là sinh viên và sau đó là giáo viên tại Lowood, Jane lấy hết can đảm để rời đi. Cô tìm việc như một nữ gia sư tại Thornfield Hall, nơi cô gặp gỡ người chủ bảnh bao của mình và Byronic, người giàu có và nóng nảy Edward Rochester . Tại Thornfield, Jane chăm sóc Adèle trẻ, con gái của một vũ công người Pháp, một trong những tình nhân của Rochester, và được kết bạn với người quản gia tốt bụng Bà Alice Fairfax . Jane yêu Rochester, mặc dù anh ta được cho là sẽ kết hôn với Blanche Ingram hợm hĩnh và có địa vị xã hội. Rochester cuối cùng cũng đáp lại tình cảm của Jane và ngỏ lời cầu hôn. Tuy nhiên, vào ngày cưới của họ, Jane phát hiện ra rằng Rochester không thể kết hôn hợp pháp với cô, bởi vì anh ta đã có vợ, Bertha Mason , người đã phát điên và bị nhốt trên tầng ba vì hành vi bạo lực của mình; sự hiện diện của cô ấy giải thích cho những tiếng động lạ mà Jane đã nghe thấy trong dinh thự. Tin rằng mình đã bị lừa trong cuộc hôn nhân đó, Rochester cảm thấy có lý khi theo đuổi mối quan hệ của mình với Jane. Anh cầu xin cô cùng anh đến Pháp, nơi họ có thể sống như vợ chồng bất chấp sự cấm đoán của pháp luật, nhưng Jane từ chối về nguyên tắc và bỏ trốn khỏi Thornfield.
Jane bị thu hút bởi những người mà sau này cô phát hiện ra là anh em họ của mình. Một trong số họ là Thánh John, một giáo sĩ nguyên tắc. Anh ta cho cô một công việc và sớm đề nghị kết hôn, đề nghị cô tham gia cùng anh ta như một nhà truyền giáo ở Ấn Độ. Jane ban đầu đồng ý rời đi với anh ta nhưng không phải với tư cách là vợ của anh ta. Tuy nhiên, St.John đã gây áp lực buộc cô phải xem xét lại lời đề nghị của anh ta, và Jane cuối cùng cũng cầu xin Thiên đường chỉ cho cô phải làm gì. Ngay sau đó, cô nghe thấy một cuộc gọi điện từ Rochester. Jane trở lại Thornfield để tìm thấy bất động sản bị đốt cháy, do vợ của Rochester phóng hỏa, người sau đó đã nhảy lầu tự tử. Rochester, trong nỗ lực cứu cô, đã bị mù. Tái hợp, Jane và Rochester kết hôn. Rochester sau đó đã lấy lại được một phần thị lực của mình và cặp đôi có một cậu con trai.
Xuất bản và phân tích
Cuốn sách ban đầu được xuất bản thành ba tập với tên Jane Eyre: An Autobiography , với Currer Bell là chủ biên. (Phần Lowood của cuốn tiểu thuyết được nhiều người tin rằng lấy cảm hứng từ chính cuộc đời của Charlotte Brontë.) Mặc dù một số người phàn nàn rằng nó chống Công giáo ???, tác phẩm đã thành công ngay lập tức. Sự hấp dẫn của Jane Eyre một phần là do nó được viết ở ngôi thứ nhất và thường hướng đến người đọc, tạo ra tính tức thời lớn. Ngoài ra, Jane còn là một nữ anh hùng khác thường, một người phụ nữ độc lập và tự chủ, người vượt qua cả nghịch cảnh và chuẩn mực xã hội. Cuốn tiểu thuyết cũng pha trộn nhiều thể loại một cách đáng chú ý . Sự lựa chọn của Jane giữa nhu cầu tình dục và đạo đức nhiệm vụ thuộc rất chắc chắn về phương thức đạo đức hiện thực. Tuy nhiên, việc cô thoát khỏi một cuộc hôn nhân tai tiếng và cái chết rực lửa của Bertha là một phần của truyền thống Gothic .
Một bức chân dung của Charlotte Brontë, dựa trên màu phấn của George Richmond.
Ảnh.com/Thinkstock
Jane Eyre đã truyền cảm hứng cho nhiều bộ phim, truyền hình và sân khấu chuyển thể , bao gồm một bộ phim năm 1943 với sự tham gia của Orson Welles trong vai Rochester và Joan Fontaine trong vai Jane. Tiểu thuyết của Jean Rhys Biển Sargasso rộng (1966) kể về cuộc hôn nhân đầu tiên của Rochester.
08 Nov, 2020 - delphipages
Jane Eyre , tiểu thuyết của Charlotte Brontë , xuất bản lần đầu vào năm 1847 với tên Jane Eyre: An Autobiography , với Currer Bell (bút danh của Brontë) được liệt kê là người biên tập. Được nhiều người coi là một tác phẩm kinh điển, nó đã mang lại sự chân thực mới cho tiểu thuyết thời Victoria với việc miêu tả chân thực cuộc sống nội tâm của một người phụ nữ, ghi nhận những cuộc đấu tranh của cô ấy với những ham muốn tự nhiên và hoàn cảnh xã hội.
(Từ trái sang) John Abbott, Orson Welles và Joan Fontaine trong Jane Eyre (1943), do Robert Stevenson đạo diễn.
1943 Hãng phim Twentieth Century-Fox
Tóm lược
Khi cuốn tiểu thuyết bắt đầu, nhân vật chính là một đứa trẻ mồ côi 10 tuổi sống với gia đình người chú của mình; cha mẹ cô đã chết vì bệnh sốt phát ban . Ngoài cô bảo mẫu, gia đình còn tẩy chay Jane. Sau đó, cô được gửi đến Viện Lowood khắc khổ , một trường học từ thiện , nơi cô và những cô gái khác bị ngược đãi; “Lowood”, như tên gọi, là điểm “thấp” trong cuộc đời trẻ của Jane. Tuy nhiên, khi đối mặt với những nghịch cảnh như vậy, cô ấy lại tập hợp được sức mạnh và sự tự tin.
Ở tuổi trưởng thành, sau vài năm là sinh viên và sau đó là giáo viên tại Lowood, Jane lấy hết can đảm để rời đi. Cô tìm việc như một nữ gia sư tại Thornfield Hall, nơi cô gặp gỡ người chủ bảnh bao của mình và Byronic, người giàu có và nóng nảy Edward Rochester . Tại Thornfield, Jane chăm sóc Adèle trẻ, con gái của một vũ công người Pháp, một trong những tình nhân của Rochester, và được kết bạn với người quản gia tốt bụng Bà Alice Fairfax . Jane yêu Rochester, mặc dù anh ta được cho là sẽ kết hôn với Blanche Ingram hợm hĩnh và có địa vị xã hội. Rochester cuối cùng cũng đáp lại tình cảm của Jane và ngỏ lời cầu hôn. Tuy nhiên, vào ngày cưới của họ, Jane phát hiện ra rằng Rochester không thể kết hôn hợp pháp với cô, bởi vì anh ta đã có vợ, Bertha Mason , người đã phát điên và bị nhốt trên tầng ba vì hành vi bạo lực của mình; sự hiện diện của cô ấy giải thích cho những tiếng động lạ mà Jane đã nghe thấy trong dinh thự. Tin rằng mình đã bị lừa trong cuộc hôn nhân đó, Rochester cảm thấy có lý khi theo đuổi mối quan hệ của mình với Jane. Anh cầu xin cô cùng anh đến Pháp, nơi họ có thể sống như vợ chồng bất chấp sự cấm đoán của pháp luật, nhưng Jane từ chối về nguyên tắc và bỏ trốn khỏi Thornfield.
Jane bị thu hút bởi những người mà sau này cô phát hiện ra là anh em họ của mình. Một trong số họ là Thánh John, một giáo sĩ nguyên tắc. Anh ta cho cô một công việc và sớm đề nghị kết hôn, đề nghị cô tham gia cùng anh ta như một nhà truyền giáo ở Ấn Độ. Jane ban đầu đồng ý rời đi với anh ta nhưng không phải với tư cách là vợ của anh ta. Tuy nhiên, St.John đã gây áp lực buộc cô phải xem xét lại lời đề nghị của anh ta, và Jane cuối cùng cũng cầu xin Thiên đường chỉ cho cô phải làm gì. Ngay sau đó, cô nghe thấy một cuộc gọi điện từ Rochester. Jane trở lại Thornfield để tìm thấy bất động sản bị đốt cháy, do vợ của Rochester phóng hỏa, người sau đó đã nhảy lầu tự tử. Rochester, trong nỗ lực cứu cô, đã bị mù. Tái hợp, Jane và Rochester kết hôn. Rochester sau đó đã lấy lại được một phần thị lực của mình và cặp đôi có một cậu con trai.
Xuất bản và phân tích
Cuốn sách ban đầu được xuất bản thành ba tập với tên Jane Eyre: An Autobiography , với Currer Bell là chủ biên. (Phần Lowood của cuốn tiểu thuyết được nhiều người tin rằng lấy cảm hứng từ chính cuộc đời của Charlotte Brontë.) Mặc dù một số người phàn nàn rằng nó chống Công giáo ???, tác phẩm đã thành công ngay lập tức. Sự hấp dẫn của Jane Eyre một phần là do nó được viết ở ngôi thứ nhất và thường hướng đến người đọc, tạo ra tính tức thời lớn. Ngoài ra, Jane còn là một nữ anh hùng khác thường, một người phụ nữ độc lập và tự chủ, người vượt qua cả nghịch cảnh và chuẩn mực xã hội. Cuốn tiểu thuyết cũng pha trộn nhiều thể loại một cách đáng chú ý . Sự lựa chọn của Jane giữa nhu cầu tình dục và đạo đức nhiệm vụ thuộc rất chắc chắn về phương thức đạo đức hiện thực. Tuy nhiên, việc cô thoát khỏi một cuộc hôn nhân tai tiếng và cái chết rực lửa của Bertha là một phần của truyền thống Gothic .
Một bức chân dung của Charlotte Brontë, dựa trên màu phấn của George Richmond.
Ảnh.com/Thinkstock
Jane Eyre đã truyền cảm hứng cho nhiều bộ phim, truyền hình và sân khấu chuyển thể , bao gồm một bộ phim năm 1943 với sự tham gia của Orson Welles trong vai Rochester và Joan Fontaine trong vai Jane. Tiểu thuyết của Jean Rhys Biển Sargasso rộng (1966) kể về cuộc hôn nhân đầu tiên của Rochester.
Last edited by LDN on Sat May 28, 2022 7:21 pm; edited 2 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Mấy câu trích dẫn đọc chả hiểu tiếng việt kiểu mới
Hướng dẫn học Jane Eyre
by Jeffrey Somers - vi.eferrit
Tuy nhiên, cô vẫn kiên trì
Để diễn giải Virginia Woolf, độc giả hiện đại thường giả định rằng Jane Eyre: Một cuốn tự truyện, xuất bản năm 1847 dưới bút danh vô lý Currer Bell, sẽ lỗi thời và khó liên hệ, chỉ ngạc nhiên bởi một cuốn tiểu thuyết cảm thấy tươi mới và hiện đại như nó đã làm trong thế kỷ 19. Thường xuyên thích nghi với các bộ phim và chương trình truyền hình mới và vẫn là nền tảng cho các thế hệ nhà văn, Jane Eyre là một cuốn tiểu thuyết đáng chú ý cả về sự đổi mới và chất lượng lâu dài của nó.
Đổi mới trong tiểu thuyết không phải lúc nào cũng dễ dàng đánh giá cao. Khi Jane Eyre xuất bản nó là một cái gì đó đáng chú ý và mới mẻ, một cách viết mới theo nhiều cách thật đáng kinh ngạc. Kết thúc trong hai thế kỷ sau, những đổi mới đó đã được hấp thụ vào nhà văn học zeitge lớn hơn và những người đọc trẻ tuổi có vẻ không đặc biệt lắm. Ngay cả khi mọi người không thể đánh giá cao bối cảnh lịch sử của cuốn tiểu thuyết, tuy nhiên, kỹ năng và nghệ thuật mà Charlotte Brontë mang đến cuốn tiểu thuyết làm cho nó trở thành một trải nghiệm đọc sách ly kỳ.
Tuy nhiên, có rất nhiều tiểu thuyết rất tốt từ thời kỳ vẫn còn có thể đọc được (để tham khảo, xem mọi thứ mà Charles Dickens viết). Điều khiến
Jane Eyre tách biệt là thực tế rằng nó được cho là công dân của tiểu thuyết bằng tiếng Anh, một tác phẩm chuyển đổi hình thức nghệ thuật vĩnh viễn, một tác phẩm cung cấp nhiều kỹ thuật và quy ước vẫn được sử dụng ngày nay. Đồng thời nó cũng là một câu chuyện tình yêu mạnh mẽ với một nhân vật chính phức tạp, thông minh, và một niềm vui để dành thời gian với.
Nó cũng chỉ xảy ra là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất từng được viết.
Âm mưu
Vì nhiều lý do, điều quan trọng cần lưu ý là phụ đề của cuốn tiểu thuyết là Tự truyện . Câu chuyện bắt đầu khi Jane là một đứa trẻ mồ côi lúc mới mười tuổi, sống với người anh em họ của gia đình Reed theo yêu cầu của người đã qua đời.
Bà Reed tàn nhẫn với Jane, nói rõ rằng bà coi bà là một bổn phận và cho phép con cái mình tàn nhẫn với Jane, khiến cuộc sống của bà trở nên đau khổ. Điều này lên đến đỉnh điểm trong một tập phim mà Jane bảo vệ mình khỏi một trong những đứa con của bà Reed và bị trừng phạt bằng cách bị nhốt trong căn phòng mà chú của cô đã qua đời. Sợ hãi, Jane tin rằng cô thấy hồn ma và ngất xỉu của cô từ nỗi kinh hoàng tuyệt đối.
Jane có sự tham dự của ông Lloyd. Jane thú nhận sự đau khổ của cô với anh ta, và anh ta đề nghị với bà Reed rằng Jane bị đuổi đến trường. Bà Reed vui mừng được đuổi Jane và đưa bà đến Học viện Lowood, một trường từ thiện dành cho các cô gái trẻ mồ côi và nghèo khổ. Sự trốn thoát của Jane lúc đầu chỉ khiến cô trở nên khốn khổ hơn, vì ngôi trường được điều hành bởi ông Brocklehurst có tinh thần trung bình người là hiện thân của "tổ chức từ thiện" tàn bạo thường được tôn giáo tôn giáo. Các cô gái phụ trách của mình bị đối xử tệ hại, ngủ trong phòng lạnh và ăn một chế độ ăn nghèo nàn với những hình phạt thường xuyên. Ông Brocklehurst, được bà Reed tin rằng Jane là kẻ nói dối, chỉ trích bà ra để trừng phạt, nhưng Jane kết bạn với bạn cùng lớp, Helen và cô Temple, người giúp xóa tên Jane. Sau khi dịch bệnh sốt phát ban dẫn đến cái chết của Helen, sự tàn ác của ông Brocklehurst bị phơi bày và điều kiện cải thiện ở Lowood.
Jane cuối cùng đã trở thành một giáo viên ở đó.
Khi Hoa hậu Temple kết hôn, Jane quyết định đã đến lúc cô ấy tiếp tục, và cô ấy tìm được việc làm như một cô gái trẻ ở Thornfield Hall, khu vực của ông Edward Fairfax Rochester. Rochester là kiêu ngạo, gai, và thường xúc phạm, nhưng Jane đứng lên với anh ta và cả hai thấy rằng họ thích nhau vô cùng. Jane trải qua một số sự kiện kỳ lạ, dường như siêu nhiên trong khi ở Thornfield, bao gồm cả một đám cháy bí ẩn trong phòng của ông Rochester.
Khi Jane biết rằng dì của cô, bà Reed, sắp chết, cô dành sự giận dữ của mình cho người phụ nữ và đi theo xu hướng của cô. Bà Reed thú nhận trên giường bệnh của mình rằng bà tệ hơn với Jane so với nghi ngờ trước đây, tiết lộ rằng người chú của Jane đã viết yêu cầu Jane đến sống với anh ta và là người thừa kế của anh, nhưng bà Reed nói với anh rằng Jane đã chết.
Trở về Thornfield, Jane và Rochester thừa nhận tình cảm của họ dành cho nhau, và Jane chấp nhận lời đề nghị của anh - nhưng đám cưới kết thúc trong bi kịch khi nó tiết lộ rằng Rochester đã kết hôn. Anh thú nhận rằng cha anh đã ép anh vào một cuộc hôn nhân sắp xếp với Bertha Mason vì tiền của cô, nhưng Bertha bị một tình trạng tâm thần nghiêm trọng và đã xấu đi gần như ngay từ lúc anh cưới cô. Rochester đã giữ Bertha bị nhốt trong một căn phòng ở Thornfield vì sự an toàn của chính cô, nhưng cô thỉnh thoảng trốn thoát — giải thích nhiều sự kiện bí ẩn mà Jane trải qua.
Rochester cầu xin Jane chạy trốn với anh ta và sống ở Pháp, nhưng cô từ chối, không muốn thỏa hiệp các nguyên tắc của cô. Cô bỏ trốn Thornfield với những tài sản và tiền bạc của mình, và qua một loạt những điều bất hạnh đã thổi bay ra ngoài trong không gian mở. Cô được đưa vào bởi người họ hàng xa của cô, John Eyre Rivers, một mục sư, và biết rằng chú của cô John đã để lại cho cô một gia tài. Khi Thánh Gioan đề xuất hôn nhân (coi đó là một hình thức bổn phận), Jane dự tính sẽ tham gia vào công việc truyền giáo ở Ấn Độ, nhưng nghe tiếng nói của Rochester gọi cho cô.
Trở về Thornfield, Jane bị sốc khi thấy nó bị cháy trên mặt đất. Cô phát hiện ra rằng Bertha đã trốn thoát khỏi căn phòng của mình và khiến nơi đó trở nên bốc cháy; khi cố cứu cô, Rochester bị thương nặng. Jane đi với anh ta, và anh ta lúc đầu đã thuyết phục cô ấy sẽ từ chối anh ta vì vẻ bề ngoài ghê gớm của anh ấy, nhưng Jane đảm bảo với anh ấy rằng cô ấy vẫn yêu anh ấy, và cuối cùng họ đã kết hôn.
Những diễn viên chính
Jane Eyre: Jane là nhân vật chính của câu chuyện.
Một đứa trẻ mồ côi, Jane lớn lên đối phó với nghịch cảnh và nghèo đói, và trở thành một người coi trọng sự độc lập và cơ quan của mình ngay cả khi nó có nghĩa là sống một cuộc sống đơn giản, không rườm rà. Jane được coi là "đồng bằng" và chưa trở thành một đối tượng của mong muốn cho nhiều người cầu hôn vì sức mạnh của tính cách của cô. Jane có thể được sắc bén và phán xét, nhưng cũng tò mò và mong muốn đánh giá lại các tình huống và con người dựa trên thông tin mới. Jane có niềm tin và giá trị rất mạnh mẽ và sẵn sàng chịu đựng để duy trì chúng.
Edward Fairfax Rochester: Chủ nhân của Jane tại Thornfield Hall và cuối cùng là chồng cô. Ông Rochester thường được mô tả như là một "Anh hùng tàn bạo", được gọi là sau khi nhà thơ Lord Byron — là kiêu ngạo, bị rút lui và thường có mâu thuẫn với xã hội, và nổi dậy chống lại sự khôn ngoan chung và bỏ qua ý kiến công chúng. Anh ấy là một hình thức antihero, cuối cùng được tiết lộ là cao quý mặc dù cạnh thô của anh ấy. Anh và Jane ban đầu đánh nhau và không thích nhau, nhưng thấy họ bị lôi cuốn với nhau một cách lãng mạn khi cô chứng tỏ cô có thể đứng lên với tính cách của anh. Rochester bí mật kết hôn với Bertha Mason giàu có trong tuổi trẻ do áp lực gia đình; khi cô bắt đầu thể hiện các triệu chứng của sự điên khùng bẩm sinh, anh đã nhốt cô như một “người đàn bà điên rồ ở tầng áp mái”.
Bà Reed: dì của Jane, người đưa đứa trẻ mồ côi đáp lại ước muốn chết của chồng mình. Là một phụ nữ ích kỷ và có tinh thần, cô lạm dụng Jane và tỏ ra thích thú với con cái của mình, và thậm chí còn giữ lại tin tức về sự thừa kế của Jane cho đến khi cô có một biểu hiện chết chóc và tỏ ra hối hận về hành vi của cô.
Ông Lloyd: Một nhà bào chế tử tế (tương tự như dược sĩ hiện đại) là người đầu tiên thể hiện lòng tốt của Jane. Khi Jane thú nhận sự trầm cảm và bất hạnh của cô với Reeds, anh đề nghị cô được gửi đến trường trong một nỗ lực để đưa cô ra khỏi một tình huống tồi tệ.
Ông Brocklehurst: Giám đốc trường Lowood. Là một thành viên của giáo sĩ, ông biện minh cho sự đối xử khắc nghiệt của các cô gái trẻ dưới sự chăm sóc của mình thông qua tôn giáo, tuyên bố rằng nó là cần thiết cho giáo dục và sự cứu rỗi của họ. Tuy nhiên, ông không áp dụng các nguyên tắc này cho chính mình hoặc gia đình của mình. Lạm dụng của anh ta cuối cùng cũng bị phơi bày.
Miss Maria Temple: Tổng giám đốc của Lowood. Cô ấy là một người phụ nữ tốt bụng và công bằng, người chịu trách nhiệm với các cô gái rất nghiêm túc. Cô ấy tốt với Jane và có ảnh hưởng to lớn đến cô ấy.
Helen Burns: bạn của Jane tại Lowood, người cuối cùng đã chết vì sự bùng nổ của Typhus tại trường. Helen rất tử tế và từ chối ghét ngay cả những người độc ác với cô, và có ảnh hưởng sâu sắc đến niềm tin của Jane đối với Thiên Chúa và thái độ đối với tôn giáo.
Bertha Antoinetta Mason: Vợ của ông Rochester, đã bịkhóa và chìa khóa tại Thornfield Hall do sự điên rồ của bà. Cô thường xuyên trốn thoát và làm những điều kỳ lạ mà lúc đầu dường như gần như siêu nhiên. Cuối cùng cô đốt nhà xuống đất, chết trong ngọn lửa. Sau Jane, cô là nhân vật được thảo luận nhiều nhất trong tiểu thuyết bởi vì những khả năng ẩn dụ phong phú mà cô đại diện là “người điên trên gác mái”.
John Eyre Rivers: Một mục sư và người họ hàng xa xôi của Jane, người đưa cô vào sau khi cô bỏ trốn Thornfield sau khi đám cưới của cô với anh Rochester kết thúc trong hỗn loạn khi cuộc hôn nhân trước đó của anh được tiết lộ. Anh ấy là một người đàn ông tốt nhưng vô cảm và chỉ dành riêng cho công việc truyền giáo của mình. Anh ta không đề nghị kết hôn với Jane như tuyên bố nó là ý muốn của Thiên Chúa mà Jane không có nhiều sự lựa chọn.
Chủ đề
Jane Eyre là một cuốn tiểu thuyết phức tạp liên quan đến nhiều chủ đề:
Độc lập: Jane Eyre đôi khi được mô tả là tiểu thuyết “ nữ quyền ” vì Jane được miêu tả như một nhân cách hoàn toàn có tham vọng và nguyên tắc độc lập với những người xung quanh. Jane thông minh và cảm nhận, quyết tâm quyết tâm đến mọi thứ, và có khả năng yêu thương và tình cảm phi thường - nhưng không bị cai trị bởi những cảm xúc này, vì cô thường xuyên chống lại ước muốn của chính mình để phục vụ cho la bàn trí tuệ và đạo đức của cô. Quan trọng nhất, Jane là bậc thầy của cuộc đời mình và tự mình lựa chọn, và chấp nhận hậu quả. Điều này trái ngược với ông Rochester, người đã bước vào một cuộc hôn nhân bất hạnh vì ông được lệnh phải đóng vai trò thường xuyên nhất của phụ nữ vào thời điểm đó (và về mặt lịch sử).
Jane tiếp tục chống lại nghịch cảnh to lớn, đặc biệt là trong những năm tháng tuổi trẻ hơn, và trưởng thành thành một người trưởng thành chu đáo và chu đáo mặc cho sự thiếu thốn của dì tinh thần của cô và bà Brocklehurst tàn nhẫn, thô lỗ. Là một người trưởng thành ở Thornfield, Jane được cho cơ hội có mọi thứ cô muốn bằng cách chạy trốn cùng với anh Rochester, nhưng cô chọn không làm như vậy bởi vì cô tin chắc rằng đó là điều sai trái.
Sự độc lập và kiên trì của Jane là bất thường trong một nhân vật nữ tại thời điểm sáng tác, cũng như bản chất thơ ca và gợi cảm của POV thân mật - sự tiếp cận người đọc được trao cho độc thoại bên trong của Jane và sự kết dính của câu chuyện với quan điểm giới hạn của cô (chúng tôi chỉ biết những gì Jane biết, mọi lúc) là sáng tạo và giật gân vào thời điểm đó. Hầu hết các cuốn tiểu thuyết thời đó vẫn ở một khoảng cách so với các nhân vật, làm cho mối liên kết chặt chẽ của chúng ta với Jane là một sự mới lạ ly kỳ. Đồng thời, được gắn bó chặt chẽ với sự nhạy cảm của Jane cho phép Brontë kiểm soát phản ứng và nhận thức của người đọc, vì chúng tôi chỉ được cung cấp thông tin khi nó được xử lý thông qua niềm tin, quan điểm và cảm xúc của Jane.
Ngay cả khi Jane cưới anh Rochester trong những gì có thể được xem như là kết luận mong đợi và truyền thống cho câu chuyện, cô xoắn mong đợi bằng cách nói "Reader, tôi kết hôn với anh ta", duy trì tình trạng của mình như là nhân vật chính của cuộc sống riêng của mình.
Đạo đức: Brontë tạo ra sự phân biệt rõ ràng giữa các đạo đức giả của những người như ông Brocklehurst, những người lạm dụng và ngược đãi những người kém quyền lực hơn ông dưới sự che chở của việc từ thiện và giảng dạy tôn giáo. Trên thực tế, có một sự nghi ngờ ngầm về xã hội và các tiêu chuẩn của nó trong suốt tiểu thuyết; những người đáng kính như Reeds thật sự khủng khiếp, những cuộc hôn nhân hợp pháp như Rochester và Bertha Mason (hay là đề xuất của Thánh Gioan) là những kẻ giả mạo; các thể chế như Lowood thể hiện vẻ bề ngoài của xã hội và tôn giáo là một nơi thực tế khủng khiếp.
Jane được thể hiện là người đạo đức nhất trong cuốn sách bởi vì cô ấy đúng với chính mình, không phải tuân thủ một bộ quy tắc được sáng tác bởi người khác. Jane được cung cấp nhiều cơ hội để có một cách dễ dàng hơn bằng cách phản bội các nguyên tắc của cô ấy; cô có thể ít chiến đấu hơn với người anh em họ và ủng hộ sự ủng hộ của bà Reed, cô có thể đã làm việc chăm chỉ hơn để có được ở Lowood, cô có thể trì hoãn ông Rochester làm chủ nhân của mình và không thách thức ông, bà có thể chạy trốn cùng ông và hạnh phúc. Thay vào đó, Jane thể hiện đạo đức thực sự trong suốt tiểu thuyết bằng cách từ chối những thỏa hiệp này và còn lại, quan trọng, đúng với chính mình.
Sự giàu có: Câu hỏi về sự giàu có là một dòng chảy ngầm trong cuốn tiểu thuyết, vì Jane là một đứa trẻ mồ côi không có tiền bạc trong hầu hết các câu chuyện nhưng trong bí mật một người thừa kế giàu có, trong khi ông Rochester là một người giàu có. của cuốn tiểu thuyết — trên thực tế, theo một số cách vai trò của họ đảo ngược trong quá trình câu chuyện.
Trong thế giới của Jane Eyre , sự giàu có không phải là một cái gì đó để ghen tuông, mà là một phương tiện để kết thúc: Sự sống còn. Jane dành phần lớn cuốn sách đang phải vật lộn để tồn tại do thiếu tiền hoặc đứng trên mạng xã hội, nhưng Jane cũng là một trong những nhân vật có nội dung và tự tin nhất trong cuốn sách. Trái ngược với các tác phẩm của Jane Austen (mà Jane Eyre luôn được so sánh), tiền và hôn nhân không được coi là mục tiêu thiết thực cho phụ nữ, mà là mục tiêu lãng mạn - một thái độ rất hiện đại đã ở thời điểm đó trí tuệ thông thường.
Tâm linh: Chỉ có một sự kiện siêu nhiên đặc biệt trong câu chuyện: Khi Jane nghe thấy giọng nói của ông Rochester đến cuối cùng, gọi cô ấy. Có những ám chỉ khác về siêu nhiên, chẳng hạn như ma của chú cô trong Phòng Đỏ hoặc các sự kiện ở Thornfield, nhưng chúng có những lời giải thích hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, giọng nói đó cuối cùng ngụ ý rằng trong vũ trụ của...???
Jane Eyre , siêu nhiên thực sự tồn tại, đưa vào câu hỏi bao nhiêu kinh nghiệm của Jane dọc theo những dòng này có thể không thực sự siêu nhiên.
Không thể nói được, nhưng Jane là một nhân vật tinh vi bất thường trong kiến thức tinh thần của mình. Song song với các chủ đề đạo đức và tôn giáo của Brontë, Jane được trình bày như một người rất liên lạc và cảm thấy thoải mái với niềm tin tâm linh của mình cho dù những niềm tin đó đang ở cùng với nhà thờ hay các nhà chức trách bên ngoài khác. Jane có một triết lý và hệ thống niềm tin riêng biệt, và thể hiện sự tự tin trong khả năng của riêng mình khi sử dụng trí thông minh và kinh nghiệm của mình để hiểu thế giới xung quanh mình. Đây là điều mà Brontë trình bày như một lý tưởng — tạo nên tâm trí của riêng bạn về mọi thứ thay vì chỉ chấp nhận những gì bạn được bảo.
Phong cách văn chương
Jane Eyre đã mượn các yếu tố của tiểu thuyết và thơ ca Gothic đã định hình nó thành một câu chuyện độc đáo. Việc sử dụng trojan từ tiểu thuyết gothic của Brontë - sự điên rồ, bất động sản ma ám, những bí mật khủng khiếp - cho câu chuyện một âm điệu bi thảm và đáng ngại, màu sắc cho mọi sự kiện với một cảm giác lớn hơn cuộc sống. Nó cũng phục vụ để cung cấp cho Brontë sự tự do chưa từng có để chơi với thông tin được cung cấp cho người đọc. Sớm trong câu chuyện, cảnh Red Room rời khỏi người đọc với khả năng trêu ngươi rằng trên thực tế, một con ma - mà sau đó làm cho những diễn biến sau này tại Thornfield có vẻ còn đáng ngại và đáng sợ hơn.
Brontë cũng sử dụng sai lầm thảm hại để có hiệu quả tuyệt vời, có thời tiết thường phản chiếu những mớ hỗn độn bên trong của Jane hoặc trạng thái cảm xúc, và sử dụng lửa và băng (hoặc nhiệt và lạnh) làm biểu tượng của sự tự do và áp bức. Đây là những công cụ của thơ ca và chưa bao giờ được sử dụng rộng rãi hay hiệu quả trong tiểu thuyết trước đây. Brontë sử dụng chúng một cách mạnh mẽ kết hợp với những nét gothic để tạo ra một vũ trụ hư cấu được phản chiếu trên thực tế nhưng có vẻ huyền diệu, với những cảm xúc cao và, do đó, những cổ phần cao hơn.
Điều này được khuếch đại nhiều hơn bởi sự gần gũi của quan điểm của Jane (POV). Những cuốn tiểu thuyết trước đây thường tập trung vào mô tả thực tế về sự kiện - người đọc có thể tin tưởng những gì họ được cho là ngầm. Bởi vì Jane là đôi mắt và đôi tai của chúng tôi đối với câu chuyện, tuy nhiên, chúng tôi ý thức về một mức độ không bao giờ thực sự trở thành hiện thực , nhưng đúng hơn là phiên bản thực tế của Jane . Đây là một hiệu ứng tinh tế mà dù sao cũng có tác động to lớn đến cuốn sách khi chúng tôi nhận ra rằng mọi mô tả nhân vật và hành động được lọc qua thái độ và nhận thức của Jane.
Ngữ cảnh lịch sử
Điều quan trọng cần ghi nhớ là phụ đề gốc của tiểu thuyết ( Một cuốn tự truyện ) vì một lý do khác: Bạn càng kiểm tra cuộc sống của Charlotte Brontë, thì rõ ràng hơn là Jane Eyre là rất nhiều về Charlotte.
Charlotte có một lịch sử lâu dài về một thế giới bên trong mãnh liệt; cùng với các chị em của mình, cô đã tạo ra một thế giới tưởng tượng vô cùng phức tạp Glass Town , bao gồm nhiều tiểu thuyết ngắn và thơ, cùng với bản đồ và các công cụ xây dựng khác trên thế giới. Vào giữa những năm 20, cô đến Brussels để học tiếng Pháp và yêu một người đàn ông đã lập gia đình. Trong nhiều năm, cô đã viết những bức thư tình nồng nhiệt cho người đàn ông trước khi dường như chấp nhận rằng chuyện đó là không thể; Jane Eyre xuất hiện ngay sau đó và có thể được xem như là một tưởng tượng về việc chuyện đó có thể đã khác đi như thế nào.
Charlotte cũng dành thời gian ở trường Clergy Daughter, nơi mà điều kiện và điều trị của các cô gái thật khủng khiếp, và một số học sinh đã chết vì thương hàn - kể cả chị gái của Charlotte, Maria, mới 11 tuổi. Charlotte đã mô hình rõ ràng về cuộc đời ban đầu của Jane Eyre về những trải nghiệm không vui của riêng mình, và nhân vật của Helen Burns thường được xem như là một người đứng đắn cho người em gái đã mất của cô. Cô cũng sau này là một gia sư cho một gia đình mà cô cay đắng báo cáo đối xử tệ với cô, thêm một mảnh nữa sẽ trở thành Jane Eyre .
Hơn nữa, thời đại Victoria mới bắt đầu ở Anh. Đây là thời điểm chuyển đổi xã hội mạnh mẽ về mặt kinh tế và công nghệ. Một tầng lớp trung lưu được hình thành lần đầu tiên trong lịch sử tiếng Anh, và sự di chuyển lên cao thường xuyên mở ra cho những người thường xuyên dẫn đến cảm giác của cơ quan cá nhân có thể được nhìn thấy trong nhân vật của Jane Eyre. công việc và trí thông minh. Những thay đổi này đã tạo ra một bầu không khí bất ổn trong xã hội như những cách cũ đã bị thay đổi bởi cuộc cách mạng công nghiệp và sức mạnh ngày càng tăng của Đế quốc Anh trên toàn thế giới, dẫn đến nhiều câu hỏi giả định cổ xưa về tầng lớp quý tộc, tôn giáo và truyền thống.
Thái độ của Jane đối với ông Rochester và các nhân vật khác đã phản ánh những thay đổi này; giá trị của các chủ sở hữu tài sản góp phần ít vào xã hội đã được đặt câu hỏi, và cuộc hôn nhân của Rochester với Bertha Mason điên rồ có thể được xem như là một lời chỉ trích quá mức về “lớp học giải trí” và độ dài họ đã đi để giữ gìn tình trạng của họ. Ngược lại, Jane đến từ nghèo đói và chỉ có tâm trí và tinh thần của cô qua hầu hết các câu chuyện, và cuối cùng vẫn chiến thắng. Trên đường đi, Jane trải nghiệm nhiều khía cạnh tồi tệ nhất trong khoảng thời gian, bao gồm bệnh tật, điều kiện sống nghèo nàn, cơ hội hạn chế cho phụ nữ và sự áp bức mạnh mẽ của thái độ tôn giáo khắc nghiệt, tàn nhẫn.
Trích dẫn
Jane Eyre không nổi tiếng chỉ vì chủ đề và cốt truyện của nó; nó cũng là một cuốn sách được viết tốt với nhiều cụm từ thông minh, hài hước và cảm động.
“Bằng cách chết trẻ, tôi sẽ thoát khỏi những đau khổ to lớn. Tôi không có phẩm chất hay tài năng để làm theo cách của tôi rất tốt trên thế giới: tôi đáng lẽ phải liên tục bị lỗi. ”
“'Tôi có ghê tởm không, Jane?' ‛Rất, thưa bạn: bạn luôn như vậy, bạn biết đấy. '”
"Phụ nữ được cho là rất bình tĩnh nói chung: nhưng phụ nữ cảm thấy giống như nam giới cảm thấy."
“Tôi không có ý định yêu anh ấy; người đọc biết tôi đã rèn luyện hết sức để thoát khỏi linh hồn của tôi, những mầm bệnh của tình yêu đã được phát hiện; và bây giờ, ở cái nhìn mới đầu tiên của anh ta, họ tự động hồi sinh, tuyệt vời và mạnh mẽ! Anh ấy khiến tôi yêu anh ấy mà không nhìn tôi. ”
"Tôi sẽ luôn luôn hạnh phúc hơn trang nghiêm."
"Nếu tất cả thế giới ghét bạn và tin rằng bạn xấu xa, trong khi lương tâm của riêng bạn đã chấp nhận bạn và miễn tội bạn khỏi tội lỗi, bạn sẽ không có bạn bè."
"Tán tỉnh là thương mại của một người phụ nữ, người ta phải giữ trong thực tế."
Hướng dẫn học Jane Eyre
by Jeffrey Somers - vi.eferrit
Tuy nhiên, cô vẫn kiên trì
Để diễn giải Virginia Woolf, độc giả hiện đại thường giả định rằng Jane Eyre: Một cuốn tự truyện, xuất bản năm 1847 dưới bút danh vô lý Currer Bell, sẽ lỗi thời và khó liên hệ, chỉ ngạc nhiên bởi một cuốn tiểu thuyết cảm thấy tươi mới và hiện đại như nó đã làm trong thế kỷ 19. Thường xuyên thích nghi với các bộ phim và chương trình truyền hình mới và vẫn là nền tảng cho các thế hệ nhà văn, Jane Eyre là một cuốn tiểu thuyết đáng chú ý cả về sự đổi mới và chất lượng lâu dài của nó.
Đổi mới trong tiểu thuyết không phải lúc nào cũng dễ dàng đánh giá cao. Khi Jane Eyre xuất bản nó là một cái gì đó đáng chú ý và mới mẻ, một cách viết mới theo nhiều cách thật đáng kinh ngạc. Kết thúc trong hai thế kỷ sau, những đổi mới đó đã được hấp thụ vào nhà văn học zeitge lớn hơn và những người đọc trẻ tuổi có vẻ không đặc biệt lắm. Ngay cả khi mọi người không thể đánh giá cao bối cảnh lịch sử của cuốn tiểu thuyết, tuy nhiên, kỹ năng và nghệ thuật mà Charlotte Brontë mang đến cuốn tiểu thuyết làm cho nó trở thành một trải nghiệm đọc sách ly kỳ.
Tuy nhiên, có rất nhiều tiểu thuyết rất tốt từ thời kỳ vẫn còn có thể đọc được (để tham khảo, xem mọi thứ mà Charles Dickens viết). Điều khiến
Jane Eyre tách biệt là thực tế rằng nó được cho là công dân của tiểu thuyết bằng tiếng Anh, một tác phẩm chuyển đổi hình thức nghệ thuật vĩnh viễn, một tác phẩm cung cấp nhiều kỹ thuật và quy ước vẫn được sử dụng ngày nay. Đồng thời nó cũng là một câu chuyện tình yêu mạnh mẽ với một nhân vật chính phức tạp, thông minh, và một niềm vui để dành thời gian với.
Nó cũng chỉ xảy ra là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất từng được viết.
Âm mưu
Vì nhiều lý do, điều quan trọng cần lưu ý là phụ đề của cuốn tiểu thuyết là Tự truyện . Câu chuyện bắt đầu khi Jane là một đứa trẻ mồ côi lúc mới mười tuổi, sống với người anh em họ của gia đình Reed theo yêu cầu của người đã qua đời.
Bà Reed tàn nhẫn với Jane, nói rõ rằng bà coi bà là một bổn phận và cho phép con cái mình tàn nhẫn với Jane, khiến cuộc sống của bà trở nên đau khổ. Điều này lên đến đỉnh điểm trong một tập phim mà Jane bảo vệ mình khỏi một trong những đứa con của bà Reed và bị trừng phạt bằng cách bị nhốt trong căn phòng mà chú của cô đã qua đời. Sợ hãi, Jane tin rằng cô thấy hồn ma và ngất xỉu của cô từ nỗi kinh hoàng tuyệt đối.
Jane có sự tham dự của ông Lloyd. Jane thú nhận sự đau khổ của cô với anh ta, và anh ta đề nghị với bà Reed rằng Jane bị đuổi đến trường. Bà Reed vui mừng được đuổi Jane và đưa bà đến Học viện Lowood, một trường từ thiện dành cho các cô gái trẻ mồ côi và nghèo khổ. Sự trốn thoát của Jane lúc đầu chỉ khiến cô trở nên khốn khổ hơn, vì ngôi trường được điều hành bởi ông Brocklehurst có tinh thần trung bình người là hiện thân của "tổ chức từ thiện" tàn bạo thường được tôn giáo tôn giáo. Các cô gái phụ trách của mình bị đối xử tệ hại, ngủ trong phòng lạnh và ăn một chế độ ăn nghèo nàn với những hình phạt thường xuyên. Ông Brocklehurst, được bà Reed tin rằng Jane là kẻ nói dối, chỉ trích bà ra để trừng phạt, nhưng Jane kết bạn với bạn cùng lớp, Helen và cô Temple, người giúp xóa tên Jane. Sau khi dịch bệnh sốt phát ban dẫn đến cái chết của Helen, sự tàn ác của ông Brocklehurst bị phơi bày và điều kiện cải thiện ở Lowood.
Jane cuối cùng đã trở thành một giáo viên ở đó.
Khi Hoa hậu Temple kết hôn, Jane quyết định đã đến lúc cô ấy tiếp tục, và cô ấy tìm được việc làm như một cô gái trẻ ở Thornfield Hall, khu vực của ông Edward Fairfax Rochester. Rochester là kiêu ngạo, gai, và thường xúc phạm, nhưng Jane đứng lên với anh ta và cả hai thấy rằng họ thích nhau vô cùng. Jane trải qua một số sự kiện kỳ lạ, dường như siêu nhiên trong khi ở Thornfield, bao gồm cả một đám cháy bí ẩn trong phòng của ông Rochester.
Khi Jane biết rằng dì của cô, bà Reed, sắp chết, cô dành sự giận dữ của mình cho người phụ nữ và đi theo xu hướng của cô. Bà Reed thú nhận trên giường bệnh của mình rằng bà tệ hơn với Jane so với nghi ngờ trước đây, tiết lộ rằng người chú của Jane đã viết yêu cầu Jane đến sống với anh ta và là người thừa kế của anh, nhưng bà Reed nói với anh rằng Jane đã chết.
Trở về Thornfield, Jane và Rochester thừa nhận tình cảm của họ dành cho nhau, và Jane chấp nhận lời đề nghị của anh - nhưng đám cưới kết thúc trong bi kịch khi nó tiết lộ rằng Rochester đã kết hôn. Anh thú nhận rằng cha anh đã ép anh vào một cuộc hôn nhân sắp xếp với Bertha Mason vì tiền của cô, nhưng Bertha bị một tình trạng tâm thần nghiêm trọng và đã xấu đi gần như ngay từ lúc anh cưới cô. Rochester đã giữ Bertha bị nhốt trong một căn phòng ở Thornfield vì sự an toàn của chính cô, nhưng cô thỉnh thoảng trốn thoát — giải thích nhiều sự kiện bí ẩn mà Jane trải qua.
Rochester cầu xin Jane chạy trốn với anh ta và sống ở Pháp, nhưng cô từ chối, không muốn thỏa hiệp các nguyên tắc của cô. Cô bỏ trốn Thornfield với những tài sản và tiền bạc của mình, và qua một loạt những điều bất hạnh đã thổi bay ra ngoài trong không gian mở. Cô được đưa vào bởi người họ hàng xa của cô, John Eyre Rivers, một mục sư, và biết rằng chú của cô John đã để lại cho cô một gia tài. Khi Thánh Gioan đề xuất hôn nhân (coi đó là một hình thức bổn phận), Jane dự tính sẽ tham gia vào công việc truyền giáo ở Ấn Độ, nhưng nghe tiếng nói của Rochester gọi cho cô.
Trở về Thornfield, Jane bị sốc khi thấy nó bị cháy trên mặt đất. Cô phát hiện ra rằng Bertha đã trốn thoát khỏi căn phòng của mình và khiến nơi đó trở nên bốc cháy; khi cố cứu cô, Rochester bị thương nặng. Jane đi với anh ta, và anh ta lúc đầu đã thuyết phục cô ấy sẽ từ chối anh ta vì vẻ bề ngoài ghê gớm của anh ấy, nhưng Jane đảm bảo với anh ấy rằng cô ấy vẫn yêu anh ấy, và cuối cùng họ đã kết hôn.
Những diễn viên chính
Jane Eyre: Jane là nhân vật chính của câu chuyện.
Một đứa trẻ mồ côi, Jane lớn lên đối phó với nghịch cảnh và nghèo đói, và trở thành một người coi trọng sự độc lập và cơ quan của mình ngay cả khi nó có nghĩa là sống một cuộc sống đơn giản, không rườm rà. Jane được coi là "đồng bằng" và chưa trở thành một đối tượng của mong muốn cho nhiều người cầu hôn vì sức mạnh của tính cách của cô. Jane có thể được sắc bén và phán xét, nhưng cũng tò mò và mong muốn đánh giá lại các tình huống và con người dựa trên thông tin mới. Jane có niềm tin và giá trị rất mạnh mẽ và sẵn sàng chịu đựng để duy trì chúng.
Edward Fairfax Rochester: Chủ nhân của Jane tại Thornfield Hall và cuối cùng là chồng cô. Ông Rochester thường được mô tả như là một "Anh hùng tàn bạo", được gọi là sau khi nhà thơ Lord Byron — là kiêu ngạo, bị rút lui và thường có mâu thuẫn với xã hội, và nổi dậy chống lại sự khôn ngoan chung và bỏ qua ý kiến công chúng. Anh ấy là một hình thức antihero, cuối cùng được tiết lộ là cao quý mặc dù cạnh thô của anh ấy. Anh và Jane ban đầu đánh nhau và không thích nhau, nhưng thấy họ bị lôi cuốn với nhau một cách lãng mạn khi cô chứng tỏ cô có thể đứng lên với tính cách của anh. Rochester bí mật kết hôn với Bertha Mason giàu có trong tuổi trẻ do áp lực gia đình; khi cô bắt đầu thể hiện các triệu chứng của sự điên khùng bẩm sinh, anh đã nhốt cô như một “người đàn bà điên rồ ở tầng áp mái”.
Bà Reed: dì của Jane, người đưa đứa trẻ mồ côi đáp lại ước muốn chết của chồng mình. Là một phụ nữ ích kỷ và có tinh thần, cô lạm dụng Jane và tỏ ra thích thú với con cái của mình, và thậm chí còn giữ lại tin tức về sự thừa kế của Jane cho đến khi cô có một biểu hiện chết chóc và tỏ ra hối hận về hành vi của cô.
Ông Lloyd: Một nhà bào chế tử tế (tương tự như dược sĩ hiện đại) là người đầu tiên thể hiện lòng tốt của Jane. Khi Jane thú nhận sự trầm cảm và bất hạnh của cô với Reeds, anh đề nghị cô được gửi đến trường trong một nỗ lực để đưa cô ra khỏi một tình huống tồi tệ.
Ông Brocklehurst: Giám đốc trường Lowood. Là một thành viên của giáo sĩ, ông biện minh cho sự đối xử khắc nghiệt của các cô gái trẻ dưới sự chăm sóc của mình thông qua tôn giáo, tuyên bố rằng nó là cần thiết cho giáo dục và sự cứu rỗi của họ. Tuy nhiên, ông không áp dụng các nguyên tắc này cho chính mình hoặc gia đình của mình. Lạm dụng của anh ta cuối cùng cũng bị phơi bày.
Miss Maria Temple: Tổng giám đốc của Lowood. Cô ấy là một người phụ nữ tốt bụng và công bằng, người chịu trách nhiệm với các cô gái rất nghiêm túc. Cô ấy tốt với Jane và có ảnh hưởng to lớn đến cô ấy.
Helen Burns: bạn của Jane tại Lowood, người cuối cùng đã chết vì sự bùng nổ của Typhus tại trường. Helen rất tử tế và từ chối ghét ngay cả những người độc ác với cô, và có ảnh hưởng sâu sắc đến niềm tin của Jane đối với Thiên Chúa và thái độ đối với tôn giáo.
Bertha Antoinetta Mason: Vợ của ông Rochester, đã bịkhóa và chìa khóa tại Thornfield Hall do sự điên rồ của bà. Cô thường xuyên trốn thoát và làm những điều kỳ lạ mà lúc đầu dường như gần như siêu nhiên. Cuối cùng cô đốt nhà xuống đất, chết trong ngọn lửa. Sau Jane, cô là nhân vật được thảo luận nhiều nhất trong tiểu thuyết bởi vì những khả năng ẩn dụ phong phú mà cô đại diện là “người điên trên gác mái”.
John Eyre Rivers: Một mục sư và người họ hàng xa xôi của Jane, người đưa cô vào sau khi cô bỏ trốn Thornfield sau khi đám cưới của cô với anh Rochester kết thúc trong hỗn loạn khi cuộc hôn nhân trước đó của anh được tiết lộ. Anh ấy là một người đàn ông tốt nhưng vô cảm và chỉ dành riêng cho công việc truyền giáo của mình. Anh ta không đề nghị kết hôn với Jane như tuyên bố nó là ý muốn của Thiên Chúa mà Jane không có nhiều sự lựa chọn.
Chủ đề
Jane Eyre là một cuốn tiểu thuyết phức tạp liên quan đến nhiều chủ đề:
Độc lập: Jane Eyre đôi khi được mô tả là tiểu thuyết “ nữ quyền ” vì Jane được miêu tả như một nhân cách hoàn toàn có tham vọng và nguyên tắc độc lập với những người xung quanh. Jane thông minh và cảm nhận, quyết tâm quyết tâm đến mọi thứ, và có khả năng yêu thương và tình cảm phi thường - nhưng không bị cai trị bởi những cảm xúc này, vì cô thường xuyên chống lại ước muốn của chính mình để phục vụ cho la bàn trí tuệ và đạo đức của cô. Quan trọng nhất, Jane là bậc thầy của cuộc đời mình và tự mình lựa chọn, và chấp nhận hậu quả. Điều này trái ngược với ông Rochester, người đã bước vào một cuộc hôn nhân bất hạnh vì ông được lệnh phải đóng vai trò thường xuyên nhất của phụ nữ vào thời điểm đó (và về mặt lịch sử).
Jane tiếp tục chống lại nghịch cảnh to lớn, đặc biệt là trong những năm tháng tuổi trẻ hơn, và trưởng thành thành một người trưởng thành chu đáo và chu đáo mặc cho sự thiếu thốn của dì tinh thần của cô và bà Brocklehurst tàn nhẫn, thô lỗ. Là một người trưởng thành ở Thornfield, Jane được cho cơ hội có mọi thứ cô muốn bằng cách chạy trốn cùng với anh Rochester, nhưng cô chọn không làm như vậy bởi vì cô tin chắc rằng đó là điều sai trái.
Sự độc lập và kiên trì của Jane là bất thường trong một nhân vật nữ tại thời điểm sáng tác, cũng như bản chất thơ ca và gợi cảm của POV thân mật - sự tiếp cận người đọc được trao cho độc thoại bên trong của Jane và sự kết dính của câu chuyện với quan điểm giới hạn của cô (chúng tôi chỉ biết những gì Jane biết, mọi lúc) là sáng tạo và giật gân vào thời điểm đó. Hầu hết các cuốn tiểu thuyết thời đó vẫn ở một khoảng cách so với các nhân vật, làm cho mối liên kết chặt chẽ của chúng ta với Jane là một sự mới lạ ly kỳ. Đồng thời, được gắn bó chặt chẽ với sự nhạy cảm của Jane cho phép Brontë kiểm soát phản ứng và nhận thức của người đọc, vì chúng tôi chỉ được cung cấp thông tin khi nó được xử lý thông qua niềm tin, quan điểm và cảm xúc của Jane.
Ngay cả khi Jane cưới anh Rochester trong những gì có thể được xem như là kết luận mong đợi và truyền thống cho câu chuyện, cô xoắn mong đợi bằng cách nói "Reader, tôi kết hôn với anh ta", duy trì tình trạng của mình như là nhân vật chính của cuộc sống riêng của mình.
Đạo đức: Brontë tạo ra sự phân biệt rõ ràng giữa các đạo đức giả của những người như ông Brocklehurst, những người lạm dụng và ngược đãi những người kém quyền lực hơn ông dưới sự che chở của việc từ thiện và giảng dạy tôn giáo. Trên thực tế, có một sự nghi ngờ ngầm về xã hội và các tiêu chuẩn của nó trong suốt tiểu thuyết; những người đáng kính như Reeds thật sự khủng khiếp, những cuộc hôn nhân hợp pháp như Rochester và Bertha Mason (hay là đề xuất của Thánh Gioan) là những kẻ giả mạo; các thể chế như Lowood thể hiện vẻ bề ngoài của xã hội và tôn giáo là một nơi thực tế khủng khiếp.
Jane được thể hiện là người đạo đức nhất trong cuốn sách bởi vì cô ấy đúng với chính mình, không phải tuân thủ một bộ quy tắc được sáng tác bởi người khác. Jane được cung cấp nhiều cơ hội để có một cách dễ dàng hơn bằng cách phản bội các nguyên tắc của cô ấy; cô có thể ít chiến đấu hơn với người anh em họ và ủng hộ sự ủng hộ của bà Reed, cô có thể đã làm việc chăm chỉ hơn để có được ở Lowood, cô có thể trì hoãn ông Rochester làm chủ nhân của mình và không thách thức ông, bà có thể chạy trốn cùng ông và hạnh phúc. Thay vào đó, Jane thể hiện đạo đức thực sự trong suốt tiểu thuyết bằng cách từ chối những thỏa hiệp này và còn lại, quan trọng, đúng với chính mình.
Sự giàu có: Câu hỏi về sự giàu có là một dòng chảy ngầm trong cuốn tiểu thuyết, vì Jane là một đứa trẻ mồ côi không có tiền bạc trong hầu hết các câu chuyện nhưng trong bí mật một người thừa kế giàu có, trong khi ông Rochester là một người giàu có. của cuốn tiểu thuyết — trên thực tế, theo một số cách vai trò của họ đảo ngược trong quá trình câu chuyện.
Trong thế giới của Jane Eyre , sự giàu có không phải là một cái gì đó để ghen tuông, mà là một phương tiện để kết thúc: Sự sống còn. Jane dành phần lớn cuốn sách đang phải vật lộn để tồn tại do thiếu tiền hoặc đứng trên mạng xã hội, nhưng Jane cũng là một trong những nhân vật có nội dung và tự tin nhất trong cuốn sách. Trái ngược với các tác phẩm của Jane Austen (mà Jane Eyre luôn được so sánh), tiền và hôn nhân không được coi là mục tiêu thiết thực cho phụ nữ, mà là mục tiêu lãng mạn - một thái độ rất hiện đại đã ở thời điểm đó trí tuệ thông thường.
Tâm linh: Chỉ có một sự kiện siêu nhiên đặc biệt trong câu chuyện: Khi Jane nghe thấy giọng nói của ông Rochester đến cuối cùng, gọi cô ấy. Có những ám chỉ khác về siêu nhiên, chẳng hạn như ma của chú cô trong Phòng Đỏ hoặc các sự kiện ở Thornfield, nhưng chúng có những lời giải thích hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, giọng nói đó cuối cùng ngụ ý rằng trong vũ trụ của...???
Jane Eyre , siêu nhiên thực sự tồn tại, đưa vào câu hỏi bao nhiêu kinh nghiệm của Jane dọc theo những dòng này có thể không thực sự siêu nhiên.
Không thể nói được, nhưng Jane là một nhân vật tinh vi bất thường trong kiến thức tinh thần của mình. Song song với các chủ đề đạo đức và tôn giáo của Brontë, Jane được trình bày như một người rất liên lạc và cảm thấy thoải mái với niềm tin tâm linh của mình cho dù những niềm tin đó đang ở cùng với nhà thờ hay các nhà chức trách bên ngoài khác. Jane có một triết lý và hệ thống niềm tin riêng biệt, và thể hiện sự tự tin trong khả năng của riêng mình khi sử dụng trí thông minh và kinh nghiệm của mình để hiểu thế giới xung quanh mình. Đây là điều mà Brontë trình bày như một lý tưởng — tạo nên tâm trí của riêng bạn về mọi thứ thay vì chỉ chấp nhận những gì bạn được bảo.
Phong cách văn chương
Jane Eyre đã mượn các yếu tố của tiểu thuyết và thơ ca Gothic đã định hình nó thành một câu chuyện độc đáo. Việc sử dụng trojan từ tiểu thuyết gothic của Brontë - sự điên rồ, bất động sản ma ám, những bí mật khủng khiếp - cho câu chuyện một âm điệu bi thảm và đáng ngại, màu sắc cho mọi sự kiện với một cảm giác lớn hơn cuộc sống. Nó cũng phục vụ để cung cấp cho Brontë sự tự do chưa từng có để chơi với thông tin được cung cấp cho người đọc. Sớm trong câu chuyện, cảnh Red Room rời khỏi người đọc với khả năng trêu ngươi rằng trên thực tế, một con ma - mà sau đó làm cho những diễn biến sau này tại Thornfield có vẻ còn đáng ngại và đáng sợ hơn.
Brontë cũng sử dụng sai lầm thảm hại để có hiệu quả tuyệt vời, có thời tiết thường phản chiếu những mớ hỗn độn bên trong của Jane hoặc trạng thái cảm xúc, và sử dụng lửa và băng (hoặc nhiệt và lạnh) làm biểu tượng của sự tự do và áp bức. Đây là những công cụ của thơ ca và chưa bao giờ được sử dụng rộng rãi hay hiệu quả trong tiểu thuyết trước đây. Brontë sử dụng chúng một cách mạnh mẽ kết hợp với những nét gothic để tạo ra một vũ trụ hư cấu được phản chiếu trên thực tế nhưng có vẻ huyền diệu, với những cảm xúc cao và, do đó, những cổ phần cao hơn.
Điều này được khuếch đại nhiều hơn bởi sự gần gũi của quan điểm của Jane (POV). Những cuốn tiểu thuyết trước đây thường tập trung vào mô tả thực tế về sự kiện - người đọc có thể tin tưởng những gì họ được cho là ngầm. Bởi vì Jane là đôi mắt và đôi tai của chúng tôi đối với câu chuyện, tuy nhiên, chúng tôi ý thức về một mức độ không bao giờ thực sự trở thành hiện thực , nhưng đúng hơn là phiên bản thực tế của Jane . Đây là một hiệu ứng tinh tế mà dù sao cũng có tác động to lớn đến cuốn sách khi chúng tôi nhận ra rằng mọi mô tả nhân vật và hành động được lọc qua thái độ và nhận thức của Jane.
Ngữ cảnh lịch sử
Điều quan trọng cần ghi nhớ là phụ đề gốc của tiểu thuyết ( Một cuốn tự truyện ) vì một lý do khác: Bạn càng kiểm tra cuộc sống của Charlotte Brontë, thì rõ ràng hơn là Jane Eyre là rất nhiều về Charlotte.
Charlotte có một lịch sử lâu dài về một thế giới bên trong mãnh liệt; cùng với các chị em của mình, cô đã tạo ra một thế giới tưởng tượng vô cùng phức tạp Glass Town , bao gồm nhiều tiểu thuyết ngắn và thơ, cùng với bản đồ và các công cụ xây dựng khác trên thế giới. Vào giữa những năm 20, cô đến Brussels để học tiếng Pháp và yêu một người đàn ông đã lập gia đình. Trong nhiều năm, cô đã viết những bức thư tình nồng nhiệt cho người đàn ông trước khi dường như chấp nhận rằng chuyện đó là không thể; Jane Eyre xuất hiện ngay sau đó và có thể được xem như là một tưởng tượng về việc chuyện đó có thể đã khác đi như thế nào.
Charlotte cũng dành thời gian ở trường Clergy Daughter, nơi mà điều kiện và điều trị của các cô gái thật khủng khiếp, và một số học sinh đã chết vì thương hàn - kể cả chị gái của Charlotte, Maria, mới 11 tuổi. Charlotte đã mô hình rõ ràng về cuộc đời ban đầu của Jane Eyre về những trải nghiệm không vui của riêng mình, và nhân vật của Helen Burns thường được xem như là một người đứng đắn cho người em gái đã mất của cô. Cô cũng sau này là một gia sư cho một gia đình mà cô cay đắng báo cáo đối xử tệ với cô, thêm một mảnh nữa sẽ trở thành Jane Eyre .
Hơn nữa, thời đại Victoria mới bắt đầu ở Anh. Đây là thời điểm chuyển đổi xã hội mạnh mẽ về mặt kinh tế và công nghệ. Một tầng lớp trung lưu được hình thành lần đầu tiên trong lịch sử tiếng Anh, và sự di chuyển lên cao thường xuyên mở ra cho những người thường xuyên dẫn đến cảm giác của cơ quan cá nhân có thể được nhìn thấy trong nhân vật của Jane Eyre. công việc và trí thông minh. Những thay đổi này đã tạo ra một bầu không khí bất ổn trong xã hội như những cách cũ đã bị thay đổi bởi cuộc cách mạng công nghiệp và sức mạnh ngày càng tăng của Đế quốc Anh trên toàn thế giới, dẫn đến nhiều câu hỏi giả định cổ xưa về tầng lớp quý tộc, tôn giáo và truyền thống.
Thái độ của Jane đối với ông Rochester và các nhân vật khác đã phản ánh những thay đổi này; giá trị của các chủ sở hữu tài sản góp phần ít vào xã hội đã được đặt câu hỏi, và cuộc hôn nhân của Rochester với Bertha Mason điên rồ có thể được xem như là một lời chỉ trích quá mức về “lớp học giải trí” và độ dài họ đã đi để giữ gìn tình trạng của họ. Ngược lại, Jane đến từ nghèo đói và chỉ có tâm trí và tinh thần của cô qua hầu hết các câu chuyện, và cuối cùng vẫn chiến thắng. Trên đường đi, Jane trải nghiệm nhiều khía cạnh tồi tệ nhất trong khoảng thời gian, bao gồm bệnh tật, điều kiện sống nghèo nàn, cơ hội hạn chế cho phụ nữ và sự áp bức mạnh mẽ của thái độ tôn giáo khắc nghiệt, tàn nhẫn.
Trích dẫn
Jane Eyre không nổi tiếng chỉ vì chủ đề và cốt truyện của nó; nó cũng là một cuốn sách được viết tốt với nhiều cụm từ thông minh, hài hước và cảm động.
“Bằng cách chết trẻ, tôi sẽ thoát khỏi những đau khổ to lớn. Tôi không có phẩm chất hay tài năng để làm theo cách của tôi rất tốt trên thế giới: tôi đáng lẽ phải liên tục bị lỗi. ”
“'Tôi có ghê tởm không, Jane?' ‛Rất, thưa bạn: bạn luôn như vậy, bạn biết đấy. '”
"Phụ nữ được cho là rất bình tĩnh nói chung: nhưng phụ nữ cảm thấy giống như nam giới cảm thấy."
“Tôi không có ý định yêu anh ấy; người đọc biết tôi đã rèn luyện hết sức để thoát khỏi linh hồn của tôi, những mầm bệnh của tình yêu đã được phát hiện; và bây giờ, ở cái nhìn mới đầu tiên của anh ta, họ tự động hồi sinh, tuyệt vời và mạnh mẽ! Anh ấy khiến tôi yêu anh ấy mà không nhìn tôi. ”
"Tôi sẽ luôn luôn hạnh phúc hơn trang nghiêm."
"Nếu tất cả thế giới ghét bạn và tin rằng bạn xấu xa, trong khi lương tâm của riêng bạn đã chấp nhận bạn và miễn tội bạn khỏi tội lỗi, bạn sẽ không có bạn bè."
"Tán tỉnh là thương mại của một người phụ nữ, người ta phải giữ trong thực tế."
Last edited by LDN on Sun Jun 05, 2022 3:30 am; edited 3 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Charlotte Brontë và Jane Eyre
Ducthe's Blog
Đúng 200 năm trước, nữ nhà văn Charlotte Brontë chào đời trong gia đình Brontë có 6 chị em mà trong đó Charlotte là chị cả trong ba chị em gái, Emily Brontë và Anne Brontë. Thật hiếm có một gia đình nào mà sinh ra tới ba nữ nhà văn với những tác phẩm văn học đã trở thành các tác phẩm kinh điển của văn học thế giới. Charlotte Brontë với Jane Eyre, Emily Brontë với Đồi gió hú, còn Anne Brontë với Người tá điền đồi Wildfell (tôi chưa được đọc tác phẩm này). Họ đều là những nhà văn yểu mệnh (Anne qua đời khi mới chỉ 29 tuổi, Emily cũng không khá hơn bao nhiêu, qua đời khi 30 tuổi, Charlotte “thọ” hơn hai em mình một chút nhưng cũng qua đời khi chưa đến 40 tuổi), nhưng tên tuổi họ còn mãi với những tác phẩm văn học tuy không phải đồ sộ nhưng sống mãi với thời gian, với những nhân vật khiến người đọc mãi không quên được. Jane Eyre là “con đẻ” của Charlotte, và là một trong những “nữ anh hùng bất diệt” của làng văn học thế giới.
Jane Eyre được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1847, cách đây gần 170 năm, nhưng bà đã bắt đầu đặt những dòng đầu tiên cho tiểu thuyết này từ trước đó 7 năm, từ 1840. Quán bar The Salutation ở quận Hulme, thành phố Manchester (12 Higher Chatham Street, Manchester M15 6ED) gần nơi tôi sống và làm việc là nơi Charlotte bắt đầu viết Jane Eyre. Có lẽ Jane Eyre đã làm lu mờ những tác phẩm khác của Charlotte. Nó đã trở thành một tác phẩm kinh điển không chỉ của văn học Anh mà còn là của văn học thế giới, với đủ các chuyển thể, từ phim truyền hình, tới kịch, phim điện ảnh. Jane Eyre đã trở thành sách đọc phổ biến trong trường học ở Anh và nhiều nước trên thế giới, và nó đứng trong top 10 tác phẩm văn học Anh được đọc nhiều nhất, theo khảo sát của BBC vào năm 2003.
Jane Eyre có tên đầy đủ là “Jane Eyre: An Autobiography” (Jane Eyre: Tiểu sự tự thuật) viết về cuộc đời của nữ nhân vật cùng tên. Jane mồ côi cha mẹ từ khi còn rất bé, đến độ cô hầu như chẳng còn chút ký ức nào về cha mẹ mình. Jane được cậu ruột (Mr. Reed) nuôi và đến năm 10 tuổi thì được gửi vào trại trẻ mồ côi, trường Lowood, nơi cô được giáo dục theo lối khổ hạnh (“hành hạ thân xác để giữ gìn phần hồn”). Jane lớn lên ở Lowood trong 10 năm, và từng làm giáo viên trong trường đó trong 2 năm, sau đó rời Lowood bắt đầu cuộc sống bên ngoài ngôi trường khổ hạnh này. Cô bắt đầu cuộc sống bằng việc làm gia sư cho gia đình Rochester ở lâu đài Thornfield. Người ta còn tranh cãi về thực sự Thornfield là nơi nào ở nước Anh, nhưng phần đông có vẻ đồng ý rằng lâu đài Haddon ở Bakewell, Derbyshire dường như là nơi mà Charlotte Brontë lấy làm hình mẫu cho Thornfield.
Ở Thornfield, Jane dạy học cho bé Adele Varens, và đã gặp ông chủ của lâu đài, Edward Fairfax Rochester (bé Adele Varens là con gái của một vũ nữ người Pháp, người tình cũ của Rochester). Hai người yêu nhau bằng sự đồng điệu của trái tim chứ không phải bởi vẻ bề ngoài: Jane Eyre không phải là một phụ nữ đẹp, còn Rochester cũng chẳng đẹp trai. Rochester là một người giàu có từng có quá khứ đầy giông bão với những cuộc tình không đi tới đâu bởi ông muốn tìm kiếm một người vợ đích thực của trái tim mình, còn Jane là một con người khiến mọi người sửng sốt, cho dù cô có đẹp hay không. Jane có tính cách ngay thẳng, dũng cảm, một trái tim nhân hậu mà không bi lụy, dám yêu và dám nói lên tiếng nói trái tim mình. Chớ trêu thay, đám cưới giữa hai người không thể diễn ra vì Rochester đã có vợ, một người vợ mà ông bị lừa để cưới, một người tâm thần điên loại đã hành hạ ông nhiều năm mà ông không thể từ bỏ. Rochester từng suýt tự vẫn vì nghĩ tới việc sống suốt đời với người vợ điên, nhưng rồi không đã nghĩ lại và lao vào các cuộc tình. Jane là người đưa ông ra khỏi sự sa lầy đó bằng sự cuốn hút của một trái tim mà ông vẫn trông đợi.
Đám cưới không thành, Jane đau khổ bỏ trốn khỏi Thornfield và suýt chết đói khi lang thang. Cô được ba anh em, St. John Eyre Rivers (một mục sư Tin lành), Diana và Mary Rivers cứu sống và lại làm một cô giáo ở một miền quê nghèo. Thật tình cờ, St. John, Diana và Mary chính là những anh chị em họ của Jane, mẹ của họ là chị gái của cha đẻ Jane. Rồi Jane nhận thừa kế từ chú ruột của mình (và cũng là cậu ruột của ba anh em St. John, Diana và Mary), trở nên giàu có. Cô vẫn khắc khoải không quên được Rochester, và đã quả quyết trở lại tìm người tình của mình. Lúc này, lâu đài Thornfield đã gặp hỏa hoạn do bà vợ điên loạn của Rochester gây ra. Vì mải cứu mọi người, Rochester bị tai nạn liệt một cánh tay và mù cả hai mắt, và sống cùng hai người giúp việc trung thành, còn bà vợ điên thì chết trong hỏa hoạn dù Rochester đã cố gắng để lôi bà ta ra. Jane đã cầu hôn với Rochester, bởi cô nhận thấy rằng mình chỉ có hạnh phúc khi ở bên Rochester.
Tôi thích Jane Eyre bởi triết lý “Ý chí của bạn quyết định vận mệnh của bạn” từ tác phẩm này, và cũng từ những triết lý đầy nhân văn của tác phẩm “cuộc sống đến với tôi quá ngắn ngủi nên không thể tiêu phí cho việc nuôi dưỡng lòng thù hận hay ghi nhớ những lỗi lầm” – lời của Helen Burns, người bạn của Jane trong trại mồ côi Lowood – cô bé mất sớm vì bệnh tật. Người ta đã viết nhiều về Jane, người phụ nữ với những tính cách mà mọi người phụ nữ đáng học tập. Jane là một cô gái có trái tim nhân hậu, nhưng luôn không bỏ rơi bản thân mình và luôn biết quan tâm đến bản thân mình: “Tôi quan tâm đến bản thân. Tôi càng cô độc, tôi càng ít bạn bè, tôi càng không khuất phục thì tôi càng tôn trọng chính mình”. Cô là một người luôn lạc quan, dù nhiều lần trải qua cuộc sống khắc nghiệt và khó khăn. Jane luôn tìm cách sống hạnh phúc bất kể quá khứ của mình “ngay cả với tôi, cuộc sống cũng có những tia nắng yếu ớt”. Cô là một con người độc lập, biết làm chủ bản thân mình.
Nữ nhà văn Charlotte Brontë đã gửi gắm vào Jane những tuyên ngôn mạnh mẽ về tình yêu. Rochester và Jane, hai tâm hồn khao khát tình thương yêu đã gặp nhau ở lâu đài Thornfield, họ bù đắp và sẻ chia những phần còn khuyết trong tâm hồn người kia. Cả hai vượt lên cá tính, tuổi tác, địa vị, tài sản đến với nhau một cách tự nguyện và bình đẳng, và người nữ anh hùng Jane còn đáng khen hơn cả vì (bạn hãy nhớ là thời của Jane cách đây vài trăm năm rồi) đã vượt qua những rào cản của nữ giới, mà tới thời nay nhiều người vẫn chưa dám bước qua: “Nói chung, phụ nữ được cho là rất yên ả: nhưng cảm nhận của phụ nữ cũng giống như của nam giới; họ cần rèn luyện khả năng của mình, họ cần một lĩnh vực để thể hiện những nỗ lực của mình, cũng nhiều không kém như những đồng nghiệp của họ; họ bị kềm hãm quá đỗi khắt khe, chịu đựng tình trạng tù hãm tuyệt đối, giống hệt như những gì nam giới phải chịu; và chính sự thiển cận trong suy nghĩ của những con người cùng thời có đặc quyền đặc lợi hơn đã cho rằng họ buộc phải giam hãm bản thân trong những công việc làm bánh, đan lát, chơi đàn và thêu thùa. Thật khinh xuất khi chỉ trích họ hay cười nhạo họ trong trường hợp họ làm nhiều hơn hay học hỏi nhiều hơn cái tập tục được tuyên bố là cần thiết cho giới tính của họ.” Jane dám yêu, dám ghét, dám phá bỏ những rào cản để tìm hạnh phúc của mình, nhưng không bỏ qua những nguyên tắc của bản thân mình. Với tôi, Jane hơn một nữ nhân vật nổi tiếng khác là Meggie trong tiểu thuyết “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” của nữ văn sĩ Colleen McCullough, vì Jane dám tự mình đấu tranh với số phận, tự mình giành lại tình yêu và hạnh phúc của riêng mình (tất nhiên là Meggie cũng tuyệt vời vì cướp được cả cha Ralph từ tay Chúa).
Triết lý lớn cuối cùng mà Jane truyền tới người đọc là hãy tìm đến một cuộc hôn nhân vì tình yêu. Người anh họ, mục sư St. John, đã cầu hôn Jane để muốn cô là người đồng hành đi truyền giáo ở Ấn Độ. Nhưng Jane đã từ chối vì nhận thấy cô không thể làm vợ của con người của Chúa này. St. John không yêu Jane, dù anh là một người đàn ông nhân hậu, và điều đó khiến cô biết mình sẽ không thể hạnh phúc khi làm vợ của St John, người chỉ biết sống vì lý tưởng (dù đó là lý tưởng cao đẹp). Hạnh phúc và tình yêu của Jane là Edward Fairfax Rochester, người giờ đây dù là một người tàn tật, thậm chí không thể nhìn được cô: “Hy sinh! Em làm gì mà gọi là hy sinh chứ? Chẳng lẽ có được đặc quyền vòng cánh tay ôm lấy người mà em vẫn quý trọng…được đặt môi hôn người mà em yêu…được nương tựa vào người mà em tin tưởng cũng gọi là hy sinh ư? Nếu vậy thì quả thực em đã tìm được niềm vui trong sự hy sinh.”
Vâng, tôi đã lan man quá nhiều về Jane, một trong ba nữ anh hùng của chị em nhà Brontë (Jane trong Jane Eyre, Catherine trong Đồi gió hú, Helen trong Người tá điền đồi Wildfell, ba trong số những người nữ anh hùng văn học tuyệt vời nhất). Bạn có thể so sánh Jane Eyre và Đồi gió hú để thấy một điều rất thú vị: Jane là sản phẩm của giáo dục nên cái quyết liệt của cô cũng thật nhân văn, khác với Catherine trong Đồi gió hú, không có dấu ấn nào của nền giáo dục. Vì thế mà tình yêu của Heathcliff với Catherine cũng thật hoang dại và câu chuyện đầy ắp những thù hận. Nền giáo dục của Jane, dù thật khổ hạnh và khắc nghiệt vẫn tạo ra những cô gái có trái tim nhân ái như Jane Eyre, như Helen Burns. Bạn có thấy thú vị không, dù ở đâu, Jane vẫn luôn hay đọc sách, và ta bắt gặp Jane mải miết đọc sách ngay từ mở đầu câu chuyện.
Ducthe's Blog
Đúng 200 năm trước, nữ nhà văn Charlotte Brontë chào đời trong gia đình Brontë có 6 chị em mà trong đó Charlotte là chị cả trong ba chị em gái, Emily Brontë và Anne Brontë. Thật hiếm có một gia đình nào mà sinh ra tới ba nữ nhà văn với những tác phẩm văn học đã trở thành các tác phẩm kinh điển của văn học thế giới. Charlotte Brontë với Jane Eyre, Emily Brontë với Đồi gió hú, còn Anne Brontë với Người tá điền đồi Wildfell (tôi chưa được đọc tác phẩm này). Họ đều là những nhà văn yểu mệnh (Anne qua đời khi mới chỉ 29 tuổi, Emily cũng không khá hơn bao nhiêu, qua đời khi 30 tuổi, Charlotte “thọ” hơn hai em mình một chút nhưng cũng qua đời khi chưa đến 40 tuổi), nhưng tên tuổi họ còn mãi với những tác phẩm văn học tuy không phải đồ sộ nhưng sống mãi với thời gian, với những nhân vật khiến người đọc mãi không quên được. Jane Eyre là “con đẻ” của Charlotte, và là một trong những “nữ anh hùng bất diệt” của làng văn học thế giới.
Jane Eyre được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1847, cách đây gần 170 năm, nhưng bà đã bắt đầu đặt những dòng đầu tiên cho tiểu thuyết này từ trước đó 7 năm, từ 1840. Quán bar The Salutation ở quận Hulme, thành phố Manchester (12 Higher Chatham Street, Manchester M15 6ED) gần nơi tôi sống và làm việc là nơi Charlotte bắt đầu viết Jane Eyre. Có lẽ Jane Eyre đã làm lu mờ những tác phẩm khác của Charlotte. Nó đã trở thành một tác phẩm kinh điển không chỉ của văn học Anh mà còn là của văn học thế giới, với đủ các chuyển thể, từ phim truyền hình, tới kịch, phim điện ảnh. Jane Eyre đã trở thành sách đọc phổ biến trong trường học ở Anh và nhiều nước trên thế giới, và nó đứng trong top 10 tác phẩm văn học Anh được đọc nhiều nhất, theo khảo sát của BBC vào năm 2003.
Jane Eyre có tên đầy đủ là “Jane Eyre: An Autobiography” (Jane Eyre: Tiểu sự tự thuật) viết về cuộc đời của nữ nhân vật cùng tên. Jane mồ côi cha mẹ từ khi còn rất bé, đến độ cô hầu như chẳng còn chút ký ức nào về cha mẹ mình. Jane được cậu ruột (Mr. Reed) nuôi và đến năm 10 tuổi thì được gửi vào trại trẻ mồ côi, trường Lowood, nơi cô được giáo dục theo lối khổ hạnh (“hành hạ thân xác để giữ gìn phần hồn”). Jane lớn lên ở Lowood trong 10 năm, và từng làm giáo viên trong trường đó trong 2 năm, sau đó rời Lowood bắt đầu cuộc sống bên ngoài ngôi trường khổ hạnh này. Cô bắt đầu cuộc sống bằng việc làm gia sư cho gia đình Rochester ở lâu đài Thornfield. Người ta còn tranh cãi về thực sự Thornfield là nơi nào ở nước Anh, nhưng phần đông có vẻ đồng ý rằng lâu đài Haddon ở Bakewell, Derbyshire dường như là nơi mà Charlotte Brontë lấy làm hình mẫu cho Thornfield.
Ở Thornfield, Jane dạy học cho bé Adele Varens, và đã gặp ông chủ của lâu đài, Edward Fairfax Rochester (bé Adele Varens là con gái của một vũ nữ người Pháp, người tình cũ của Rochester). Hai người yêu nhau bằng sự đồng điệu của trái tim chứ không phải bởi vẻ bề ngoài: Jane Eyre không phải là một phụ nữ đẹp, còn Rochester cũng chẳng đẹp trai. Rochester là một người giàu có từng có quá khứ đầy giông bão với những cuộc tình không đi tới đâu bởi ông muốn tìm kiếm một người vợ đích thực của trái tim mình, còn Jane là một con người khiến mọi người sửng sốt, cho dù cô có đẹp hay không. Jane có tính cách ngay thẳng, dũng cảm, một trái tim nhân hậu mà không bi lụy, dám yêu và dám nói lên tiếng nói trái tim mình. Chớ trêu thay, đám cưới giữa hai người không thể diễn ra vì Rochester đã có vợ, một người vợ mà ông bị lừa để cưới, một người tâm thần điên loại đã hành hạ ông nhiều năm mà ông không thể từ bỏ. Rochester từng suýt tự vẫn vì nghĩ tới việc sống suốt đời với người vợ điên, nhưng rồi không đã nghĩ lại và lao vào các cuộc tình. Jane là người đưa ông ra khỏi sự sa lầy đó bằng sự cuốn hút của một trái tim mà ông vẫn trông đợi.
Đám cưới không thành, Jane đau khổ bỏ trốn khỏi Thornfield và suýt chết đói khi lang thang. Cô được ba anh em, St. John Eyre Rivers (một mục sư Tin lành), Diana và Mary Rivers cứu sống và lại làm một cô giáo ở một miền quê nghèo. Thật tình cờ, St. John, Diana và Mary chính là những anh chị em họ của Jane, mẹ của họ là chị gái của cha đẻ Jane. Rồi Jane nhận thừa kế từ chú ruột của mình (và cũng là cậu ruột của ba anh em St. John, Diana và Mary), trở nên giàu có. Cô vẫn khắc khoải không quên được Rochester, và đã quả quyết trở lại tìm người tình của mình. Lúc này, lâu đài Thornfield đã gặp hỏa hoạn do bà vợ điên loạn của Rochester gây ra. Vì mải cứu mọi người, Rochester bị tai nạn liệt một cánh tay và mù cả hai mắt, và sống cùng hai người giúp việc trung thành, còn bà vợ điên thì chết trong hỏa hoạn dù Rochester đã cố gắng để lôi bà ta ra. Jane đã cầu hôn với Rochester, bởi cô nhận thấy rằng mình chỉ có hạnh phúc khi ở bên Rochester.
Tôi thích Jane Eyre bởi triết lý “Ý chí của bạn quyết định vận mệnh của bạn” từ tác phẩm này, và cũng từ những triết lý đầy nhân văn của tác phẩm “cuộc sống đến với tôi quá ngắn ngủi nên không thể tiêu phí cho việc nuôi dưỡng lòng thù hận hay ghi nhớ những lỗi lầm” – lời của Helen Burns, người bạn của Jane trong trại mồ côi Lowood – cô bé mất sớm vì bệnh tật. Người ta đã viết nhiều về Jane, người phụ nữ với những tính cách mà mọi người phụ nữ đáng học tập. Jane là một cô gái có trái tim nhân hậu, nhưng luôn không bỏ rơi bản thân mình và luôn biết quan tâm đến bản thân mình: “Tôi quan tâm đến bản thân. Tôi càng cô độc, tôi càng ít bạn bè, tôi càng không khuất phục thì tôi càng tôn trọng chính mình”. Cô là một người luôn lạc quan, dù nhiều lần trải qua cuộc sống khắc nghiệt và khó khăn. Jane luôn tìm cách sống hạnh phúc bất kể quá khứ của mình “ngay cả với tôi, cuộc sống cũng có những tia nắng yếu ớt”. Cô là một con người độc lập, biết làm chủ bản thân mình.
Nữ nhà văn Charlotte Brontë đã gửi gắm vào Jane những tuyên ngôn mạnh mẽ về tình yêu. Rochester và Jane, hai tâm hồn khao khát tình thương yêu đã gặp nhau ở lâu đài Thornfield, họ bù đắp và sẻ chia những phần còn khuyết trong tâm hồn người kia. Cả hai vượt lên cá tính, tuổi tác, địa vị, tài sản đến với nhau một cách tự nguyện và bình đẳng, và người nữ anh hùng Jane còn đáng khen hơn cả vì (bạn hãy nhớ là thời của Jane cách đây vài trăm năm rồi) đã vượt qua những rào cản của nữ giới, mà tới thời nay nhiều người vẫn chưa dám bước qua: “Nói chung, phụ nữ được cho là rất yên ả: nhưng cảm nhận của phụ nữ cũng giống như của nam giới; họ cần rèn luyện khả năng của mình, họ cần một lĩnh vực để thể hiện những nỗ lực của mình, cũng nhiều không kém như những đồng nghiệp của họ; họ bị kềm hãm quá đỗi khắt khe, chịu đựng tình trạng tù hãm tuyệt đối, giống hệt như những gì nam giới phải chịu; và chính sự thiển cận trong suy nghĩ của những con người cùng thời có đặc quyền đặc lợi hơn đã cho rằng họ buộc phải giam hãm bản thân trong những công việc làm bánh, đan lát, chơi đàn và thêu thùa. Thật khinh xuất khi chỉ trích họ hay cười nhạo họ trong trường hợp họ làm nhiều hơn hay học hỏi nhiều hơn cái tập tục được tuyên bố là cần thiết cho giới tính của họ.” Jane dám yêu, dám ghét, dám phá bỏ những rào cản để tìm hạnh phúc của mình, nhưng không bỏ qua những nguyên tắc của bản thân mình. Với tôi, Jane hơn một nữ nhân vật nổi tiếng khác là Meggie trong tiểu thuyết “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” của nữ văn sĩ Colleen McCullough, vì Jane dám tự mình đấu tranh với số phận, tự mình giành lại tình yêu và hạnh phúc của riêng mình (tất nhiên là Meggie cũng tuyệt vời vì cướp được cả cha Ralph từ tay Chúa).
Triết lý lớn cuối cùng mà Jane truyền tới người đọc là hãy tìm đến một cuộc hôn nhân vì tình yêu. Người anh họ, mục sư St. John, đã cầu hôn Jane để muốn cô là người đồng hành đi truyền giáo ở Ấn Độ. Nhưng Jane đã từ chối vì nhận thấy cô không thể làm vợ của con người của Chúa này. St. John không yêu Jane, dù anh là một người đàn ông nhân hậu, và điều đó khiến cô biết mình sẽ không thể hạnh phúc khi làm vợ của St John, người chỉ biết sống vì lý tưởng (dù đó là lý tưởng cao đẹp). Hạnh phúc và tình yêu của Jane là Edward Fairfax Rochester, người giờ đây dù là một người tàn tật, thậm chí không thể nhìn được cô: “Hy sinh! Em làm gì mà gọi là hy sinh chứ? Chẳng lẽ có được đặc quyền vòng cánh tay ôm lấy người mà em vẫn quý trọng…được đặt môi hôn người mà em yêu…được nương tựa vào người mà em tin tưởng cũng gọi là hy sinh ư? Nếu vậy thì quả thực em đã tìm được niềm vui trong sự hy sinh.”
Vâng, tôi đã lan man quá nhiều về Jane, một trong ba nữ anh hùng của chị em nhà Brontë (Jane trong Jane Eyre, Catherine trong Đồi gió hú, Helen trong Người tá điền đồi Wildfell, ba trong số những người nữ anh hùng văn học tuyệt vời nhất). Bạn có thể so sánh Jane Eyre và Đồi gió hú để thấy một điều rất thú vị: Jane là sản phẩm của giáo dục nên cái quyết liệt của cô cũng thật nhân văn, khác với Catherine trong Đồi gió hú, không có dấu ấn nào của nền giáo dục. Vì thế mà tình yêu của Heathcliff với Catherine cũng thật hoang dại và câu chuyện đầy ắp những thù hận. Nền giáo dục của Jane, dù thật khổ hạnh và khắc nghiệt vẫn tạo ra những cô gái có trái tim nhân ái như Jane Eyre, như Helen Burns. Bạn có thấy thú vị không, dù ở đâu, Jane vẫn luôn hay đọc sách, và ta bắt gặp Jane mải miết đọc sách ngay từ mở đầu câu chuyện.
Last edited by LDN on Sat May 28, 2022 7:41 pm; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Bookish
PHÍA SAU TRANG SÁCH Jane Eyre: Bức họa về ý chí và nghị lực vượt lên số phận của con người
Tháng Mười 27, 2020 By Lâm Lâm
Có đôi ba lần thế kỉ trôi qua, những đóm sao đêm đã sáng rồi lại tắt, những cuộc đời nối dài rong ruổi và miên man, bể dâu và đổi khác, tưởng rằng sẽ làm phôi phai đi tất cả những gì từng gọi là đẹp đẽ của một quá khứ huy hoàng, ấy vậy mà, Jane Eyre – một biểu tượng vững chãi của sự kiên cường và bất khuất – vẫn hiện lên thật rạng ngời và rực rỡ qua từng trang sách chứa đầy những hồi ức tự sự thật thà – bất chấp rằng thời đại đã đổi dời, bất chấp rằng thời gian đã cuồng quay. Jane Eyre, hơn cả một cuốn tiểu thuyết đã bao lần làm thổn thức trái tim độc giả, đó còn là một bức họa tuyệt đẹp về ý chí và nghị lực vươn lên số phận của con người.
Thật kì lạ là dù cuốn sách đã được nữ sĩ Charlotte Bronte viết cách đây gần hai trăm năm, ấy vậy mà, những câu chuyện, những sự kiện, những niềm vui hoặc chăng là sự đau khổ của mỗi nhân vật đều thân thuộc và tương đồng với những gì đang vận hành và xảy ra xung quanh con người thời đại này. Đó như là một tấm gương phản chiếu những mảnh đời, những số phận, những biến cố và trở ngại trong suốt hành trình làm người – của từng con người. Vậy phải chăng, con người dù ở bất kì thời điểm nào trong suốt chiều dài lịch sử – đều phải gặp và trải qua những hỉ nộ ái ố muôn thuở như những bậc tiền nhân đã từng?
“Jane Eyre”
Khi nghĩ về cái tên này, dù chỉ là cái tên trong một cuốn tiểu thuyết (hư cấu), nhưng tôi lại bỗng thấy xót xa lạ kì. Cô gái này vì sao lại bất hạnh đến như vậy? Bất hạnh như thể mọi thứ tồi tệ nhất trên đời đều đổ dồn về phía cô. Cô không có gia đình, không có người thân, cũng không có bạn bè gì cả. Những người mà cô còn có thể bám víu được suốt cả thời thơ ấu của mình lại chính là những người không hề muốn nhìn thấy sự hiện diện của cô. Chỉ vì lời hứa với người chồng đã mất, người mợ cay nghiệt đành phải cưu mang cô trong sự oán hận. Bà ghét cô. Bà khinh bỉ cô. Bà trừng phạt cô. Đến cả những đứa con của bà cũng đều khiến cho cô cảm thấy đau đớn. Chưa bao giờ cô thôi sợ hãi. Chưa bao giờ cô có quyền nói lên tiếng lòng mình, hoặc cũng thật khó để có thể chống lại tất cả bọn họ. Thứ duy nhất cô có thể làm chính là chấp nhận sống trong những thù hằn của đám người kia.
Tại sao cô không chạy đi?
Chạy? Chạy đi đâu bây giờ, khi cô chỉ là một đứa trẻ chẳng hay biết gì về cuộc đời ở bên ngoài, và có muôn vàn câu hỏi rằng thế giới xa lạ này ra sao. Cô bé đáng thương tội nghiệp ấy chỉ là một hạt cát nhỏ nhoi giữa sa mạc, chẳng tiếng nói, chẳng sức mạnh, cũng chẳng có ai để dựa vào…
Nhưng!
Jane Eyre! Cô bé nhỏ như một ngọn cỏ ven đường. Nhưng ngọn cỏ không yếu đuối bao giờ. Khi bão giông ập đến hay có ai tàn nhẫn giày xéo lên tấm thân mỏng manh ấy, ngọn cỏ vẫn sống và kiên cường vươn lên. Ngọn cỏ âm ỉ một sức mạnh phi thường – sức mạnh của nghị lực và niềm tin về sự sống của chính bản thân mình. Và Jane cũng vậy. Ai ngờ đâu đằng sau một cô gái trầm lặng ấy lại chính là một ý chí vươn lên không bao giờ ngơi nghỉ. Ý chí rằng mình sẽ được hạnh phúc. Nhất định sẽ được hạnh phúc.
“Tôi không phải là chim, không có chiếc lồng nào có thể bẫy được tôi. Tôi là một người tự do, với ý chí độc lập.”
Không chấp nhận quẩn quanh trong một giới hạn bị người ta rào cản, Jane luôn khao khát được bay đi, tìm kiếm cho mình những lí tưởng sống mới. Trên hành trình đi tìm kiếm tự do và hạnh phúc ấy, lắm khi, Jane đau khổ và thất vọng thật nhiều. Cái cay nghiệt đâu chỉ mãi quẩn quanh trong gia đình bà Reed, nó còn xuất hiện và liên tục lặp đi lặp lại mãi suốt cả quãng đời sau này của Jane: từ khi còn là nữ sinh ở trường Lowood cho đến khi về làm việc tại nhà của ông Rochester. Khi đã tưởng được yên bình rồi, thì bão giông lại bất ngờ ập đến. Khi đã tưởng kiếm tìm được hạnh phúc, thì đau khổ lại bỗng chốc lên ngôi. Cô gái bé nhỏ ấy cứ liên tục gặp phải những chuyện đau lòng. Đã từng đi qua mùa dịch bệnh, đã từng đói, từng khát, từng trở thành người vô gia cư – không thức ăn, không tài sản, từng hi vọng và bị cướp mất đi hi vọng, từng hạnh phúc vô bờ rồi bỗng rơi xuống đáy của nỗi đau… Những điều ấy, những tưởng sẽ quật ngã và giết chết Jane Eyre. Nhưng lạ thường thay, càng khó khăn, Jane lại càng vươn lên mạnh mẽ. Jane không bao giờ cam chịu hay chấp nhận những uất ức cuộc đời. Jane học được nhiều điều từ chính những khó khăn ấy. Jane phản kháng quyết liệt với những bất công mà cuộc đời đem lại. Tại sao chứ? Sao lại cúi đầu để nghiệt ngã lên ngôi, trong khi chính mình phải trở nên hiên ngang mới đúng?
“Nếu người ta lúc nào cũng tử tế và vâng lời những kẻ độc ác bất công, thì chỉ tổ làm cho kẻ ác tha hồ được thể, chúng sẽ chẳng bao giờ e dè gì cả, và như vậy thì bao giờ mà chúng tay đổi được; trái lại, chúng sẽ ngày càng trở nên quá quắt.”
“Khi nào bị đánh đòn một cách vô lý, ta cần phải chống cự lại, thật táo bạo vào. Tôi cam đoan phải làm như thế, chống cự mạnh đến mức làm cho kẻ đánh đập chúng ta phải kệch hẳn.”
“Tôi phải kháng cự lại những kẻ phạt tôi một cách bất công. Điều đó cũng tự nhiên như tôi yêu một người nào tỏ ra yêu mến tôi, và phải chịu trừng phạt khi tôi thấy là đáng phạt.”
Vì đâu mà Jane lại có thể thốt ra những lý lẽ như vậy? Phải chăng là do đã bị chà đạp quá nhiều và dìm sâu xuống tận cùng sự khổ, cô ấy mới phải tự mình đứng dậy để tìm một lối thoát cho chính mình, và chống cự lại những kẻ đã luôn đay nghiến cô? Tức nước thì vỡ bờ. Cũng giống như câu chuyện của bao kẻ khốn cùng khác, khi không còn sự lựa chọn nào cho cuộc đời đau khổ của mình, họ đành chọn mạnh mẽ!
Jane mạnh mẽ để vượt qua sóng gió, nhưng sự mạnh mẽ đó không hề biến Jane trở thành một con người vô cảm và lạnh lùng. Jane vẫn là Jane, với trái tim nồng ấm yêu thương, biết cảm thông và chia sẻ, biết thấu hiểu và quên hết hận thù.
Giống như Jane từng nghĩ rằng mình sẽ căm ghét và thù hằn bà Reed đến cuối cuộc đời – sau những điều tồi tệ bà từng làm với mình, thế nhưng, khi gặp lại bà sau nhiều năm xa cách, Jane đã chẳng còn hận thù gì thêm nữa. Jane hiểu rằng quá khứ đã mãi mãi nằm lại ở phía sau, và hiện tại, những ân oán này đã không còn ý nghĩa gì hết. Jane bỗng muốn gọi bà Reed bằng tiếng gọi thân thương, “Mợ!”, để rồi sau đó, hận thù sẽ nhường chỗ cho yêu thương.
“Mợ Reed thân mến, mợ đừng nghĩ đến những chuyện cũ ấy làm gì nữa, xin mợ hãy quên đi…”
“Mợ ơi, giá mợ có thể quên những điều đó đi, và nhìn cháu với một lòng khoan dung thương mến…”
“Hồi còn bé, nhiều lần cháu rất muốn được yêu quý mợ nếu mợ cho phép. Và bây giờ cháu hết sức mong mỏi được làm lành với mợ, mợ ơi, mợ hôn cháu đi.”
Với Jane, yêu thương là một điều thiêng liêng mà cô đã dành cả tuổi trẻ của mình để tìm kiếm. Vậy nên, khi có được những yêu thương ấy từ người đàn ông mà cô có tình cảm, cô luôn biết ơn và trân trọng. Tuy vậy, Jane không bao giờ cho phép bản thân mình sở hữu thứ yêu thương “dễ dãi” và “tầm thường”, nếu hạnh phúc mà cô có được là điều không xứng đáng. Cô nào chấp nhận mình trở thành một người phụ nữ “rẻ tiền” khi kết hôn cùng một người đã có vợ, cùng làm chuyện bất hợp pháp và khinh thường đạo lí như vậy.
“Tôi càng cô độc, càng không bè bạn, càng không nơi nương tựa, thì tôi lại càng tự trọng.”
“Luật pháp và những nguyên tắc đạo đức đâu phải đặt ra cho lúc bình thường không có sự cám dỗ, mà là cho những lúc như thế này, khi thể xác và linh hồn nổi lên chống lại sự khe khắt của chúng. Chúng khe khắt, chúng sẽ không bị vi phạm. Nhưng vì thuận tiện cho mình mà tôi phá bỏ chúng thì chẳng hóa chúng không có giá trị gì ư?”
Thật xót xa ngay phút giây trong lễ đường, Jane đã phơi phới niềm tin về một hạnh phúc căng tràn trong lồng ngực, để rồi bỗng chốc, sự thật ập đến tai, hạnh phúc vỡ tan tành như bọt sóng giữa đại dương… Chính khoảnh khắc Jane Eyre quyết định rời đi khỏi căn biệt thự Thornfield sau khi biết người mình yêu thương đã có vợ, cũng là khi độc giả tìm thấy được hình ảnh của một con người can đảm, dũng cảm, và độc lập – dẫu đằng sau đó là những giọt nước mắt ê chề và đau khổ tận tâm can. Nhưng vì đã dũng cảm yêu thương, thì khi yêu thương không còn ý nghĩa nữa, chúng ta phải dũng cảm để từ bỏ mà thôi…
“Trên đời chưa ai có thể mong ước được yêu như tôi đã được yêu, và tôi tuyệt đối phụng thờ con người đã yêu tôi như vậy, ấy thế mà tôi phải từ bỏ tình yêu với thần tượng đó. Bổn phận khốc liệt của tôi nằm gọn trọng một chữ buồn rầu: Đi!”
“Vĩnh biệt”, đó là tiếng kêu của trái tim tôi lúc tôi rời ông. Sự tuyệt vọng nói: “Đời đời vĩnh biệt.”
Nhưng sẽ chẳng có đau khổ nào là mãi mãi, khi mà sau tất cả, cuối cùng thì hạnh phúc cũng đã đến bên Jane. Đó không phải là một điều may mắn. Đó là điều tất nhiên – phần thưởng dành cho những ai biết cố gắng, biết nỗ lực và vươn lên số phận. Biết sống không hoang phí – dẫu cuộc đời đầy rẫy nỗi trầm luân. Rồi khi giọt nắng đậu bên thềm, khi cơn bão qua đi và trời xanh trở lại, cũng là lúc hạnh phúc chạm đến. Sẽ có ai đó ở cạnh bên và lắng nghe những câu chuyện của Jane, sẽ lau khô giọt nước mắt đã bao lần cô từng khóc, sẽ an ủi và yêu thương cô. Sẽ đền đáp cho cô sau năm tháng khổ cực. Cuối cùng, và nhất định, hạnh phúc đã ghé qua!
Jane Eyre chính là tấm gương phản phất hình ảnh của một cô gái bé nhỏ với một nghị lực sống phi thường giữa muôn vàn trắc trở của cuộc đời. Dẫu bị xã hội đương thời ruồng rẫy hay ghét bỏ, thế nào, Jane vẫn kiên cường và bất khuất như một ngọn cỏ dại hiên ngang trước bão. Đọc Jane Eyre để tìm thấy những phẩm chất cao cả của một con người, để tự soi lại bản thân mình trong suốt hành trình sống, và để thấy, xen lẫn những chất liệu thi ca lãng mạn hay khắc tạc hiện thực khắc nghiệt, thì tình yêu vẫn đẹp biết bao: tình yêu nhân loại, và tình yêu giữa người với người…
Thật khó để có thể kể hết những điều thật sự có ý nghĩa với tôi trong cuốn sách này, bởi qua từng giai đoạn, từng chi tiết khác nhau, thì tôi lại cảm nhận được những giá trị riêng biệt cho riêng mình. Tôi học được từ Jane một ý chí mạnh mẽ vô cùng. Đã có lúc tôi nghĩ, nếu tôi là Jane, liệu rằng tôi có thể mạnh mẽ được như cô ấy, liệu rằng tôi có dám đương đầu vươn lên giông bão, liệu rằng tôi có vượt qua được cám dỗ để theo đuổi một niềm hạnh phúc thật sự của riêng mình. Tôi không biết tôi sẽ thế nào. Nhưng tôi biết, thứ tôi đang suy nghĩ là gì…
“Bạn đọc thân mến, cầu cho bạn đừng bao giờ cảm nghĩ như tôi lúc ấy! Cầu cho mắt bạn đừng bao giờ phải nhỏ những giọt lệ nóng hổi, tràn trề, xé ruột xé gan như tôi. Cầu cho bạn đừng bao giờ phải cầu xin Chúa một cách tuyệt vọng và đay khổ như tôi đã cầu xin trong giờ phút ấy, Cầu cho bạn đừng bao giờ lo sợ như tôi, phải trở thành nguồn đau khổ cho người mà mình yêu với tất cả tâm hồn.”
Jane Eyre!
Hết.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Người ở VN hay dịch là cơ đốc giáo. Tôi 0 thích kiểu gọi này, ý muốn nói Công Giáo.
trinhythu
Jane Eyre: Bàn tay che dông bão
Jane Eyre – Charlotte Brontë, Trịnh Y Thư dịch,
Nhã Nam xuất bản 2016
*
Nhân loại ngày nay thừa hưởng không ít những tác phẩm văn học thường được gọi là kinh điển. Chúng là những công trình trước tác của nhiều thiên tài thuộc nhiều dân tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá trị nghệ thuật lẫn nhân sinh. Dù trải qua nhiều thử thách và những biến đổi ý thức hệ, lịch sử, chính trị, xã hội, chúng vẫn không hề có dấu hiệu chìm vào quên lãng. Nếu cần chúng ta có thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như Don Quixote của văn hào Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến tranh và hoà bình của văn hào Nga Lev Tolstoy, hay cuốn Những người khốn khổ của văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng là gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả chúng ta, không riêng một ai, và đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của mọi sắc dân trên thế giới.
Trong số những kiệt tác ấy, có cuốn Jane Eyre của Charlotte Brontë. Khi mới ra mắt công chúng khoảng giữa thế kỉ XIX nó đã gây trận cuồng phong trên văn đàn dù tác giả là người phụ nữ không danh tiếng, không địa vị, không tiền bạc, thậm chí phải dùng bút danh đàn ông để tránh thiên kiến không mấy tốt đẹp của các nhà phê bình và người đời lúc đó. Từ đó cho đến tận ngày nay cuốn sách vẫn chiếm chỗ đứng cao quý trên kệ sách của người yêu thích văn chương, được đưa vào giáo trình các trường trung đại học, và đặc biệt được dựng thành phim, kịch – thậm chí nhạc kịch Broadway – không biết bao nhiêu lần mặc dù người ta thuộc nhẵn tình tiết cốt truyện. Điểm sau cùng này quả là sự kiện kì thú hiếm thấy ở các tác phẩm kinh điển khác, chứng tỏ cốt truyện có sức thu hút lạ lùng, được công chúng khắp nơi trên thế giới yêu thích đến độ say mê. (Phim Jane Eyre đầu tiên xuất hiện năm 1943 do hai tài tử Hollywood lừng lẫy thuở đó là Joan Fontaine và Orson Welles thủ diễn vai chính; phim gần đây nhất trình chiếu năm 2011 do đạo diễn Cary Fukunaga thực hiện. Giữa hai thời điểm đó, chí ít có hàng chục bộ phim khác kể cả phim tập làm cho màn ảnh nhỏ; theo tôi thì bộ phim tập trình chiếu trên kênh truyền hình BBC năm 1983 do hai tài tử Zelah Clarke và Timothy Dalton thủ diễn vai chính là đặc sắc và trung thực nhất với tác phẩm tiểu thuyết.)
Một cuốn sách có chỗ đứng trên tượng đài văn học kì vĩ suốt bấy nhiêu năm và được người đọc xưa cũng như nay mến mộ như thế, và nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Charlotte Brontë nhà xuất bản Nhã Nam (Hà Nội) vừa cho ấn hành một bản dịch Jane Eyre mới, thiết tưởng nên có đôi lời về tác phẩm.
Bối cảnh
Trong cuốn Căn phòng riêng, tiểu thuyết gia người Anh Virgina Woolf (1882-1941) trách Charlotte Brontë đã trút sự phẫn nộ của mình quá nhiều vào tác phẩm Jane Eyre. Trước đó thi sĩ kiêm nhà phê bình văn hoá Matthew Arnold (1821-1888) cũng gọi tác phẩm là đầy tính “nổi loạn và phẫn nộ.” Thế nhưng nếu căn cứ vào câu văn nổi tiếng nhất trong tác phẩm, ở chương cuối, “Thưa độc giả, tôi đã kết hôn với ông Rochester” thì chúng ta thấy đây là một tác phẩm tiểu thuyết “có hậu” và nó ám chỉ một hình thái kết cấu tiểu thuyết bảo thủ khá phổ cập trong thời kì văn học Victoria ở Anh quốc: Sau những chia lìa đau khổ, sau những trắc trở gian truân, nhân vật chính diện của tiểu thuyết bao giờ cũng được đền bù xứng đáng với hạnh phúc trọn đời. Sự thực là, từ hai xu hướng nhận định có vẻ trái ngược này, chúng ta có thể rút tỉa ra không ít những mâu thuẫn thú vị. Thật lạ lùng khi một tác phẩm được nhận định cùng lúc là “đề cao nữ quyền” và “chống nữ quyền”; cùng một cuốn sách, người bảo “cấp tiến” kẻ khác kêu “bảo thủ”, người khen “độc sáng” kẻ khác chê “phái sinh sao chép”, người gọi “lãng mạn” kẻ khác bảo “quá nghiêm khắc theo tinh thần Victoria.” Vân vân.
Tuy có khác nhau về nhận định, nhưng hầu hết đều đồng ý, Jane Eyre là một cuốn tiểu thuyết chứa đựng cảm xúc mãnh liệt, ngôn ngữ phong phú, tình tiết nhiều kịch tính được biểu hiện bằng một phong cách văn học mạnh mẽ, táo bạo. Ngay cả vào thời điểm cuốn sách ra mắt công chúng lần đầu năm 1847, giới phê bình và người đọc lúc đó đã sớm nhận thức đây là cuốn sách khác thường, một cuốn tiểu thuyết về phụ nữ của một nhà văn nữ được viết với tất cả phong cách khai phóng trong ngòi bút mà cho đến thời điểm đó chỉ thấy ở những tác giả phái nam. Tác giả đã can đảm vượt qua đường biên lễ giáo khắc nghiệt của xã hội Anh dưới triều đại nữ hoàng Victoria để trải bày tâm hồn và sự đam mê của người phụ nữ, chối bỏ vai trò phụ nữ tùy thuộc vào đàn ông, phê phán sự đạo đức giả của những kẻ mệnh danh đại diện tôn giáo, phê phán cả những tệ đoan của xã hội tư bản sau cuộc cách mạng kĩ nghệ đưa nước Anh lên hàng cường quốc. Tất cả những điều này hình như vi phạm nặng nề nền nếp suy nghĩ của giới trí thức cũng như đại chúng đương thời khiến có không ít tiếng nói phản bác nổi lên gọi cuốn tiểu thuyết là mối “nguy hại cho nền lễ giáo đoan chính” hoặc những nguỵ luận tương tự nhằm bảo vệ mặt tiêu cực của cái thành trì status quo phong kiến, hủ lậu và khập khiễng từ muôn đời trước.
Virginia Woolf nói rất rõ trong tập tiểu luận Căn phòng riêng xuất bản năm 1929: Không có chỗ đứng cho người phụ nữ viết văn từ thế kỉ XIX về trước trong xã hội phương Tây. Không ai xem trọng thơ văn phái nữ. Đàn bà có chút thiên tư dùng ngòi bút diễn tả tâm tư mình, ngay tức khắc, sẽ bị dán lên người nhãn hiệu con mụ điên, thậm chí, con mụ phù thủy già nua xấu xí sống trong ngôi nhà ma quái nơi bìa rừng bị mọi người ghê tởm, lánh xa! Người đàn bà viết văn, làm thơ là người chịu đựng không những mọi bất công của xã hội tỏa chiết lên đầu lên cổ mà còn chẳng bao giờ có đời sống gia đình bình thường, “bởi lúc nào bà cũng phải sống trong tình trạng căng thẳng thần kinh và tiến thoái lưỡng nan, một tình trạng có thể dẫn đến cái chết”. Hậu quả khó tránh là bà sẽ chết tức tưởi và thân xác bà bị vùi chôn trong nấm mồ vô danh nào đó ngoài đồng nội. “Giả sử bà không chết, nhưng ngay cả thế những gì bà viết cũng sẽ bị bóp méo và biến dạng, kết quả của những trí tưởng tượng lệch lạc và bệnh hoạn.”
Thành kiến này ăn sâu trong nếp nghĩ của mọi người đến nỗi ba chị em nhà Brontë đã phải dùng bút danh đàn ông – Currer (Charlotte), Ellis (Emily) và Acton (Anne) Bell – khi xuất bản thơ văn của mình. Nhưng việc làm bất đắc dĩ này lại trở nên hào hứng và thú vị khi công luận và báo chí bàn tán xôn xao về bút danh của ba chị em. Sự tiết lộ tính danh thật của ba người sau đó chỉ làm ồn lên câu hỏi: Làm thế nào ba người phụ nữ bình thường sinh trưởng trong một gia đình mục sư nền nếp tại vùng đồi núi hẻo lánh xa xôi (Yorkshire) lại có thể viết được những tác phẩm với cảm xúc dữ dội, tàn bạo đến vậy? Cuốn Agnes Grey của Anne và cuốn Wuthering Heights (Đồi gió hú) của Emily được nhà Thomas Cautley Newby xuất bản trước cuốn Jane Eyre vài tháng. Đừng quên Emily và Anne cũng là hai tác giả gây tiếng vang không nhỏ với tác phẩm của mình. Sự hiếu kì của đại chúng cộng thêm sự thổi phồng của các kí giả thích loan tin giật gân đã khiến chẳng những ba chị em mà cả gia đình Brontë trở nên huyền thoại.
Tài hoa mệnh bạc
Người cha trong gia đình là mục sư Patrick Brontë (nguyên thủy là Brunty). Ông mở mắt chào đời tại Ireland trong một gia đình nông dân nghèo khổ và có lẽ không ai trong nhà được ăn học ngoại trừ cậu trai Patrick thông minh. Năm 16 tuổi Patrick đã là thầy giáo và sau đó được nhận vào Cambridge học để trở thành mục sư, một thành tựu không tầm thường cho một người Ireland nghèo. Năm 1812 ông kết hôn với cô Maria Branwell, một thiếu nữ sùng đạo và đến năm 1820 hai người có cả thảy sáu mặt con: Maria, Elizabeth, Charlotte, Patrick Branwell, Emily và Anne. Khi cô gái út Anne chưa tròn hai tuổi, Maria Branwell Brontë bị ung thư và qua đời sau một thời gian dài đau đớn trên giường bệnh. Dì Elizabeth Branwell của sáu đứa bé dọn vào ở hẳn với gia đình để chăm sóc các cháu còn thơ dại, ngay sau đó bốn cô con gái lớn được gửi vào trường nội trú Cowan Bridge. Trường học này, do mục sư William Carus-Wilson quản nhiệm, là một cơ quan giáo dục thành lập để dạy dỗ con gái các mục sư nghèo. Carus-Wilson chính là nhân vật Brocklehurst trong Jane Eyre, và trường Cowan Bridge chính là Lowood, nơi Jane theo học sau khi giã từ dinh Gateshead. Như Lowood được miêu tả trong truyện, Cowan Bridge là một ngôi trường với những kỉ luật khắc khe đến độ phi lí, cuộc sống thiếu thốn mọi bề, và các em nữ sinh bị gò ép trong một nền giáo dục giáo điều cứng nhắc. Mục sư Carus-Wilson tin tưởng một cách mù quáng là để cứu rỗi linh hồn, các em nữ sinh phải được uốn nắn theo tinh thần tôn giáo và luân lí triệt để. Kết quả, lưới hái tử thần càn quét trường học, hai cô gái lớn Maria và Elizabeth được cho về nhà khi bệnh lao phổi đã chuyển sang giai đoạn nguy kịch; hai cô chết ở nhà. (Thời ấy bệnh lao phổi tương tự như ung thư phổi thời nay, kẻ mắc bệnh ít ai thoát khỏi cái chết.) Charlotte và Emily thoát chết nhờ kịp thời về nhà, nhưng cái chết của hai người chị đã gây mối thương cảm đau xót sâu xa trong lòng Charlotte, nhất là chỉ một thời gian ngắn sau cái tang của mẹ. Charlotte hay nói về người chị cả Maria như một cô gái tư chất hơn người, thông minh xuất chúng, một thần đồng ở cái tuổi mười một non nớt. (Theo bà nhà văn Elizabeth Gaskell, người viết tiểu sử Charlotte Brontë sau này, thì Maria chính là nhân vật Helen Burns trong Jane Eyre.)
Kế tiếp là thời kì độc đáo đến lạ lùng trong cuộc sống của chị em nhà Brontë. Bốn đứa trẻ – không hơn không kém, bởi ngay cả Charlotte, người chị lớn nhất lúc này, cũng mới chỉ là cô bé gái lên mười – tự học ở nhà, hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài, và bởi không biết làm gì để chơi đùa tiêu khiển hằng ngày, bọn trẻ quay ra làm văn thơ! Bốn cô cậu hợp tác viết kịch, truyện dã sử, thơ và tự đóng bìa những cuốn sách be bé xinh xinh cất giữ trong nhà. Đây cũng là thời kì Charlotte tìm đọc những tác phẩm kinh điển của văn học Anh: William Shakespeare, John Bunyan, John Milton, Sir Walter Scott, thi ca của các thi sĩ Lãng mạn thế kỉ XIX, và dĩ nhiên Kinh Thánh. Trong Jane Eyre, chúng ta bắt gặp rất nhiều trích dẫn từ các danh phẩm của các danh hào kể trên bên cạnh các văn thi sĩ khác; và đặc biệt Kinh Thánh luôn luôn là nguồn trích dẫn phong phú, gần như mỗi chương sách đều có.
Thế giới thần tiên của bốn cô cậu trẻ chẳng bao lâu chấm dứt bởi vì cuộc sống tương lai đòi hỏi phải có giáo dục và bằng cấp. Năm 1831, ở tuổi mười lăm, Charlotte được gửi vào học tại trường Roe Head. Tại đây do mặc cảm thiếu nhan sắc và quê mùa Charlotte cảm thấy không thoải mái. Tuy vậy sau bốn năm học hành, từ năm 1835 đến năm 1838, Charlotte trở thành giáo viên dạy học trong trường, và từ 1839 đến 1841 trở thành nữ gia sư trong các gia đình quyền quý. (Rất giống tình cảnh của Jane tại Lowood và Thornfield; khi viết về quãng đời này của Jane, có lẽ Charlotte đã thuật lại những chi tiết thật đời mình). Trong xã hội nước Anh đầu thế kỉ XIX, một phụ nữ xuất thân từ gia cảnh nghèo khó như Charlotte chỉ có thể đạt đến mức độ như thế trong phạm vi nghề nghiệp. Thêm nữa, Charlotte đã khổ sở không ít vì thiên kiến xã hội không mấy thuận lợi và tốt đẹp về phụ nữ làm văn thơ, cuộc sống cực nhọc không có thời gian viết cũng khiến bà chán nản cùng cực. Người ta tìm thấy những dòng chữ như sau trong nhật kí của Charlotte:
“Tất cả những ngày tháng này tôi ở trong tâm trạng nửa khổ sở nửa mê hoảng, khổ sở vì chẳng bao giờ tôi có thể làm xong việc gì mà không bị quấy rầy, gián đoạn; và mê hoảng vì hoả ngục hiện lên như một thực tại rực sáng trong trí não tôi.”
Điều gì đã khiến một thiếu nữ hai mươi tuổi bảo là mình như thất lạc trong “miền đất tư tưởng thánh hóa chưa từng thấy bao giờ.” Phải chăng đấy là cảm xúc phẫn nộ, trí óc nổi loạn của con người trước nghịch cảnh, trước xã hội phi lí và bất công? Nên nhớ trong xã hội thời đó gia sư là cái nghề lương thấp, làm việc quần quật suốt ngày và bị bạc đãi như gia nhân. Cả ba chị em nhà Brontë đều thử qua nghề dạy học và chẳng ai thành công. Gia đình chỉ còn biết đặt hi vọng vào Branwell, người con trai duy nhất. Branwell học nghề vẽ chân dung nhưng không đi đến đâu, rồi lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề nghiệp khác mà vẫn đói kém. Cuối cùng cậu lâm vào con đường nghiện ngập rượu chè, thuốc phiện và chết trẻ trong ô nhục. Cái chết của người con trai là tấn thảm kịch cho gia đình vì ông mục sư kì vọng nhiều vào cậu. (Những bức phác họa chân dung Branwell vẽ bà chị và hai cô em gái nữ sĩ của mình chỉ thuộc hạng a-ma-tơ nhưng sau khi ba chị em nổi tiếng như cồn, chúng được in đi in lại trên sách vở viết về ba người, một điều an ủi cho cậu.) Cái chết của người em trai có nhiều điểm tương tự John Reed, người anh họ của Jane trong Jane Eyre. Thêm lần nữa cho thấy Charlotte đã đem bi kịch gia đình vào tác phẩm.
Charlotte tha thiết muốn theo đuổi nghề văn. Năm 1837 bà thu hết can đảm biên thư cho thi sĩ Robert Southey (1774-1843), kèm theo một số thơ mới sáng tác, xin thi sĩ “soi sáng” giùm con đường văn chương của mình.Thư hồi đáp của Southey là một “huyền thoại” được truyền tụng đến ngày nay:
“Văn chương không thể là công việc trong đời sống người phụ nữ, và không nên biến nó thành như thế. Người phụ nữ càng lo toan chu toàn những bổn phận chính đáng của mình càng bớt thời gian nhàn rỗi suy nghĩ chuyện thơ văn, cho dù chỉ để đạt đến một thành tựu nào đó và giải khuây. Vẫn chưa có ai kêu gọi cô chu toàn những bổn phận ấy, và khi tiếng gọi ấy cất lên cô sẽ bớt háo hức kiếm tìm danh vọng.”
Charlotte phúc đáp ông thi sĩ như sau:
“Tôi thú nhận vào buổi tối tôi có nghĩ ngợi này nọ, nhưng không bao giờ tôi gây phiền nhiễu cho ai với những điều mình suy nghĩ . . . Tôi luôn cố gắng chẳng những quan sát tường tận tất cả những bổn phận người phụ nữ phải chu toàn, mà còn dốc tâm trí mình vào những công việc đó. Không phải lúc nào tôi cũng thực hiện một cách đúng đắn, bởi đôi khi trong lúc dạy học hay may vá tôi ước ao được đọc sách và viết; nhưng tôi cố tự chối bỏ mình . . . Một lần nữa xin cho tôi cảm ơn ngài đã có lời khuyên chân thật. Tôi tin là tôi sẽ không bao giờ có tham vọng nhìn tên tuổi mình in trên mặt giấy; giả sử có lúc nào đó tham vọng ấy nổi lên thì tôi sẽ lấy ra đọc lại lá thư của ngài và kềm hãm nó lại.”
Qua lời lẽ trong thư phúc đáp của Charlotte, chúng ta không khó khăn nhìn ra sự cay đắng và phẫn nộ trước thành kiến khó gột rửa của người đời. Khi viết Jane Eyre, Charlotte đã không che giấu cảm xúc bức bối ấy của mình, bà khẳng định giá trị tính cách độc lập và vị trí người phụ nữ trong đời sống bên ngoài phạm vi gia đình. Cuốn sách nêu ra các luận điểm về vai trò phụ nữ trong xã hội mà mãi gần nửa thế kỉ sau mới bắt đầu được bàn tán sôi nổi để châm ngòi cho trào lưu “Nữ quyền” như chúng ta biết ngày nay. Về điểm này, Jane Eyre quả đã đi trước thời đại rất nhiều.
Tất cả nhờ lá thư của ngài thi sĩ Southey!
Năm 1842 Charlotte và Emily sang Brussels, thủ đô nước Bỉ, theo học tại Pensionnat Héger với hi vọng bổ túc kiến thức chuyên môn (như Pháp văn) để về quê nhà mở trường dạy học. Mặc dù việc mở trường sau khi về nước là một thất bại (không một học sinh nào ghi danh), thời gian lưu trú ở lục địa đã ảnh hưởng sâu sắc lên tâm hồn và trí lự hai chị em, nhất là Charlotte. Tại đây Charlotte yêu người thầy của mình, ông Constantin Héger, một người đã có vợ. Và phải chăng Charlotte đã dàn trải tâm sự đau đớn của mình qua mối tình của Jane với ông Rochester? Dầu sao chăng nữa, sau mấy năm học chị em trở về đoàn tụ cùng gia đình ở Haworth, và với trí lực sung mãn, tâm hồn sôi động, họ nhất quyết đi vào con đường làm văn.
Năm 1846, Charlotte khám phá ra những bài thơ của Emily giấu trong ngăn kéo. Ba chị em dùng bút danh nam Currer, Ellis và Acton Bell cùng xuất bản một tập thơ. Thoạt đầu Emily không chịu in thơ mình nhưng bị Charlotte thuyết phục mãi, cả quyết giá trị nghệ thuật những bài thơ, nên nhận lời tham gia. Tập thơ xuất bản, trước sau bán được vỏn vẹn hai cuốn, nhưng ba chị em không nản lòng. Mùa hè năm 1847, vẫn ẩn giấu dưới những bút danh xa lạ kia, Emily tung ra cuốn Wuthering Heights (Đồi gió hú); và Anne, cô em út trong nhà, không chịu kém thua chị mình với cuốn Agnes Grey (kể chuyện một cô giáo nghèo). Charlotte chậm chân hơn một chút, phải đợi đến mùa Giáng Sinh năm đó mới xuất bản Jane Eyre.
Jane Eyre, ấn bản lần thứ nhất ghi là: Tự truyện, biên tập bởi Currer Bell, 1847
Ba cuốn sách tuyệt hay ra mắt cách nhau vài tháng là một biến cố văn học hiếm có dù là ở thời đại nước Anh sản xuất ra lắm bậc vĩ nhân. Tuy vậy không người nào biết tác giả thật là ai, và ai nấy ngơ ngác nhìn nhau rồi xôn xao bàn tán. Người bảo tác giả không phải là đàn ông (rất đúng), người quả quyết ba “anh em” ấy thật ra chỉ là một người (sai bét). Ba chị em giấu kín tung tích mình đến nỗi ngay cả người thân trong nhà và bạn bè xung quanh cũng không hay biết. Cho đến khi có kẻ tung tin đồn rằng tác giả Jane Eyre là nữ gia sư trong gia đình văn hào William Makepeace Thackeray (1811-1864) thì sự việc mới bắt đầu được soi sáng. Thackeray là một tiểu thuyết gia lừng lẫy thuở đó, ông nổi tiếng với nghệ thuật châm biếm, viết cuốn Vanity Fair (Hội chợ phù hoa), cũng thuộc loại kinh điển, nói lên cái phù phiếm, ruỗng nát cùng thói đạo đức giả của giới quý tộc thượng lưu nước Anh lúc đó. Charlotte mến mộ văn chương ông nhà văn này lắm, và mặc dù không quen biết, với ấn bản thứ hai của Jane Eyre, bà đã đề tặng cuốn sách cho ông với lời lẽ hết sức trân trọng. Trước đó, ông nhà văn cũng có lời lẽ tán dương cuốn sách, trong đó có đoạn nói ông đã chảy nước mắt khi đọc những đoạn viết về tình yêu. Vợ ông nhà văn mắc bệnh tâm thần. (Sao giống Bertha, vợ ông Rochester trong truyện đến thế? Chắc hẳn có kẻ xấu mồm độc miệng đặt câu hỏi này.) Vì thế mới có những lời thêu dệt đồn đại vô cùng độc ác về gia thế và cuộc đời tác giả Jane Eyre. Bởi sống tách biệt với thế giới bên ngoài, những lời lẽ không mấy đẹp ấy mãi về sau mới lọt đến tai Charlotte và bắt buộc bà phải bạch hóa mọi chuyện để tránh tiếng xấu cho gia đình Thackery. (Thời đó, quần chúng mê đọc những “tin nóng” về đời tư văn nghệ sĩ như ngày nay chúng ta bỏ cả giờ mỗi ngày lên mạng đọc những chuyện “giật gân” hết sức tào lao và vô bổ của các ca sĩ nổi tiếng, siêu sao màn bạc, cầu thủ bóng đá, vân vân.)
Bên cạnh những điều phù phiếm ấy, chị em nhà Brontë nhận được khá nhiều lời khen chê từ giới học giả và phê bình. Nói chung, ít ai quan tâm đến cuốn sách mỏng của cô út Anne, nhưng mọi người có vẻ gay gắt, thậm chí phẫn nộ, với cuốn Wuthering Heights của Emily, đa số lên án cuốn sách là vô luân. Riêng Charlotte thì may mắn hơn. Nhà phê bình uy tín nhất thời đó, ông George Henry Lewes, thấy Jane Eyre là một chuyện tình “lạ lùng” nhưng viết tiếp, “Đã lâu lắm rồi không có cuốn sách nào khiến mắt chúng ta được thỏa mãn như thế khi đọc.” Nhà văn Thackeray không tiếc lời ca ngợi, trong lá thư gửi cho nhà xuất bản ông bảo ông không buông cuốn sách xuống được. Nhưng người chê cũng lắm, điển hình là Lady Eastlake viết trên tờ Quarterly Review số tháng chạp năm 1848. Sự chê bai phần lớn dựa trên quan điểm luân lí khắc nghiệt vốn là nền tảng văn hóa dưới triều đại nữ hoàng Victoria, tính cách vô luân trong tác phẩm bị đem ra công kích dữ dội. Họ cũng chê nội dung câu chuyện thiếu sự nhất quán và tính thuyết phục. Và nhân vật phụ nữ chính diện thì quá “nổi loạn” đến nỗi không có đủ tiết hạnh cần thiết cho một “mẫu mực phụ nữ đoan chính trong xã hội.” Lady Eastlake cũng bảo đấy là một cuốn sách “thiếu nữ tính” và khẳng định tác giả nó phải là nam giới. Bà nói thêm nếu tác giả là nữ giới thì đấy là người đàn bà “hoàn toàn chối bỏ xã hội những người cùng giới tính với mình.”
Không rõ ba chị em phản ứng ra sao trước búa rìu dư luận, nhưng chắc chắn sự đau buồn vô tả đã đổ ập xuống mái nhà Haworth với cái chết của anh con trai Branwell và ngay sau đó Emily rồi Anne cũng lần lượt qua đời vì lao phổi. Cả nhà sáu người con chỉ còn mỗi Charlotte sống sót ở lại dương thế chăm sóc người cha già trong cô độc. Càng buồn Charlotte càng viết hăng. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản trong thời gian này, cuốn Shirley và cuốn Vilette đều đem lại nhiều thành công và tiếng vang tốt. Nhưng nỗi buồn vì mất mát thì không thể nào hàn gắn, chưa kể nỗi buồn có thể sẽ phải làm đàn bà “không chồng ở giá” suốt đời. Thư từ Charlotte viết trong giai đoạn này cho thấy nỗi đau đớn của một kiếp người phù du, mệnh bạc.
Tuy thế những năm tháng sau đó cuộc sống của Charlotte có phần tươi vui hơn vì càng ngày bà càng được đánh giá như một tiểu thuyết gia có chân tài. Bà cũng hay thăm viếng London, tại đây bà gặp gỡ những nhân vật sáng chói trong văn giới như nhà phê bình Lewes và chính Thackeray. Bà cũng gặp nữ sĩ Elizabeth Gaskell. Hai người trở nên bạn chí thiết, chính bà Gaskell là người viết tiểu sử Charlotte sau khi bà qua đời. Cuốn sách tiểu sử đó cũng là một danh phẩm giá trị.
Năm 1854, Charlotte đột ngột lập gia đình. Người bà lấy làm chồng là mục sư Arthur Bell Nicholls, trợ tế cho cha bà trong giáo xứ và là người quen biết lâu năm với gia đình. Thoạt đầu cha bà phản đối cuộc hôn nhân dữ lắm vì Arthur chẳng những nghèo kiết xác mà còn xấu trai, kém thông thái, lại chẳng có tài năng gì về nghệ thuật. Charlotte cũng chẳng yêu anh chàng mục sư cù lần ấy. Nhưng sự thật là Charlotte lúc nào cũng nghĩ mình không có nhan sắc, thậm chí không ai yêu nổi. Chính lòng chung thủy và sự kiên trì theo đuổi tình yêu trong nhiều năm của người đàn ông đã dần dà cảm hóa bà. Thế là ở tuổi ba mươi tám, Charlotte từ bỏ những giấc mơ lãng mạn để trở thành một người vợ bình thường và đôi khi bà ngạc nhiên thấy mình cũng có hạnh phúc.
Nhưng oái oăm thay, số kiếp oan nghiệt không cho hạnh phúc ở lâu dài với người đàn bà tài hoa mệnh bạc. Thuyết “Tài mệnh tương đố” không hẳn chỉ có bên trời Đông. Lấy chồng chỉ được vài tháng Charlotte ngã bệnh nặng và nhắm mắt lìa đời vào tháng 3 năm 1855, lúc tuổi đời chưa quá bốn mươi. Có nhiều giả thuyết về cái chết của Charlotte, như bà chết vì hư thai, nhưng giả thuyết khả tín nhất vẫn là bệnh lao (như các chị em của bà) hay sốt thương hàn (vốn hoành hành vùng đất nhà bà suốt thế kỉ XIX). Không có bằng chứng nào cho thấy bà có thai lúc chết.
Cuộc cách mạng Nữ quyền
Lòng ngưỡng mộ của công chúng đối với hai tác phẩm tiểu thuyết Wuthering Heights của Emily và Jane Eyre của Charlotte càng lúc càng gia tăng sau cái chết của hai người. Từ cuối thế kỉ XIX trở đi, giá trị văn học của hai tác phẩm được giới nghiên cứu và phê bình đánh giá một cách nghiêm túc hơn. Thế nhưng cho đến đầu thế kỉ XX, đa phần những nhận định vẫn chỉ quanh quẩn ở chủ đề tâm lí học tổng quát, chẳng hạn như ý kiến của nhà phê bình Thomas Moser hay nhà viết tiểu sử Helene Moglen, cho rằng Jane Eyre là hệ quả tất yếu bộc phát do những “ẩn ức sinh lí” mà thủ phạm chính là nền luân lí Victoria bảo thủ. (Nghe tương tự quan điểm của giới trí thức Việt Nam ta hồi đầu thế kỉ XX đối với thơ Hồ Xuân Hương.) Về nội dung, công bằng mà nói, cuốn tiểu thuyết vướng phải một số nhược điểm tiêu cực như sau: thứ nhất, quá nhiều những biến cố tình cờ, không thật (đặc thù của văn chương Victoria); thứ hai, khuôn mẫu hình tượng anh hùng dựa trên tính cách của chủ nghĩa Byron (người anh hùng được lí tưởng hóa với những tính cách như: đa tài, nhiều đam mê, xem rẻ người đời, khinh khi các lề thói xã hội đương thời, sống phóng đãng, hay nổi loạn, có xu hướng tự huỷ, có thể chết vì tình yêu, vân vân); và thứ ba, các nhân vật bị chi phối ít nhiều bởi yếu tố tôn giáo hoặc giáo điều. Đứng từ góc nhìn tâm lí học cộng với tất cả những nhược điểm ấy đã không mở lối cho cuốn sách trở nên một tác phẩm kinh điển hàng đầu.
Mọi chuyện biến đổi mau chóng sau khi Nữ quyền luận trở nên phổ cập và được công nhận trong ngành phê bình văn học vào nửa sau thế kỉ XX.
Nữ quyền là một phong trào xã hội khởi đi từ cuối thế kỉ XIX ở hai quốc gia Anh, Mĩ với mục đích tranh đấu cho quyền lợi người phụ nữ. Sang thế kỉ XX nó biến thành cao trào có tầm ảnh hưởng to rộng phủ trùm lên nhiều địa hạt tư tưởng và lĩnh vực nhân văn khác nhau của đời sống nhân loại. Riêng bên lĩnh vực văn học, vào nửa sau của thế kỉ, Nữ quyền luận nghiễm nhiên trở nên một luận thuyết vững chắc, đề xuất bút pháp nữ (thuật ngữ Écriture féminine một hôm không biết từ đâu bỗng xuất hiện khiến mọi người ngỡ ngàng). Dưới luồng sáng của Nữ quyền luận, cách đọc tác phẩm văn học của các tác giả phái nữ, kể cả tác phẩm kinh điển, cũng được giới học giả và phê bình đánh giá lại. (Đáng ghi nhận trong những nỗ lực này là công trình bứt phá của Sandra Gilbert và Susan Gubar với cuốn The Madwoman in the Attic [Người đàn bà điên trên gác xép] xuất bản năm 1979.)
Nhờ thế, người ta đọc Brontë với con mắt mới mẻ hơn và có thể cảm thông trọn vẹn hơn về đường lối tác giả quyết liệt đặt lại vai trò người phụ nữ và cố tấy xóa những định kiến bất công và lỗi thời. Kết quả là sự thông hiểu có sắc thái hơn về bản chất những nghịch lí trong tác phẩm, vốn là một tổng hợp gò ép khó hòa giải giữa sự nổi loạn của tâm hồn đối với xã hội và chủ nghĩa bảo thủ tôn giáo. Trước đó, các nhà nghiên cứu văn học chỉ chú ý đến nguồn đối lực giữa hai chủ thể trái nghịch trong tác phẩm mà họ đặt tên là: Sống theo tự nhiên – sống được giáo huấn; đời sống riêng tư hướng nội – đời sống cộng đồng hướng ngoại; cảm xúc đam mê – lí trí suy xét; lãng mạn chủ nghĩa – duy lí chủ nghĩa; vân vân. Nhà nghiên cứu Nữ quyền luận giờ đây có thể xem xét lại sự phân bố giản đơn và có tính công thức này để quy chiếu tầng ý nghĩa của tác phẩm lên một chiều kích mới mẻ, phức tạp hơn.
Một phương cách để thấu hiểu cấu trúc của Jane Eyre là nhìn nó dưới góc độ câu chuyện của một con người bình thường đi kiếm tìm hạnh phúc, và trong lúc kiếm tìm phải luôn luôn giữ thế cân bằng giữa hai lực đối kháng rất khó hòa giải là luân lí và bản năng. Jane là một cô gái bình thường, bất hạnh, lại không có nhan sắc. Điều này đi ngược lại quy luật bất thành văn của tiểu thuyết thời đó: người đàn bà chính diện phải đẹp, ngọt ngào, hiền dịu. Ở đây chúng ta thấy ngay dụng ý của tác giả. Jane chẳng những không đẹp (tư dung thường thường chẳng có gì đặc biệt, thân người bé loắt choắt) lại còn có tính hay châm biếm và nói thẳng, thế nhưng nhờ vào trí lự thông minh cộng thêm ý chí mạnh mẽ, Jane đã vượt qua bao nghịch cảnh để đạt đến hạnh phúc. Phải chăng đấy là cái tinh thần sống và muốn sống như con người, cái human spirit mà muôn đời được ca tụng? Sống như một con người nghĩa là sống như một cá nhân với tất cả giá trị và tình thương cá nhân đó xứng đáng thừa hưởng. Sự nổi loạn do lòng phẫn nộ của Jane năm lên mười chẳng qua chỉ là hình thức biểu hiện (bởi không biết làm sao khác hơn) của một đứa bé tha thiết muốn sống như thế. Kì thực, trong suốt cuốn tiểu thuyết, niềm xác tín của Jane là: không nên xác định giá trị con người dựa trên sự cao thấp khác biệt của nấc thang xã hội.
Ý thức Nữ quyền hiển lộ rõ hơn trong suy nghĩ của Jane khi nàng chuẩn bị cho con đường tương lai từ cô gái học trò thành nữ gia sư trong một gia đình giàu sang:
“Quả là vô ích khi bảo người ta nên hài lòng với một cuộc đời bình lặng. Con người phải luôn hành động, và nếu không tìm được sở trường để hành động thì họ phải tự tạo ra. Hàng triệu người còn phải chịu số phận buồn chán phẳng lặng hơn tôi, và hàng triệu kẻ âm thầm nổi loạn chống lại số phận. Không ai biết ngoài những cuộc nổi loạn vì lý do chính trị còn có bao nhiêu cuộc nổi loạn nữa đang được ủ men trong những khối sự sống này. Nói chung, phụ nữ thường được xem là điềm tĩnh, nhưng cảm xúc của họ có khác gì đàn ông đâu. Họ cần rèn luyện những năng lực của bản thân và họ cần môi trường để thực hiện hoài bão y như các đấng mày râu. Họ khốn khổ vì sự kiểm soát quá đỗi cứng nhắc, sự giam hãm quá độc đoán. Đàn ông mà rơi vào hoàn cảnh của họ thì cũng khốn khổ như thế mà thôi. Và nếu những đồng loại được ưu đãi hơn ấy bảo họ nên tự giới hạn mình trong những công việc bếp núc, may vá, chơi đàn hoặc thêu thùa thì quả là hẹp hòi. Còn những kẻ chỉ trích hoặc chê cười họ khi họ tìm cách học hỏi hoặc làm nhiều điều hơn những gì mà tập quán xưa nay vẫn bảo là cần thiết với giới tính của họ thì quả là ích kỷ.” (Chương XII)
Từ đấy chúng ta có thể suy nghiệm thêm là ý niệm Nữ quyền bàng bạc trong tác phẩm. Ngoài những câu văn trực tiếp đề cập đến vấn đề Nữ quyền trích dẫn bên trên, nó còn được biểu hiện qua hành vi cô bé Jane lên mười đánh trả lại thằng bé John Reed hung tợn, nó là thái độ ung dung tự tại của Jane trước thái độ hống hách chứng tỏ quyền uy chủ nhân của ông Rochester, và Jane chỉ chịu lấy ông Rochester sau khi nàng trở nên độc lập, không tùy thuộc vào ai, kể cả người chồng. Có thể dưới mắt chúng ta ngày nay những sự kiện này giản đơn một cách buồn cười, nhưng đừng quên suốt thời trung đại và cận đại ở phương Tây nó là vấn đề cực kì nhức nhối cho phụ nữ, chúng ta không nên xem thường nó, vì nó mà có không ít phụ nữ can đảm chết oan khuất trên dàn hỏa thiêu, chết theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Một chuyện tình Lãng mạn vượt thời gian
Một chuyện tình vượt thời gian! Nghe sáo quá, phải không? Nhưng thú thật tôi không biết phải gọi chuyện tình giữa Jane và ông Rochester bằng ngôn từ gì cho đúng. Oan trái? Oan khiên? Lạ lùng? Tội lỗi? Đen tối? Vô luân? Thánh thiện? Thánh hoá? Đẹp? Kinh khủng? Khiếp đảm? Ghê rợn? Hay tất cả những tính từ trên chí ít đều đúng nếu nhìn từ một góc độ nào đó? Chỉ biết một điều là cho đến ngày nay người ta vẫn bị nó mê hoặc. Có cái gì kì bí, vượt lên trên mọi lí giải thông thường ẩn nấp bên dưới cốt truyện và cá tính các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết khiến sức lôi cuốn của nó vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ hay văn hóa nhân loại.
Chuyện tình giữa Jane Eyre và ông Rochester bắt đầu từ chương XI, lúc Jane vào làm nữ gia sư trong gia đình Rochester ở dinh Thornfield và chẳng bao lâu nàng đem lòng yêu người đàn ông chủ ngôi nhà. Ông Rochester là một người đàn ông lập dị, thậm chí quái đản. Dưới mắt nhìn của nhà tâm lí học thì đấy là khuôn mẫu hình tượng anh hùng dựa trên tính cách của chủ nghĩa Byron. Ông có một quá khứ cực kì đen tối, và cũng như Jane, bị ném ra khỏi ngôi nhà tình yêu, gia đình. Mặt mày ông xấu xí, tính tình thô lỗ, ăn nói bộc trực, luôn luôn tỏ vẻ khinh khi những thói rởm đời của đám quý tộc trưởng giả mặc dù ông cũng xuất thân từ đó mà ra. Sau khi cuộc hôn nhân thứ nhất đổ vỡ, ông tự chọn một cuộc sống phóng đãng chạy theo các thú vui nhục dục, dùng đồng tiền mua chuộc tình yêu hay đúng hơn thân xác đàn bà.
Điều bất ngờ là, với một tính cách khác thường như thế, Jane lại thấy “gần gũi” ông hơn. Jane hiển nhiên không phải là nhân vật tiểu thuyết điển hình tràn ngập thị trường chữ nghĩa thế kỉ XIX. Chẳng những sắc diện, nhân dáng nàng không có gì đặc biệt, nàng còn nhất quyết xem trọng giá trị của cảm xúc tự thân, vốn thường bị xem là không thích hợp với hạng phụ nữ thượng lưu cao quý. Jane nói với ông Rochester như sau khi nàng tin là sắp phải xa ông:
“Cơn xúc động mãnh liệt mà nỗi đau và tình yêu đã dấy lên trong tôi đòi lấn át tất cả và đấu tranh để được làm chủ hoàn toàn, rồi khẳng định quyền chiếm ưu thế, quyền được sống, quyền được nổi lên và cuối cùng là quyền thống trị: phải – và quyền được nói.” (Chương XXIII)
Qua câu nói, tác giả đã một lần nữa quả quyết xác nhận tính cách và cảm xúc (của người nữ) là những giá trị quan trọng, chúng nổi bật bên cạnh tính phù phiếm và rỗng tuếch của đám công nương, tiểu thư con nhà quyền quý, trưởng giả (như công nương Blanche, “tình địch” của Jane). Và khi ông Rochester cầu hôn Jane thì tình yêu Lãng mạn có vẻ như mưu toan lật đổ toàn bộ trật tự xã hội. (Xin hiểu từ “Lãng mạn” viết hoa ở đây không có ý nghĩa như chúng ta hiểu ngày nay mà nên hiểu nó, ở chừng mực nào đó, trong ngữ cảnh thi ca Lãng mạn của William Blake hay âm nhạc Lãng mạn của Ludwig van Beethoven.) Tình yêu Lãng mạn được định nghĩa là sự hài hòa trong tâm trí, là “thấu hiểu nhau một cách sâu sắc”, là vượt qua tất cả những định kiến của huyết thống, giai cấp và quyền lực như được miêu tả trong cuốn Lòng tự phụ và thành kiến của Jane Austen. Chấp nhận như thế, chúng ta sẽ không mấy khó khăn nhận ra Jane là một “người tình Lãng mạn” và những mộng ước Lãng mạn của nàng – sâu sắc, tự nhiên và ngay thẳng – luôn luôn tương phản với tính nông cạn và ích kỉ của các nhân vật nữ khác như công nương Blanche, vũ nữ Céline, thậm chí cả cô bé Adèle. Họ là những người đàn bà dùng sắc đẹp và lời ngon tiếng ngọt tự dâng hiến mình cho đàn ông để được người đàn ông đoái hoài, yêu thương.
Jane tuyên bố như sau về tình yêu với ông Rochester:
“Ông nghĩ tôi là cái máy ư? Một chiếc máy không cảm xúc có thể chịu đựng để miếng bánh bị giật khỏi miệng và ngụm nước sinh mệnh bị hắt đi sao? Ông nghĩ chỉ vì tôi nghèo khó, vô danh tiểu tốt, nhan sắc tầm thường và thân hình thấp bé thì không có tâm hồn và trái tim ư? Thế thì ông nhầm rồi! Tâm hồn tôi, trái tim tôi cũng phong phú không kém gì ông! Và nếu Chúa ban cho tôi chút nhan sắc và của cải thì lúc đó tôi sẽ khiến ông khó lòng mà rời bỏ tôi được, giống như tôi bây giờ. Tôi không nghĩ lúc này tôi đang nói chuyện với ông theo phong tục hay quy ước xã hội, thậm chí cũng không phải bằng cái xác tục, mà là linh hồn tôi đang nói chuyện với linh hồn ông, như thể hai ta vừa sang thế giới bên kia và đang đứng dưới chân Chúa, bình đẳng với nhau, như lúc này đây!” (Chương XXIII)
Đấy là lúc ông Rochester ve vãn, tỏ tình và cầu hôn Jane trong lúc hai người ngồi trong khu vườn rậm rạp cây lá đầy tình tứ thơ mộng đằng sau dinh Thornfield vào một đêm hè tĩnh lặng chan hòa ánh trăng. Câu nói của Jane là một ngoại lệ. Một người đàn bà khác, giữa khung cảnh không gian lãng mạn như thế, chỉ biết ngả đầu vào ngực người đàn ông thôi.
Sự thật là, ngay sau khi tỏ tình và được Jane ưng chịu kết hôn, ông Rochester đã dùng đủ mọi mánh khóe và quyền uy để tìm cách khuất phục Jane, bắt Jane thần phục mình, nằm dưới tay mình như ông từng làm với những người đàn bà khác. Thậm chí ông còn đem vàng bạc lụa là ra quyến dụ Jane. Nhưng ông thất bại vì trước sau như một Jane không hề bị những thứ ấy mua chuộc và nàng còn bướng bỉnh chống lại mọi hành vi chứng tỏ uy quyền của ông đến nỗi ông phát cáu. Bằng thái độ không khoan nhượng nhưng vẫn khéo léo ôn nhu, con người độc lập của Jane chiến thắng mọi mưu toan thống trị của người đàn ông, một điều chưa từng thấy xảy ra trong tiểu thuyết trước đó.
Đây cũng là lúc Jane mơ những giấc mơ quái dị dự báo những điều chẳng lành sau đó. Và chuyện kinh khiếp Jane khám phá (đúng hơn bị phanh phui) ngay ngày cưới của mình, đó là ông Rochester trong nhiều năm nhốt bà vợ điên trong một căn phòng bí mật trên lầu ba của dinh Thornfield. Dựng nên tình tiết độc đáo này, Charlotte Brontë đã giải quyết được vấn nạn tìm lối thoát cho tình cảm lãng mạn của đam mê và hoan lạc mà có thể gọi là con đường đạo hạnh của luân lí và truyền thống Cơ đốc giáo.
Tình yêu Lãng mạn có một liên hệ khá mơ hồ với hệ thống đức tin Cơ đốc giáo khi giá trị nhân văn và cảm xúc cá nhân được đem ra đối nghiệm. Cho đến thời điểm này, tình yêu và đam mê chế ngự tâm tư Jane. Mặc dù linh cảm có cái gì không ổn đằng sau tình yêu của mình, nàng vẫn bám víu lấy hi vọng con đường tìm kiếm hạnh phúc của mình sắp đến đoạn cuối. Nhưng sự xuất hiện của Bertha điên loạn, bò dưới đất như một con thú hoang hung tợn nhào đến cắn xé ông Rochester lúc ông bảo mọi người có mặt xung quanh “Vợ tôi đấy!” trong nỗi chua chát và khổ đau cùng kiệt, đã làm sụp đổ mọi mộng ước Lãng mạn trong tâm hồn Jane. Mọi chuyện vỡ lở, bí mật bao nhiêu năm bị phanh phui, ông Rochester lại ngon ngọt dụ dỗ Jane dọn xuống miền Nam nước Pháp làm lại cuộc đời với ông. Nhưng đời nào Jane chịu nghe lời, một buổi sáng tinh sương nàng âm thầm bỏ dinh Thornfield đi về nơi vô định, chấp nhận mọi khổ ải, đớn đau xảy đến cho mình sau đó. Jane bỏ đi không phải do lòng phẫn nộ vì bị lừa phỉnh, nàng cũng không chút nghi ngờ tình yêu của ông Rochester, và nàng vẫn yêu ông tha thiết. Sở dĩ nàng bỏ đi là vì lòng tự trọng một phần và phần khác chính là luân lí và tôn giáo hiển thị dưới dạng thức vô thức tập thể từ ngàn xưa ăn sâu tâm hồn mà có lẽ chính nàng cũng không hay biết. Charlotte Brontë đã không cho cảm xúc vỡ tràn và bản năng dục vọng lấn át luân lí bởi làm thế là phá vỡ thành trì truyền thống và tạo nguy cơ đảo lộn sự hài hòa và trật tự của xã hội.
Ông Rochester là người sống theo chủ nghĩa Tự nhiên, ông không tuân theo mệnh lệnh của ai ngoài cảm xúc và bản năng dục vọng của chính mình. Ông gạ gẫm Jane về sống ngoại hôn với ông ở một nơi khác, tránh búa rìu dư luận. Ở thời đại chúng ta, điều này chẳng có gì đáng nói và hầu hết đều được xã hội chấp nhận dễ dàng. Nhưng cuốn tiểu thuyết làm chúng ta cảm phục đức tính mạnh mẽ của Jane khi nàng quyết chí gạt bỏ cảm xúc đam mê để quay về những nguyên tắc truyền thống mà nàng cho là phổ quát, bởi nếu không thì cuộc sống này chắc sẽ tan rã mất thôi.
Đối lực giữa cái “tự nhiên” và luân lí truyền thống tôn giáo đã làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của nhân loại – Tây cũng như Đông – nhất là trên bình diện văn học. Trong Jane Eyre, cái “tự nhiên” có vẻ như được đặt nặng hơn, được ưu ái hơn, ở mặt tâm lí học lẫn mĩ học, và đó là lí do tại sao cuốn tiểu thuyết bị các nhà đạo đức (giả) đương thời lên án. Cái “tự nhiên” liên minh với trí tưởng tượng, cảm xúc, xung lực nội tại, dục vọng, tính phản kháng, và cái tôi, tất cả nhất tề đứng lên chống lại cái duy lí. Cái “tự nhiên” dẫn đến Lãng mạn chủ nghĩa, đến “cái tôi” và “cảm xúc của tôi.” Về điểm này chúng ta không ngạc nhiên vì Jane Eyre xuất hiện gần như cùng thời với hội họa Eugène Delacroix và âm nhạc Frédéric Chopin, thời đại hoàng kim của Lãng mạn chủ nghĩa.
Cái “tự nhiên” đúng hay sai, cho đến ngày nay, vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Cuộc sống của Jane bước vào khúc quành mới khi nàng lưu lạc đến Marsh End. Tại đây, nàng ngẫu nhiên gặp những người thân trong dòng họ và ngẫu nhiên kế thừa một gia tài kếch sù do ông chú nàng ở nước ngoài qua đời để lại. (Ngẫu nhiên là một thuộc tính quen thuộc gần như cố hữu trong dòng văn chương Victoria.) Nhưng bên cạnh sự may mắn không ngờ đó, một lần nữa nàng lại phải đối đầu với cái đối lực bất khả hòa giải giữa tôn giáo và cảm xúc. Người anh họ của Jane, một mục sư trẻ tên St. John Rivers, cầu hôn nàng (thời đó xã hội Anh cho phép người trong họ lấy nhau), nhưng anh muốn lấy Jane làm vợ không phải do tình yêu mà chỉ vì muốn Jane trở thành người trợ tá đắc lực cho anh trong việc phụng sự truyền giáo. Con người anh tốt lành nhưng khô cứng, tình cảm che giấu, thậm chí khó thương. Anh và ông Rochester là hai thái cực, ông Rochester muốn tình yêu nhưng không có hôn nhân, ngược lại, St. John muốn hôn nhân nhưng không có tình yêu, và dĩ nhiên Jane khước từ cả hai. Cả hai đều phơi bày tham vọng người đàn ông muốn “làm chủ” cuộc đời người đàn bà, và sự phấn đấu của Jane trong gọng kìm hai người đàn ông đó là cuộc chiến đấu muôn đời giữa ý chí và tự ngã, ý chí của người nữ, tự ngã của người nam. Cuộc chiến đó kéo dài cho đến ngày nay, không hề ngưng, và có lẽ nó vẫn tiếp diễn cho đến khi loài người không còn hiện diện trên mặt đất này nữa.
Cuối cùng Jane quay về ông Rochester vì lúc đó nàng là người độc lập và ông Rochester “ngang hàng” với nàng. (Ông nay là người tàn phế, mắt mù, do trận hỏa tai gây nên bởi bà vợ điên một đêm nổi lửa đốt tòa lâu đài rồi nhảy từ sân thượng xuống nền đá chết nát thây.) Cuối cùng hạnh phúc đến với Jane. Charlotte Brontë đã cho một kết luận “có hậu” vào cuốn tiểu thuyết.
Jane Eyre, một ấn bản cuối thế kỉ XIX
Quy ước không là luân lí . . .
Jane không chịu trở thành tình nhân của ông Rochester bởi nàng tin tưởng nhiệt thành vào lòng tự trọng và giá trị luân lí. Nàng cũng không chấp nhận lời cầu hôn của St. John Rivers bởi nàng không thể kết hôn với người đàn ông không có tình yêu với nàng. Hai người đàn ông, hai thái cực, một bên phóng đãng, hung bạo, có tình yêu và một bên nghiêm túc, nệ giáo, không có tình yêu. Jane không tin theo ai, nàng chọn trung đạo và đề xuất một căn bản luân lí đạo đức biểu hiện bởi tam giác: tình yêu, tính cách độc lập và lòng tha thứ.
Trong suốt cuốn tiểu thuyết, Jane lúc nào cũng gắng sức duy trì sự quân bằng giữa bổn phận luân lí và hạnh phúc trần gian. Nàng ghê tởm tính cách đạo đức giả của mục sư Brocklehurst. Đối với St. John Rivers, tuy mến thương và cảm phục như một người anh cả nhưng nàng không hề thấy rung động trước tình cảm khô cứng của người mục sư trẻ tuổi và điển trai ấy. Chúng ta hiểu tại sao. St. John là môn đệ trung thành của thần học Calvin, và lòng xác tín của anh có những chỗ bất xứng, không phù hợp tâm hồn Jane, một tâm hồn luôn theo dõi nhịp đập của trái tim nhưng không bao giờ giẵm xuống bùn lầy của cảm xúc. Trong thời gian theo học ở Lowood, Jane thương mến người bạn gái tên Helen Burns, nàng cảm nhận được tâm hồn thánh thiện như thiên thần của Helen, nhưng tấm lòng độ lượng không bến bờ của Helen – tha thứ ngay cho kẻ trừng phạt và hành hạ mình một cách vô cùng tàn nhẫn và phi lí – chỉ khiến Jane bâng khuâng, ngờ vực. Hình như Jane không trung thành và tuân giữ những giáo điều Cơ đốc giáo một cách tuyệt đối và mù quáng. Đúng ra nàng tin tưởng vào giá trị luân lí truyền thống. Đó là lí do vì sao nàng bỏ dinh Thornfield ra đi trong nỗi đau đớn tột cùng sau khi biết ra sự thật ông Rochester bao nhiêu năm nhốt bà vợ mình trong căn phòng kín. Cũng bởi giá trị luân lí truyền thống này, Jane chỉ chịu lấy ông Rochester sau khi vợ ông chết.
Tôn giáo được dùng để hòa giảm suy nghĩ cùng hành vi của Jane trong những lúc tâm trí xung động, hay lâm vào cảnh huống khốn cùng, nhưng không bao giờ nàng đè nén hoặc chôn vùi bản ngã chân xác của mình. Đọc cuốn sách chúng ta thấy tác giả trích dẫn rất nhiều Thánh Thư, đa phần là Phúc Âm Chúa Jesus Christ, nhưng đừng vội kết luận bà là người nệ giáo. Ngược lại là đằng khác. Dù sinh trưởng trong một khí hậu thấm đẫm tinh thần Cơ đốc giáo, bà không mù quáng tin theo các tín điều bị các đầu óc lệnh lạc diễn giải một cách cứng nhắc, hẹp hòi. Trong lời tựa ấn bản thứ hai của Jane Eyre, Charlotte Brontë khẳng định “quy ước không phải là luân lí” và “sự nguỵ tín tự cho mình đúng không đồng nghĩa với tôn giáo.”
Quan điểm ấy của bà, chúng ta nên hiểu như thế nào?
Nó chỉ có thể là: Bất kì một học thuyết hoặc chủ thuyết hẹp hòi nào của con người, với hậu ý và thâm ý nâng cao hay đem lại phúc lợi cho một thiểu số ưu đãi, đều không thể thay thế đức tin thuần khiết vào sự cứu chuộc muôn loài của Đấng Christ. Bà kinh tởm tính đạo đức giả, bà khinh bỉ những kẻ nhân danh đức tin hoặc nguỵ tạo chân lí để củng cố địa vị và mưu đồ những việc ích lợi riêng tư. Nhân vật điển hình cho hạng người này trong Jane Eyre là mục sư Brocklehurst. Ông là giám đốc trường Lowood, nơi Jane theo học từ năm lên mười. Ông đem Phúc Âm ra nguỵ luận để răn đe và trừng phạt đám nữ sinh bé bỏng, yếu đuối, thường xuyên đói khát. Tính đạo đức giả của ông biến thành câu chuyện khôi hài hôm vào thăm trường thấy các nữ sinh tóc thắt bím, ông đã bắt các cô bé phải cắt cụt cái bím tóc ngay tại chỗ, vừa lúc bà vợ ông và hai cô tiểu thư bước vào đứng bên cạnh, tóc tai chải gỡ cầu kì, xiêm y lộng lẫy như hoàng hậu, công nương.
Có không ít những kẻ như ông Brocklehurst ngoài đời, bất kể thời gian không gian nào. Thực ra tác giả dựng nhân vật này dựa trên tính cách một nhân vật có thật. Đấy chính là mục sư William Carus Wilson, người sáng lập trường Clergy Daughters’ School ở Cowan Bridge, nơi chị em Brontë theo học thuở nhỏ.
Tương phản với Brocklehurst là cô nữ sinh Helen Burns mười bốn tuổi, người trở thành bạn chí thiết của Jane ngay từ những ngày đầu ở Lowood. Hiếm có người như Helen hiện hữu ngoài đời, một cô gái thông minh xuất chúng, đức độ, lòng vị tha không ai bằng. Chị tin vào tinh thần bác ái tuyệt đối, “bị tát má này đưa má khác” của Cơ đốc giáo bằng cách thương yêu kẻ làm mình khổ. Lòng tin chân thành của chị vào Thượng đế khiến chị bình thản đón nhận cái chết đến với chị. Charlotte vẽ nhân vật Helen quá lí tưởng. Jane thán phục đức tính nhẫn nại và chịu đựng của Helen, cả trí lự thông minh, nhưng cô bé Jane lên mười lúc đó là khá hoang mang, cô bé không rõ những gì Helen tin tưởng có phù hợp tâm hồn mình hay không. Jane hình như không theo đuổi một luận thuyết đặc trưng nào, nàng sùng kính Thượng đế và tin vào Đấng Toàn Năng nhưng giáo điều thì nhất quyết không có chỗ đứng trong tâm hồn nàng.
Dịch Jane Eyre
Khi được phát thanh viên Thanh Hà của đài RFI Tiếng Việt hỏi do cơ duyên nào khiến tôi dịch Jane Eyre thì tôi đã trả lời chị như sau: “Cũng như những người yêu sách vở khác, tôi mê Jane Eyre từ khi còn đi học, nhưng không bao giờ có ý định dịch sang tiếng Việt, cho đến khi nhà xuất bản Nhã Nam ở Hà Nội đề nghị cộng tác dịch tác phẩm bất hủ ấy. Tôi đồng ý ngay và kết quả là cuốn sách ra mắt độc giả vào tháng đầu tháng 9 năm 2016 này. Tôi nghĩ đấy là cơ duyên, và tôi có duyên với Jane Eyre.” Vâng, tôi nghĩ Jane Eyre đã tìm đến với tôi.
Đối với tôi, dịch Jane Eyre vừa dễ vừa khó. Dễ vì đây không phải là một tác phẩm tiểu thuyết đầy màu sắc triết học siêu hình khó đọc. Nhưng khó vì ngôn ngữ văn học của tác phẩm là loại Anh ngữ của dòng văn học Anh quốc thế kỉ XIX. Có những từ ngày nay không mấy ai sử dụng nữa, hoặc nếu còn thì lại hiểu theo một ý nghĩa khác. Điểm khó khăn khác cho người dịch cũng như người đọc là sự phong phú của chữ nghĩa, sự xa lạ của cảnh vật, sinh hoạt, tập quán đối với đa phần độc giả người Việt. Tác phẩm cũng trích dẫn nhiều từ Kinh Thánh và các tác phẩm văn học cổ điển mà nếu không rõ xuất xứ thì khó có thể lĩnh hội điều tác giả muốn biểu đạt.
Dịch Jane Eyre, tôi học được nhiều điều, sự phong phú của cấu trúc ngôn ngữ, sự đa tầng của ý nghĩa văn học và nhân sinh. (Nếu không thế tác phẩm đã không còn sức thu hút sau gần 2 thế kỉ.) Để kết luận tôi xin mượn câu nói của không ai khác hơn Virginia Woolf, một nhà văn nữ lừng lẫy khác của Anh quốc sinh sống sau Charlotte Brontë gần thế kỉ:
“Nhà văn đã cầm lấy tay chúng ta, dắt chúng ta đi theo con đường của bà, bắt chúng ta phải nhìn thấy những gì bà thấy, không bao giờ rời chúng ta nửa bước hay cho phép chúng ta quên mất sự hiện diện của bà. Cuối cùng, chúng ta càng lúc càng đắm chìm trong tài năng, sự mãnh liệt, sự phẫn nộ của Charlotte Brontë.”
trinhythu
Jane Eyre: Bàn tay che dông bão
Jane Eyre – Charlotte Brontë, Trịnh Y Thư dịch,
Nhã Nam xuất bản 2016
*
Nhân loại ngày nay thừa hưởng không ít những tác phẩm văn học thường được gọi là kinh điển. Chúng là những công trình trước tác của nhiều thiên tài thuộc nhiều dân tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá trị nghệ thuật lẫn nhân sinh. Dù trải qua nhiều thử thách và những biến đổi ý thức hệ, lịch sử, chính trị, xã hội, chúng vẫn không hề có dấu hiệu chìm vào quên lãng. Nếu cần chúng ta có thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như Don Quixote của văn hào Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến tranh và hoà bình của văn hào Nga Lev Tolstoy, hay cuốn Những người khốn khổ của văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng là gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả chúng ta, không riêng một ai, và đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của mọi sắc dân trên thế giới.
Trong số những kiệt tác ấy, có cuốn Jane Eyre của Charlotte Brontë. Khi mới ra mắt công chúng khoảng giữa thế kỉ XIX nó đã gây trận cuồng phong trên văn đàn dù tác giả là người phụ nữ không danh tiếng, không địa vị, không tiền bạc, thậm chí phải dùng bút danh đàn ông để tránh thiên kiến không mấy tốt đẹp của các nhà phê bình và người đời lúc đó. Từ đó cho đến tận ngày nay cuốn sách vẫn chiếm chỗ đứng cao quý trên kệ sách của người yêu thích văn chương, được đưa vào giáo trình các trường trung đại học, và đặc biệt được dựng thành phim, kịch – thậm chí nhạc kịch Broadway – không biết bao nhiêu lần mặc dù người ta thuộc nhẵn tình tiết cốt truyện. Điểm sau cùng này quả là sự kiện kì thú hiếm thấy ở các tác phẩm kinh điển khác, chứng tỏ cốt truyện có sức thu hút lạ lùng, được công chúng khắp nơi trên thế giới yêu thích đến độ say mê. (Phim Jane Eyre đầu tiên xuất hiện năm 1943 do hai tài tử Hollywood lừng lẫy thuở đó là Joan Fontaine và Orson Welles thủ diễn vai chính; phim gần đây nhất trình chiếu năm 2011 do đạo diễn Cary Fukunaga thực hiện. Giữa hai thời điểm đó, chí ít có hàng chục bộ phim khác kể cả phim tập làm cho màn ảnh nhỏ; theo tôi thì bộ phim tập trình chiếu trên kênh truyền hình BBC năm 1983 do hai tài tử Zelah Clarke và Timothy Dalton thủ diễn vai chính là đặc sắc và trung thực nhất với tác phẩm tiểu thuyết.)
Một cuốn sách có chỗ đứng trên tượng đài văn học kì vĩ suốt bấy nhiêu năm và được người đọc xưa cũng như nay mến mộ như thế, và nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Charlotte Brontë nhà xuất bản Nhã Nam (Hà Nội) vừa cho ấn hành một bản dịch Jane Eyre mới, thiết tưởng nên có đôi lời về tác phẩm.
Bối cảnh
Trong cuốn Căn phòng riêng, tiểu thuyết gia người Anh Virgina Woolf (1882-1941) trách Charlotte Brontë đã trút sự phẫn nộ của mình quá nhiều vào tác phẩm Jane Eyre. Trước đó thi sĩ kiêm nhà phê bình văn hoá Matthew Arnold (1821-1888) cũng gọi tác phẩm là đầy tính “nổi loạn và phẫn nộ.” Thế nhưng nếu căn cứ vào câu văn nổi tiếng nhất trong tác phẩm, ở chương cuối, “Thưa độc giả, tôi đã kết hôn với ông Rochester” thì chúng ta thấy đây là một tác phẩm tiểu thuyết “có hậu” và nó ám chỉ một hình thái kết cấu tiểu thuyết bảo thủ khá phổ cập trong thời kì văn học Victoria ở Anh quốc: Sau những chia lìa đau khổ, sau những trắc trở gian truân, nhân vật chính diện của tiểu thuyết bao giờ cũng được đền bù xứng đáng với hạnh phúc trọn đời. Sự thực là, từ hai xu hướng nhận định có vẻ trái ngược này, chúng ta có thể rút tỉa ra không ít những mâu thuẫn thú vị. Thật lạ lùng khi một tác phẩm được nhận định cùng lúc là “đề cao nữ quyền” và “chống nữ quyền”; cùng một cuốn sách, người bảo “cấp tiến” kẻ khác kêu “bảo thủ”, người khen “độc sáng” kẻ khác chê “phái sinh sao chép”, người gọi “lãng mạn” kẻ khác bảo “quá nghiêm khắc theo tinh thần Victoria.” Vân vân.
Tuy có khác nhau về nhận định, nhưng hầu hết đều đồng ý, Jane Eyre là một cuốn tiểu thuyết chứa đựng cảm xúc mãnh liệt, ngôn ngữ phong phú, tình tiết nhiều kịch tính được biểu hiện bằng một phong cách văn học mạnh mẽ, táo bạo. Ngay cả vào thời điểm cuốn sách ra mắt công chúng lần đầu năm 1847, giới phê bình và người đọc lúc đó đã sớm nhận thức đây là cuốn sách khác thường, một cuốn tiểu thuyết về phụ nữ của một nhà văn nữ được viết với tất cả phong cách khai phóng trong ngòi bút mà cho đến thời điểm đó chỉ thấy ở những tác giả phái nam. Tác giả đã can đảm vượt qua đường biên lễ giáo khắc nghiệt của xã hội Anh dưới triều đại nữ hoàng Victoria để trải bày tâm hồn và sự đam mê của người phụ nữ, chối bỏ vai trò phụ nữ tùy thuộc vào đàn ông, phê phán sự đạo đức giả của những kẻ mệnh danh đại diện tôn giáo, phê phán cả những tệ đoan của xã hội tư bản sau cuộc cách mạng kĩ nghệ đưa nước Anh lên hàng cường quốc. Tất cả những điều này hình như vi phạm nặng nề nền nếp suy nghĩ của giới trí thức cũng như đại chúng đương thời khiến có không ít tiếng nói phản bác nổi lên gọi cuốn tiểu thuyết là mối “nguy hại cho nền lễ giáo đoan chính” hoặc những nguỵ luận tương tự nhằm bảo vệ mặt tiêu cực của cái thành trì status quo phong kiến, hủ lậu và khập khiễng từ muôn đời trước.
Virginia Woolf nói rất rõ trong tập tiểu luận Căn phòng riêng xuất bản năm 1929: Không có chỗ đứng cho người phụ nữ viết văn từ thế kỉ XIX về trước trong xã hội phương Tây. Không ai xem trọng thơ văn phái nữ. Đàn bà có chút thiên tư dùng ngòi bút diễn tả tâm tư mình, ngay tức khắc, sẽ bị dán lên người nhãn hiệu con mụ điên, thậm chí, con mụ phù thủy già nua xấu xí sống trong ngôi nhà ma quái nơi bìa rừng bị mọi người ghê tởm, lánh xa! Người đàn bà viết văn, làm thơ là người chịu đựng không những mọi bất công của xã hội tỏa chiết lên đầu lên cổ mà còn chẳng bao giờ có đời sống gia đình bình thường, “bởi lúc nào bà cũng phải sống trong tình trạng căng thẳng thần kinh và tiến thoái lưỡng nan, một tình trạng có thể dẫn đến cái chết”. Hậu quả khó tránh là bà sẽ chết tức tưởi và thân xác bà bị vùi chôn trong nấm mồ vô danh nào đó ngoài đồng nội. “Giả sử bà không chết, nhưng ngay cả thế những gì bà viết cũng sẽ bị bóp méo và biến dạng, kết quả của những trí tưởng tượng lệch lạc và bệnh hoạn.”
Thành kiến này ăn sâu trong nếp nghĩ của mọi người đến nỗi ba chị em nhà Brontë đã phải dùng bút danh đàn ông – Currer (Charlotte), Ellis (Emily) và Acton (Anne) Bell – khi xuất bản thơ văn của mình. Nhưng việc làm bất đắc dĩ này lại trở nên hào hứng và thú vị khi công luận và báo chí bàn tán xôn xao về bút danh của ba chị em. Sự tiết lộ tính danh thật của ba người sau đó chỉ làm ồn lên câu hỏi: Làm thế nào ba người phụ nữ bình thường sinh trưởng trong một gia đình mục sư nền nếp tại vùng đồi núi hẻo lánh xa xôi (Yorkshire) lại có thể viết được những tác phẩm với cảm xúc dữ dội, tàn bạo đến vậy? Cuốn Agnes Grey của Anne và cuốn Wuthering Heights (Đồi gió hú) của Emily được nhà Thomas Cautley Newby xuất bản trước cuốn Jane Eyre vài tháng. Đừng quên Emily và Anne cũng là hai tác giả gây tiếng vang không nhỏ với tác phẩm của mình. Sự hiếu kì của đại chúng cộng thêm sự thổi phồng của các kí giả thích loan tin giật gân đã khiến chẳng những ba chị em mà cả gia đình Brontë trở nên huyền thoại.
Tài hoa mệnh bạc
Người cha trong gia đình là mục sư Patrick Brontë (nguyên thủy là Brunty). Ông mở mắt chào đời tại Ireland trong một gia đình nông dân nghèo khổ và có lẽ không ai trong nhà được ăn học ngoại trừ cậu trai Patrick thông minh. Năm 16 tuổi Patrick đã là thầy giáo và sau đó được nhận vào Cambridge học để trở thành mục sư, một thành tựu không tầm thường cho một người Ireland nghèo. Năm 1812 ông kết hôn với cô Maria Branwell, một thiếu nữ sùng đạo và đến năm 1820 hai người có cả thảy sáu mặt con: Maria, Elizabeth, Charlotte, Patrick Branwell, Emily và Anne. Khi cô gái út Anne chưa tròn hai tuổi, Maria Branwell Brontë bị ung thư và qua đời sau một thời gian dài đau đớn trên giường bệnh. Dì Elizabeth Branwell của sáu đứa bé dọn vào ở hẳn với gia đình để chăm sóc các cháu còn thơ dại, ngay sau đó bốn cô con gái lớn được gửi vào trường nội trú Cowan Bridge. Trường học này, do mục sư William Carus-Wilson quản nhiệm, là một cơ quan giáo dục thành lập để dạy dỗ con gái các mục sư nghèo. Carus-Wilson chính là nhân vật Brocklehurst trong Jane Eyre, và trường Cowan Bridge chính là Lowood, nơi Jane theo học sau khi giã từ dinh Gateshead. Như Lowood được miêu tả trong truyện, Cowan Bridge là một ngôi trường với những kỉ luật khắc khe đến độ phi lí, cuộc sống thiếu thốn mọi bề, và các em nữ sinh bị gò ép trong một nền giáo dục giáo điều cứng nhắc. Mục sư Carus-Wilson tin tưởng một cách mù quáng là để cứu rỗi linh hồn, các em nữ sinh phải được uốn nắn theo tinh thần tôn giáo và luân lí triệt để. Kết quả, lưới hái tử thần càn quét trường học, hai cô gái lớn Maria và Elizabeth được cho về nhà khi bệnh lao phổi đã chuyển sang giai đoạn nguy kịch; hai cô chết ở nhà. (Thời ấy bệnh lao phổi tương tự như ung thư phổi thời nay, kẻ mắc bệnh ít ai thoát khỏi cái chết.) Charlotte và Emily thoát chết nhờ kịp thời về nhà, nhưng cái chết của hai người chị đã gây mối thương cảm đau xót sâu xa trong lòng Charlotte, nhất là chỉ một thời gian ngắn sau cái tang của mẹ. Charlotte hay nói về người chị cả Maria như một cô gái tư chất hơn người, thông minh xuất chúng, một thần đồng ở cái tuổi mười một non nớt. (Theo bà nhà văn Elizabeth Gaskell, người viết tiểu sử Charlotte Brontë sau này, thì Maria chính là nhân vật Helen Burns trong Jane Eyre.)
Kế tiếp là thời kì độc đáo đến lạ lùng trong cuộc sống của chị em nhà Brontë. Bốn đứa trẻ – không hơn không kém, bởi ngay cả Charlotte, người chị lớn nhất lúc này, cũng mới chỉ là cô bé gái lên mười – tự học ở nhà, hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài, và bởi không biết làm gì để chơi đùa tiêu khiển hằng ngày, bọn trẻ quay ra làm văn thơ! Bốn cô cậu hợp tác viết kịch, truyện dã sử, thơ và tự đóng bìa những cuốn sách be bé xinh xinh cất giữ trong nhà. Đây cũng là thời kì Charlotte tìm đọc những tác phẩm kinh điển của văn học Anh: William Shakespeare, John Bunyan, John Milton, Sir Walter Scott, thi ca của các thi sĩ Lãng mạn thế kỉ XIX, và dĩ nhiên Kinh Thánh. Trong Jane Eyre, chúng ta bắt gặp rất nhiều trích dẫn từ các danh phẩm của các danh hào kể trên bên cạnh các văn thi sĩ khác; và đặc biệt Kinh Thánh luôn luôn là nguồn trích dẫn phong phú, gần như mỗi chương sách đều có.
Thế giới thần tiên của bốn cô cậu trẻ chẳng bao lâu chấm dứt bởi vì cuộc sống tương lai đòi hỏi phải có giáo dục và bằng cấp. Năm 1831, ở tuổi mười lăm, Charlotte được gửi vào học tại trường Roe Head. Tại đây do mặc cảm thiếu nhan sắc và quê mùa Charlotte cảm thấy không thoải mái. Tuy vậy sau bốn năm học hành, từ năm 1835 đến năm 1838, Charlotte trở thành giáo viên dạy học trong trường, và từ 1839 đến 1841 trở thành nữ gia sư trong các gia đình quyền quý. (Rất giống tình cảnh của Jane tại Lowood và Thornfield; khi viết về quãng đời này của Jane, có lẽ Charlotte đã thuật lại những chi tiết thật đời mình). Trong xã hội nước Anh đầu thế kỉ XIX, một phụ nữ xuất thân từ gia cảnh nghèo khó như Charlotte chỉ có thể đạt đến mức độ như thế trong phạm vi nghề nghiệp. Thêm nữa, Charlotte đã khổ sở không ít vì thiên kiến xã hội không mấy thuận lợi và tốt đẹp về phụ nữ làm văn thơ, cuộc sống cực nhọc không có thời gian viết cũng khiến bà chán nản cùng cực. Người ta tìm thấy những dòng chữ như sau trong nhật kí của Charlotte:
“Tất cả những ngày tháng này tôi ở trong tâm trạng nửa khổ sở nửa mê hoảng, khổ sở vì chẳng bao giờ tôi có thể làm xong việc gì mà không bị quấy rầy, gián đoạn; và mê hoảng vì hoả ngục hiện lên như một thực tại rực sáng trong trí não tôi.”
Điều gì đã khiến một thiếu nữ hai mươi tuổi bảo là mình như thất lạc trong “miền đất tư tưởng thánh hóa chưa từng thấy bao giờ.” Phải chăng đấy là cảm xúc phẫn nộ, trí óc nổi loạn của con người trước nghịch cảnh, trước xã hội phi lí và bất công? Nên nhớ trong xã hội thời đó gia sư là cái nghề lương thấp, làm việc quần quật suốt ngày và bị bạc đãi như gia nhân. Cả ba chị em nhà Brontë đều thử qua nghề dạy học và chẳng ai thành công. Gia đình chỉ còn biết đặt hi vọng vào Branwell, người con trai duy nhất. Branwell học nghề vẽ chân dung nhưng không đi đến đâu, rồi lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề nghiệp khác mà vẫn đói kém. Cuối cùng cậu lâm vào con đường nghiện ngập rượu chè, thuốc phiện và chết trẻ trong ô nhục. Cái chết của người con trai là tấn thảm kịch cho gia đình vì ông mục sư kì vọng nhiều vào cậu. (Những bức phác họa chân dung Branwell vẽ bà chị và hai cô em gái nữ sĩ của mình chỉ thuộc hạng a-ma-tơ nhưng sau khi ba chị em nổi tiếng như cồn, chúng được in đi in lại trên sách vở viết về ba người, một điều an ủi cho cậu.) Cái chết của người em trai có nhiều điểm tương tự John Reed, người anh họ của Jane trong Jane Eyre. Thêm lần nữa cho thấy Charlotte đã đem bi kịch gia đình vào tác phẩm.
Charlotte tha thiết muốn theo đuổi nghề văn. Năm 1837 bà thu hết can đảm biên thư cho thi sĩ Robert Southey (1774-1843), kèm theo một số thơ mới sáng tác, xin thi sĩ “soi sáng” giùm con đường văn chương của mình.Thư hồi đáp của Southey là một “huyền thoại” được truyền tụng đến ngày nay:
“Văn chương không thể là công việc trong đời sống người phụ nữ, và không nên biến nó thành như thế. Người phụ nữ càng lo toan chu toàn những bổn phận chính đáng của mình càng bớt thời gian nhàn rỗi suy nghĩ chuyện thơ văn, cho dù chỉ để đạt đến một thành tựu nào đó và giải khuây. Vẫn chưa có ai kêu gọi cô chu toàn những bổn phận ấy, và khi tiếng gọi ấy cất lên cô sẽ bớt háo hức kiếm tìm danh vọng.”
Charlotte phúc đáp ông thi sĩ như sau:
“Tôi thú nhận vào buổi tối tôi có nghĩ ngợi này nọ, nhưng không bao giờ tôi gây phiền nhiễu cho ai với những điều mình suy nghĩ . . . Tôi luôn cố gắng chẳng những quan sát tường tận tất cả những bổn phận người phụ nữ phải chu toàn, mà còn dốc tâm trí mình vào những công việc đó. Không phải lúc nào tôi cũng thực hiện một cách đúng đắn, bởi đôi khi trong lúc dạy học hay may vá tôi ước ao được đọc sách và viết; nhưng tôi cố tự chối bỏ mình . . . Một lần nữa xin cho tôi cảm ơn ngài đã có lời khuyên chân thật. Tôi tin là tôi sẽ không bao giờ có tham vọng nhìn tên tuổi mình in trên mặt giấy; giả sử có lúc nào đó tham vọng ấy nổi lên thì tôi sẽ lấy ra đọc lại lá thư của ngài và kềm hãm nó lại.”
Qua lời lẽ trong thư phúc đáp của Charlotte, chúng ta không khó khăn nhìn ra sự cay đắng và phẫn nộ trước thành kiến khó gột rửa của người đời. Khi viết Jane Eyre, Charlotte đã không che giấu cảm xúc bức bối ấy của mình, bà khẳng định giá trị tính cách độc lập và vị trí người phụ nữ trong đời sống bên ngoài phạm vi gia đình. Cuốn sách nêu ra các luận điểm về vai trò phụ nữ trong xã hội mà mãi gần nửa thế kỉ sau mới bắt đầu được bàn tán sôi nổi để châm ngòi cho trào lưu “Nữ quyền” như chúng ta biết ngày nay. Về điểm này, Jane Eyre quả đã đi trước thời đại rất nhiều.
Tất cả nhờ lá thư của ngài thi sĩ Southey!
Năm 1842 Charlotte và Emily sang Brussels, thủ đô nước Bỉ, theo học tại Pensionnat Héger với hi vọng bổ túc kiến thức chuyên môn (như Pháp văn) để về quê nhà mở trường dạy học. Mặc dù việc mở trường sau khi về nước là một thất bại (không một học sinh nào ghi danh), thời gian lưu trú ở lục địa đã ảnh hưởng sâu sắc lên tâm hồn và trí lự hai chị em, nhất là Charlotte. Tại đây Charlotte yêu người thầy của mình, ông Constantin Héger, một người đã có vợ. Và phải chăng Charlotte đã dàn trải tâm sự đau đớn của mình qua mối tình của Jane với ông Rochester? Dầu sao chăng nữa, sau mấy năm học chị em trở về đoàn tụ cùng gia đình ở Haworth, và với trí lực sung mãn, tâm hồn sôi động, họ nhất quyết đi vào con đường làm văn.
Năm 1846, Charlotte khám phá ra những bài thơ của Emily giấu trong ngăn kéo. Ba chị em dùng bút danh nam Currer, Ellis và Acton Bell cùng xuất bản một tập thơ. Thoạt đầu Emily không chịu in thơ mình nhưng bị Charlotte thuyết phục mãi, cả quyết giá trị nghệ thuật những bài thơ, nên nhận lời tham gia. Tập thơ xuất bản, trước sau bán được vỏn vẹn hai cuốn, nhưng ba chị em không nản lòng. Mùa hè năm 1847, vẫn ẩn giấu dưới những bút danh xa lạ kia, Emily tung ra cuốn Wuthering Heights (Đồi gió hú); và Anne, cô em út trong nhà, không chịu kém thua chị mình với cuốn Agnes Grey (kể chuyện một cô giáo nghèo). Charlotte chậm chân hơn một chút, phải đợi đến mùa Giáng Sinh năm đó mới xuất bản Jane Eyre.
Jane Eyre, ấn bản lần thứ nhất ghi là: Tự truyện, biên tập bởi Currer Bell, 1847
Ba cuốn sách tuyệt hay ra mắt cách nhau vài tháng là một biến cố văn học hiếm có dù là ở thời đại nước Anh sản xuất ra lắm bậc vĩ nhân. Tuy vậy không người nào biết tác giả thật là ai, và ai nấy ngơ ngác nhìn nhau rồi xôn xao bàn tán. Người bảo tác giả không phải là đàn ông (rất đúng), người quả quyết ba “anh em” ấy thật ra chỉ là một người (sai bét). Ba chị em giấu kín tung tích mình đến nỗi ngay cả người thân trong nhà và bạn bè xung quanh cũng không hay biết. Cho đến khi có kẻ tung tin đồn rằng tác giả Jane Eyre là nữ gia sư trong gia đình văn hào William Makepeace Thackeray (1811-1864) thì sự việc mới bắt đầu được soi sáng. Thackeray là một tiểu thuyết gia lừng lẫy thuở đó, ông nổi tiếng với nghệ thuật châm biếm, viết cuốn Vanity Fair (Hội chợ phù hoa), cũng thuộc loại kinh điển, nói lên cái phù phiếm, ruỗng nát cùng thói đạo đức giả của giới quý tộc thượng lưu nước Anh lúc đó. Charlotte mến mộ văn chương ông nhà văn này lắm, và mặc dù không quen biết, với ấn bản thứ hai của Jane Eyre, bà đã đề tặng cuốn sách cho ông với lời lẽ hết sức trân trọng. Trước đó, ông nhà văn cũng có lời lẽ tán dương cuốn sách, trong đó có đoạn nói ông đã chảy nước mắt khi đọc những đoạn viết về tình yêu. Vợ ông nhà văn mắc bệnh tâm thần. (Sao giống Bertha, vợ ông Rochester trong truyện đến thế? Chắc hẳn có kẻ xấu mồm độc miệng đặt câu hỏi này.) Vì thế mới có những lời thêu dệt đồn đại vô cùng độc ác về gia thế và cuộc đời tác giả Jane Eyre. Bởi sống tách biệt với thế giới bên ngoài, những lời lẽ không mấy đẹp ấy mãi về sau mới lọt đến tai Charlotte và bắt buộc bà phải bạch hóa mọi chuyện để tránh tiếng xấu cho gia đình Thackery. (Thời đó, quần chúng mê đọc những “tin nóng” về đời tư văn nghệ sĩ như ngày nay chúng ta bỏ cả giờ mỗi ngày lên mạng đọc những chuyện “giật gân” hết sức tào lao và vô bổ của các ca sĩ nổi tiếng, siêu sao màn bạc, cầu thủ bóng đá, vân vân.)
Bên cạnh những điều phù phiếm ấy, chị em nhà Brontë nhận được khá nhiều lời khen chê từ giới học giả và phê bình. Nói chung, ít ai quan tâm đến cuốn sách mỏng của cô út Anne, nhưng mọi người có vẻ gay gắt, thậm chí phẫn nộ, với cuốn Wuthering Heights của Emily, đa số lên án cuốn sách là vô luân. Riêng Charlotte thì may mắn hơn. Nhà phê bình uy tín nhất thời đó, ông George Henry Lewes, thấy Jane Eyre là một chuyện tình “lạ lùng” nhưng viết tiếp, “Đã lâu lắm rồi không có cuốn sách nào khiến mắt chúng ta được thỏa mãn như thế khi đọc.” Nhà văn Thackeray không tiếc lời ca ngợi, trong lá thư gửi cho nhà xuất bản ông bảo ông không buông cuốn sách xuống được. Nhưng người chê cũng lắm, điển hình là Lady Eastlake viết trên tờ Quarterly Review số tháng chạp năm 1848. Sự chê bai phần lớn dựa trên quan điểm luân lí khắc nghiệt vốn là nền tảng văn hóa dưới triều đại nữ hoàng Victoria, tính cách vô luân trong tác phẩm bị đem ra công kích dữ dội. Họ cũng chê nội dung câu chuyện thiếu sự nhất quán và tính thuyết phục. Và nhân vật phụ nữ chính diện thì quá “nổi loạn” đến nỗi không có đủ tiết hạnh cần thiết cho một “mẫu mực phụ nữ đoan chính trong xã hội.” Lady Eastlake cũng bảo đấy là một cuốn sách “thiếu nữ tính” và khẳng định tác giả nó phải là nam giới. Bà nói thêm nếu tác giả là nữ giới thì đấy là người đàn bà “hoàn toàn chối bỏ xã hội những người cùng giới tính với mình.”
Không rõ ba chị em phản ứng ra sao trước búa rìu dư luận, nhưng chắc chắn sự đau buồn vô tả đã đổ ập xuống mái nhà Haworth với cái chết của anh con trai Branwell và ngay sau đó Emily rồi Anne cũng lần lượt qua đời vì lao phổi. Cả nhà sáu người con chỉ còn mỗi Charlotte sống sót ở lại dương thế chăm sóc người cha già trong cô độc. Càng buồn Charlotte càng viết hăng. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản trong thời gian này, cuốn Shirley và cuốn Vilette đều đem lại nhiều thành công và tiếng vang tốt. Nhưng nỗi buồn vì mất mát thì không thể nào hàn gắn, chưa kể nỗi buồn có thể sẽ phải làm đàn bà “không chồng ở giá” suốt đời. Thư từ Charlotte viết trong giai đoạn này cho thấy nỗi đau đớn của một kiếp người phù du, mệnh bạc.
Tuy thế những năm tháng sau đó cuộc sống của Charlotte có phần tươi vui hơn vì càng ngày bà càng được đánh giá như một tiểu thuyết gia có chân tài. Bà cũng hay thăm viếng London, tại đây bà gặp gỡ những nhân vật sáng chói trong văn giới như nhà phê bình Lewes và chính Thackeray. Bà cũng gặp nữ sĩ Elizabeth Gaskell. Hai người trở nên bạn chí thiết, chính bà Gaskell là người viết tiểu sử Charlotte sau khi bà qua đời. Cuốn sách tiểu sử đó cũng là một danh phẩm giá trị.
Năm 1854, Charlotte đột ngột lập gia đình. Người bà lấy làm chồng là mục sư Arthur Bell Nicholls, trợ tế cho cha bà trong giáo xứ và là người quen biết lâu năm với gia đình. Thoạt đầu cha bà phản đối cuộc hôn nhân dữ lắm vì Arthur chẳng những nghèo kiết xác mà còn xấu trai, kém thông thái, lại chẳng có tài năng gì về nghệ thuật. Charlotte cũng chẳng yêu anh chàng mục sư cù lần ấy. Nhưng sự thật là Charlotte lúc nào cũng nghĩ mình không có nhan sắc, thậm chí không ai yêu nổi. Chính lòng chung thủy và sự kiên trì theo đuổi tình yêu trong nhiều năm của người đàn ông đã dần dà cảm hóa bà. Thế là ở tuổi ba mươi tám, Charlotte từ bỏ những giấc mơ lãng mạn để trở thành một người vợ bình thường và đôi khi bà ngạc nhiên thấy mình cũng có hạnh phúc.
Nhưng oái oăm thay, số kiếp oan nghiệt không cho hạnh phúc ở lâu dài với người đàn bà tài hoa mệnh bạc. Thuyết “Tài mệnh tương đố” không hẳn chỉ có bên trời Đông. Lấy chồng chỉ được vài tháng Charlotte ngã bệnh nặng và nhắm mắt lìa đời vào tháng 3 năm 1855, lúc tuổi đời chưa quá bốn mươi. Có nhiều giả thuyết về cái chết của Charlotte, như bà chết vì hư thai, nhưng giả thuyết khả tín nhất vẫn là bệnh lao (như các chị em của bà) hay sốt thương hàn (vốn hoành hành vùng đất nhà bà suốt thế kỉ XIX). Không có bằng chứng nào cho thấy bà có thai lúc chết.
Cuộc cách mạng Nữ quyền
Lòng ngưỡng mộ của công chúng đối với hai tác phẩm tiểu thuyết Wuthering Heights của Emily và Jane Eyre của Charlotte càng lúc càng gia tăng sau cái chết của hai người. Từ cuối thế kỉ XIX trở đi, giá trị văn học của hai tác phẩm được giới nghiên cứu và phê bình đánh giá một cách nghiêm túc hơn. Thế nhưng cho đến đầu thế kỉ XX, đa phần những nhận định vẫn chỉ quanh quẩn ở chủ đề tâm lí học tổng quát, chẳng hạn như ý kiến của nhà phê bình Thomas Moser hay nhà viết tiểu sử Helene Moglen, cho rằng Jane Eyre là hệ quả tất yếu bộc phát do những “ẩn ức sinh lí” mà thủ phạm chính là nền luân lí Victoria bảo thủ. (Nghe tương tự quan điểm của giới trí thức Việt Nam ta hồi đầu thế kỉ XX đối với thơ Hồ Xuân Hương.) Về nội dung, công bằng mà nói, cuốn tiểu thuyết vướng phải một số nhược điểm tiêu cực như sau: thứ nhất, quá nhiều những biến cố tình cờ, không thật (đặc thù của văn chương Victoria); thứ hai, khuôn mẫu hình tượng anh hùng dựa trên tính cách của chủ nghĩa Byron (người anh hùng được lí tưởng hóa với những tính cách như: đa tài, nhiều đam mê, xem rẻ người đời, khinh khi các lề thói xã hội đương thời, sống phóng đãng, hay nổi loạn, có xu hướng tự huỷ, có thể chết vì tình yêu, vân vân); và thứ ba, các nhân vật bị chi phối ít nhiều bởi yếu tố tôn giáo hoặc giáo điều. Đứng từ góc nhìn tâm lí học cộng với tất cả những nhược điểm ấy đã không mở lối cho cuốn sách trở nên một tác phẩm kinh điển hàng đầu.
Mọi chuyện biến đổi mau chóng sau khi Nữ quyền luận trở nên phổ cập và được công nhận trong ngành phê bình văn học vào nửa sau thế kỉ XX.
Nữ quyền là một phong trào xã hội khởi đi từ cuối thế kỉ XIX ở hai quốc gia Anh, Mĩ với mục đích tranh đấu cho quyền lợi người phụ nữ. Sang thế kỉ XX nó biến thành cao trào có tầm ảnh hưởng to rộng phủ trùm lên nhiều địa hạt tư tưởng và lĩnh vực nhân văn khác nhau của đời sống nhân loại. Riêng bên lĩnh vực văn học, vào nửa sau của thế kỉ, Nữ quyền luận nghiễm nhiên trở nên một luận thuyết vững chắc, đề xuất bút pháp nữ (thuật ngữ Écriture féminine một hôm không biết từ đâu bỗng xuất hiện khiến mọi người ngỡ ngàng). Dưới luồng sáng của Nữ quyền luận, cách đọc tác phẩm văn học của các tác giả phái nữ, kể cả tác phẩm kinh điển, cũng được giới học giả và phê bình đánh giá lại. (Đáng ghi nhận trong những nỗ lực này là công trình bứt phá của Sandra Gilbert và Susan Gubar với cuốn The Madwoman in the Attic [Người đàn bà điên trên gác xép] xuất bản năm 1979.)
Nhờ thế, người ta đọc Brontë với con mắt mới mẻ hơn và có thể cảm thông trọn vẹn hơn về đường lối tác giả quyết liệt đặt lại vai trò người phụ nữ và cố tấy xóa những định kiến bất công và lỗi thời. Kết quả là sự thông hiểu có sắc thái hơn về bản chất những nghịch lí trong tác phẩm, vốn là một tổng hợp gò ép khó hòa giải giữa sự nổi loạn của tâm hồn đối với xã hội và chủ nghĩa bảo thủ tôn giáo. Trước đó, các nhà nghiên cứu văn học chỉ chú ý đến nguồn đối lực giữa hai chủ thể trái nghịch trong tác phẩm mà họ đặt tên là: Sống theo tự nhiên – sống được giáo huấn; đời sống riêng tư hướng nội – đời sống cộng đồng hướng ngoại; cảm xúc đam mê – lí trí suy xét; lãng mạn chủ nghĩa – duy lí chủ nghĩa; vân vân. Nhà nghiên cứu Nữ quyền luận giờ đây có thể xem xét lại sự phân bố giản đơn và có tính công thức này để quy chiếu tầng ý nghĩa của tác phẩm lên một chiều kích mới mẻ, phức tạp hơn.
Một phương cách để thấu hiểu cấu trúc của Jane Eyre là nhìn nó dưới góc độ câu chuyện của một con người bình thường đi kiếm tìm hạnh phúc, và trong lúc kiếm tìm phải luôn luôn giữ thế cân bằng giữa hai lực đối kháng rất khó hòa giải là luân lí và bản năng. Jane là một cô gái bình thường, bất hạnh, lại không có nhan sắc. Điều này đi ngược lại quy luật bất thành văn của tiểu thuyết thời đó: người đàn bà chính diện phải đẹp, ngọt ngào, hiền dịu. Ở đây chúng ta thấy ngay dụng ý của tác giả. Jane chẳng những không đẹp (tư dung thường thường chẳng có gì đặc biệt, thân người bé loắt choắt) lại còn có tính hay châm biếm và nói thẳng, thế nhưng nhờ vào trí lự thông minh cộng thêm ý chí mạnh mẽ, Jane đã vượt qua bao nghịch cảnh để đạt đến hạnh phúc. Phải chăng đấy là cái tinh thần sống và muốn sống như con người, cái human spirit mà muôn đời được ca tụng? Sống như một con người nghĩa là sống như một cá nhân với tất cả giá trị và tình thương cá nhân đó xứng đáng thừa hưởng. Sự nổi loạn do lòng phẫn nộ của Jane năm lên mười chẳng qua chỉ là hình thức biểu hiện (bởi không biết làm sao khác hơn) của một đứa bé tha thiết muốn sống như thế. Kì thực, trong suốt cuốn tiểu thuyết, niềm xác tín của Jane là: không nên xác định giá trị con người dựa trên sự cao thấp khác biệt của nấc thang xã hội.
Ý thức Nữ quyền hiển lộ rõ hơn trong suy nghĩ của Jane khi nàng chuẩn bị cho con đường tương lai từ cô gái học trò thành nữ gia sư trong một gia đình giàu sang:
“Quả là vô ích khi bảo người ta nên hài lòng với một cuộc đời bình lặng. Con người phải luôn hành động, và nếu không tìm được sở trường để hành động thì họ phải tự tạo ra. Hàng triệu người còn phải chịu số phận buồn chán phẳng lặng hơn tôi, và hàng triệu kẻ âm thầm nổi loạn chống lại số phận. Không ai biết ngoài những cuộc nổi loạn vì lý do chính trị còn có bao nhiêu cuộc nổi loạn nữa đang được ủ men trong những khối sự sống này. Nói chung, phụ nữ thường được xem là điềm tĩnh, nhưng cảm xúc của họ có khác gì đàn ông đâu. Họ cần rèn luyện những năng lực của bản thân và họ cần môi trường để thực hiện hoài bão y như các đấng mày râu. Họ khốn khổ vì sự kiểm soát quá đỗi cứng nhắc, sự giam hãm quá độc đoán. Đàn ông mà rơi vào hoàn cảnh của họ thì cũng khốn khổ như thế mà thôi. Và nếu những đồng loại được ưu đãi hơn ấy bảo họ nên tự giới hạn mình trong những công việc bếp núc, may vá, chơi đàn hoặc thêu thùa thì quả là hẹp hòi. Còn những kẻ chỉ trích hoặc chê cười họ khi họ tìm cách học hỏi hoặc làm nhiều điều hơn những gì mà tập quán xưa nay vẫn bảo là cần thiết với giới tính của họ thì quả là ích kỷ.” (Chương XII)
Từ đấy chúng ta có thể suy nghiệm thêm là ý niệm Nữ quyền bàng bạc trong tác phẩm. Ngoài những câu văn trực tiếp đề cập đến vấn đề Nữ quyền trích dẫn bên trên, nó còn được biểu hiện qua hành vi cô bé Jane lên mười đánh trả lại thằng bé John Reed hung tợn, nó là thái độ ung dung tự tại của Jane trước thái độ hống hách chứng tỏ quyền uy chủ nhân của ông Rochester, và Jane chỉ chịu lấy ông Rochester sau khi nàng trở nên độc lập, không tùy thuộc vào ai, kể cả người chồng. Có thể dưới mắt chúng ta ngày nay những sự kiện này giản đơn một cách buồn cười, nhưng đừng quên suốt thời trung đại và cận đại ở phương Tây nó là vấn đề cực kì nhức nhối cho phụ nữ, chúng ta không nên xem thường nó, vì nó mà có không ít phụ nữ can đảm chết oan khuất trên dàn hỏa thiêu, chết theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Một chuyện tình Lãng mạn vượt thời gian
Một chuyện tình vượt thời gian! Nghe sáo quá, phải không? Nhưng thú thật tôi không biết phải gọi chuyện tình giữa Jane và ông Rochester bằng ngôn từ gì cho đúng. Oan trái? Oan khiên? Lạ lùng? Tội lỗi? Đen tối? Vô luân? Thánh thiện? Thánh hoá? Đẹp? Kinh khủng? Khiếp đảm? Ghê rợn? Hay tất cả những tính từ trên chí ít đều đúng nếu nhìn từ một góc độ nào đó? Chỉ biết một điều là cho đến ngày nay người ta vẫn bị nó mê hoặc. Có cái gì kì bí, vượt lên trên mọi lí giải thông thường ẩn nấp bên dưới cốt truyện và cá tính các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết khiến sức lôi cuốn của nó vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ hay văn hóa nhân loại.
Chuyện tình giữa Jane Eyre và ông Rochester bắt đầu từ chương XI, lúc Jane vào làm nữ gia sư trong gia đình Rochester ở dinh Thornfield và chẳng bao lâu nàng đem lòng yêu người đàn ông chủ ngôi nhà. Ông Rochester là một người đàn ông lập dị, thậm chí quái đản. Dưới mắt nhìn của nhà tâm lí học thì đấy là khuôn mẫu hình tượng anh hùng dựa trên tính cách của chủ nghĩa Byron. Ông có một quá khứ cực kì đen tối, và cũng như Jane, bị ném ra khỏi ngôi nhà tình yêu, gia đình. Mặt mày ông xấu xí, tính tình thô lỗ, ăn nói bộc trực, luôn luôn tỏ vẻ khinh khi những thói rởm đời của đám quý tộc trưởng giả mặc dù ông cũng xuất thân từ đó mà ra. Sau khi cuộc hôn nhân thứ nhất đổ vỡ, ông tự chọn một cuộc sống phóng đãng chạy theo các thú vui nhục dục, dùng đồng tiền mua chuộc tình yêu hay đúng hơn thân xác đàn bà.
Điều bất ngờ là, với một tính cách khác thường như thế, Jane lại thấy “gần gũi” ông hơn. Jane hiển nhiên không phải là nhân vật tiểu thuyết điển hình tràn ngập thị trường chữ nghĩa thế kỉ XIX. Chẳng những sắc diện, nhân dáng nàng không có gì đặc biệt, nàng còn nhất quyết xem trọng giá trị của cảm xúc tự thân, vốn thường bị xem là không thích hợp với hạng phụ nữ thượng lưu cao quý. Jane nói với ông Rochester như sau khi nàng tin là sắp phải xa ông:
“Cơn xúc động mãnh liệt mà nỗi đau và tình yêu đã dấy lên trong tôi đòi lấn át tất cả và đấu tranh để được làm chủ hoàn toàn, rồi khẳng định quyền chiếm ưu thế, quyền được sống, quyền được nổi lên và cuối cùng là quyền thống trị: phải – và quyền được nói.” (Chương XXIII)
Qua câu nói, tác giả đã một lần nữa quả quyết xác nhận tính cách và cảm xúc (của người nữ) là những giá trị quan trọng, chúng nổi bật bên cạnh tính phù phiếm và rỗng tuếch của đám công nương, tiểu thư con nhà quyền quý, trưởng giả (như công nương Blanche, “tình địch” của Jane). Và khi ông Rochester cầu hôn Jane thì tình yêu Lãng mạn có vẻ như mưu toan lật đổ toàn bộ trật tự xã hội. (Xin hiểu từ “Lãng mạn” viết hoa ở đây không có ý nghĩa như chúng ta hiểu ngày nay mà nên hiểu nó, ở chừng mực nào đó, trong ngữ cảnh thi ca Lãng mạn của William Blake hay âm nhạc Lãng mạn của Ludwig van Beethoven.) Tình yêu Lãng mạn được định nghĩa là sự hài hòa trong tâm trí, là “thấu hiểu nhau một cách sâu sắc”, là vượt qua tất cả những định kiến của huyết thống, giai cấp và quyền lực như được miêu tả trong cuốn Lòng tự phụ và thành kiến của Jane Austen. Chấp nhận như thế, chúng ta sẽ không mấy khó khăn nhận ra Jane là một “người tình Lãng mạn” và những mộng ước Lãng mạn của nàng – sâu sắc, tự nhiên và ngay thẳng – luôn luôn tương phản với tính nông cạn và ích kỉ của các nhân vật nữ khác như công nương Blanche, vũ nữ Céline, thậm chí cả cô bé Adèle. Họ là những người đàn bà dùng sắc đẹp và lời ngon tiếng ngọt tự dâng hiến mình cho đàn ông để được người đàn ông đoái hoài, yêu thương.
Jane tuyên bố như sau về tình yêu với ông Rochester:
“Ông nghĩ tôi là cái máy ư? Một chiếc máy không cảm xúc có thể chịu đựng để miếng bánh bị giật khỏi miệng và ngụm nước sinh mệnh bị hắt đi sao? Ông nghĩ chỉ vì tôi nghèo khó, vô danh tiểu tốt, nhan sắc tầm thường và thân hình thấp bé thì không có tâm hồn và trái tim ư? Thế thì ông nhầm rồi! Tâm hồn tôi, trái tim tôi cũng phong phú không kém gì ông! Và nếu Chúa ban cho tôi chút nhan sắc và của cải thì lúc đó tôi sẽ khiến ông khó lòng mà rời bỏ tôi được, giống như tôi bây giờ. Tôi không nghĩ lúc này tôi đang nói chuyện với ông theo phong tục hay quy ước xã hội, thậm chí cũng không phải bằng cái xác tục, mà là linh hồn tôi đang nói chuyện với linh hồn ông, như thể hai ta vừa sang thế giới bên kia và đang đứng dưới chân Chúa, bình đẳng với nhau, như lúc này đây!” (Chương XXIII)
Đấy là lúc ông Rochester ve vãn, tỏ tình và cầu hôn Jane trong lúc hai người ngồi trong khu vườn rậm rạp cây lá đầy tình tứ thơ mộng đằng sau dinh Thornfield vào một đêm hè tĩnh lặng chan hòa ánh trăng. Câu nói của Jane là một ngoại lệ. Một người đàn bà khác, giữa khung cảnh không gian lãng mạn như thế, chỉ biết ngả đầu vào ngực người đàn ông thôi.
Sự thật là, ngay sau khi tỏ tình và được Jane ưng chịu kết hôn, ông Rochester đã dùng đủ mọi mánh khóe và quyền uy để tìm cách khuất phục Jane, bắt Jane thần phục mình, nằm dưới tay mình như ông từng làm với những người đàn bà khác. Thậm chí ông còn đem vàng bạc lụa là ra quyến dụ Jane. Nhưng ông thất bại vì trước sau như một Jane không hề bị những thứ ấy mua chuộc và nàng còn bướng bỉnh chống lại mọi hành vi chứng tỏ uy quyền của ông đến nỗi ông phát cáu. Bằng thái độ không khoan nhượng nhưng vẫn khéo léo ôn nhu, con người độc lập của Jane chiến thắng mọi mưu toan thống trị của người đàn ông, một điều chưa từng thấy xảy ra trong tiểu thuyết trước đó.
Đây cũng là lúc Jane mơ những giấc mơ quái dị dự báo những điều chẳng lành sau đó. Và chuyện kinh khiếp Jane khám phá (đúng hơn bị phanh phui) ngay ngày cưới của mình, đó là ông Rochester trong nhiều năm nhốt bà vợ điên trong một căn phòng bí mật trên lầu ba của dinh Thornfield. Dựng nên tình tiết độc đáo này, Charlotte Brontë đã giải quyết được vấn nạn tìm lối thoát cho tình cảm lãng mạn của đam mê và hoan lạc mà có thể gọi là con đường đạo hạnh của luân lí và truyền thống Cơ đốc giáo.
Tình yêu Lãng mạn có một liên hệ khá mơ hồ với hệ thống đức tin Cơ đốc giáo khi giá trị nhân văn và cảm xúc cá nhân được đem ra đối nghiệm. Cho đến thời điểm này, tình yêu và đam mê chế ngự tâm tư Jane. Mặc dù linh cảm có cái gì không ổn đằng sau tình yêu của mình, nàng vẫn bám víu lấy hi vọng con đường tìm kiếm hạnh phúc của mình sắp đến đoạn cuối. Nhưng sự xuất hiện của Bertha điên loạn, bò dưới đất như một con thú hoang hung tợn nhào đến cắn xé ông Rochester lúc ông bảo mọi người có mặt xung quanh “Vợ tôi đấy!” trong nỗi chua chát và khổ đau cùng kiệt, đã làm sụp đổ mọi mộng ước Lãng mạn trong tâm hồn Jane. Mọi chuyện vỡ lở, bí mật bao nhiêu năm bị phanh phui, ông Rochester lại ngon ngọt dụ dỗ Jane dọn xuống miền Nam nước Pháp làm lại cuộc đời với ông. Nhưng đời nào Jane chịu nghe lời, một buổi sáng tinh sương nàng âm thầm bỏ dinh Thornfield đi về nơi vô định, chấp nhận mọi khổ ải, đớn đau xảy đến cho mình sau đó. Jane bỏ đi không phải do lòng phẫn nộ vì bị lừa phỉnh, nàng cũng không chút nghi ngờ tình yêu của ông Rochester, và nàng vẫn yêu ông tha thiết. Sở dĩ nàng bỏ đi là vì lòng tự trọng một phần và phần khác chính là luân lí và tôn giáo hiển thị dưới dạng thức vô thức tập thể từ ngàn xưa ăn sâu tâm hồn mà có lẽ chính nàng cũng không hay biết. Charlotte Brontë đã không cho cảm xúc vỡ tràn và bản năng dục vọng lấn át luân lí bởi làm thế là phá vỡ thành trì truyền thống và tạo nguy cơ đảo lộn sự hài hòa và trật tự của xã hội.
Ông Rochester là người sống theo chủ nghĩa Tự nhiên, ông không tuân theo mệnh lệnh của ai ngoài cảm xúc và bản năng dục vọng của chính mình. Ông gạ gẫm Jane về sống ngoại hôn với ông ở một nơi khác, tránh búa rìu dư luận. Ở thời đại chúng ta, điều này chẳng có gì đáng nói và hầu hết đều được xã hội chấp nhận dễ dàng. Nhưng cuốn tiểu thuyết làm chúng ta cảm phục đức tính mạnh mẽ của Jane khi nàng quyết chí gạt bỏ cảm xúc đam mê để quay về những nguyên tắc truyền thống mà nàng cho là phổ quát, bởi nếu không thì cuộc sống này chắc sẽ tan rã mất thôi.
Đối lực giữa cái “tự nhiên” và luân lí truyền thống tôn giáo đã làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của nhân loại – Tây cũng như Đông – nhất là trên bình diện văn học. Trong Jane Eyre, cái “tự nhiên” có vẻ như được đặt nặng hơn, được ưu ái hơn, ở mặt tâm lí học lẫn mĩ học, và đó là lí do tại sao cuốn tiểu thuyết bị các nhà đạo đức (giả) đương thời lên án. Cái “tự nhiên” liên minh với trí tưởng tượng, cảm xúc, xung lực nội tại, dục vọng, tính phản kháng, và cái tôi, tất cả nhất tề đứng lên chống lại cái duy lí. Cái “tự nhiên” dẫn đến Lãng mạn chủ nghĩa, đến “cái tôi” và “cảm xúc của tôi.” Về điểm này chúng ta không ngạc nhiên vì Jane Eyre xuất hiện gần như cùng thời với hội họa Eugène Delacroix và âm nhạc Frédéric Chopin, thời đại hoàng kim của Lãng mạn chủ nghĩa.
Cái “tự nhiên” đúng hay sai, cho đến ngày nay, vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Cuộc sống của Jane bước vào khúc quành mới khi nàng lưu lạc đến Marsh End. Tại đây, nàng ngẫu nhiên gặp những người thân trong dòng họ và ngẫu nhiên kế thừa một gia tài kếch sù do ông chú nàng ở nước ngoài qua đời để lại. (Ngẫu nhiên là một thuộc tính quen thuộc gần như cố hữu trong dòng văn chương Victoria.) Nhưng bên cạnh sự may mắn không ngờ đó, một lần nữa nàng lại phải đối đầu với cái đối lực bất khả hòa giải giữa tôn giáo và cảm xúc. Người anh họ của Jane, một mục sư trẻ tên St. John Rivers, cầu hôn nàng (thời đó xã hội Anh cho phép người trong họ lấy nhau), nhưng anh muốn lấy Jane làm vợ không phải do tình yêu mà chỉ vì muốn Jane trở thành người trợ tá đắc lực cho anh trong việc phụng sự truyền giáo. Con người anh tốt lành nhưng khô cứng, tình cảm che giấu, thậm chí khó thương. Anh và ông Rochester là hai thái cực, ông Rochester muốn tình yêu nhưng không có hôn nhân, ngược lại, St. John muốn hôn nhân nhưng không có tình yêu, và dĩ nhiên Jane khước từ cả hai. Cả hai đều phơi bày tham vọng người đàn ông muốn “làm chủ” cuộc đời người đàn bà, và sự phấn đấu của Jane trong gọng kìm hai người đàn ông đó là cuộc chiến đấu muôn đời giữa ý chí và tự ngã, ý chí của người nữ, tự ngã của người nam. Cuộc chiến đó kéo dài cho đến ngày nay, không hề ngưng, và có lẽ nó vẫn tiếp diễn cho đến khi loài người không còn hiện diện trên mặt đất này nữa.
Cuối cùng Jane quay về ông Rochester vì lúc đó nàng là người độc lập và ông Rochester “ngang hàng” với nàng. (Ông nay là người tàn phế, mắt mù, do trận hỏa tai gây nên bởi bà vợ điên một đêm nổi lửa đốt tòa lâu đài rồi nhảy từ sân thượng xuống nền đá chết nát thây.) Cuối cùng hạnh phúc đến với Jane. Charlotte Brontë đã cho một kết luận “có hậu” vào cuốn tiểu thuyết.
Jane Eyre, một ấn bản cuối thế kỉ XIX
Quy ước không là luân lí . . .
Jane không chịu trở thành tình nhân của ông Rochester bởi nàng tin tưởng nhiệt thành vào lòng tự trọng và giá trị luân lí. Nàng cũng không chấp nhận lời cầu hôn của St. John Rivers bởi nàng không thể kết hôn với người đàn ông không có tình yêu với nàng. Hai người đàn ông, hai thái cực, một bên phóng đãng, hung bạo, có tình yêu và một bên nghiêm túc, nệ giáo, không có tình yêu. Jane không tin theo ai, nàng chọn trung đạo và đề xuất một căn bản luân lí đạo đức biểu hiện bởi tam giác: tình yêu, tính cách độc lập và lòng tha thứ.
Trong suốt cuốn tiểu thuyết, Jane lúc nào cũng gắng sức duy trì sự quân bằng giữa bổn phận luân lí và hạnh phúc trần gian. Nàng ghê tởm tính cách đạo đức giả của mục sư Brocklehurst. Đối với St. John Rivers, tuy mến thương và cảm phục như một người anh cả nhưng nàng không hề thấy rung động trước tình cảm khô cứng của người mục sư trẻ tuổi và điển trai ấy. Chúng ta hiểu tại sao. St. John là môn đệ trung thành của thần học Calvin, và lòng xác tín của anh có những chỗ bất xứng, không phù hợp tâm hồn Jane, một tâm hồn luôn theo dõi nhịp đập của trái tim nhưng không bao giờ giẵm xuống bùn lầy của cảm xúc. Trong thời gian theo học ở Lowood, Jane thương mến người bạn gái tên Helen Burns, nàng cảm nhận được tâm hồn thánh thiện như thiên thần của Helen, nhưng tấm lòng độ lượng không bến bờ của Helen – tha thứ ngay cho kẻ trừng phạt và hành hạ mình một cách vô cùng tàn nhẫn và phi lí – chỉ khiến Jane bâng khuâng, ngờ vực. Hình như Jane không trung thành và tuân giữ những giáo điều Cơ đốc giáo một cách tuyệt đối và mù quáng. Đúng ra nàng tin tưởng vào giá trị luân lí truyền thống. Đó là lí do vì sao nàng bỏ dinh Thornfield ra đi trong nỗi đau đớn tột cùng sau khi biết ra sự thật ông Rochester bao nhiêu năm nhốt bà vợ mình trong căn phòng kín. Cũng bởi giá trị luân lí truyền thống này, Jane chỉ chịu lấy ông Rochester sau khi vợ ông chết.
Tôn giáo được dùng để hòa giảm suy nghĩ cùng hành vi của Jane trong những lúc tâm trí xung động, hay lâm vào cảnh huống khốn cùng, nhưng không bao giờ nàng đè nén hoặc chôn vùi bản ngã chân xác của mình. Đọc cuốn sách chúng ta thấy tác giả trích dẫn rất nhiều Thánh Thư, đa phần là Phúc Âm Chúa Jesus Christ, nhưng đừng vội kết luận bà là người nệ giáo. Ngược lại là đằng khác. Dù sinh trưởng trong một khí hậu thấm đẫm tinh thần Cơ đốc giáo, bà không mù quáng tin theo các tín điều bị các đầu óc lệnh lạc diễn giải một cách cứng nhắc, hẹp hòi. Trong lời tựa ấn bản thứ hai của Jane Eyre, Charlotte Brontë khẳng định “quy ước không phải là luân lí” và “sự nguỵ tín tự cho mình đúng không đồng nghĩa với tôn giáo.”
Quan điểm ấy của bà, chúng ta nên hiểu như thế nào?
Nó chỉ có thể là: Bất kì một học thuyết hoặc chủ thuyết hẹp hòi nào của con người, với hậu ý và thâm ý nâng cao hay đem lại phúc lợi cho một thiểu số ưu đãi, đều không thể thay thế đức tin thuần khiết vào sự cứu chuộc muôn loài của Đấng Christ. Bà kinh tởm tính đạo đức giả, bà khinh bỉ những kẻ nhân danh đức tin hoặc nguỵ tạo chân lí để củng cố địa vị và mưu đồ những việc ích lợi riêng tư. Nhân vật điển hình cho hạng người này trong Jane Eyre là mục sư Brocklehurst. Ông là giám đốc trường Lowood, nơi Jane theo học từ năm lên mười. Ông đem Phúc Âm ra nguỵ luận để răn đe và trừng phạt đám nữ sinh bé bỏng, yếu đuối, thường xuyên đói khát. Tính đạo đức giả của ông biến thành câu chuyện khôi hài hôm vào thăm trường thấy các nữ sinh tóc thắt bím, ông đã bắt các cô bé phải cắt cụt cái bím tóc ngay tại chỗ, vừa lúc bà vợ ông và hai cô tiểu thư bước vào đứng bên cạnh, tóc tai chải gỡ cầu kì, xiêm y lộng lẫy như hoàng hậu, công nương.
Có không ít những kẻ như ông Brocklehurst ngoài đời, bất kể thời gian không gian nào. Thực ra tác giả dựng nhân vật này dựa trên tính cách một nhân vật có thật. Đấy chính là mục sư William Carus Wilson, người sáng lập trường Clergy Daughters’ School ở Cowan Bridge, nơi chị em Brontë theo học thuở nhỏ.
Tương phản với Brocklehurst là cô nữ sinh Helen Burns mười bốn tuổi, người trở thành bạn chí thiết của Jane ngay từ những ngày đầu ở Lowood. Hiếm có người như Helen hiện hữu ngoài đời, một cô gái thông minh xuất chúng, đức độ, lòng vị tha không ai bằng. Chị tin vào tinh thần bác ái tuyệt đối, “bị tát má này đưa má khác” của Cơ đốc giáo bằng cách thương yêu kẻ làm mình khổ. Lòng tin chân thành của chị vào Thượng đế khiến chị bình thản đón nhận cái chết đến với chị. Charlotte vẽ nhân vật Helen quá lí tưởng. Jane thán phục đức tính nhẫn nại và chịu đựng của Helen, cả trí lự thông minh, nhưng cô bé Jane lên mười lúc đó là khá hoang mang, cô bé không rõ những gì Helen tin tưởng có phù hợp tâm hồn mình hay không. Jane hình như không theo đuổi một luận thuyết đặc trưng nào, nàng sùng kính Thượng đế và tin vào Đấng Toàn Năng nhưng giáo điều thì nhất quyết không có chỗ đứng trong tâm hồn nàng.
Dịch Jane Eyre
Khi được phát thanh viên Thanh Hà của đài RFI Tiếng Việt hỏi do cơ duyên nào khiến tôi dịch Jane Eyre thì tôi đã trả lời chị như sau: “Cũng như những người yêu sách vở khác, tôi mê Jane Eyre từ khi còn đi học, nhưng không bao giờ có ý định dịch sang tiếng Việt, cho đến khi nhà xuất bản Nhã Nam ở Hà Nội đề nghị cộng tác dịch tác phẩm bất hủ ấy. Tôi đồng ý ngay và kết quả là cuốn sách ra mắt độc giả vào tháng đầu tháng 9 năm 2016 này. Tôi nghĩ đấy là cơ duyên, và tôi có duyên với Jane Eyre.” Vâng, tôi nghĩ Jane Eyre đã tìm đến với tôi.
Đối với tôi, dịch Jane Eyre vừa dễ vừa khó. Dễ vì đây không phải là một tác phẩm tiểu thuyết đầy màu sắc triết học siêu hình khó đọc. Nhưng khó vì ngôn ngữ văn học của tác phẩm là loại Anh ngữ của dòng văn học Anh quốc thế kỉ XIX. Có những từ ngày nay không mấy ai sử dụng nữa, hoặc nếu còn thì lại hiểu theo một ý nghĩa khác. Điểm khó khăn khác cho người dịch cũng như người đọc là sự phong phú của chữ nghĩa, sự xa lạ của cảnh vật, sinh hoạt, tập quán đối với đa phần độc giả người Việt. Tác phẩm cũng trích dẫn nhiều từ Kinh Thánh và các tác phẩm văn học cổ điển mà nếu không rõ xuất xứ thì khó có thể lĩnh hội điều tác giả muốn biểu đạt.
Dịch Jane Eyre, tôi học được nhiều điều, sự phong phú của cấu trúc ngôn ngữ, sự đa tầng của ý nghĩa văn học và nhân sinh. (Nếu không thế tác phẩm đã không còn sức thu hút sau gần 2 thế kỉ.) Để kết luận tôi xin mượn câu nói của không ai khác hơn Virginia Woolf, một nhà văn nữ lừng lẫy khác của Anh quốc sinh sống sau Charlotte Brontë gần thế kỉ:
“Nhà văn đã cầm lấy tay chúng ta, dắt chúng ta đi theo con đường của bà, bắt chúng ta phải nhìn thấy những gì bà thấy, không bao giờ rời chúng ta nửa bước hay cho phép chúng ta quên mất sự hiện diện của bà. Cuối cùng, chúng ta càng lúc càng đắm chìm trong tài năng, sự mãnh liệt, sự phẫn nộ của Charlotte Brontë.”
Last edited by LDN on Sun Jun 05, 2022 6:26 pm; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Trong bình luận có nhắc đến và tôi cũng có đọc qua, bà Charlotte Bronte yêu hiệu trưởng có vợ nơi bà dạy học. Ông hiệu trưởng có vợ này có đáp lại tình yêu 0 thì 0 nhắc đến hình như bà Bronte yêu đơn phương thì phải. Ông Rochester có hình dáng, tính cách của người tình ngoài đời thật. Còn chuyện tại sao ông Rochester yêu Jane thì có lẽ vì ~ gì ông ta trải qua. Bà vợ thứ 1 của ông Rochester xinh đẹp, giàu có, nhưng di truyền bị điên. Chuyện tình Rochester & Jane hiếm có, nếu có thật
Jane Eyre by Charlotte Bronte
Obook
Phong đã review 24 tháng 7, 2018
Mình biết tới cuốn này cũng một thời gian rồi, nhưng chưa có bất cứ kế hoạch gì cho việc đọc nó, chỉ tới vài tuần trước, trong một lần tình cờ mới biết cuối tháng này là kỷ niệm sinh nhật lần thứ 200 của Emily Brontë (tác giả của “Đồi gió hú”, một trong hai nhà văn mà mình yêu thích nhất) thì mình đã quyết định sẽ đọc ngay “Jane Eyre” (cho những bạn nào chưa biết, Charlotte Brontë là chị ruột của Emily Brontë). Mình muốn đọc hai cuốn này thật gần nhau để có sự so sánh, “Jane Eyre” được nhiều người chấm điểm cao và có nhiều review trên goodreads hơn, trong khi đó “Đồi gió hú” là cuốn sách hay nhất mà mình từng được đọc.
Về văn phong: Tác giả Charlotte Brontë có lối viết cực kỳ đẹp, câu văn bay bổng, mình nghĩ nếu bạn không quan tâm lắm đến cốt truyện đi nữa thì chỉ cần bạn là người yêu văn hay chữ tốt thì giọng văn của tác giả cũng đủ khiến bạn mê mẩn rồi. Bà cũng sử dụng nhiều chi tiết, nhân vật trong Kinh Thánh và lịch sử xã hội để đưa vào truyện, khiến mình thấy bất ngờ về kiến thức rộng của bà trên nhiều lĩnh vực. Có một điểm mà mình thấy xuất hiện trong văn học cổ điển, không biết có phải do cách viết hồi đó là như vậy không. Nó cũng không hẳn là phân biệt chủng tộc, chỉ là ở những truyện mình đã đọc có một số chi tiết (nhỏ thôi) miêu tả tính cách của các dân tộc khác (có phần hơi tiêu cực), như là: Người Pháp thì hay nghi ngờ, có bí mật gì thì thường không biết giữ mồm giữ miệng và tính cách của người Pháp cũng không đàng hoàng lắm; người Mỹ thì liều mạng và không được người Anh ưa cho lắm; người Ý thì ác độc và ở dơ; người Do Thái thì gian manh và cơ hội.
Về diễn biến truyện: Truyện này không gay cấn căng thẳng hấp dẫn nghẹt thở nhưng đúng kiểu ở mỗi giai đoạn nó đưa mình đi từ cảm xúc này tới cảm xúc khác (cả tích cực lẫn tiêu cực).
- Thời thơ ấu của Jane ở Gateshead, đi học ở trường Lowood và khi 18 tuổi quyết định rời trường để xin làm cô giáo dạy trẻ ở Thornfield: Đây là khoảng thời gian mà mình thấy không khí trong truyện cũng như tính cách và lối suy nghĩ của Jane tách biệt hẳn với phần còn lại. Mình thích cái thời tiết u ám, lành lạnh, khắc nghiệt ở trường Lowood, đúng là “xứ sở sương mù”.
- Khi Jane bắt đầu quen và có tình cảm với ông Rochester, bất ngờ biết chuyện ông đang giam giữ người vợ cũ bị điên là bà Bertha Mason ở tầng gác ba: Đúng mệt mỏi với chuyện tình của hai người này. Lúc đầu mình không thích ông Rochester vì ổng nói năng hơi khiếm nhã và vô duyên, sau yêu Jane rồi thì nói chuyện lịch sự hơn, rồi lại hơi ghét ổng vì không rõ ràng trong chuyện cưới cô Ingram và giấu Jane và mọi người chuyện bà vợ cũ khiến câu chuyện càng thêm rắc rối.
- Ông Rochester kể lại và giải thích toàn bộ chuyện trong quá khứ với Jane và mong cô chấp nhận ông: (Sau khi quá chán và oải với đoạn ở trên, mình dành hẳn ra hai ngày không đọc truyện, để tránh những cảm xúc tiêu cực cứ theo mình và tự cho bản thân mình suy nghĩ về những phần đã qua trong truyện nhiều hơn.) Đây là đoạn mình thích nhất truyện, mình hiểu và đồng cảm với ông Rochester hơn. Ông có một quá khứ đáng quên: cưới một người mình không yêu, sau người đàn bà đó hóa điên, ông không thể sống cô độc nên tìm đến những cô gái ở lục địa để chơi bời, nhưng ông chán ghét họ, khi về Anh và gặp Jane ông mới nảy sinh những tình cảm rất khác mà trước giờ chưa hề có người phụ nữ nào mang lại được cho ông. Qua đoạn này, mình hiểu rõ được tại sao ông Rochester lại yêu Jane, nhưng mình lại chưa hiểu lắm vì sao Jane yêu ổng, thực chất mình nghĩ tình cảm của cô chỉ là sự tôn kính, sùng bái, quý mến đối với ông chủ của mình thôi, không hẳn là tình yêu.
- Jane rời Thornfield và được St. John cưu mang: Đọc khá ổn, mình có ấn tượng tốt với cả bốn nhân vật ở Marsh End.
- St. John đề nghị lấy cô và cả hai cùng sang Ấn Độ truyền giáo: Đọc hơi mệt, đoạn này mang nhiều tư tưởng về đức tin của St. John, mình không theo đạo Chúa nên không hiểu được những suy nghĩ của ông. Ông này đúng khó hiểu, lúc thì mình thấy ổng tốt, lúc lại thấy ổng là người tham vọng và cứ bắt ép Jane phải làm theo ý mình, nếu không chịu nghe theo thì cho Jane là người từ bỏ đức tin và chỉ biết nghe theo tiếng gọi của cái thể xác tầm thường
Về nhân vật: Truyện này có một hệ thống nhân vật đa dạng với những nét tính cách rất riêng, nhiều nhân vật phụ không hề bị lu mờ và làm nền cho hai nhân vật chính, không phải như kiểu nhắc tới vài lần rồi bị bỏ xó luôn, và mình thích điều này. Mình có cảm tình với chị Bessie dù chị này nói hơi nhiều và triết lý kiểu dạy đời, cô bé Helen Burns ngoan đạo cũng khiến mình ấn tượng với những suy nghĩ tiến bộ của cô (khi người khác đối xử tồi tệ với mình, mình nên làm điều tốt để trả lại cho cái xấu, mình không nên nguyền rủa mà hãy cầu nguyện cho người đã xử tệ với mình - điều này mình cũng được biết qua truyện “Túp lều bác Tom”, cho rằng việc Jane phản kháng một cách quyết liệt là hành động của những người không theo đạo hay của những bộ lạc man rợ), bà Fairfax hiền hậu tốt bụng và trung thành, Adèle sôi nổi với dòng máu Pháp cần được nền giáo dục Anh uốn nắn lại, Eliza và Georgiana với mối bất hòa gay gắt không thể hòa giải, Diana và Mary giống nhau như đúc nhưng vẫn có những nét riêng giúp người khác phân biệt được và bản tính hiền hòa, St. John với vẻ mặt lạnh lùng cùng khát vọng vươn lên những điều cao hơn nữa để phụng sự cho Chúa, ngay cả bà Reed được miêu tả ngay từ đầu là một người phụ nữ cay nghiệt cũng không khiến mình cảm thấy quá ghét bả. Charlotte Brontë đặc biệt thành công trong việc xây dựng tính cách và miêu tả tâm lý nhân vật.
Về thông điệp mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc: Rất nhân văn. Bạn có thể có một bề ngoài xấu xí, một thân phận thấp kém nhưng với một trái tim trong sáng thuần khiết bạn vẫn có thể có được tình yêu từ một người dòng dõi quyền quý, cao sang (khi còn ở Lowood, cái tính tốt của Jane giúp cô được cô giáo và bạn bè tin yêu mặc cho những lời nhục mạ cô là kẻ dối trá từ ông Brocklehurst, sau này, cũng chính điều đó chinh phục được ông Rochester). Dù bạn có mù lòa, có què quặt thì tình yêu vẫn có thể xóa bỏ khuyết điểm đó, vì người ta yêu bản chất của bạn, yêu từng đường gân thớ thịt trên cơ thể bạn, mặc cho bạn có khuyết tật đi nữa. Bên cạnh đó, tác giả còn muốn gửi những thông điệp về khát vọng muốn vươn lên của Jane, muốn vượt ra khỏi sự êm đềm và vòng an toàn vốn có, muốn gặp và tiếp xúc với nhiều người hơn, mở mang đầu óc của mình hơn, để khiến người ta có cái nhìn khác hơn những quan niệm vốn có về phụ nữ. Truyện cũng cho ta nhận ra những quy tắc đối nhân xử thế, cho ta niềm tin hơn về một cuộc sống cũng còn có những người tốt, sẵn lòng mở rộng vòng tay khi ta cận kề cái chết. Jane Eyre cũng không phải một cô gái hoàn hảo, một cô tiên, mà cô cũng có những khuyết điểm riêng, những điểm cần phải hoàn thiện, cũng có lúc cô nói hớ và bị người khác cho là khiếm nhã và chỉnh lại đó thôi. Tính cách của Jane cũng có lúc mình thấy khó hiểu và làm mình khó chịu, nhưng cuối cùng mình vẫn lại đồng cảm được với cô gái này. Jane không chắc đây là nữ chính mà mình thích nhất, nhưng là một trong những nữ chính mà mình có ấn tượng tốt nhất.
Con trai có nên (cần) đọc truyện này không? Khi mình lên youtube để xem review truyện này thì đa phần là thấy video của các bạn nữ, rất ít các bạn nam, có một bạn nam mình nhớ hình như bạn đó nói rằng bạn được học truyện này trong môn văn học Anh trình độ A2 thì phải (ý là nếu bạn ấy không học môn đó thì chưa chắc bạn muốn đọc truyện này). Theo mình, còn tùy mục đích bạn muốn tìm hiểu cái gì và tính cách bạn như thế nào mà bạn quyết định lựa chọn truyện này để đọc hay không. Mình nghĩ bạn nam nào có tâm hồn nhẹ nhàng, tinh tế, sâu sắc, hiểu tâm lý phái nữ và quen đọc truyện kinh điển thì đọc truyện này dễ cảm và dễ vô hơn, vì tác giả kể theo ngôi thứ nhất (nhân vật Jane Eyre), và nói thiệt là một số đoạn trong truyện này mình thấy mệt mỏi chán nản và cũng không phải dễ đọc. Còn nếu bạn đọc vài trang (chương) đầu thấy không chịu được lối viết dài dòng của tác giả thì bạn không cần đọc truyện này cũng được, ý là mình nghĩ nó không thuộc vào danh sách truyện phải đọc trong đời. Nói tới đây phải cảm ơn vì truyện kinh điển đầu tiên mình đọc là “Trong gia đình” (trong tương lai chắc chắn mình sẽ đọc lại truyện này, vì mình có cảm giác bản của Kim Đồng mình đọc trước đây có vẻ như đã bị cắt xén đi bớt một số nội dung), kiểu như mình mà đọc “Jane Eyre” đầu tiên thì chắc mình đã sợ và chạy dài trước dòng văn học kinh điển rồi.
Chương cuối: Bức thư cuối cùng St. John gửi cho Jane, theo mình hiểu là nó báo tin St. John sắp (đã) chết đúng không vậy? Trời ơi. Tại sao?
Về bản phim chuyển thể năm 2011: Theo mình thì bản này chuyển thể khá có tâm, với dung lượng hai tiếng chiếu trên màn ảnh rộng thì thế là chấp nhận được rồi. Tình tiết đôi chỗ đi hơi nhanh và gây khó hiểu: vì sao Jane rời Gateshead để đến học ở Lowood, vì sao Jane rời Lowood để đến dạy ở Thornfield, lý do ông Rochester giam giữ người vợ cũ và quá khứ của ổng, đoạn này khá quan trọng mà lên phim lại nói ít, cái kết được thay đổi và theo mình là nó hơi vội, cảm giác như đến đó các diễn viên chỉ ráng diễn cho xong hết phim cho rồi. Diễn viên đóng vai Jane và Rochester thể hiện khá tốt nhân vật của mình. Diễn viên đóng vai St. John chưa toát ra được khí chất của ông mục sư. Diễn viên đóng vai bà Reed và bà Fairfax có ngoại hình không giống như truyện, trong truyện bà Reed là một người phụ nữ to lớn nhưng không béo ú bệ rạc, bà Fairfax thì nhỏ nhắn và bị cận. Khi xem phim bạn sẽ thấy nội dung truyện đơn giản và chủ yếu là chuyện tình của Jane và ông Rochester, đọc truyện bạn sẽ hiểu về nhiều vấn đề hơn bên cạnh chuyện tình cảm đó, và cũng hiểu về nhân vật hơn là xem phim. Hơi tiếc là khoảng thời gian Jane ở Moor House và Morton cũng khá thú vị nhưng lên phim thì lại hời hợt và không được coi trọng. Nhưng nói chung các diễn viên đã đóng khá tròn vai, cốt truyện chính trong truyện cũng được đảm bảo khi lên phim. (thú thật là đã có lúc mình thích Jane trong phim hơn Jane trong truyện, nhưng càng đọc đến cuối truyện mình càng cảm thấy Jane trong phim là cô diễn viên Mia Wasikowska thủ vai chứ không thực sự là Jane Eyre, và mình thích Jane Eyre hơn)
Riêng cuốn sách này, mình có thể hiểu được nếu có nhiều người không thích nó hay cho 1 sao 2 sao hay bỏ dở từ những trang (chương) đầu tiên hay không tiếc lời chê tơi bời hoa lá. Đọc mệt quá mà, ngốn của mình gần hai tuần.
Jane Eyre by Charlotte Bronte
Obook
Phong đã review 24 tháng 7, 2018
Mình biết tới cuốn này cũng một thời gian rồi, nhưng chưa có bất cứ kế hoạch gì cho việc đọc nó, chỉ tới vài tuần trước, trong một lần tình cờ mới biết cuối tháng này là kỷ niệm sinh nhật lần thứ 200 của Emily Brontë (tác giả của “Đồi gió hú”, một trong hai nhà văn mà mình yêu thích nhất) thì mình đã quyết định sẽ đọc ngay “Jane Eyre” (cho những bạn nào chưa biết, Charlotte Brontë là chị ruột của Emily Brontë). Mình muốn đọc hai cuốn này thật gần nhau để có sự so sánh, “Jane Eyre” được nhiều người chấm điểm cao và có nhiều review trên goodreads hơn, trong khi đó “Đồi gió hú” là cuốn sách hay nhất mà mình từng được đọc.
Về văn phong: Tác giả Charlotte Brontë có lối viết cực kỳ đẹp, câu văn bay bổng, mình nghĩ nếu bạn không quan tâm lắm đến cốt truyện đi nữa thì chỉ cần bạn là người yêu văn hay chữ tốt thì giọng văn của tác giả cũng đủ khiến bạn mê mẩn rồi. Bà cũng sử dụng nhiều chi tiết, nhân vật trong Kinh Thánh và lịch sử xã hội để đưa vào truyện, khiến mình thấy bất ngờ về kiến thức rộng của bà trên nhiều lĩnh vực. Có một điểm mà mình thấy xuất hiện trong văn học cổ điển, không biết có phải do cách viết hồi đó là như vậy không. Nó cũng không hẳn là phân biệt chủng tộc, chỉ là ở những truyện mình đã đọc có một số chi tiết (nhỏ thôi) miêu tả tính cách của các dân tộc khác (có phần hơi tiêu cực), như là: Người Pháp thì hay nghi ngờ, có bí mật gì thì thường không biết giữ mồm giữ miệng và tính cách của người Pháp cũng không đàng hoàng lắm; người Mỹ thì liều mạng và không được người Anh ưa cho lắm; người Ý thì ác độc và ở dơ; người Do Thái thì gian manh và cơ hội.
Về diễn biến truyện: Truyện này không gay cấn căng thẳng hấp dẫn nghẹt thở nhưng đúng kiểu ở mỗi giai đoạn nó đưa mình đi từ cảm xúc này tới cảm xúc khác (cả tích cực lẫn tiêu cực).
- Thời thơ ấu của Jane ở Gateshead, đi học ở trường Lowood và khi 18 tuổi quyết định rời trường để xin làm cô giáo dạy trẻ ở Thornfield: Đây là khoảng thời gian mà mình thấy không khí trong truyện cũng như tính cách và lối suy nghĩ của Jane tách biệt hẳn với phần còn lại. Mình thích cái thời tiết u ám, lành lạnh, khắc nghiệt ở trường Lowood, đúng là “xứ sở sương mù”.
- Khi Jane bắt đầu quen và có tình cảm với ông Rochester, bất ngờ biết chuyện ông đang giam giữ người vợ cũ bị điên là bà Bertha Mason ở tầng gác ba: Đúng mệt mỏi với chuyện tình của hai người này. Lúc đầu mình không thích ông Rochester vì ổng nói năng hơi khiếm nhã và vô duyên, sau yêu Jane rồi thì nói chuyện lịch sự hơn, rồi lại hơi ghét ổng vì không rõ ràng trong chuyện cưới cô Ingram và giấu Jane và mọi người chuyện bà vợ cũ khiến câu chuyện càng thêm rắc rối.
- Ông Rochester kể lại và giải thích toàn bộ chuyện trong quá khứ với Jane và mong cô chấp nhận ông: (Sau khi quá chán và oải với đoạn ở trên, mình dành hẳn ra hai ngày không đọc truyện, để tránh những cảm xúc tiêu cực cứ theo mình và tự cho bản thân mình suy nghĩ về những phần đã qua trong truyện nhiều hơn.) Đây là đoạn mình thích nhất truyện, mình hiểu và đồng cảm với ông Rochester hơn. Ông có một quá khứ đáng quên: cưới một người mình không yêu, sau người đàn bà đó hóa điên, ông không thể sống cô độc nên tìm đến những cô gái ở lục địa để chơi bời, nhưng ông chán ghét họ, khi về Anh và gặp Jane ông mới nảy sinh những tình cảm rất khác mà trước giờ chưa hề có người phụ nữ nào mang lại được cho ông. Qua đoạn này, mình hiểu rõ được tại sao ông Rochester lại yêu Jane, nhưng mình lại chưa hiểu lắm vì sao Jane yêu ổng, thực chất mình nghĩ tình cảm của cô chỉ là sự tôn kính, sùng bái, quý mến đối với ông chủ của mình thôi, không hẳn là tình yêu.
- Jane rời Thornfield và được St. John cưu mang: Đọc khá ổn, mình có ấn tượng tốt với cả bốn nhân vật ở Marsh End.
- St. John đề nghị lấy cô và cả hai cùng sang Ấn Độ truyền giáo: Đọc hơi mệt, đoạn này mang nhiều tư tưởng về đức tin của St. John, mình không theo đạo Chúa nên không hiểu được những suy nghĩ của ông. Ông này đúng khó hiểu, lúc thì mình thấy ổng tốt, lúc lại thấy ổng là người tham vọng và cứ bắt ép Jane phải làm theo ý mình, nếu không chịu nghe theo thì cho Jane là người từ bỏ đức tin và chỉ biết nghe theo tiếng gọi của cái thể xác tầm thường
Về nhân vật: Truyện này có một hệ thống nhân vật đa dạng với những nét tính cách rất riêng, nhiều nhân vật phụ không hề bị lu mờ và làm nền cho hai nhân vật chính, không phải như kiểu nhắc tới vài lần rồi bị bỏ xó luôn, và mình thích điều này. Mình có cảm tình với chị Bessie dù chị này nói hơi nhiều và triết lý kiểu dạy đời, cô bé Helen Burns ngoan đạo cũng khiến mình ấn tượng với những suy nghĩ tiến bộ của cô (khi người khác đối xử tồi tệ với mình, mình nên làm điều tốt để trả lại cho cái xấu, mình không nên nguyền rủa mà hãy cầu nguyện cho người đã xử tệ với mình - điều này mình cũng được biết qua truyện “Túp lều bác Tom”, cho rằng việc Jane phản kháng một cách quyết liệt là hành động của những người không theo đạo hay của những bộ lạc man rợ), bà Fairfax hiền hậu tốt bụng và trung thành, Adèle sôi nổi với dòng máu Pháp cần được nền giáo dục Anh uốn nắn lại, Eliza và Georgiana với mối bất hòa gay gắt không thể hòa giải, Diana và Mary giống nhau như đúc nhưng vẫn có những nét riêng giúp người khác phân biệt được và bản tính hiền hòa, St. John với vẻ mặt lạnh lùng cùng khát vọng vươn lên những điều cao hơn nữa để phụng sự cho Chúa, ngay cả bà Reed được miêu tả ngay từ đầu là một người phụ nữ cay nghiệt cũng không khiến mình cảm thấy quá ghét bả. Charlotte Brontë đặc biệt thành công trong việc xây dựng tính cách và miêu tả tâm lý nhân vật.
Về thông điệp mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc: Rất nhân văn. Bạn có thể có một bề ngoài xấu xí, một thân phận thấp kém nhưng với một trái tim trong sáng thuần khiết bạn vẫn có thể có được tình yêu từ một người dòng dõi quyền quý, cao sang (khi còn ở Lowood, cái tính tốt của Jane giúp cô được cô giáo và bạn bè tin yêu mặc cho những lời nhục mạ cô là kẻ dối trá từ ông Brocklehurst, sau này, cũng chính điều đó chinh phục được ông Rochester). Dù bạn có mù lòa, có què quặt thì tình yêu vẫn có thể xóa bỏ khuyết điểm đó, vì người ta yêu bản chất của bạn, yêu từng đường gân thớ thịt trên cơ thể bạn, mặc cho bạn có khuyết tật đi nữa. Bên cạnh đó, tác giả còn muốn gửi những thông điệp về khát vọng muốn vươn lên của Jane, muốn vượt ra khỏi sự êm đềm và vòng an toàn vốn có, muốn gặp và tiếp xúc với nhiều người hơn, mở mang đầu óc của mình hơn, để khiến người ta có cái nhìn khác hơn những quan niệm vốn có về phụ nữ. Truyện cũng cho ta nhận ra những quy tắc đối nhân xử thế, cho ta niềm tin hơn về một cuộc sống cũng còn có những người tốt, sẵn lòng mở rộng vòng tay khi ta cận kề cái chết. Jane Eyre cũng không phải một cô gái hoàn hảo, một cô tiên, mà cô cũng có những khuyết điểm riêng, những điểm cần phải hoàn thiện, cũng có lúc cô nói hớ và bị người khác cho là khiếm nhã và chỉnh lại đó thôi. Tính cách của Jane cũng có lúc mình thấy khó hiểu và làm mình khó chịu, nhưng cuối cùng mình vẫn lại đồng cảm được với cô gái này. Jane không chắc đây là nữ chính mà mình thích nhất, nhưng là một trong những nữ chính mà mình có ấn tượng tốt nhất.
Con trai có nên (cần) đọc truyện này không? Khi mình lên youtube để xem review truyện này thì đa phần là thấy video của các bạn nữ, rất ít các bạn nam, có một bạn nam mình nhớ hình như bạn đó nói rằng bạn được học truyện này trong môn văn học Anh trình độ A2 thì phải (ý là nếu bạn ấy không học môn đó thì chưa chắc bạn muốn đọc truyện này). Theo mình, còn tùy mục đích bạn muốn tìm hiểu cái gì và tính cách bạn như thế nào mà bạn quyết định lựa chọn truyện này để đọc hay không. Mình nghĩ bạn nam nào có tâm hồn nhẹ nhàng, tinh tế, sâu sắc, hiểu tâm lý phái nữ và quen đọc truyện kinh điển thì đọc truyện này dễ cảm và dễ vô hơn, vì tác giả kể theo ngôi thứ nhất (nhân vật Jane Eyre), và nói thiệt là một số đoạn trong truyện này mình thấy mệt mỏi chán nản và cũng không phải dễ đọc. Còn nếu bạn đọc vài trang (chương) đầu thấy không chịu được lối viết dài dòng của tác giả thì bạn không cần đọc truyện này cũng được, ý là mình nghĩ nó không thuộc vào danh sách truyện phải đọc trong đời. Nói tới đây phải cảm ơn vì truyện kinh điển đầu tiên mình đọc là “Trong gia đình” (trong tương lai chắc chắn mình sẽ đọc lại truyện này, vì mình có cảm giác bản của Kim Đồng mình đọc trước đây có vẻ như đã bị cắt xén đi bớt một số nội dung), kiểu như mình mà đọc “Jane Eyre” đầu tiên thì chắc mình đã sợ và chạy dài trước dòng văn học kinh điển rồi.
Chương cuối: Bức thư cuối cùng St. John gửi cho Jane, theo mình hiểu là nó báo tin St. John sắp (đã) chết đúng không vậy? Trời ơi. Tại sao?
Về bản phim chuyển thể năm 2011: Theo mình thì bản này chuyển thể khá có tâm, với dung lượng hai tiếng chiếu trên màn ảnh rộng thì thế là chấp nhận được rồi. Tình tiết đôi chỗ đi hơi nhanh và gây khó hiểu: vì sao Jane rời Gateshead để đến học ở Lowood, vì sao Jane rời Lowood để đến dạy ở Thornfield, lý do ông Rochester giam giữ người vợ cũ và quá khứ của ổng, đoạn này khá quan trọng mà lên phim lại nói ít, cái kết được thay đổi và theo mình là nó hơi vội, cảm giác như đến đó các diễn viên chỉ ráng diễn cho xong hết phim cho rồi. Diễn viên đóng vai Jane và Rochester thể hiện khá tốt nhân vật của mình. Diễn viên đóng vai St. John chưa toát ra được khí chất của ông mục sư. Diễn viên đóng vai bà Reed và bà Fairfax có ngoại hình không giống như truyện, trong truyện bà Reed là một người phụ nữ to lớn nhưng không béo ú bệ rạc, bà Fairfax thì nhỏ nhắn và bị cận. Khi xem phim bạn sẽ thấy nội dung truyện đơn giản và chủ yếu là chuyện tình của Jane và ông Rochester, đọc truyện bạn sẽ hiểu về nhiều vấn đề hơn bên cạnh chuyện tình cảm đó, và cũng hiểu về nhân vật hơn là xem phim. Hơi tiếc là khoảng thời gian Jane ở Moor House và Morton cũng khá thú vị nhưng lên phim thì lại hời hợt và không được coi trọng. Nhưng nói chung các diễn viên đã đóng khá tròn vai, cốt truyện chính trong truyện cũng được đảm bảo khi lên phim. (thú thật là đã có lúc mình thích Jane trong phim hơn Jane trong truyện, nhưng càng đọc đến cuối truyện mình càng cảm thấy Jane trong phim là cô diễn viên Mia Wasikowska thủ vai chứ không thực sự là Jane Eyre, và mình thích Jane Eyre hơn)
Riêng cuốn sách này, mình có thể hiểu được nếu có nhiều người không thích nó hay cho 1 sao 2 sao hay bỏ dở từ những trang (chương) đầu tiên hay không tiếc lời chê tơi bời hoa lá. Đọc mệt quá mà, ngốn của mình gần hai tuần.
Last edited by LDN on Wed Jun 08, 2022 8:03 am; edited 5 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Jane Eyre - Sự vùng vẫy của những người phụ nữ
Ấy là vào một buổi chiều mùa thu, ngồi rảnh rang trên thư viện, tôi lấy đại một cuốn sách để đọc. Lật giở trang truyện Jane Eyre của...
thanhbinh
Thiên Thanh
23 tháng 11 2016 - spiderum
Ấy là vào một buổi chiều mùa thu, ngồi rảnh rang trên thư viện, tôi lấy đại một cuốn sách để đọc. Lật giở trang truyện Jane Eyre của Challote Bronte, ngay lập tức, tôi bị cuốn theo cuốn truyện từ trang này đến trang khác. Có lẽ bởi sự hấp dẫn trong cách kể chuyện, cách xây dựng nhân vật hay có thể là có một sợi dây nào đó kết nối giữa bản thân tôi và nhân vật trong truyện.
Jane Eyre bắt đầu bằng hình ảnh một cô bé có nội tâm đẹp, nhanh nhẹn, thông minh nhưng lại cô đơn giữa một thế giới rộng lớn. Jane là một cô bé có cá tính, mồ côi cha mẹ và phải sống ở nhà dì dượng Reed. Kể từ khi phải sống ở đó, Jane luôn bị đối xử như một đứa trẻ osin, thậm chí đôi lúc, họ còn coi cô như một trò tiêu khiển. Cuộc sống của Jane dường như gắn liền với những góc nhà, tấm rèm che cửa sổ quen thuộc. Trong gia đình ấy, cô sống cô độc, không sách, không được chơi đùa, lúc nào cũng có thể bị đánh đập, chửi rủa. Sống với tư cách là đứa trẻ ở nhờ, Jane đã từng cam chịu những sự hành hạ ấy. Nhưng buổi chiều hôm đó, trong lúc đang say sưa đắm mình trong thế giới của cuốn sách của Bewich thì đó cũng là lúc mọi thứ trong Jane thay đổi. hình ảnh cô bé thu mình lại một góc trốn dưới rèm cửa, ngấu nghiến đọc những trang sách mà đối với cô nó thật kì diệu dễ khiến cho người ta nhớ lại một thời con nít, hứng thú với một thế giới rộng lơn đầy màu sắc. Đối với một đứa trẻ ít được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, những trang sách như mở cho cô một thế giới mới, ở đó, cô được tự do tưởng tượng những hình ảnh đẹp mê hồn. Cuốn sách đó như một nguồn sống, một nguồn khích lệ lớn để Jane dũng cảm đưa ra những “tuyên ngôn độc lập” cho bản thân. Khi bị giật mất cuốn sách và bị những đứa trẻ tự xưng là chủ nhà hành hạ, cô không hề e sợ mà thốt lên rằng chúng là đồ độc ác, giống tên cai nô, giống một tên La Mã hung bạo. Sau đó, đến chính cô cũng không hiểu nổi tại sao lúc đó cô lại có thể đáp lại bằng những lời như vậy, rồi sợ sệt khi phải nhận lại những hình phạt từ phía dì Reed.
Gia đình nhà Reed luôn bắt Jane sống tách biệt, không cho Jane chơi với những đứa con của mình. Tôi bị ấn tượng với câu hỏi ngây thơ của Jane và lời đáp lại chua chát của Bessie. Họ cho rằng những đứa trẻ thì không được phép cãi lại, không được đặt câu hỏi tại sao, nếu không đều sẽ là những đứa trẻ hư. Những suy nghĩ định kiến ấy cũng khiến tôi nhớ về những định kiến của xã hội Việt Nam chục năm về trước, và có thể bây giờ vẫn đang tồn tại nơi làng quê. Quan điểm “ngoan” là bảo gì nghe nấy, không hỏi lại tại sao, không được phép cãi lại, và dù không thích thì cũng phải nín nhịn làm theo. Tuổi thơ của tôi cũng đã phải chịu đựng những lễ giáo, những khuôn phép không hiểu từ đâu áp đặt lên mình. Có lẽ đó là sự kết nối đặc biệt đầu tiên của tôi khi đọc về tuổi thơ của Jane. Tôi cảm nhận được sự bí bách muốn vẫy vùng, muốn đập phá, muốn phủ nhận và xóa bỏ hết mọi sự vô lí đó! Tôi cảm nhận được một tâm hồn mạnh mẽ bị trói buộc và đè nặng bởi những áp đặt vô hình! Đó là sự bức bối, khó chịu, muốn đập tan, vùng vẫy và bỏ chạy… nhưng trong tay lại không hề có gì! Và kết quả là lại phải chịu những hình phạt, những trận đòn roi … Những hình phạt, một cách nào đó đã làm những đứa trẻ con sợ sệt và có thể sẽ ko dám làm như vậy một lần nữa. Nhưng với cô bé Jane Eyre, tôi vẫn nhìn ra ngọn lửa trong cô vẫn chưa tàn, chỉ là tạm lắng xuống!
Một thời gian sau, gia đình Reed muốn tống khứ Jane đến trường Lowood để học bởi họ không muốn có sự xuất hiện của cô trong căn nhà của họ nữa. Trong sự kích động, Jane đã dũng cảm mắng thẳng vào mặt bà dì Reed. “Làm sao tôi dám ư bà Reed? Bởi vì đó là sự thật!” … “Người ta cứ tưởng bà là người phụ nữ tốt, nhưng thật ra bà xấu xa, bà là một người không có trái tim. Bà mới là người nói dối!”
Tinh thần và dũng khí của Jane tỷ lệ nghịch với thân hình bé nhỏ của cô gái. Cô là một người có chính kiến của mình, cho dù tất cả mọi người xung quanh cho rằng cô hư và nói dối, cô vẫn tin vào bản thân của mình, dám vạch trần bộ mặt thực sự của những kẻ đạo đức giả. Chính những lời nói này của Jane đúng đến mức nó khiến cho bà Reed hoảng sợ, khuôn mặt méo mó như thể sắp bật khóc. Khi nói ra được những gì mình cất giấu bấy lâu, Jane cảm thấy tự do, cảm giác như những sợi gông xiềng xích bấy lâu đã bị phá tung.
Nói về trường Lowood, dù có khắc khổ về vật chất cũng thoải mái hơn nhiều so với sợi dây xích về tinh thần mà nhà Reeds tạo cho cô. Ở Lowood cũng tồn tại những thế lực cưỡng ép học sinh làm theo mọi quy củ, nhưng ở đây cũng cho cô những người bạn và người thầy, giúp cô trưởng thành hơn và thay đổi. Jane được truyền cảm hứng bởi cô Temple và người bạn thân của mình Burn. Cô Temple là một giáo viên tốt và có tâm, cô đối xử rất ân cần với học sinh của mình. Cô cũng là một người chính trực và không sợ cường quyền, luôn hết lòng để bảo vệ học sinh của mình. Có lẽ chính vì lẽ đó, chính Jane cảm nhận được một nguồn động lực lớn để học tập, để không phụ vào sự tin tưởng của cô. Sự tin tưởng, đôi khi tưởng không là gì, nhưng với một ai đó đấy là cả một gia tài, cả một nguồn sáng cho họ cố gắng với tới. Những tháng ngày sau, Jane luôn là một học sinh xuất sắc. Cô trở thành một người phụ nữ mạnh mẽ, khéo léo, có bản lĩnh và trí tuệ. Sự hoang dại ngày bé giờ đây đã được rèn luyện để trở nên sắc sảo hơn, dạn dĩ hơn.
Theo gương cô Temple, sau khi rời Lowood, Jane đến làm gia sư ở lâu đài Thornfield. Tại đây, cô đã phải lòng chủ lâu đài - ông Rochester. Ông Rochester cũng bị ấn tượng sâu sắc với Jane bởi sự thông minh, khéo léo của cô chứ không vì ngoại hình xinh đẹp. Còn đối với Jane, ông chủ lâu đài như cả một thế giới mới mà cô chưa được thấy bao giờ. Đó là thế giới của những điều thú vị, nhưng cũng nhiều nỗi đau. Tuy nhiên lúc đầu, cả hai người lại chưa ai mở lòng đón nhận người kia vì một vài cách trở. Ông Rochester cũng gặp nỗi đau trong quá khứ, và có lẽ chưa đủ tin tưởng để sẵn sàng đón nhận một mối quan hệ mới. Jane lại vẫn thấy tự ti vì thân phận của mình. Rào cản xã hội và một số trải nghiệm không mấy vui vẻ gì trong quá khứ đã ngăn cản hai trái tim đến với nhau. Có lẽ ông Rochester sợ rằng mình sẽ lại bị phản bội một lần nữa, còn Jane cũng sợ rằng mình không hề xứng đáng với một người cao quý như ông. Mối quan hệ của họ cứ bị chủ đích kìm lại, nhưng nó vẫn cứ đang lớn lên ngày một nhiều. Mọi vấn đề được giải quyết khi chính ông Rochester là người chủ động giả dạng người đàn bà Digan và thú nhận tình cảm của mình. Lúc bấy giờ, cả hai có lẽ đã thấy mình là người may mắn và hạnh phúc nhất thế gian, sau khi trải qua được những rào cản về tâm lý. Hai người đã định tiến tới hôn nhân nhưng Jane phát hiện ra người vợ điên của ông Rochester. Mọi thứ xung quanh cô dường như sập đổ, hôn lễ cũng sập đổ và lâu đài Thornfield dường như không còn là nơi cô coi là nhà nữa. Cô đau đớn và bàng hoàng chạy trốn khỏi sự thật, chạy trốn khỏi Thornfield. Có lẽ người ta càng hạnh phúc với những gì mình đang có, người ta càng đau khi mọi thứ bỗng nhiên sụp đổ ngay trong ngày cưới của mình. Nỗi đau làm người ta trở nên mạnh mẽ, dù không có gì trong tay, Jane vẫn quyết định ra đi. Cô đơn và lang thang trên đường cũng không sánh bằng nỗi trống vắng trong tim can cô.
Sau đó Jane được người anh họ của mình giúp đỡ và may mắn Jane nhận được số tiền kế thừa, cô trở nên giàu có. Người anh này của Jane là một người mộ đạo, và cho rằng cuộc đời của Jane có sứ mệnh trở thành vợ và thành bạn đồng hành của ông ta trong cuộc đời cứu thế. Tuy nhiên, Jane của chúng ta vẫn vô cùng tỉnh táo. Cô biết cô muốn gì, tim mình đang hướng về ai. Cô đã từ chối lời cầu hôn của người anh họ mà chạy về Thornfield sau khi có một dự cảm không lành về ông Rochester.
Trở về Thornfield, mọi thứ hoang tàn, cô không thấy bóng dáng của người mình yêu đâu cả. Trái tim cô thắt lại! Sau khi hỏi được thông tin, cô mới biết Rochester vẫn còn sống và đang ở tại lâu đài Yorkshine. Cô vội vã quay trở lại, và cho dù ông Rochester đã tàn phế, nhưng 2 người vẫn đến với nhau và sống hạnh phúc với nhau. Lúc này, mọi rào cản cũng không thể ngăn cản được tình yêu của 2 người, họ đã có một cái kết hạnh phúc viên mãn và ngọt ngào!
Cuốn tiểu thuyết Jane Eyre được coi như cuốn nhật ký của tác giả Challote Bronte bởi sự trùng hợp trong cuôc đời và số phận của bà. Challote không có được hạnh phúc trong tình yêu nhưng bà đã gửi trọn hạnh phúc của mình vào cuốn tiểu thuyết, vào nhân vật của mình và mong muốn nhân vật của mình sẽ có một cái kết viên mãn. Đọc Jane Eyre có lẽ không chỉ ấn tượng về nhân vật trong tác phẩm, cuộc đời và số phận của Challote cũng là điều khiến tôi luôn suy nghĩ và nhớ về…
Ấy là vào một buổi chiều mùa thu, ngồi rảnh rang trên thư viện, tôi lấy đại một cuốn sách để đọc. Lật giở trang truyện Jane Eyre của...
thanhbinh
Thiên Thanh
23 tháng 11 2016 - spiderum
Ấy là vào một buổi chiều mùa thu, ngồi rảnh rang trên thư viện, tôi lấy đại một cuốn sách để đọc. Lật giở trang truyện Jane Eyre của Challote Bronte, ngay lập tức, tôi bị cuốn theo cuốn truyện từ trang này đến trang khác. Có lẽ bởi sự hấp dẫn trong cách kể chuyện, cách xây dựng nhân vật hay có thể là có một sợi dây nào đó kết nối giữa bản thân tôi và nhân vật trong truyện.
Jane Eyre bắt đầu bằng hình ảnh một cô bé có nội tâm đẹp, nhanh nhẹn, thông minh nhưng lại cô đơn giữa một thế giới rộng lớn. Jane là một cô bé có cá tính, mồ côi cha mẹ và phải sống ở nhà dì dượng Reed. Kể từ khi phải sống ở đó, Jane luôn bị đối xử như một đứa trẻ osin, thậm chí đôi lúc, họ còn coi cô như một trò tiêu khiển. Cuộc sống của Jane dường như gắn liền với những góc nhà, tấm rèm che cửa sổ quen thuộc. Trong gia đình ấy, cô sống cô độc, không sách, không được chơi đùa, lúc nào cũng có thể bị đánh đập, chửi rủa. Sống với tư cách là đứa trẻ ở nhờ, Jane đã từng cam chịu những sự hành hạ ấy. Nhưng buổi chiều hôm đó, trong lúc đang say sưa đắm mình trong thế giới của cuốn sách của Bewich thì đó cũng là lúc mọi thứ trong Jane thay đổi. hình ảnh cô bé thu mình lại một góc trốn dưới rèm cửa, ngấu nghiến đọc những trang sách mà đối với cô nó thật kì diệu dễ khiến cho người ta nhớ lại một thời con nít, hứng thú với một thế giới rộng lơn đầy màu sắc. Đối với một đứa trẻ ít được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, những trang sách như mở cho cô một thế giới mới, ở đó, cô được tự do tưởng tượng những hình ảnh đẹp mê hồn. Cuốn sách đó như một nguồn sống, một nguồn khích lệ lớn để Jane dũng cảm đưa ra những “tuyên ngôn độc lập” cho bản thân. Khi bị giật mất cuốn sách và bị những đứa trẻ tự xưng là chủ nhà hành hạ, cô không hề e sợ mà thốt lên rằng chúng là đồ độc ác, giống tên cai nô, giống một tên La Mã hung bạo. Sau đó, đến chính cô cũng không hiểu nổi tại sao lúc đó cô lại có thể đáp lại bằng những lời như vậy, rồi sợ sệt khi phải nhận lại những hình phạt từ phía dì Reed.
Gia đình nhà Reed luôn bắt Jane sống tách biệt, không cho Jane chơi với những đứa con của mình. Tôi bị ấn tượng với câu hỏi ngây thơ của Jane và lời đáp lại chua chát của Bessie. Họ cho rằng những đứa trẻ thì không được phép cãi lại, không được đặt câu hỏi tại sao, nếu không đều sẽ là những đứa trẻ hư. Những suy nghĩ định kiến ấy cũng khiến tôi nhớ về những định kiến của xã hội Việt Nam chục năm về trước, và có thể bây giờ vẫn đang tồn tại nơi làng quê. Quan điểm “ngoan” là bảo gì nghe nấy, không hỏi lại tại sao, không được phép cãi lại, và dù không thích thì cũng phải nín nhịn làm theo. Tuổi thơ của tôi cũng đã phải chịu đựng những lễ giáo, những khuôn phép không hiểu từ đâu áp đặt lên mình. Có lẽ đó là sự kết nối đặc biệt đầu tiên của tôi khi đọc về tuổi thơ của Jane. Tôi cảm nhận được sự bí bách muốn vẫy vùng, muốn đập phá, muốn phủ nhận và xóa bỏ hết mọi sự vô lí đó! Tôi cảm nhận được một tâm hồn mạnh mẽ bị trói buộc và đè nặng bởi những áp đặt vô hình! Đó là sự bức bối, khó chịu, muốn đập tan, vùng vẫy và bỏ chạy… nhưng trong tay lại không hề có gì! Và kết quả là lại phải chịu những hình phạt, những trận đòn roi … Những hình phạt, một cách nào đó đã làm những đứa trẻ con sợ sệt và có thể sẽ ko dám làm như vậy một lần nữa. Nhưng với cô bé Jane Eyre, tôi vẫn nhìn ra ngọn lửa trong cô vẫn chưa tàn, chỉ là tạm lắng xuống!
Một thời gian sau, gia đình Reed muốn tống khứ Jane đến trường Lowood để học bởi họ không muốn có sự xuất hiện của cô trong căn nhà của họ nữa. Trong sự kích động, Jane đã dũng cảm mắng thẳng vào mặt bà dì Reed. “Làm sao tôi dám ư bà Reed? Bởi vì đó là sự thật!” … “Người ta cứ tưởng bà là người phụ nữ tốt, nhưng thật ra bà xấu xa, bà là một người không có trái tim. Bà mới là người nói dối!”
Tinh thần và dũng khí của Jane tỷ lệ nghịch với thân hình bé nhỏ của cô gái. Cô là một người có chính kiến của mình, cho dù tất cả mọi người xung quanh cho rằng cô hư và nói dối, cô vẫn tin vào bản thân của mình, dám vạch trần bộ mặt thực sự của những kẻ đạo đức giả. Chính những lời nói này của Jane đúng đến mức nó khiến cho bà Reed hoảng sợ, khuôn mặt méo mó như thể sắp bật khóc. Khi nói ra được những gì mình cất giấu bấy lâu, Jane cảm thấy tự do, cảm giác như những sợi gông xiềng xích bấy lâu đã bị phá tung.
Nói về trường Lowood, dù có khắc khổ về vật chất cũng thoải mái hơn nhiều so với sợi dây xích về tinh thần mà nhà Reeds tạo cho cô. Ở Lowood cũng tồn tại những thế lực cưỡng ép học sinh làm theo mọi quy củ, nhưng ở đây cũng cho cô những người bạn và người thầy, giúp cô trưởng thành hơn và thay đổi. Jane được truyền cảm hứng bởi cô Temple và người bạn thân của mình Burn. Cô Temple là một giáo viên tốt và có tâm, cô đối xử rất ân cần với học sinh của mình. Cô cũng là một người chính trực và không sợ cường quyền, luôn hết lòng để bảo vệ học sinh của mình. Có lẽ chính vì lẽ đó, chính Jane cảm nhận được một nguồn động lực lớn để học tập, để không phụ vào sự tin tưởng của cô. Sự tin tưởng, đôi khi tưởng không là gì, nhưng với một ai đó đấy là cả một gia tài, cả một nguồn sáng cho họ cố gắng với tới. Những tháng ngày sau, Jane luôn là một học sinh xuất sắc. Cô trở thành một người phụ nữ mạnh mẽ, khéo léo, có bản lĩnh và trí tuệ. Sự hoang dại ngày bé giờ đây đã được rèn luyện để trở nên sắc sảo hơn, dạn dĩ hơn.
Theo gương cô Temple, sau khi rời Lowood, Jane đến làm gia sư ở lâu đài Thornfield. Tại đây, cô đã phải lòng chủ lâu đài - ông Rochester. Ông Rochester cũng bị ấn tượng sâu sắc với Jane bởi sự thông minh, khéo léo của cô chứ không vì ngoại hình xinh đẹp. Còn đối với Jane, ông chủ lâu đài như cả một thế giới mới mà cô chưa được thấy bao giờ. Đó là thế giới của những điều thú vị, nhưng cũng nhiều nỗi đau. Tuy nhiên lúc đầu, cả hai người lại chưa ai mở lòng đón nhận người kia vì một vài cách trở. Ông Rochester cũng gặp nỗi đau trong quá khứ, và có lẽ chưa đủ tin tưởng để sẵn sàng đón nhận một mối quan hệ mới. Jane lại vẫn thấy tự ti vì thân phận của mình. Rào cản xã hội và một số trải nghiệm không mấy vui vẻ gì trong quá khứ đã ngăn cản hai trái tim đến với nhau. Có lẽ ông Rochester sợ rằng mình sẽ lại bị phản bội một lần nữa, còn Jane cũng sợ rằng mình không hề xứng đáng với một người cao quý như ông. Mối quan hệ của họ cứ bị chủ đích kìm lại, nhưng nó vẫn cứ đang lớn lên ngày một nhiều. Mọi vấn đề được giải quyết khi chính ông Rochester là người chủ động giả dạng người đàn bà Digan và thú nhận tình cảm của mình. Lúc bấy giờ, cả hai có lẽ đã thấy mình là người may mắn và hạnh phúc nhất thế gian, sau khi trải qua được những rào cản về tâm lý. Hai người đã định tiến tới hôn nhân nhưng Jane phát hiện ra người vợ điên của ông Rochester. Mọi thứ xung quanh cô dường như sập đổ, hôn lễ cũng sập đổ và lâu đài Thornfield dường như không còn là nơi cô coi là nhà nữa. Cô đau đớn và bàng hoàng chạy trốn khỏi sự thật, chạy trốn khỏi Thornfield. Có lẽ người ta càng hạnh phúc với những gì mình đang có, người ta càng đau khi mọi thứ bỗng nhiên sụp đổ ngay trong ngày cưới của mình. Nỗi đau làm người ta trở nên mạnh mẽ, dù không có gì trong tay, Jane vẫn quyết định ra đi. Cô đơn và lang thang trên đường cũng không sánh bằng nỗi trống vắng trong tim can cô.
Sau đó Jane được người anh họ của mình giúp đỡ và may mắn Jane nhận được số tiền kế thừa, cô trở nên giàu có. Người anh này của Jane là một người mộ đạo, và cho rằng cuộc đời của Jane có sứ mệnh trở thành vợ và thành bạn đồng hành của ông ta trong cuộc đời cứu thế. Tuy nhiên, Jane của chúng ta vẫn vô cùng tỉnh táo. Cô biết cô muốn gì, tim mình đang hướng về ai. Cô đã từ chối lời cầu hôn của người anh họ mà chạy về Thornfield sau khi có một dự cảm không lành về ông Rochester.
Trở về Thornfield, mọi thứ hoang tàn, cô không thấy bóng dáng của người mình yêu đâu cả. Trái tim cô thắt lại! Sau khi hỏi được thông tin, cô mới biết Rochester vẫn còn sống và đang ở tại lâu đài Yorkshine. Cô vội vã quay trở lại, và cho dù ông Rochester đã tàn phế, nhưng 2 người vẫn đến với nhau và sống hạnh phúc với nhau. Lúc này, mọi rào cản cũng không thể ngăn cản được tình yêu của 2 người, họ đã có một cái kết hạnh phúc viên mãn và ngọt ngào!
Cuốn tiểu thuyết Jane Eyre được coi như cuốn nhật ký của tác giả Challote Bronte bởi sự trùng hợp trong cuôc đời và số phận của bà. Challote không có được hạnh phúc trong tình yêu nhưng bà đã gửi trọn hạnh phúc của mình vào cuốn tiểu thuyết, vào nhân vật của mình và mong muốn nhân vật của mình sẽ có một cái kết viên mãn. Đọc Jane Eyre có lẽ không chỉ ấn tượng về nhân vật trong tác phẩm, cuộc đời và số phận của Challote cũng là điều khiến tôi luôn suy nghĩ và nhớ về…
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Sách và giới siêu giàu
Vĩnh An
5 tháng 6, 2022 - Sài Gòn nhỏ
Có người ví von, nếu siêng đọc sách, không có nghĩa là bạn sẽ trở nên giàu có, nhưng những người nằm trong giới siêu giàu thường đọc rất nhiều sách.
Thomas Corley là một triệu phú, chuyên gia tài chính, đồng thời là tác giả của cuốn sách bán chạy Rich Habits: The Daily Success Habits of Wealthy Individuals (Thói quen hàng ngày dẫn đến thành công của người giàu) làm một cuộc phỏng vấn 233 người siêu giàu (177 người trong số đó là triệu phú) với thu nhập ròng hàng năm đạt ít nhất $160,000 và tài sản ròng đạt từ $3.2 triệu trở lên.
Từ nghiên cứu này, ông phát hiện ra một số điều thú vị trong thói quen đọc sách của người giàu:
– 85% người giàu đọc từ hai đến ba cuốn sách về giáo dục và lập mục tiêu hàng tháng.
– 63% người giàu nghe các cuốn sách phát thanh để học tập trong lúc lái xe đến nơi làm việc.
– 88% người giàu dành ít nhất 30 phút mỗi ngày để đọc sách nâng cao hiểu biết và tích lũy kiến thức.
– 58% đọc sách về tiểu sử của những người thành công nổi tiếng.
– 51% đọc sách lịch sử.
Trong khi đó, chỉ có 11% người giàu đọc sách với mục đích giải trí. Các tỉ phú như Warren Buffett, Bill Gates hay Mark Zuckerberg dành phần lớn thời gian mỗi ngày để đọc sách mở rộng hiểu biết. Thomas cho rằng người giàu xứng đáng được giàu có bởi họ luôn đặt ưu tiên vào những thứ mang lại thành công. Và một phần của những thứ mang lại thành công chính là đọc sách để nâng cao kiến thức.
Nếu bạn chỉ đọc sách vì mục đích giải trí, bạn sẽ là một trong 99% người bình thường của thế giới. Ngược lại, nếu bạn đọc sách để học tập và tích lũy kiến thức, bạn đang trên đường gia nhập vào danh sách 1% những người giàu nhất thế giới.
Warren Buffett: Đọc 600 trang sách mỗi ngày.
Warren Buffett đọc 600 trang sách mỗi ngày. (ảnh: Getty Images)
Nhà đầu tư Warren Buffett ước tính rằng 80% thời gian ngày làm việc của ông được dành cho việc đọc và suy ngẫm. Ông nổi tiếng với câu nói: “Tôi thường ngồi trong văn phòng và đọc hầu như tất cả mọi thứ”.
Trong những ngày đầu tiên khởi nghiệp, Buffett đọc 600 – 1,000 trang sách mỗi ngày. Với ông, đọc tối thiểu 500 trang sách mỗi ngày là cách tiếp nhận kiến thức. Nó cứ tăng dần lên như một thứ lãi suất kép. Lời khuyên của Buffett dành cho mọi người: “Dù cho bạn ở giai đoạn nào của cuộc đời, không ngừng học hỏi và bạn sẽ thành công”.
Bill Gates: Đọc sách có quy tắc và luôn tuân thủ.
Những người theo dõi tỉ phú giàu nhất nhì thế giới Bill Gates đều biết rằng ông không chỉ đam mê kinh doanh mà còn rất yêu sách.
Gates coi việc đọc sách là thói quen không thể bỏ mỗi ngày và đặt ra những quy tắc riêng cho mình. Nhà sáng lập Microsoft đưa ra bốn quy tắc nhanh và hiệu quả khi đọc sách, được tóm tắt ngắn gọn như sau:
Sử dụng lề để ghi chép
Hoàn thành mọi thứ bạn bắt đầu
Chọn một phiên bản mà bạn cảm thấy thoải mái khi đọc sách in hoặc sách điện tử
Chỉ định một giờ để đọc.
Bill Gates chia sẻ, ông không bao giờ bỏ dở một cuốn sách và tự đặt ra một quy tắc: Không đọc một cuốn sách nếu không chắc chắn mình sẽ đọc hết. Và thói quen đầu tiên của Gates khi cầm một cuốn sách là ghi chú vào phần lề của trang sách. Ông cho biết: “Khi tôi đọc một cuốn sách phi hư cấu, tôi sẽ gặp rất nhiều kiến thức, cả mới và cũ. Đối với tôi, ghi chép giúp bảo đảm rằng tôi thực sự suy nghĩ nghiêm túc về chúng. Đôi khi tôi không đồng ý với những quan điểm trong sách và khi đó phần ghi chép sẽ rất dài”.
Bill Gates đọc sách có quy tắc và luôn tuân thủ. (ảnh: Getty Images)
Elon Musk: Đọc sách luôn được ưu tiên.
Elon Musk luôn khẳng định sức ảnh hưởng của những cuốn sách đối với bản thân. Không chỉ cung cấp kiến thức, sách còn dạy cho ông cách ứng xử, cách nhìn nhận với thế giới để có được vị trí như hôm nay.
Elon Musk từng khiến rất nhiều người ngạc nhiên khi chia sẻ bản thân tự học cách chế tạo thuốc nổ, làm ra tên lửa nhờ vào việc chăm chỉ… đọc sách. Thậm chí ông còn nghĩ ra được cách để cải thiện giúp giảm chi phí khi sản xuất ra tên lửa.
Đối với Elon Musk, việc đọc sách luôn được ưu tiên dựa theo một mục tiêu nhất định mà bản thân đề ra. Nhưng khi đã tìm hiểu được thứ mình muốn trong sách vở thì sự đam mê khám phá vẫn khiến ông tiếp tục tìm hiểu và đọc thêm nhiều sách hơn chứ không chỉ dừng lại ở mục tiêu “đọc cho biết” như dự định ban đầu. Theo chia sẻ trong một bài phỏng vấn, thời trẻ, đã có lúc Elon Musk dành tới 10 tiếng mỗi ngày để đọc các tiểu thuyết khoa học viễn tưởng.
Elon Musk: “Đọc sách luôn được ưu tiên.” (ảnh: Getty Images)
Mark Zuckerberg: “Cai nghiện” truyền thông bằng cách đọc sách.
Vào năm 2015, Mark Zuckerberg, người sáng lập ra Facebook, lập fanpage “A Year of Books” nhằm kêu gọi cả thế giới đọc ít nhất một quyển sách mỗi hai tuần. CEO Facebook từng chia sẻ: “Tôi đọc sách chủ yếu để hiểu những nền văn hóa, tín ngưỡng, lịch sử và kỹ thuật khác nhau của các nước. Sách giúp chúng ta khám phá một chủ đề và chìm đắm trong chúng một cách sâu sắc hơn các loại hình truyền thông khác ngày nay. Tôi mong muốn có thể cai nghiện truyền thông bằng cách đọc sách”.
Mark Zuckerberg: “Cai nghiện” truyền thông bằng cách đọc sách. (ảnh: Getty Images)
Tony Robbins: Sách đã cứu rỗi cuộc đời tôi.
Robbins lớn lên trong một gia đình không mấy hạnh phúc, ông có một người mẹ nát rượu, một ông bố hà khắc, và Robbins chia sẻ rằng chính những cuốn sách là thứ đã cứu rỗi cuộc đời ông, mang lại thành công cho sự nghiệp của tác giả, diễn giả hàng đầu thế giới này.
Việc đọc sách không chỉ giúp cung cấp tri thức mà còn thắp nên ngọn lửa đam mê trong Tony Robbins. “Tôi từng đọc rất nhiều và rất nhanh, khoảng 700 cuốn sách trong vòng bảy năm với đủ mọi lĩnh vực, từ tâm lý học, triết học… Tất cả mọi thứ có thể giúp thay đổi cuộc sống của tôi.”
Tony Robbins: “Sách đã cứu rỗi cuộc đời tôi.” (ảnh: Getty Images)
Trong cuộc sống hiện đại, có rất nhiều người dành phần lớn thời gian của mình cho vui chơi, giải trí mà phớt lờ đi việc đọc sách. Bạn thấy đấy, sách không phải là những kiến thức lý thuyết khô khan. Nó giúp rất nhiều người thành công xây dựng nên sự nghiệp và ngay cả khi đạt được nhiều thành tựu đáng nể, họ vẫn không ngừng đọc sách. Còn bạn thì sao?
Vĩnh An
5 tháng 6, 2022 - Sài Gòn nhỏ
Có người ví von, nếu siêng đọc sách, không có nghĩa là bạn sẽ trở nên giàu có, nhưng những người nằm trong giới siêu giàu thường đọc rất nhiều sách.
Thomas Corley là một triệu phú, chuyên gia tài chính, đồng thời là tác giả của cuốn sách bán chạy Rich Habits: The Daily Success Habits of Wealthy Individuals (Thói quen hàng ngày dẫn đến thành công của người giàu) làm một cuộc phỏng vấn 233 người siêu giàu (177 người trong số đó là triệu phú) với thu nhập ròng hàng năm đạt ít nhất $160,000 và tài sản ròng đạt từ $3.2 triệu trở lên.
Từ nghiên cứu này, ông phát hiện ra một số điều thú vị trong thói quen đọc sách của người giàu:
– 85% người giàu đọc từ hai đến ba cuốn sách về giáo dục và lập mục tiêu hàng tháng.
– 63% người giàu nghe các cuốn sách phát thanh để học tập trong lúc lái xe đến nơi làm việc.
– 88% người giàu dành ít nhất 30 phút mỗi ngày để đọc sách nâng cao hiểu biết và tích lũy kiến thức.
– 58% đọc sách về tiểu sử của những người thành công nổi tiếng.
– 51% đọc sách lịch sử.
Trong khi đó, chỉ có 11% người giàu đọc sách với mục đích giải trí. Các tỉ phú như Warren Buffett, Bill Gates hay Mark Zuckerberg dành phần lớn thời gian mỗi ngày để đọc sách mở rộng hiểu biết. Thomas cho rằng người giàu xứng đáng được giàu có bởi họ luôn đặt ưu tiên vào những thứ mang lại thành công. Và một phần của những thứ mang lại thành công chính là đọc sách để nâng cao kiến thức.
Nếu bạn chỉ đọc sách vì mục đích giải trí, bạn sẽ là một trong 99% người bình thường của thế giới. Ngược lại, nếu bạn đọc sách để học tập và tích lũy kiến thức, bạn đang trên đường gia nhập vào danh sách 1% những người giàu nhất thế giới.
Warren Buffett: Đọc 600 trang sách mỗi ngày.
Warren Buffett đọc 600 trang sách mỗi ngày. (ảnh: Getty Images)
Nhà đầu tư Warren Buffett ước tính rằng 80% thời gian ngày làm việc của ông được dành cho việc đọc và suy ngẫm. Ông nổi tiếng với câu nói: “Tôi thường ngồi trong văn phòng và đọc hầu như tất cả mọi thứ”.
Trong những ngày đầu tiên khởi nghiệp, Buffett đọc 600 – 1,000 trang sách mỗi ngày. Với ông, đọc tối thiểu 500 trang sách mỗi ngày là cách tiếp nhận kiến thức. Nó cứ tăng dần lên như một thứ lãi suất kép. Lời khuyên của Buffett dành cho mọi người: “Dù cho bạn ở giai đoạn nào của cuộc đời, không ngừng học hỏi và bạn sẽ thành công”.
Bill Gates: Đọc sách có quy tắc và luôn tuân thủ.
Những người theo dõi tỉ phú giàu nhất nhì thế giới Bill Gates đều biết rằng ông không chỉ đam mê kinh doanh mà còn rất yêu sách.
Gates coi việc đọc sách là thói quen không thể bỏ mỗi ngày và đặt ra những quy tắc riêng cho mình. Nhà sáng lập Microsoft đưa ra bốn quy tắc nhanh và hiệu quả khi đọc sách, được tóm tắt ngắn gọn như sau:
Sử dụng lề để ghi chép
Hoàn thành mọi thứ bạn bắt đầu
Chọn một phiên bản mà bạn cảm thấy thoải mái khi đọc sách in hoặc sách điện tử
Chỉ định một giờ để đọc.
Bill Gates chia sẻ, ông không bao giờ bỏ dở một cuốn sách và tự đặt ra một quy tắc: Không đọc một cuốn sách nếu không chắc chắn mình sẽ đọc hết. Và thói quen đầu tiên của Gates khi cầm một cuốn sách là ghi chú vào phần lề của trang sách. Ông cho biết: “Khi tôi đọc một cuốn sách phi hư cấu, tôi sẽ gặp rất nhiều kiến thức, cả mới và cũ. Đối với tôi, ghi chép giúp bảo đảm rằng tôi thực sự suy nghĩ nghiêm túc về chúng. Đôi khi tôi không đồng ý với những quan điểm trong sách và khi đó phần ghi chép sẽ rất dài”.
Bill Gates đọc sách có quy tắc và luôn tuân thủ. (ảnh: Getty Images)
Elon Musk: Đọc sách luôn được ưu tiên.
Elon Musk luôn khẳng định sức ảnh hưởng của những cuốn sách đối với bản thân. Không chỉ cung cấp kiến thức, sách còn dạy cho ông cách ứng xử, cách nhìn nhận với thế giới để có được vị trí như hôm nay.
Elon Musk từng khiến rất nhiều người ngạc nhiên khi chia sẻ bản thân tự học cách chế tạo thuốc nổ, làm ra tên lửa nhờ vào việc chăm chỉ… đọc sách. Thậm chí ông còn nghĩ ra được cách để cải thiện giúp giảm chi phí khi sản xuất ra tên lửa.
Đối với Elon Musk, việc đọc sách luôn được ưu tiên dựa theo một mục tiêu nhất định mà bản thân đề ra. Nhưng khi đã tìm hiểu được thứ mình muốn trong sách vở thì sự đam mê khám phá vẫn khiến ông tiếp tục tìm hiểu và đọc thêm nhiều sách hơn chứ không chỉ dừng lại ở mục tiêu “đọc cho biết” như dự định ban đầu. Theo chia sẻ trong một bài phỏng vấn, thời trẻ, đã có lúc Elon Musk dành tới 10 tiếng mỗi ngày để đọc các tiểu thuyết khoa học viễn tưởng.
Elon Musk: “Đọc sách luôn được ưu tiên.” (ảnh: Getty Images)
Mark Zuckerberg: “Cai nghiện” truyền thông bằng cách đọc sách.
Vào năm 2015, Mark Zuckerberg, người sáng lập ra Facebook, lập fanpage “A Year of Books” nhằm kêu gọi cả thế giới đọc ít nhất một quyển sách mỗi hai tuần. CEO Facebook từng chia sẻ: “Tôi đọc sách chủ yếu để hiểu những nền văn hóa, tín ngưỡng, lịch sử và kỹ thuật khác nhau của các nước. Sách giúp chúng ta khám phá một chủ đề và chìm đắm trong chúng một cách sâu sắc hơn các loại hình truyền thông khác ngày nay. Tôi mong muốn có thể cai nghiện truyền thông bằng cách đọc sách”.
Mark Zuckerberg: “Cai nghiện” truyền thông bằng cách đọc sách. (ảnh: Getty Images)
Tony Robbins: Sách đã cứu rỗi cuộc đời tôi.
Robbins lớn lên trong một gia đình không mấy hạnh phúc, ông có một người mẹ nát rượu, một ông bố hà khắc, và Robbins chia sẻ rằng chính những cuốn sách là thứ đã cứu rỗi cuộc đời ông, mang lại thành công cho sự nghiệp của tác giả, diễn giả hàng đầu thế giới này.
Việc đọc sách không chỉ giúp cung cấp tri thức mà còn thắp nên ngọn lửa đam mê trong Tony Robbins. “Tôi từng đọc rất nhiều và rất nhanh, khoảng 700 cuốn sách trong vòng bảy năm với đủ mọi lĩnh vực, từ tâm lý học, triết học… Tất cả mọi thứ có thể giúp thay đổi cuộc sống của tôi.”
Tony Robbins: “Sách đã cứu rỗi cuộc đời tôi.” (ảnh: Getty Images)
Trong cuộc sống hiện đại, có rất nhiều người dành phần lớn thời gian của mình cho vui chơi, giải trí mà phớt lờ đi việc đọc sách. Bạn thấy đấy, sách không phải là những kiến thức lý thuyết khô khan. Nó giúp rất nhiều người thành công xây dựng nên sự nghiệp và ngay cả khi đạt được nhiều thành tựu đáng nể, họ vẫn không ngừng đọc sách. Còn bạn thì sao?
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
DELETE@
Thứ 4, 08.06.2022
La la la la la la la la
La la la la la la la la
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
2 điều hối hận nhất khiến đời người cắn rứt: Đọc sách không nhiều, kết hôn quá sớm
THỨ 7, 26/06/2021 - cafef
Kết hôn quá sớm và đọc sách quá ít thường là hai quyết định gây nhiều hối tiếc.
2 điều hối hận nhất khiến đời người cắn rứt: Đọc sách không nhiều, kết hôn quá sớm
Người kết hôn sớm không biết bản thân thực sự muốn gì, ngày qua ngày buồn nhiều hơn vui.
Người đọc sách quá ít thì khó có cơ hội thăng tiến, mỗi ngày chỉ toàn bận rộn với những chuyện vừa mệt mỏi, lại vừa chẳng kiếm ra tiền.
Kết hôn quá sớm
Huệ là người bạn cũ học cùng đại học của tôi. Khi Huệ vừa ra trường và chưa tìm được một công việc chính thức, người nhà đã vội vàng giới thiệu cho Huệ một đối tượng xem mắt. Khi gặp người đó, Huệ không thấy ghét nhưng cũng chẳng thấy đủ thích để kết hôn. Huệ chần chừ nhưng người nhà lại cứ liên tục thúc giục: "Ở đời làm gì có tình yêu lãng mạn? Nhiều người chẳng lấy nhau rồi mới yêu đó thôi!" Mẹ của người kia cũng nói: "Cháu về nhà bác làm dâu thì bác sẽ coi cháu như con gái ruột trong nhà." Đứng trước chuyện này, Huệ hoàn toàn thụ động, không phản đối mà cũng chẳng có ý kiến gì. Để rồi một cô sinh viên mới ra trường chưa đến nửa năm đã vội vã bước chân vào cuộc sống hôn nhân.
Trước khi kết hôn, Huệ nghe bà mối bảo nhà chồng cô mở công ty. Chồng cô ở nhà phụ giúp gia đình kinh doanh.
Sau khi kết hôn, Huệ mới biết công ty của gia đình chồng đang gặp khó khăn. Chồng cô thì đã thất nghiệp và ở nhà chơi không mấy tháng. Bản thân Huệ khi đó cũng đang mang thai nên không thể đi làm.
Cả hai vợ chồng đều không kiếm ra tiền nên tiền ăn tiền mặc đều phải ngửa tay xin bố chồng. Mỗi lúc như vậy, mẹ chồng Huệ thường nói những lời rất khó nghe. Huệ cứ chịu đựng những ngày tháng ấy cho đến khi sinh đứa bé ra.
Lúc đứa bé chào đời cũng là lúc mọi chuyện đã đi quá giới hạn chịu đựng của Huệ. Cuối cùng, Huệ đã quyết định ly hôn khi vừa mới kết hôn được một năm rưỡi. Sau khi ly hôn, Huệ vừa đi làm vừa phải một mình nuôi con nhỏ. Cuộc sống của cô khi ấy thực sự rất vất vả.
Nếu bạn chỉ là một người bình thường và luôn mong muốn thay đổi cuộc sống của mình, tôi khuyên bạn không nên kết hôn quá sớm.
Khi tuổi đời còn quá trẻ, chúng ta chưa có được những suy nghĩ chín chắn về tình yêu, hôn nhân và cuộc sống. Cộng với việc thiếu đi sự từng trải, chúng ta thường khó mà chống đỡ được với sóng gió cuộc đời.
Khi còn chưa có bất cứ khoản tích lũy nào, chúng ta đã phải gánh vác mọi chi tiêu của một gia đình nhỏ. Tiền sinh hoạt, tiền lễ tết đến tiền sắm sửa đồ đạc, tất cả đều chỉ trông chờ vào những đồng lương ít ỏi mỗi tháng. Nếu như còn nuôi thêm con nhỏ thì chúng ta sẽ phải tiêu tốn nhiều tiền hơn nữa.
Nhưng tiền thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dồn hết tâm sức và thời gian cho một sinh linh bé nhỏ đó. Điều này đúng thực là rất thiêng liêng, nhưng nó lại vô tình thu hẹp cuộc sống của chúng ta. Có con rồi, chúng ta cũng khó chuyển mình để đi tìm cuộc sống mới.
Nếu gia đình của bạn không có chỗ dựa vững chắc thì đừng vội kết hôn quá sớm. Trước khi kết hôn, bạn hãy học cách làm cho cuộc sống của bản thân thêm phong phú. Hãy bước ra ngoài để ngắm nhìn thế giới rộng lớn ngoài kia. Hãy sống cho ước mơ hoài bão của mình trước đã. Đây chính là cách chúng ta tự chịu trách nhiệm với chính mình và với cả con cái chúng ta sau này.
Đọc sách quá ít
Một cô gái không đọc sách sẽ sống một cuộc đời như thế nào?
Ngay từ nhỏ, cô gái không đọc sách đã biết làm việc vặt và trông em giúp đỡ bố mẹ. Lớn lên thêm một chút, cô ấy đi làm thêm kiếm tiền phụ giúp gia đình và nuôi nấng các em. Sau khi lấy chồng, cô ấy sẽ sinh con đẻ cái, "hầu hạ" chồng và gia đình nhà chồng chu đáo. Con gái của cô ấy rồi cũng sẽ sống một cuộc đời như chính mẹ mình đã từng sống. Đọc sách có lẽ là cách duy nhất giúp cho người phụ nữ tự cứu mình ra khỏi vòng lặp bi kịch này.
Câu chuyện về một người phụ nữ tên Fayza đã nhận được nhiều sự quan tâm khi được chia sẻ trên diễn đàn TED. Năm 8 tuổi, Fayza bị cha mẹ ép phải bỏ học để kết hôn với một người đàn ông địa phương. Năm 14 tuổi, Fayza bất đắc dĩ trở thành vợ của một người đàn ông 60 tuổi. Khi chưa tròn 18 tuổi, Fayza đã trở thành mẹ của ba đứa con nhỏ.
Tấn bi kịch của cuộc đời và sự vô vọng của cuộc sống đã khiến Fayza nhận ra giáo dục chính là con đường duy nhất để thay đổi số phận. Fayza ban ngày chăm con làm việc. Tối đến, cô lại cặm cụi ngồi đọc sách học bài. Cuối cùng, sau bao nỗ lực cố gắng, Fayza cũng đã thi đỗ đại học và từng bước thoát khỏi cuộc đời u ám tăm tối trước kia.
Đọc sách là cách dễ thực hiện nhất để nâng cấp cuộc đời. Đã có một câu nói rằng: "Ý nghĩ muốn đọc sách của hôm nay biết đâu lại chính là lời kêu cứu của tương lai đang gửi đến bạn." Nhân lúc còn trẻ, mỗi người nên đọc nhiều sách hơn và hãy chọn đọc những quyển sách có ích cho mình. Hãy cứ đọc vì những cuốn sách bạn đọc ngày hôm nay sẽ giúp cho cuộc đời sau này của bạn bớt đi một chút khổ. Đối với một người bình thường không tiền cũng không quan hệ, đọc sách chính là cách duy nhất cho ta bản lĩnh để tu thân lập nghiệp. Nếu bạn chịu đọc thêm nhiều sách khi còn trẻ, sau này bạn sẽ bớt đi một lần phải cầu cạnh đến sự giúp đỡ của người khác.
Hai báu vật giúp thay đổi số phận:
Ngưng làm hao mòn bản thân, Hãy bắt tay vào học tập ngay bây giờ
"Khi về già ngồi nhìn lại những năm tháng mình đã sống, bạn sẽ nhận ra rằng: Những lúc bạn quyết định đi du học, quyết định làm công việc đầu tiên, quyết định chọn ai đó làm người yêu, quyết định kết hôn đều là những bước ngoặt của số phận. Chỉ là khi ấy, bạn đứng giữa ngã ba đường, trước mặt chỉ toàn là giông tố, nên bạn chỉ nghĩ đó là một ngày mệt mỏi và ưu phiền như bao ngày khác trong đời." Vì luôn nghĩ nó chỉ là một ngày bình thường như bao ngày khác, nên chúng ta mới có thể đưa ra một quyết định tùy tiện ấy và luôn nghĩ mình còn cơ hội để sửa sai để làm lại.
Sau này, bạn mới biết, sự lựa chọn vô ý ấy giống như một cái chạm nhẹ vào vận mệnh như dãy domino của chúng ta. Một khi đã chạm vào rồi thì từng tấm từng tấm một sẽ dần dần đổ ập xuống. Kết hôn quá sớm hay đọc sách quá ít rồi cả những quyết định nông nổi của một thời tuổi trẻ chính là cái "nhân" tạo nên thêm sóng gió cho đời. Nó cũng chính là cái "quả" mà ai cũng có thể nhìn thấy trước. Cuộc sống hôm nay chính là kết quả mà ta không được biết hồi còn trẻ. Nhưng nó cũng lại là cái nhân của tương lai sau này.
Nếu bạn muốn thoát khỏi vòng lặp liên hoàn của số phận, bạn muốn tìm lại cảm giác được nắm giữ số phận của chính mình trong tay. Vậy thì hãy ngừng làm hao mòn và phí hoài bản thân. Ở đời, có nhiều người biết vì sao mình khổ nhưng lại chẳng thể nào đổi thay cuộc sống của mình. Ngoại trừ sự phụ thuộc về mặt kinh tế, họ còn bị mắc bệnh ỷ lại. Họ dường như không thể độc lập chống chọi với những thách thức của cuộc sống. Nếu như họ biết ngừng làm hao mòn bản thân, họ sẽ học được cách làm chủ chính mình. Sau khi làm được điều này, mỗi người cần bắt tay vào công cuộc học tập ngay bây giờ.
Có người hỏi: Tôi năm nay đã 30 tuổi rồi, liệu còn có thể đi học tiếp không? Tôi đã có mấy đứa con rồi, liệu còn có thể đi học tiếp không? Đáp án đương nhiên là có thể rồi. Thời điểm tốt nhất để trồng một cái cây chính là vào mười năm trước. Thời điểm tốt thứ hai chính là vào hôm nay. Chỉ cần bạn chấp nhận thay đổi thì sẽ không có lúc nào là muộn màng. Điều quan trọng nhất chính là bạn phải bắt tay vào hành động.
30 tuổi mới đi du học là muộn rồi đúng không? Lúc trẻ vì nhiều lý do mà chưa đi học được. Đến giờ, tôi muốn học chuyên ngành mình yêu thích mà chỉ sợ tuổi tác không còn trẻ nữa. Đây chắc hẳn là nỗi niềm băn khoăn của nhiều người.
Người hướng dẫn thực tập cho tôi khi tôi còn làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài là một người phụ nữ 60 tuổi rồi mới đi học thạc sỹ. Trước đó, bà cũng giống như bao người phụ nữ khác gác lại sự nghiệp ở nhà làm nội trợ và chăm con. Khi con cái đã khôn lớn, bà không may phát hiện chồng mình ngoại tình. Hai người ra tòa ly hôn và bà được chia tài sản là một căn nhà. Sau đó, bà quyết tâm ra nước ngoài học thạc sỹ rồi đi làm và trở thành người hướng dẫn thực tập cho tôi.
Trong cuộc đời, dù cho ở bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng đều có quyền được lựa chọn. Mỗi sự lựa chọn cũng đều sẽ cho ta một kết quả nhất định. Điều quan trọng là bạn cần phải có sức mạnh và dũng khí để sống. Chỉ cần bạn muốn bắt đầu và muốn thay đổi, lựa chọn của bạn sẽ không bao giờ là quá muộn.
Cho dù là kết hôn quá sớm hay đọc sách chưa nhiều, thậm chí là kể cả những chuyện nào làm ta phải hối hận suốt đời, mong bạn hãy cứ để chúng trở thành quá khứ và coi đó là một bài học. Tuyệt đối đừng biến chúng trở thành chướng ngại vật ngăn cản bạn tiến lên phía trước.
THỨ 7, 26/06/2021 - cafef
Kết hôn quá sớm và đọc sách quá ít thường là hai quyết định gây nhiều hối tiếc.
2 điều hối hận nhất khiến đời người cắn rứt: Đọc sách không nhiều, kết hôn quá sớm
Người kết hôn sớm không biết bản thân thực sự muốn gì, ngày qua ngày buồn nhiều hơn vui.
Người đọc sách quá ít thì khó có cơ hội thăng tiến, mỗi ngày chỉ toàn bận rộn với những chuyện vừa mệt mỏi, lại vừa chẳng kiếm ra tiền.
Kết hôn quá sớm
Huệ là người bạn cũ học cùng đại học của tôi. Khi Huệ vừa ra trường và chưa tìm được một công việc chính thức, người nhà đã vội vàng giới thiệu cho Huệ một đối tượng xem mắt. Khi gặp người đó, Huệ không thấy ghét nhưng cũng chẳng thấy đủ thích để kết hôn. Huệ chần chừ nhưng người nhà lại cứ liên tục thúc giục: "Ở đời làm gì có tình yêu lãng mạn? Nhiều người chẳng lấy nhau rồi mới yêu đó thôi!" Mẹ của người kia cũng nói: "Cháu về nhà bác làm dâu thì bác sẽ coi cháu như con gái ruột trong nhà." Đứng trước chuyện này, Huệ hoàn toàn thụ động, không phản đối mà cũng chẳng có ý kiến gì. Để rồi một cô sinh viên mới ra trường chưa đến nửa năm đã vội vã bước chân vào cuộc sống hôn nhân.
Trước khi kết hôn, Huệ nghe bà mối bảo nhà chồng cô mở công ty. Chồng cô ở nhà phụ giúp gia đình kinh doanh.
Sau khi kết hôn, Huệ mới biết công ty của gia đình chồng đang gặp khó khăn. Chồng cô thì đã thất nghiệp và ở nhà chơi không mấy tháng. Bản thân Huệ khi đó cũng đang mang thai nên không thể đi làm.
Cả hai vợ chồng đều không kiếm ra tiền nên tiền ăn tiền mặc đều phải ngửa tay xin bố chồng. Mỗi lúc như vậy, mẹ chồng Huệ thường nói những lời rất khó nghe. Huệ cứ chịu đựng những ngày tháng ấy cho đến khi sinh đứa bé ra.
Lúc đứa bé chào đời cũng là lúc mọi chuyện đã đi quá giới hạn chịu đựng của Huệ. Cuối cùng, Huệ đã quyết định ly hôn khi vừa mới kết hôn được một năm rưỡi. Sau khi ly hôn, Huệ vừa đi làm vừa phải một mình nuôi con nhỏ. Cuộc sống của cô khi ấy thực sự rất vất vả.
Nếu bạn chỉ là một người bình thường và luôn mong muốn thay đổi cuộc sống của mình, tôi khuyên bạn không nên kết hôn quá sớm.
Khi tuổi đời còn quá trẻ, chúng ta chưa có được những suy nghĩ chín chắn về tình yêu, hôn nhân và cuộc sống. Cộng với việc thiếu đi sự từng trải, chúng ta thường khó mà chống đỡ được với sóng gió cuộc đời.
Khi còn chưa có bất cứ khoản tích lũy nào, chúng ta đã phải gánh vác mọi chi tiêu của một gia đình nhỏ. Tiền sinh hoạt, tiền lễ tết đến tiền sắm sửa đồ đạc, tất cả đều chỉ trông chờ vào những đồng lương ít ỏi mỗi tháng. Nếu như còn nuôi thêm con nhỏ thì chúng ta sẽ phải tiêu tốn nhiều tiền hơn nữa.
Nhưng tiền thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dồn hết tâm sức và thời gian cho một sinh linh bé nhỏ đó. Điều này đúng thực là rất thiêng liêng, nhưng nó lại vô tình thu hẹp cuộc sống của chúng ta. Có con rồi, chúng ta cũng khó chuyển mình để đi tìm cuộc sống mới.
Nếu gia đình của bạn không có chỗ dựa vững chắc thì đừng vội kết hôn quá sớm. Trước khi kết hôn, bạn hãy học cách làm cho cuộc sống của bản thân thêm phong phú. Hãy bước ra ngoài để ngắm nhìn thế giới rộng lớn ngoài kia. Hãy sống cho ước mơ hoài bão của mình trước đã. Đây chính là cách chúng ta tự chịu trách nhiệm với chính mình và với cả con cái chúng ta sau này.
Đọc sách quá ít
Một cô gái không đọc sách sẽ sống một cuộc đời như thế nào?
Ngay từ nhỏ, cô gái không đọc sách đã biết làm việc vặt và trông em giúp đỡ bố mẹ. Lớn lên thêm một chút, cô ấy đi làm thêm kiếm tiền phụ giúp gia đình và nuôi nấng các em. Sau khi lấy chồng, cô ấy sẽ sinh con đẻ cái, "hầu hạ" chồng và gia đình nhà chồng chu đáo. Con gái của cô ấy rồi cũng sẽ sống một cuộc đời như chính mẹ mình đã từng sống. Đọc sách có lẽ là cách duy nhất giúp cho người phụ nữ tự cứu mình ra khỏi vòng lặp bi kịch này.
Câu chuyện về một người phụ nữ tên Fayza đã nhận được nhiều sự quan tâm khi được chia sẻ trên diễn đàn TED. Năm 8 tuổi, Fayza bị cha mẹ ép phải bỏ học để kết hôn với một người đàn ông địa phương. Năm 14 tuổi, Fayza bất đắc dĩ trở thành vợ của một người đàn ông 60 tuổi. Khi chưa tròn 18 tuổi, Fayza đã trở thành mẹ của ba đứa con nhỏ.
Tấn bi kịch của cuộc đời và sự vô vọng của cuộc sống đã khiến Fayza nhận ra giáo dục chính là con đường duy nhất để thay đổi số phận. Fayza ban ngày chăm con làm việc. Tối đến, cô lại cặm cụi ngồi đọc sách học bài. Cuối cùng, sau bao nỗ lực cố gắng, Fayza cũng đã thi đỗ đại học và từng bước thoát khỏi cuộc đời u ám tăm tối trước kia.
Đọc sách là cách dễ thực hiện nhất để nâng cấp cuộc đời. Đã có một câu nói rằng: "Ý nghĩ muốn đọc sách của hôm nay biết đâu lại chính là lời kêu cứu của tương lai đang gửi đến bạn." Nhân lúc còn trẻ, mỗi người nên đọc nhiều sách hơn và hãy chọn đọc những quyển sách có ích cho mình. Hãy cứ đọc vì những cuốn sách bạn đọc ngày hôm nay sẽ giúp cho cuộc đời sau này của bạn bớt đi một chút khổ. Đối với một người bình thường không tiền cũng không quan hệ, đọc sách chính là cách duy nhất cho ta bản lĩnh để tu thân lập nghiệp. Nếu bạn chịu đọc thêm nhiều sách khi còn trẻ, sau này bạn sẽ bớt đi một lần phải cầu cạnh đến sự giúp đỡ của người khác.
Hai báu vật giúp thay đổi số phận:
Ngưng làm hao mòn bản thân, Hãy bắt tay vào học tập ngay bây giờ
"Khi về già ngồi nhìn lại những năm tháng mình đã sống, bạn sẽ nhận ra rằng: Những lúc bạn quyết định đi du học, quyết định làm công việc đầu tiên, quyết định chọn ai đó làm người yêu, quyết định kết hôn đều là những bước ngoặt của số phận. Chỉ là khi ấy, bạn đứng giữa ngã ba đường, trước mặt chỉ toàn là giông tố, nên bạn chỉ nghĩ đó là một ngày mệt mỏi và ưu phiền như bao ngày khác trong đời." Vì luôn nghĩ nó chỉ là một ngày bình thường như bao ngày khác, nên chúng ta mới có thể đưa ra một quyết định tùy tiện ấy và luôn nghĩ mình còn cơ hội để sửa sai để làm lại.
Sau này, bạn mới biết, sự lựa chọn vô ý ấy giống như một cái chạm nhẹ vào vận mệnh như dãy domino của chúng ta. Một khi đã chạm vào rồi thì từng tấm từng tấm một sẽ dần dần đổ ập xuống. Kết hôn quá sớm hay đọc sách quá ít rồi cả những quyết định nông nổi của một thời tuổi trẻ chính là cái "nhân" tạo nên thêm sóng gió cho đời. Nó cũng chính là cái "quả" mà ai cũng có thể nhìn thấy trước. Cuộc sống hôm nay chính là kết quả mà ta không được biết hồi còn trẻ. Nhưng nó cũng lại là cái nhân của tương lai sau này.
Nếu bạn muốn thoát khỏi vòng lặp liên hoàn của số phận, bạn muốn tìm lại cảm giác được nắm giữ số phận của chính mình trong tay. Vậy thì hãy ngừng làm hao mòn và phí hoài bản thân. Ở đời, có nhiều người biết vì sao mình khổ nhưng lại chẳng thể nào đổi thay cuộc sống của mình. Ngoại trừ sự phụ thuộc về mặt kinh tế, họ còn bị mắc bệnh ỷ lại. Họ dường như không thể độc lập chống chọi với những thách thức của cuộc sống. Nếu như họ biết ngừng làm hao mòn bản thân, họ sẽ học được cách làm chủ chính mình. Sau khi làm được điều này, mỗi người cần bắt tay vào công cuộc học tập ngay bây giờ.
Có người hỏi: Tôi năm nay đã 30 tuổi rồi, liệu còn có thể đi học tiếp không? Tôi đã có mấy đứa con rồi, liệu còn có thể đi học tiếp không? Đáp án đương nhiên là có thể rồi. Thời điểm tốt nhất để trồng một cái cây chính là vào mười năm trước. Thời điểm tốt thứ hai chính là vào hôm nay. Chỉ cần bạn chấp nhận thay đổi thì sẽ không có lúc nào là muộn màng. Điều quan trọng nhất chính là bạn phải bắt tay vào hành động.
30 tuổi mới đi du học là muộn rồi đúng không? Lúc trẻ vì nhiều lý do mà chưa đi học được. Đến giờ, tôi muốn học chuyên ngành mình yêu thích mà chỉ sợ tuổi tác không còn trẻ nữa. Đây chắc hẳn là nỗi niềm băn khoăn của nhiều người.
Người hướng dẫn thực tập cho tôi khi tôi còn làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài là một người phụ nữ 60 tuổi rồi mới đi học thạc sỹ. Trước đó, bà cũng giống như bao người phụ nữ khác gác lại sự nghiệp ở nhà làm nội trợ và chăm con. Khi con cái đã khôn lớn, bà không may phát hiện chồng mình ngoại tình. Hai người ra tòa ly hôn và bà được chia tài sản là một căn nhà. Sau đó, bà quyết tâm ra nước ngoài học thạc sỹ rồi đi làm và trở thành người hướng dẫn thực tập cho tôi.
Trong cuộc đời, dù cho ở bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng đều có quyền được lựa chọn. Mỗi sự lựa chọn cũng đều sẽ cho ta một kết quả nhất định. Điều quan trọng là bạn cần phải có sức mạnh và dũng khí để sống. Chỉ cần bạn muốn bắt đầu và muốn thay đổi, lựa chọn của bạn sẽ không bao giờ là quá muộn.
Cho dù là kết hôn quá sớm hay đọc sách chưa nhiều, thậm chí là kể cả những chuyện nào làm ta phải hối hận suốt đời, mong bạn hãy cứ để chúng trở thành quá khứ và coi đó là một bài học. Tuyệt đối đừng biến chúng trở thành chướng ngại vật ngăn cản bạn tiến lên phía trước.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
NẾU MUỐN GIÀU CÓ, HÃY CHĂM ĐỌC SÁCH
Ebooksmienphi
Tác giả người Mỹ Steve Siebold từng gây chú ý trên khắp thế giới khi cho ra mắt cuốn sách “How Rich People Think” (Người giàu nghĩ như thế nào), ông cũng được biết đến là người đã từng phỏng vấn hơn 1.200 người giàu nhất và thành công trên thế giới trong vòng 3 thập kỷ qua. Sau những cuộc phỏng vấn của mình, Steve Siebold nhận ra nhiều điều khác biệt giữa người giàu và… người bình thường.
Chủ đề về sự khác biệt này đã và đang thu hút sự quan tâm của độc giả. Trước đây, Steve Siebold đã đưa ra rất nhiều luận điểm về sự khác biệt này, chẳng hạn như người giàu luôn tập trung kiếm nhiều tiền, trong khi người thường chỉ tập trung tiết kiệm tiền.
Với trải nghiệm tiếp xúc và trò chuyện với những người giàu có, Steve Siebold mới đây lại chia sẻ thêm một khác biệt nữa giữa người giàu, thành công và người thường, đó là thú vui khi có thời gian rảnh rỗi của những tỉ phú, triệu phú. Thay vì vui chơi - giải trí, họ chọn cho mình thú vui tự học, tự giáo dục, nâng cao trình độ hiểu biết của mình bằng cách đọc sách, đọc thật nhiều.
Đây là một điểm chung phổ biến trong giới những doanh nhân giàu có, triệu phú đô la. Steve Siebold cho biết: “Bước vào ngôi nhà của một người giàu có bạn thường thấy họ có một thư viện tại gia khá đồ sộ, đó không phải là một không gian chỉ để trưng bày, khoe mẽ mà thực sự là nơi để họ tìm đến khi có thời gian rảnh rỗi, để tự giáo dục mình, nâng cao tầm hiểu biết và từ đó biết cách làm thế nào để trở nên thành công hơn. Trong khi đó, những người bình thường - hoặc lười đọc sách hoặc thường lựa chọn những gì dễ đọc và có tính giải trí cao…”.
Những người giàu phải phân bổ thời gian một cách hợp lý để trong cùng một khoảng thời gian được cuộc sống ban cho mỗi ngày giống như tất cả mọi người, họ có thể kịp làm những việc quan trọng được ưu tiên.
Họ cũng có giải trí, thậm chí là những cuộc vui, kỳ nghỉ rất đẳng cấp để thực sự có được những thời điểm tách rời công việc, nhưng thường khi phải lựa chọn giữa việc ngồi xuống đọc sách và việc ra ngoài vui chơi khi có thời gian rảnh một chút trong ngày, họ sẽ chọn việc tìm hiểu thông tin, gia tăng kiến thức.
Chẳng hạn như nhà đầu tư nổi tiếng người Mỹ Warren Buffett - một người mà tác giả Steve Siebold đã có cơ hội được tiếp xúc và tìm hiểu khá sâu kỹ về đời sống thường nhật của ông, tác giả nhận ra rằng khoảng 80% thời gian làm việc trong ngày của tỉ phú này gắn liền với hoạt động đọc và phân tích - xử lý thông tin.
Còn theo tác giả Thomas Corley của cuốn “Rich Habits: The Daily Success Habits Of Wealthy Individuals” (tạm dịch: Những thói quen giàu có - Những thói quen thường ngày của người giàu), 67% người giàu mỗi ngày chỉ xem TV trong khoảng 1 giờ hoặc ít hơn, trong khi người thường rất dễ sa đà ngồi trước TV hàng tiếng đồng hồ để xem hết chương trình này đến chương trình khác nếu rảnh.
Ngoài ra, tác giả Corley cũng để ý thấy rằng ưu tiên khi xem truyền hình của người giàu là những chương trình bản tin, thời sự, phân tích… giúp họ gia tăng kiến thức và sự hiểu biết, họ không dành thời gian để xem truyền hình thực tế, trong khi phần đông người thường lại dành nhiều thời gian để xem những chương trình có tính giải trí cao.
Trong khi người giàu không dành nhiều thời gian và tiền bạc vào hoạt động học tập hàn lâm tại nhà trường, Đại học (thực tế, nhiều nhân vật giàu có hàng đầu thế giới còn có khá ít những ngày tháng học tập tại các nhà trường, hoặc kết quả học tập của họ cũng không nổi trội bằng nhiều bạn học khác), nhưng họ đánh giá rất cao sức mạnh và tầm quan trọng của việc tự học, tự rèn luyện sau khi đã rời nhà trường.
Đó chính là khi người giàu tự giáo dục mình theo nhịp độ và thiên hướng có lợi nhất cho bản thân. Tác giả Steve Siebold cho rằng trong khi phần đông người thường tin rằng bằng cấp là giới hạn cao nhất của việc học tập, họ cố gắng đạt được hết bằng này bằng khác, coi đó là con đường lập thân lập nghiệp lý tưởng, là công cụ để làm giàu, thì người giàu không nghĩ vậy, bởi họ không quá quan trọng một “công cụ” duy nhất nào giúp đưa lại sự giàu có, họ chỉ quan tâm đến kết quả, đến cái đích sau cùng và luôn linh hoạt tìm ra con đường hiệu quả nhất để đạt được cái đích muốn đến.
Bích Ngọc
Theo Business Insider
Nguồn Dân trí
Ebooksmienphi
Tác giả người Mỹ Steve Siebold từng gây chú ý trên khắp thế giới khi cho ra mắt cuốn sách “How Rich People Think” (Người giàu nghĩ như thế nào), ông cũng được biết đến là người đã từng phỏng vấn hơn 1.200 người giàu nhất và thành công trên thế giới trong vòng 3 thập kỷ qua. Sau những cuộc phỏng vấn của mình, Steve Siebold nhận ra nhiều điều khác biệt giữa người giàu và… người bình thường.
Chủ đề về sự khác biệt này đã và đang thu hút sự quan tâm của độc giả. Trước đây, Steve Siebold đã đưa ra rất nhiều luận điểm về sự khác biệt này, chẳng hạn như người giàu luôn tập trung kiếm nhiều tiền, trong khi người thường chỉ tập trung tiết kiệm tiền.
Với trải nghiệm tiếp xúc và trò chuyện với những người giàu có, Steve Siebold mới đây lại chia sẻ thêm một khác biệt nữa giữa người giàu, thành công và người thường, đó là thú vui khi có thời gian rảnh rỗi của những tỉ phú, triệu phú. Thay vì vui chơi - giải trí, họ chọn cho mình thú vui tự học, tự giáo dục, nâng cao trình độ hiểu biết của mình bằng cách đọc sách, đọc thật nhiều.
Đây là một điểm chung phổ biến trong giới những doanh nhân giàu có, triệu phú đô la. Steve Siebold cho biết: “Bước vào ngôi nhà của một người giàu có bạn thường thấy họ có một thư viện tại gia khá đồ sộ, đó không phải là một không gian chỉ để trưng bày, khoe mẽ mà thực sự là nơi để họ tìm đến khi có thời gian rảnh rỗi, để tự giáo dục mình, nâng cao tầm hiểu biết và từ đó biết cách làm thế nào để trở nên thành công hơn. Trong khi đó, những người bình thường - hoặc lười đọc sách hoặc thường lựa chọn những gì dễ đọc và có tính giải trí cao…”.
Những người giàu phải phân bổ thời gian một cách hợp lý để trong cùng một khoảng thời gian được cuộc sống ban cho mỗi ngày giống như tất cả mọi người, họ có thể kịp làm những việc quan trọng được ưu tiên.
Họ cũng có giải trí, thậm chí là những cuộc vui, kỳ nghỉ rất đẳng cấp để thực sự có được những thời điểm tách rời công việc, nhưng thường khi phải lựa chọn giữa việc ngồi xuống đọc sách và việc ra ngoài vui chơi khi có thời gian rảnh một chút trong ngày, họ sẽ chọn việc tìm hiểu thông tin, gia tăng kiến thức.
Chẳng hạn như nhà đầu tư nổi tiếng người Mỹ Warren Buffett - một người mà tác giả Steve Siebold đã có cơ hội được tiếp xúc và tìm hiểu khá sâu kỹ về đời sống thường nhật của ông, tác giả nhận ra rằng khoảng 80% thời gian làm việc trong ngày của tỉ phú này gắn liền với hoạt động đọc và phân tích - xử lý thông tin.
Còn theo tác giả Thomas Corley của cuốn “Rich Habits: The Daily Success Habits Of Wealthy Individuals” (tạm dịch: Những thói quen giàu có - Những thói quen thường ngày của người giàu), 67% người giàu mỗi ngày chỉ xem TV trong khoảng 1 giờ hoặc ít hơn, trong khi người thường rất dễ sa đà ngồi trước TV hàng tiếng đồng hồ để xem hết chương trình này đến chương trình khác nếu rảnh.
Ngoài ra, tác giả Corley cũng để ý thấy rằng ưu tiên khi xem truyền hình của người giàu là những chương trình bản tin, thời sự, phân tích… giúp họ gia tăng kiến thức và sự hiểu biết, họ không dành thời gian để xem truyền hình thực tế, trong khi phần đông người thường lại dành nhiều thời gian để xem những chương trình có tính giải trí cao.
Trong khi người giàu không dành nhiều thời gian và tiền bạc vào hoạt động học tập hàn lâm tại nhà trường, Đại học (thực tế, nhiều nhân vật giàu có hàng đầu thế giới còn có khá ít những ngày tháng học tập tại các nhà trường, hoặc kết quả học tập của họ cũng không nổi trội bằng nhiều bạn học khác), nhưng họ đánh giá rất cao sức mạnh và tầm quan trọng của việc tự học, tự rèn luyện sau khi đã rời nhà trường.
Đó chính là khi người giàu tự giáo dục mình theo nhịp độ và thiên hướng có lợi nhất cho bản thân. Tác giả Steve Siebold cho rằng trong khi phần đông người thường tin rằng bằng cấp là giới hạn cao nhất của việc học tập, họ cố gắng đạt được hết bằng này bằng khác, coi đó là con đường lập thân lập nghiệp lý tưởng, là công cụ để làm giàu, thì người giàu không nghĩ vậy, bởi họ không quá quan trọng một “công cụ” duy nhất nào giúp đưa lại sự giàu có, họ chỉ quan tâm đến kết quả, đến cái đích sau cùng và luôn linh hoạt tìm ra con đường hiệu quả nhất để đạt được cái đích muốn đến.
Bích Ngọc
Theo Business Insider
Nguồn Dân trí
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Người thành công luôn có thói quen đọc sách, bạn có biết vì sao không?
Bafu
(VOH) – Sách mang lại cho chúng ta nguồn kiến thức vô tận, đọc một quyển sách một thế giới mới như được mở ra với vô số điều mà con người khao khát được khám phá.
Sách chính là tinh hoa của nhân loại, chứa đựng một kho tàng kiến thức khổng lồ mà bất cứ ai cũng muốn chinh phục. Mỗi một cuốn sách hay là một chiếc chìa khóa đưa chúng ta đến thành công và thậm chí có thể thay đổi cả cuộc đời một con người. Chính những mục đích tốt đẹp mà sách mang lại nên trong cuộc sống có rất nhiều câu nói, châm ngôn dùng để ca ngợi và khuyến khích đọc sách. Hãy cùng đọc những câu nói hay về sách dưới đây và ngẫm nghĩ để hiểu rõ hơn nhé!
Những câu nói hay về sách kinh điển
1. “Vào khoảnh khắc mà chúng ta quyết thuyết phục đứa trẻ, bất cứ đứa trẻ nào, bước qua bậc thềm ấy, bậc thềm màu nhiệm dẫn vào thư viện, ta thay đổi cuộc sống của nó mãi mãi, theo cách tốt đẹp hơn.” – Barack Obama
2. “Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra cho bạn.” – Barack Obama
3. “Chúng ta là ai, mỗi người trong chúng ta là ai nếu không phải tổ hợp của kinh nghiệm, thông tin, những cuốn sách chúng ta đã đọc, những điều chúng ta đã tưởng tượng ra?.” – Italo Valvino
4. “Một cuốn sách thực sự hay nên đọc trong tuổi trẻ, rồi đọc lại khi đã trưởng thành, và một nửa lúc tuổi già, giống như một tòa nhà đẹp nên được chiêm ngưỡng trong ánh bình minh, nắng trưa và ánh trăng.” – Robertson Davies
5. “Cuốn sách tốt nhất cho bạn là cuốn sách nói nhiều nhất với bạn vào lúc bạn đọc nói. Tôi không nói tới cuốn sách cho bạn nhiều bài học nhất mà là cuốn sách nuôi dưỡng tâm hồn bạn. Và điều đó phụ thuộc vào tuổi tác, trải nghiệm, nhu cầu về tâm lý và tinh thần.” – Robertson Davies
6. “Tôi đọc lòi cả mắt và vẫn không đọc được tới một nửa… người ta càng đọc nhiều, người ta càng thấy còn nhiều điều cần phải đọc.” – John Adams
7. “Đừng bao giờ cho mượn sách – chưa ai từng trả lại chúng; những cuốn sách duy nhất tôi có trong thư viện của mình là những cuốn người khác cho tôi mượn.” – Anatole France
8. “Chính từ sách mà những người khôn ngoan tìm được sự an ủi khỏi những rắc rối của cuộc đời.” – Victor Hugo
9. “Số lượng sách cứ tiếp tục lớn dần lên và ta có thể dự đoán rằng rồi sẽ đến lúc học được từ sách cũng khó như học toàn bộ vũ trụ. Rồi tìm kiếm từng chút sự thật ẩn dấu trong tự nhiên cũng sẽ thuận tiện như tìm nó giữa vô vàn chuồng sách.” – Denis Diderot
10. “Đọc sách hay cũng giống như trò chuyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.” – Rene Descartes
11. “Tất cả những gì con người làm, nghĩ hoặc trở thành: được bảo tồn một cách kỳ diệu trên những trang sách.” – Thomas Carlyle
12. “Chúng ta sẽ trở thành gì phụ thuộc vào điều chúng ta đọc sau khi các thầy cô giáo đã xong việc với chúng ta. Trường học vĩ đại nhất chính là sách vở.” – Thomas Carlyle
13. “Sách có thể ít đi một chút, nhưng phải tốt đẹp hơn. Không nên đặt một cuốn sách tầm thường lên giá sách.” – N.Ôxtơrốpxki
14. “Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ra, đem nó truyền cho người khác và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người.” – Voltaire
15. “Bạn biết rằng một cuốn sách hay trên giá sách là một người bạn dù quay lưng lại nhưng vẫn là bạn tốt.” – Khuyết Danh
16. “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được lựa chọn; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều.” – Louis May Alcott
17. “Lí tưởng là cuốn sách không có trật tự gì cả và người đọc phải tự khám phá ra cho mình”.” – Mark Twain
18. “Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.” – Henry David Thoreau
19. “Bạn biết rằng bạn đã đọc một cuốn sách hay khi bạn giở đến trang cuối cùng và cảm thấy như mình vừa chia tay một người bạn.” – Khuyết Danh
20. “Một cuốn sách hay thực sự hay dạy tôi nhiều điều hơn là đọc nó, Tôi phải nhanh chóng đặt nó xuống, bắt đầu sống theo những điều nó chỉ dẫn. Điều tôi bắt đầu bằng cách đọc, tôi phải kết thúc bằng hành động”, Henry David Thoreau
Những câu nói hay về việc đọc sách
1. “Đọc sách có thể không giàu, nhưng không đọc, chắc chắn nghèo!” (Sưu tầm)
2. “Bạn cô đơn ư? Đừng lo lắng. Mọi cuốn sách đều sẵn sàng kết thân với bạn!” (Sưu tầm)
3. “Có hai cách để hạnh phúc. Một là dùng tiền mua những thứ có thể khiến bạn hạnh phúc. Hai là dùng tri thức để biết hạnh phúc với những gì mình đang có.” (Sưu tầm)
4. “Một vài người nói họ chỉ sống có một lần trong đời. Đó là vì họ đã không đọc sách.” (Sưu tầm)
5. “Đọc sách cho tâm trí cũng cần như thể dục cho cơ thể.” (Sưu tầm)
Những câu nói hay trong sách của nhà văn, tác giả Việt
1. “Khi bạn không làm được điều bạn muốn làm, có lẽ bạn cũng cảm thấy tự do bị tước đoạt.” (trích “Tôi Là Bêtô” – Nguyễn Nhật Ánh)
2. “Hai bàn tay của ta giống như những người bạn thân, luôn chia sẻ với ta mọi vui buồn trong cuộc sống. Bạn cứ ngẫm mà xem, có phải khi bạn mừng rỡ hay phấn khích, hai bàn tay hăng hái vỗ vào nhau để nhân đôi niềm vui trong lòng bạn. Khi bạn khóc, hai bàn tay lại thay phiên nhau kiên trì lau khô những giọt lệ lăn tròn trên gò má bạn. Hai bàn tay lúc đó giống như những chú chim vàng anh trong cổ tích, cần mẫn tha từng hạt cườm long lanh trên mặt bạn đem gởi vào nắng, vào gió, vào mưa để một chốc sau sự tươi tỉnh lại nhuộm hồng gương mặt mới đây còn tái xanh của bạn.” (trích “Tôi Thấy Hoa Vàng Trên Cỏ Xanh” – Nguyễn Nhật Ánh)
3. “Có những vẻ đẹp bạn không nhận ra cho đến khi đã đánh mất nó, không phải như người yêu đã chia tay, không phải như nụ hoa đã tàn héo, mà như một phần cuộc đời bạn, không gì thay thế nổi.” (trích “Hãy Tìm Tôi Giữa Cánh Đồng” – Đặng Nguyễn Đông Vy)
4. “Trải qua bấy nhiêu chuyện, ta mới phát hiện chết thực ra rất dễ dàng, sống mới là khó khăn. Có thể sống đến cuối cùng mới là khó nhất.” (trích Từng thề ước – Đồng Hoa)
5. “Hãy cứ nhớ rằng độc thân là một đặc ân, cho nên phải tận hưởng lâu nhất có thể, bạn nhé.” (trích “Buồn Làm Sao Buông” – Anh Khang)
6. “Muốn “thấu” một người, hãy đứng trong hoàn cảnh của người ta, như thế mới hiểu được chuyện gì đang xảy ra, để cảm thông và sẻ chia với họ”. (trích “Thương Nhau Để Đó” – Hamlet Trương và Iris Cao)
7. “Quá khứ là để chúng ta nhớ về chứ không phải là để sống chung với nó.” (trích “Thời Gian Để Yêu” – Hamlet Trương)
8. “Khi mọi chuyện qua đi, chúng ta nhìn lại, chợt nhận thấy bản thân mình trong giai đoạn ấy, thật dại khờ, xuẩn ngốc đến bao nhiêu.” (“Lưng Chừng Cô Đơn” – Nguyễn Ngọc Thạch)
9. “Dù có thế nào cũng phải cố gắng SỐNG thật ý nghĩa, bởi lẽ cuộc đời là một quyển sách đặc biệt chẳng ai biết trước mục lục cả.” (trích “Có Ai Giữ Giùm Những Lãng Quên” – Jun Phạm)
10. “Cái gì là của mình, số phận sẽ có cách đưa nó trở về mà bản thân mình có nỗ lực chối bỏ cũng không được.” (trích “Thương Nhau Để Đó” – Hamlet Trương)
Hãy dành bất cứ thời gian rảnh nào của bạn để đọc sách vì chúng không chỉ giúp bạn thư giãn mà còn mở ra trong một bạn mới thế giới khác. Nghiền ngẫm những trang sách sẽ tăng thêm phần tri thức của bản thân, giúp bạn khám phá thêm nhiều kiến thức bổ ích và mở đường đến thành công. Do đó, sách luôn được xem là người bạn quý giá của nhân loại và mỗi chúng ta cần có thói quen đọc sách.
Nguồn: https://voh.com.vn/
Bafu
(VOH) – Sách mang lại cho chúng ta nguồn kiến thức vô tận, đọc một quyển sách một thế giới mới như được mở ra với vô số điều mà con người khao khát được khám phá.
Sách chính là tinh hoa của nhân loại, chứa đựng một kho tàng kiến thức khổng lồ mà bất cứ ai cũng muốn chinh phục. Mỗi một cuốn sách hay là một chiếc chìa khóa đưa chúng ta đến thành công và thậm chí có thể thay đổi cả cuộc đời một con người. Chính những mục đích tốt đẹp mà sách mang lại nên trong cuộc sống có rất nhiều câu nói, châm ngôn dùng để ca ngợi và khuyến khích đọc sách. Hãy cùng đọc những câu nói hay về sách dưới đây và ngẫm nghĩ để hiểu rõ hơn nhé!
Những câu nói hay về sách kinh điển
1. “Vào khoảnh khắc mà chúng ta quyết thuyết phục đứa trẻ, bất cứ đứa trẻ nào, bước qua bậc thềm ấy, bậc thềm màu nhiệm dẫn vào thư viện, ta thay đổi cuộc sống của nó mãi mãi, theo cách tốt đẹp hơn.” – Barack Obama
2. “Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra cho bạn.” – Barack Obama
3. “Chúng ta là ai, mỗi người trong chúng ta là ai nếu không phải tổ hợp của kinh nghiệm, thông tin, những cuốn sách chúng ta đã đọc, những điều chúng ta đã tưởng tượng ra?.” – Italo Valvino
4. “Một cuốn sách thực sự hay nên đọc trong tuổi trẻ, rồi đọc lại khi đã trưởng thành, và một nửa lúc tuổi già, giống như một tòa nhà đẹp nên được chiêm ngưỡng trong ánh bình minh, nắng trưa và ánh trăng.” – Robertson Davies
5. “Cuốn sách tốt nhất cho bạn là cuốn sách nói nhiều nhất với bạn vào lúc bạn đọc nói. Tôi không nói tới cuốn sách cho bạn nhiều bài học nhất mà là cuốn sách nuôi dưỡng tâm hồn bạn. Và điều đó phụ thuộc vào tuổi tác, trải nghiệm, nhu cầu về tâm lý và tinh thần.” – Robertson Davies
6. “Tôi đọc lòi cả mắt và vẫn không đọc được tới một nửa… người ta càng đọc nhiều, người ta càng thấy còn nhiều điều cần phải đọc.” – John Adams
7. “Đừng bao giờ cho mượn sách – chưa ai từng trả lại chúng; những cuốn sách duy nhất tôi có trong thư viện của mình là những cuốn người khác cho tôi mượn.” – Anatole France
8. “Chính từ sách mà những người khôn ngoan tìm được sự an ủi khỏi những rắc rối của cuộc đời.” – Victor Hugo
9. “Số lượng sách cứ tiếp tục lớn dần lên và ta có thể dự đoán rằng rồi sẽ đến lúc học được từ sách cũng khó như học toàn bộ vũ trụ. Rồi tìm kiếm từng chút sự thật ẩn dấu trong tự nhiên cũng sẽ thuận tiện như tìm nó giữa vô vàn chuồng sách.” – Denis Diderot
10. “Đọc sách hay cũng giống như trò chuyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.” – Rene Descartes
11. “Tất cả những gì con người làm, nghĩ hoặc trở thành: được bảo tồn một cách kỳ diệu trên những trang sách.” – Thomas Carlyle
12. “Chúng ta sẽ trở thành gì phụ thuộc vào điều chúng ta đọc sau khi các thầy cô giáo đã xong việc với chúng ta. Trường học vĩ đại nhất chính là sách vở.” – Thomas Carlyle
13. “Sách có thể ít đi một chút, nhưng phải tốt đẹp hơn. Không nên đặt một cuốn sách tầm thường lên giá sách.” – N.Ôxtơrốpxki
14. “Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ra, đem nó truyền cho người khác và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người.” – Voltaire
15. “Bạn biết rằng một cuốn sách hay trên giá sách là một người bạn dù quay lưng lại nhưng vẫn là bạn tốt.” – Khuyết Danh
16. “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được lựa chọn; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều.” – Louis May Alcott
17. “Lí tưởng là cuốn sách không có trật tự gì cả và người đọc phải tự khám phá ra cho mình”.” – Mark Twain
18. “Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.” – Henry David Thoreau
19. “Bạn biết rằng bạn đã đọc một cuốn sách hay khi bạn giở đến trang cuối cùng và cảm thấy như mình vừa chia tay một người bạn.” – Khuyết Danh
20. “Một cuốn sách hay thực sự hay dạy tôi nhiều điều hơn là đọc nó, Tôi phải nhanh chóng đặt nó xuống, bắt đầu sống theo những điều nó chỉ dẫn. Điều tôi bắt đầu bằng cách đọc, tôi phải kết thúc bằng hành động”, Henry David Thoreau
Những câu nói hay về việc đọc sách
1. “Đọc sách có thể không giàu, nhưng không đọc, chắc chắn nghèo!” (Sưu tầm)
2. “Bạn cô đơn ư? Đừng lo lắng. Mọi cuốn sách đều sẵn sàng kết thân với bạn!” (Sưu tầm)
3. “Có hai cách để hạnh phúc. Một là dùng tiền mua những thứ có thể khiến bạn hạnh phúc. Hai là dùng tri thức để biết hạnh phúc với những gì mình đang có.” (Sưu tầm)
4. “Một vài người nói họ chỉ sống có một lần trong đời. Đó là vì họ đã không đọc sách.” (Sưu tầm)
5. “Đọc sách cho tâm trí cũng cần như thể dục cho cơ thể.” (Sưu tầm)
Những câu nói hay trong sách của nhà văn, tác giả Việt
1. “Khi bạn không làm được điều bạn muốn làm, có lẽ bạn cũng cảm thấy tự do bị tước đoạt.” (trích “Tôi Là Bêtô” – Nguyễn Nhật Ánh)
2. “Hai bàn tay của ta giống như những người bạn thân, luôn chia sẻ với ta mọi vui buồn trong cuộc sống. Bạn cứ ngẫm mà xem, có phải khi bạn mừng rỡ hay phấn khích, hai bàn tay hăng hái vỗ vào nhau để nhân đôi niềm vui trong lòng bạn. Khi bạn khóc, hai bàn tay lại thay phiên nhau kiên trì lau khô những giọt lệ lăn tròn trên gò má bạn. Hai bàn tay lúc đó giống như những chú chim vàng anh trong cổ tích, cần mẫn tha từng hạt cườm long lanh trên mặt bạn đem gởi vào nắng, vào gió, vào mưa để một chốc sau sự tươi tỉnh lại nhuộm hồng gương mặt mới đây còn tái xanh của bạn.” (trích “Tôi Thấy Hoa Vàng Trên Cỏ Xanh” – Nguyễn Nhật Ánh)
3. “Có những vẻ đẹp bạn không nhận ra cho đến khi đã đánh mất nó, không phải như người yêu đã chia tay, không phải như nụ hoa đã tàn héo, mà như một phần cuộc đời bạn, không gì thay thế nổi.” (trích “Hãy Tìm Tôi Giữa Cánh Đồng” – Đặng Nguyễn Đông Vy)
4. “Trải qua bấy nhiêu chuyện, ta mới phát hiện chết thực ra rất dễ dàng, sống mới là khó khăn. Có thể sống đến cuối cùng mới là khó nhất.” (trích Từng thề ước – Đồng Hoa)
5. “Hãy cứ nhớ rằng độc thân là một đặc ân, cho nên phải tận hưởng lâu nhất có thể, bạn nhé.” (trích “Buồn Làm Sao Buông” – Anh Khang)
6. “Muốn “thấu” một người, hãy đứng trong hoàn cảnh của người ta, như thế mới hiểu được chuyện gì đang xảy ra, để cảm thông và sẻ chia với họ”. (trích “Thương Nhau Để Đó” – Hamlet Trương và Iris Cao)
7. “Quá khứ là để chúng ta nhớ về chứ không phải là để sống chung với nó.” (trích “Thời Gian Để Yêu” – Hamlet Trương)
8. “Khi mọi chuyện qua đi, chúng ta nhìn lại, chợt nhận thấy bản thân mình trong giai đoạn ấy, thật dại khờ, xuẩn ngốc đến bao nhiêu.” (“Lưng Chừng Cô Đơn” – Nguyễn Ngọc Thạch)
9. “Dù có thế nào cũng phải cố gắng SỐNG thật ý nghĩa, bởi lẽ cuộc đời là một quyển sách đặc biệt chẳng ai biết trước mục lục cả.” (trích “Có Ai Giữ Giùm Những Lãng Quên” – Jun Phạm)
10. “Cái gì là của mình, số phận sẽ có cách đưa nó trở về mà bản thân mình có nỗ lực chối bỏ cũng không được.” (trích “Thương Nhau Để Đó” – Hamlet Trương)
Hãy dành bất cứ thời gian rảnh nào của bạn để đọc sách vì chúng không chỉ giúp bạn thư giãn mà còn mở ra trong một bạn mới thế giới khác. Nghiền ngẫm những trang sách sẽ tăng thêm phần tri thức của bản thân, giúp bạn khám phá thêm nhiều kiến thức bổ ích và mở đường đến thành công. Do đó, sách luôn được xem là người bạn quý giá của nhân loại và mỗi chúng ta cần có thói quen đọc sách.
Nguồn: https://voh.com.vn/
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Thói quen đọc sách là khởi đầu thành công: Tri thức là gốc rễ tạo nên sự khác biệt giữa người thành công và số đông còn lại
M.kenh14
Quan trọng và cần thiết hơn bất cứ điều gì khác, thông tin bạn học được từ việc đọc sách chính là chìa khóa để sống một cuộc sống mà bạn mong muốn.
Thói quen đọc sách của những người siêu thành công
Khi nhà đầu tư nổi tiếng Warren Bufett được hỏi về bí quyết thành công của mình, ông đơn giản chỉ vào một chồng sách và nói: “Hãy đọc 500 trang sách mỗi ngày. Đó là cách tri thức vận động, tích lũy, như thể lãi suất kép vậy. Tất cả mọi người đều có thể làm được, tuy nhiên, không nhiều bạn có thể duy trì việc đọc sách trở thành một thói quen được. Điều này, tạo ra sự khác biệt giữa người thành công và số đông còn lại.”
Trên thực tế, khi mới bắt đầu sự nghiệp, Buffet đọc tới 800 trang sách một ngày chứ không phải 500 trang. Thậm chí, tới khi đã trở thành nhà đầu tư nổi tiếng hàng đầu, ông vẫn duy trì thói quen dành ra 8 tiếng một ngày để đọc sách. Làm như thế nào ông có thể dành ra nhiều thời gian đến thế trong chuỗi lịch trình bận rộn của mình? Câu trả lời đó là, đối với Warren Buffet, ông đặt việc đọc sách là ưu tiên số một. Và Warren Buffet không phải người duy nhất có thói quen này.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ New York Times, Bill Gates đã chia sẻ rằng ông đọc khoảng 50 cuốn sách mỗi năm. Ngoài ra, ông còn dành ra hai tuần trong một năm gọi là tuần đọc sách.
Thiên tài công nghệ Elon Musk, sáng lập hãng hàng không khai phá không gian SpaceX cũng nói rằng ông tự dạy mình về vật lý cũng như khoa học tên lửa chỉ bằng cách đọc rất nhiều sách. Mark Cuban sẽ dành tới 3 giờ mỗi ngày cho việc đọc.
Người dẫn chương trình kiêm nhà sản xuất truyền hình Oprah Winfrey đã gọi việc đọc là con đường của cô ấy đến tự do cá nhân. Cô thậm chí còn bắt đầu câu lạc bộ sách của riêng mình, nơi cô nói về những cuốn sách yêu thích.
Thêm nữa, nếu bạn nhìn vào các CEO trên thế giới, trung bình một CEO đọc một cuốn sách mỗi tuần, tổng cộng một năm họ sẽ đọc hơn 50 cuốn sách.
Hãy thử tưởng tượng cuộc sống của bạn sẽ như thế nào nếu bạn cũng đọc một cuốn sách mỗi tuần và duy trì thói quen này trong 10 năm tiếp theo. Những lợi ích đã được chỉ ra rằng, nếu bạn đọc những cuốn sách phù hợp, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn, sống lành mạnh hơn, và thành công hơn về mặt tài chính.
Đó là lý do tại sao những người thành công chọn sách là một trong những người đồng hành không thể thiếu của mình. Đơn giản vì họ biết, nếu có được cuốn sách phù hợp trong tay thì họ chính là người làm chủ cuộc sống, vận mệnh của mình.
Đọc sách có chọn lọc
Đọc sách liên tục và duy trì thành một thói quan điều mà những người siêu thành công thường làm. Tuy nhiên, họ không đọc tất cả mọi thứ. Thomas Corley chia sẻ trong cuốn sách Thói quen giàu có của mình rằng, ông nhận thấy những người siêu thành công có thói quen chọn lọc về loại sách họ đọc.
Corley nói rằng những người giàu (thu nhập hàng năm từ 160.000 đô la trở lên và tài sản ròng trị giá khoảng 3,2 triệu đô la) đọc sách là để tự cải thiện bản thân, tiếp thu tri thức mới và trở nên thành công. Trong khi những người khá giả (thu nhập hàng năm từ 35.000 đô la trở xuống và tài sản ròng trị giá 5.000 đô la trở xuống) đọc chủ yếu để giải trí.
Tại sao lại như vậy? Đơn giản bởi vì những người thành công xem sách là một cửa ngõ vào kiến thức. Kết quả là, họ có xu hướng đọc những cuốn sách sẽ giúp họ phát triển trí tuệ và cải thiện cuộc sống. Điều này rất quan trọng bởi vì, sự thật là, nếu bạn không học được bất cứ thứ gì có giá trị, vậy bạn mong cuộc sống của mình thay đổi như thế nào?
Thay vào đó, bạn cần tìm những cuốn sách sẽ giúp bạn phát triển trong các lĩnh vực của cuộc sống mà bạn muốn cải thiện. Chẳng hạn, bạn có muốn độc lập về tài chính không? Vậy hãy đọc những cuốn sách như Người đàn ông giàu nhất vùng Babylon của George Clason hoặc Tôi sẽ dạy bạn trở nên giàu có bởi Ramit Sethi.
Nếu bạn muốn có một mối quan hệ lãng mạn hạnh phúc và lành mạnh, hãy tìm đọc những cuốn sách như 5 thứ ngôn ngữ trong tình yêu của Gary Chapman. Bất cứ điều gì bạn muốn đạt được trong cuộc sống, sẽ có một nguồn sách vô tận dạy và hướng dẫn cho bạn.
Làm sao để đọc 1 cuốn sách mỗi tuần?
Đọc một cuốn sách một tuần như Bill Gates hay Warren Buffett là thói quen quan trọng nhất nếu bạn muốn xây dựng cuộc sống của mình theo hướng tích cực hơn. Bạn cũng đừng nên lo lắng rằng sẽ thật khó để duy trì thói quen này. Trên thực tế, bất cứ ai cũng có thể học cách duy trì thói quen đọc sách đều đặn.
Dưới đây là 5 mẹo đơn giản bạn có thể sử dụng để đọc một cuốn sách mỗi tuần.
1. Đọc 30 trang sách mỗi ngày
Khi bạn dành thời gian để đọc sách, miễn là bạn không bị phân tâm bởi bất cứ điều gì, thì hầu hết mọi người có thể đọc được khoảng 30 trang trong 45 phút. 30 trang tưởng chừng ít nhưng thực sự bạn chỉ cần đọc 30 trang mỗi ngày để có thể đọc hết một cuốn sách mỗi tuần.
Dù lịch trình trong ngày có thay đổi như thế nào, hãy luôn cố gắng đọc ít nhất 30 trang mỗi ngày.
2. Đọc những cuốn sách bạn thực sự yêu thích
Đọc sách cần sự yêu thích và say mê. Do đó, nếu không thích cuốn sách mà bạn đang đọc, thì hãy ngừng lại. Đừng khiến cho việc đọc sách là một sự ép buộc, thay vào đó, hãy chọn đọc những cuốn sách mà bạn quan tâm và yêu thích.
3. Đọc sách bằng đa phương tiện
Nếu mong muốn của bạn là đọc được một cuốn sách một tuần, thì bạn hãy tận dụng nhiều phương tiện để vừa hạn chế thời gian rảnh, vừa đạt được mục tiêu đặt ra. Bạn có thể đọc sách giấy, đọc online hay nghe sách nói.
Trong đó, sách nói được khuyến khích là một công cụ vô cùng tiện lợi. Bạn có thể nghe mọi lúc, mọi nơi, trên đường đi làm, giờ nghỉ trưa ở văn phòng hay tại phòng tập thể dục.
4. Tạo môi trường đọc sách
Nếu bạn muốn đọc một cuốn sách một tuần, thì hãy chắc chắn rằng bạn loại bỏ tất cả những phiền nhiễu khỏi môi trường khiến bạn không đọc được nhiều hơn, chẳng hạn như điện thoại, máy tính, tiếng ồn, v.v. Và quan trọng hơn là để sách ở vị trí thuận tiện quanh nhà hoặc mang theo bên mình mọi lúc mọi nơi.
5. Tránh đọc trên giường
Nếu bạn đang làm việc trên giường, bạn có thể thấy nó khó tập trung và bắt đầu cảm thấy buồn ngủ. Điều này là do não của bạn đã học cách liên kết giường của bạn với giấc ngủ chứ không phải làm việc.
Đây là lý do tại sao bạn cần phải có môi trường riêng cho các nhiệm vụ cụ thể. Hãy tìm một nơi yên tĩnh, đi tới một quán cà phê hay có một bàn đọc sách riêng sẽ thực sự hiệu quả. Nếu bạn luôn cố gắng đọc trên giường, bạn sẽ có cảm giác buồn ngủ, không thể tập trung tốt và kết quả là não bộ không thể giữ lại bất kỳ thông tin quan trọng nào.
M.kenh14
Quan trọng và cần thiết hơn bất cứ điều gì khác, thông tin bạn học được từ việc đọc sách chính là chìa khóa để sống một cuộc sống mà bạn mong muốn.
Thói quen đọc sách của những người siêu thành công
Khi nhà đầu tư nổi tiếng Warren Bufett được hỏi về bí quyết thành công của mình, ông đơn giản chỉ vào một chồng sách và nói: “Hãy đọc 500 trang sách mỗi ngày. Đó là cách tri thức vận động, tích lũy, như thể lãi suất kép vậy. Tất cả mọi người đều có thể làm được, tuy nhiên, không nhiều bạn có thể duy trì việc đọc sách trở thành một thói quen được. Điều này, tạo ra sự khác biệt giữa người thành công và số đông còn lại.”
Trên thực tế, khi mới bắt đầu sự nghiệp, Buffet đọc tới 800 trang sách một ngày chứ không phải 500 trang. Thậm chí, tới khi đã trở thành nhà đầu tư nổi tiếng hàng đầu, ông vẫn duy trì thói quen dành ra 8 tiếng một ngày để đọc sách. Làm như thế nào ông có thể dành ra nhiều thời gian đến thế trong chuỗi lịch trình bận rộn của mình? Câu trả lời đó là, đối với Warren Buffet, ông đặt việc đọc sách là ưu tiên số một. Và Warren Buffet không phải người duy nhất có thói quen này.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ New York Times, Bill Gates đã chia sẻ rằng ông đọc khoảng 50 cuốn sách mỗi năm. Ngoài ra, ông còn dành ra hai tuần trong một năm gọi là tuần đọc sách.
Thiên tài công nghệ Elon Musk, sáng lập hãng hàng không khai phá không gian SpaceX cũng nói rằng ông tự dạy mình về vật lý cũng như khoa học tên lửa chỉ bằng cách đọc rất nhiều sách. Mark Cuban sẽ dành tới 3 giờ mỗi ngày cho việc đọc.
Người dẫn chương trình kiêm nhà sản xuất truyền hình Oprah Winfrey đã gọi việc đọc là con đường của cô ấy đến tự do cá nhân. Cô thậm chí còn bắt đầu câu lạc bộ sách của riêng mình, nơi cô nói về những cuốn sách yêu thích.
Thêm nữa, nếu bạn nhìn vào các CEO trên thế giới, trung bình một CEO đọc một cuốn sách mỗi tuần, tổng cộng một năm họ sẽ đọc hơn 50 cuốn sách.
Hãy thử tưởng tượng cuộc sống của bạn sẽ như thế nào nếu bạn cũng đọc một cuốn sách mỗi tuần và duy trì thói quen này trong 10 năm tiếp theo. Những lợi ích đã được chỉ ra rằng, nếu bạn đọc những cuốn sách phù hợp, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn, sống lành mạnh hơn, và thành công hơn về mặt tài chính.
Đó là lý do tại sao những người thành công chọn sách là một trong những người đồng hành không thể thiếu của mình. Đơn giản vì họ biết, nếu có được cuốn sách phù hợp trong tay thì họ chính là người làm chủ cuộc sống, vận mệnh của mình.
Đọc sách có chọn lọc
Đọc sách liên tục và duy trì thành một thói quan điều mà những người siêu thành công thường làm. Tuy nhiên, họ không đọc tất cả mọi thứ. Thomas Corley chia sẻ trong cuốn sách Thói quen giàu có của mình rằng, ông nhận thấy những người siêu thành công có thói quen chọn lọc về loại sách họ đọc.
Corley nói rằng những người giàu (thu nhập hàng năm từ 160.000 đô la trở lên và tài sản ròng trị giá khoảng 3,2 triệu đô la) đọc sách là để tự cải thiện bản thân, tiếp thu tri thức mới và trở nên thành công. Trong khi những người khá giả (thu nhập hàng năm từ 35.000 đô la trở xuống và tài sản ròng trị giá 5.000 đô la trở xuống) đọc chủ yếu để giải trí.
Tại sao lại như vậy? Đơn giản bởi vì những người thành công xem sách là một cửa ngõ vào kiến thức. Kết quả là, họ có xu hướng đọc những cuốn sách sẽ giúp họ phát triển trí tuệ và cải thiện cuộc sống. Điều này rất quan trọng bởi vì, sự thật là, nếu bạn không học được bất cứ thứ gì có giá trị, vậy bạn mong cuộc sống của mình thay đổi như thế nào?
Thay vào đó, bạn cần tìm những cuốn sách sẽ giúp bạn phát triển trong các lĩnh vực của cuộc sống mà bạn muốn cải thiện. Chẳng hạn, bạn có muốn độc lập về tài chính không? Vậy hãy đọc những cuốn sách như Người đàn ông giàu nhất vùng Babylon của George Clason hoặc Tôi sẽ dạy bạn trở nên giàu có bởi Ramit Sethi.
Nếu bạn muốn có một mối quan hệ lãng mạn hạnh phúc và lành mạnh, hãy tìm đọc những cuốn sách như 5 thứ ngôn ngữ trong tình yêu của Gary Chapman. Bất cứ điều gì bạn muốn đạt được trong cuộc sống, sẽ có một nguồn sách vô tận dạy và hướng dẫn cho bạn.
Làm sao để đọc 1 cuốn sách mỗi tuần?
Đọc một cuốn sách một tuần như Bill Gates hay Warren Buffett là thói quen quan trọng nhất nếu bạn muốn xây dựng cuộc sống của mình theo hướng tích cực hơn. Bạn cũng đừng nên lo lắng rằng sẽ thật khó để duy trì thói quen này. Trên thực tế, bất cứ ai cũng có thể học cách duy trì thói quen đọc sách đều đặn.
Dưới đây là 5 mẹo đơn giản bạn có thể sử dụng để đọc một cuốn sách mỗi tuần.
1. Đọc 30 trang sách mỗi ngày
Khi bạn dành thời gian để đọc sách, miễn là bạn không bị phân tâm bởi bất cứ điều gì, thì hầu hết mọi người có thể đọc được khoảng 30 trang trong 45 phút. 30 trang tưởng chừng ít nhưng thực sự bạn chỉ cần đọc 30 trang mỗi ngày để có thể đọc hết một cuốn sách mỗi tuần.
Dù lịch trình trong ngày có thay đổi như thế nào, hãy luôn cố gắng đọc ít nhất 30 trang mỗi ngày.
2. Đọc những cuốn sách bạn thực sự yêu thích
Đọc sách cần sự yêu thích và say mê. Do đó, nếu không thích cuốn sách mà bạn đang đọc, thì hãy ngừng lại. Đừng khiến cho việc đọc sách là một sự ép buộc, thay vào đó, hãy chọn đọc những cuốn sách mà bạn quan tâm và yêu thích.
3. Đọc sách bằng đa phương tiện
Nếu mong muốn của bạn là đọc được một cuốn sách một tuần, thì bạn hãy tận dụng nhiều phương tiện để vừa hạn chế thời gian rảnh, vừa đạt được mục tiêu đặt ra. Bạn có thể đọc sách giấy, đọc online hay nghe sách nói.
Trong đó, sách nói được khuyến khích là một công cụ vô cùng tiện lợi. Bạn có thể nghe mọi lúc, mọi nơi, trên đường đi làm, giờ nghỉ trưa ở văn phòng hay tại phòng tập thể dục.
4. Tạo môi trường đọc sách
Nếu bạn muốn đọc một cuốn sách một tuần, thì hãy chắc chắn rằng bạn loại bỏ tất cả những phiền nhiễu khỏi môi trường khiến bạn không đọc được nhiều hơn, chẳng hạn như điện thoại, máy tính, tiếng ồn, v.v. Và quan trọng hơn là để sách ở vị trí thuận tiện quanh nhà hoặc mang theo bên mình mọi lúc mọi nơi.
5. Tránh đọc trên giường
Nếu bạn đang làm việc trên giường, bạn có thể thấy nó khó tập trung và bắt đầu cảm thấy buồn ngủ. Điều này là do não của bạn đã học cách liên kết giường của bạn với giấc ngủ chứ không phải làm việc.
Đây là lý do tại sao bạn cần phải có môi trường riêng cho các nhiệm vụ cụ thể. Hãy tìm một nơi yên tĩnh, đi tới một quán cà phê hay có một bàn đọc sách riêng sẽ thực sự hiệu quả. Nếu bạn luôn cố gắng đọc trên giường, bạn sẽ có cảm giác buồn ngủ, không thể tập trung tốt và kết quả là não bộ không thể giữ lại bất kỳ thông tin quan trọng nào.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
reviewsach
Bà Bovary – Cái giá của một giấc mộng
Gustave Flaubert là một trong những cái tên tiêu biểu của văn học hiện thực Pháp thế kỷ 19. Tác phẩm “Bà Bovary” của ông được xuất bản năm 1856 vừa khắc họa sâu sắc giấc mộng lãng mạn thời ấy vừa thể hiện cảnh điêu tàn của nó khi bị hiện thực vùi dập. Giống như một bản nhạc bay bổng, “Bà Bovary” đưa người đọc vào tâm hồn đầy thi ca lãng mạn của người Pháp và những nét văn hóa đặc sắc thế kỷ 19.
Văn chương bay bổng và phóng khoáng của Gustave Flaubert
Dù là tác phẩm đại diện cho chủ nghĩa hiện thực Pháp thế kỷ 19, nhưng “Bà Bovary” chứa đựng một phần “con người thứ nhất” của Gustave Flaubert – con người lãng mạn được ảnh hưởng từ Victor Hugo. Trải khắp cả truyện là những dòng văn miêu tả đẹp đẽ, từ con người đến cảnh sắc thiên nhiên nơi họ đi qua, tựa như những khúc nhạc cất lên, khi mềm mại uyển chuyển:
“Không khí lồng lộng bao quanh nàng, lật tung những sợi tóc tơ ở gáy, hoặc lay động những dải buộc tạp dề như những dải cờ. Một lần vào lúc trời tan giá, vỏ cây rỉ nước ngoài sân, tuyết trên mái nhà chảy xuống. Nàng đứng ở thềm; nàng đi tìm cái dù, nàng mở ra. Cái dù bằng lụa xanh biếc, lóng lánh như cổ chim câu khi ánh nắng xuyên qua, đã toả ánh sáng muôn màu vào da mặt trắng trẻo của nàng.”
lúc lại mạnh mẽ cuồn cuộn:
“Từng đám bóng đen, rải rác đó đây, nổi lên trong đêm tối và, đôi khi, nhẹ nhàng run rẩy theo cùng một động tác, chúng đứng thẳng lên rồi lại ngã xuống như những làn sóng đen mênh mông tiến đến trùm lên họ. Hơi lạnh ban đầu khiến họ ôm ấp nhau chặt hơn; những tiếng thở dài qua môi họ dường như mạnh hơn; đôi mắt họ, mà họ vừa khám phá thấy, tưởng chừng to hơn, giữa cảnh nhà tĩnh mịch có những lời nói thì thầm rơi vào tâm hồn họ với âm thanh trong trẻo và dội lại trong đó thành những rung động tăng lên gấp bội.”
Dường như tâm hồn của những nhà văn người Pháp luôn lãng mạn và đầy thơ mộng như vậy. Độc giả có thể bắt gặp một “Người tình” của Marguerite Duras thấm đượm nữ tính và trữ tình, một “Trà hoa nữ” của Alexandre Dumas với những cảm xúc mãnh liệt mà tuôn trào rất đỗi tự nhiên, và ở đây là một “Bà Bovary” đầy rẫy những hình ảnh so sánh vô cùng đắt giá. Ví dụ như ở đoạn diễn tả tâm trạng chán chường của Emma (tên của bà Bovary) về người chồng thầy thuốc thôn quê tầm thường không chí lớn (là Charles), tác giả đã so sánh nỗi phiền muộn ấy “như những đám mây dày, xoay chiều như cơn gió thổi”. Đám mây dày vừa gợi hình ảnh âm u, xám xịt là cõi lòng nàng, mà lại dày đặc những suy tư chất chồng ngày đêm; còn cơn gió xoay chiều là nỗi phiền ấy không ở yên mà cứ trở đi trở lại, cứ quay quắt và làm hỗn loạn trong nàng mãi không thôi. Đoạn tiếp đó lại là một phép so sánh nữa: nếu chồng nàng quan tâm và hiểu một chút “thì nàng tưởng chừng sẽ phải thổ lộ hết nỗi lòng của nàng như những trái chín từ giàn cây rụng xuống khi người ta đưa tay hái”. Nỗi phiền muộn ấy đã chín rồi và rõ ràng, lồ lộ đến mức chỉ cần vươn tay ra là nắm được, thế nhưng Charles Bovary – chồng nàng – không bao giờ biết, không bao giờ hiểu dẫu đã gần đến thế. Sự sầu úa của tâm hồn, sự tuyệt vọng trong Emma đã được đẩy lên cao trào một cách khéo léo và tinh tế như vậy. Khoảng cách giữa hai con người ở cạnh nhau dưới một mái nhà mà bằng cả nghìn trùng khơi!
Giấc mộng phù phiếm của bà Bovary giữa lòng xã hội Pháp thế kỷ 19
Bà Bovary xuất thân là một thiếu nữ nông thôn được học trong tu viện và đọc rất nhiều tiểu thuyết tình cảm. Bị ảnh hưởng bởi văn chương lãng mạn, nàng những mong được làm vai nữ chính trong đó, được yêu thương bởi một người chồng tài năng, giàu có, hào hoa phong nhã, chí lớn, danh vọng đầy mình, luôn cùng nàng nói về những chủ đề bay bổng diễm lệ. Thế nhưng, nàng vỡ mộng vì lỡ gả cho Charles – người thầy thuốc mà theo nàng là “người đâu mà hèn đến thế”, thô lỗ, vụng về, thiếu hiểu biết, không có thú vui xa hoa trụy lạc. Nàng ngoại tình với hai người đàn ông (Léon và Rodolphe) – tình nhân trong mộng, không lao động nhưng phung phí đến cạn kiệt tài sản của chồng.
Diễn biến của hai cuộc ngoại tình ấy thật sự hấp dẫn, mặc dù ngay từ đầu truyện người đọc đã bị lôi cuốn bởi lối viết văn cầu toàn. Tạm chưa nói đến sự đáng trách của các nhân vật khi đi ngược đạo đức xã hội, người đọc không khỏi ấn tượng với một Rodolphe cùng kế hoạch từ quyến rũ, nắm bắt tâm lý phụ nữ đến ruồng bỏ người tình đều cực kỳ tinh vi. Kế hoạch ấy, đến hôm nay vẫn có thể áp dụng được, hay nói cách khác, lý do để ngoại tình và tâm lý người trong cuộc có lẽ đều giống nhau qua các thời kỳ. Tác phẩm có giá trị lâu dài và trở thành kinh điển một phần cũng vì thế.
Ngoài Rodolphe, nhân vật Léon cũng đại diện cho một loại đàn ông dễ dàng quyến rũ phụ nữ trong xã hội: một luật sư trẻ trung, phong nhã, vừa có sự nhút nhát đầu đời nhưng lại cũng vừa sẵn sàng bày tỏ ra cái tình cảm mãnh liệt dành cho người phụ nữ. Sống cạnh một người chồng cục mịch khô khan, bà Bovary – vốn có một trái tim rạo rực luôn khao khát yêu đương – bị hấp dẫn bởi Léon âu cũng là một điều dễ hiểu. Sự tài tình trong việc xây dựng nhân vật của tác giả nằm ở đó.
Trong truyện, bà Bovary không chỉ vỡ mộng một, hai mà đến ba lần và cấp độ đau thương cứ tăng lên dần. Càng khát khao tình yêu, nàng ta càng nhận lấy quả đắng gấp bội. Ngoại tình là vậy, làm sao có được kết quả tốt đẹp? Không chỉ giấc mộng phù phiếm của nàng tan vỡ, mà cả cuộc sống người chồng tội nghiệp là Charles cũng bị hủy hoại. Anh đã yêu thương, chiều chuộng nàng hết mực, say mê trong niềm hạnh phúc đơn phương mình anh tưởng tượng, và cho đến cùng khi đau đớn nhận ra mình bị phản bội vẫn không căm hận người vợ hay những gã nhân tình của nàng. Thậm chí, anh chối bỏ luôn bản thân khi nhìn vào gã nhân tình của vợ và ước rằng mình có thể trở thành như thế.
“Đó là định mệnh.” Anh bắt chước cách nói chuyện giả vờ đạo lý văn thơ của Rodolphe.
Không chỉ cái kết đắng bị ruồng bỏ và mất tất cả bao gồm mạng sống của bà Bovary, sự khốn khổ của Charles cũng là biểu hiện rõ nhất cho chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm. Người đàn ông ấy ngay từ đầu đã luôn sống theo sự sắp đặt của cha mẹ, không dám trái ý vợ trước là người phụ nữ góa chồng, xuôi theo dòng chảy của xã hội mà chẳng có cái tôi, bản ngã của riêng mình, bị lừa dối và đến cuối truyện người vợ anh thương dù không còn gì vẫn không cần anh. Cái tên “Bà Bovary” mà Gustave Flaubert đặt cho tác phẩm dường như là một sự châm biếm mỉa mai: cái tên đó khẳng định người phụ nữ ấy thuộc về Charles Bovary, nhưng thực tế thì chưa bao giờ!
Bà Bovary là một nhân vật đáng trách nhiều hơn đáng thương, nhất là đối với thế hệ độc giả thế kỷ 21. Cũng vì tác phẩm mà một thời gian nhà văn Gustave Flaubert phải ra hầu tòa. Và đến tận bây giờ, “Bà Bovary” vẫn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, đây vẫn là một tác phẩm thật sự đáng đọc vì tài năng của nhà văn cùng chủ nghĩa hiện thực. Đọng lại trong độc giả, ngoài giấc mơ tan vỡ của người phụ nữ xinh đẹp kia còn là những đại lộ có cửa hàng bán tranh nghệ thuật, những buổi tiệc nhộn nhịp, những bộ trang phục cầu kỳ lộng lẫy, những điệu nhảy phóng khoáng, những đồng cỏ trải dài ngập nắng, những đêm trăng đẹp, những khu chợ nhiều âm thanh, những buổi tranh luận của giới trí thức… tất cả làm nên một bức tranh xã hội nước Pháp thế kỷ 19 thật sinh động.
Bà Bovary – Cái giá của một giấc mộng
Gustave Flaubert là một trong những cái tên tiêu biểu của văn học hiện thực Pháp thế kỷ 19. Tác phẩm “Bà Bovary” của ông được xuất bản năm 1856 vừa khắc họa sâu sắc giấc mộng lãng mạn thời ấy vừa thể hiện cảnh điêu tàn của nó khi bị hiện thực vùi dập. Giống như một bản nhạc bay bổng, “Bà Bovary” đưa người đọc vào tâm hồn đầy thi ca lãng mạn của người Pháp và những nét văn hóa đặc sắc thế kỷ 19.
Văn chương bay bổng và phóng khoáng của Gustave Flaubert
Dù là tác phẩm đại diện cho chủ nghĩa hiện thực Pháp thế kỷ 19, nhưng “Bà Bovary” chứa đựng một phần “con người thứ nhất” của Gustave Flaubert – con người lãng mạn được ảnh hưởng từ Victor Hugo. Trải khắp cả truyện là những dòng văn miêu tả đẹp đẽ, từ con người đến cảnh sắc thiên nhiên nơi họ đi qua, tựa như những khúc nhạc cất lên, khi mềm mại uyển chuyển:
“Không khí lồng lộng bao quanh nàng, lật tung những sợi tóc tơ ở gáy, hoặc lay động những dải buộc tạp dề như những dải cờ. Một lần vào lúc trời tan giá, vỏ cây rỉ nước ngoài sân, tuyết trên mái nhà chảy xuống. Nàng đứng ở thềm; nàng đi tìm cái dù, nàng mở ra. Cái dù bằng lụa xanh biếc, lóng lánh như cổ chim câu khi ánh nắng xuyên qua, đã toả ánh sáng muôn màu vào da mặt trắng trẻo của nàng.”
lúc lại mạnh mẽ cuồn cuộn:
“Từng đám bóng đen, rải rác đó đây, nổi lên trong đêm tối và, đôi khi, nhẹ nhàng run rẩy theo cùng một động tác, chúng đứng thẳng lên rồi lại ngã xuống như những làn sóng đen mênh mông tiến đến trùm lên họ. Hơi lạnh ban đầu khiến họ ôm ấp nhau chặt hơn; những tiếng thở dài qua môi họ dường như mạnh hơn; đôi mắt họ, mà họ vừa khám phá thấy, tưởng chừng to hơn, giữa cảnh nhà tĩnh mịch có những lời nói thì thầm rơi vào tâm hồn họ với âm thanh trong trẻo và dội lại trong đó thành những rung động tăng lên gấp bội.”
Dường như tâm hồn của những nhà văn người Pháp luôn lãng mạn và đầy thơ mộng như vậy. Độc giả có thể bắt gặp một “Người tình” của Marguerite Duras thấm đượm nữ tính và trữ tình, một “Trà hoa nữ” của Alexandre Dumas với những cảm xúc mãnh liệt mà tuôn trào rất đỗi tự nhiên, và ở đây là một “Bà Bovary” đầy rẫy những hình ảnh so sánh vô cùng đắt giá. Ví dụ như ở đoạn diễn tả tâm trạng chán chường của Emma (tên của bà Bovary) về người chồng thầy thuốc thôn quê tầm thường không chí lớn (là Charles), tác giả đã so sánh nỗi phiền muộn ấy “như những đám mây dày, xoay chiều như cơn gió thổi”. Đám mây dày vừa gợi hình ảnh âm u, xám xịt là cõi lòng nàng, mà lại dày đặc những suy tư chất chồng ngày đêm; còn cơn gió xoay chiều là nỗi phiền ấy không ở yên mà cứ trở đi trở lại, cứ quay quắt và làm hỗn loạn trong nàng mãi không thôi. Đoạn tiếp đó lại là một phép so sánh nữa: nếu chồng nàng quan tâm và hiểu một chút “thì nàng tưởng chừng sẽ phải thổ lộ hết nỗi lòng của nàng như những trái chín từ giàn cây rụng xuống khi người ta đưa tay hái”. Nỗi phiền muộn ấy đã chín rồi và rõ ràng, lồ lộ đến mức chỉ cần vươn tay ra là nắm được, thế nhưng Charles Bovary – chồng nàng – không bao giờ biết, không bao giờ hiểu dẫu đã gần đến thế. Sự sầu úa của tâm hồn, sự tuyệt vọng trong Emma đã được đẩy lên cao trào một cách khéo léo và tinh tế như vậy. Khoảng cách giữa hai con người ở cạnh nhau dưới một mái nhà mà bằng cả nghìn trùng khơi!
Giấc mộng phù phiếm của bà Bovary giữa lòng xã hội Pháp thế kỷ 19
Bà Bovary xuất thân là một thiếu nữ nông thôn được học trong tu viện và đọc rất nhiều tiểu thuyết tình cảm. Bị ảnh hưởng bởi văn chương lãng mạn, nàng những mong được làm vai nữ chính trong đó, được yêu thương bởi một người chồng tài năng, giàu có, hào hoa phong nhã, chí lớn, danh vọng đầy mình, luôn cùng nàng nói về những chủ đề bay bổng diễm lệ. Thế nhưng, nàng vỡ mộng vì lỡ gả cho Charles – người thầy thuốc mà theo nàng là “người đâu mà hèn đến thế”, thô lỗ, vụng về, thiếu hiểu biết, không có thú vui xa hoa trụy lạc. Nàng ngoại tình với hai người đàn ông (Léon và Rodolphe) – tình nhân trong mộng, không lao động nhưng phung phí đến cạn kiệt tài sản của chồng.
Diễn biến của hai cuộc ngoại tình ấy thật sự hấp dẫn, mặc dù ngay từ đầu truyện người đọc đã bị lôi cuốn bởi lối viết văn cầu toàn. Tạm chưa nói đến sự đáng trách của các nhân vật khi đi ngược đạo đức xã hội, người đọc không khỏi ấn tượng với một Rodolphe cùng kế hoạch từ quyến rũ, nắm bắt tâm lý phụ nữ đến ruồng bỏ người tình đều cực kỳ tinh vi. Kế hoạch ấy, đến hôm nay vẫn có thể áp dụng được, hay nói cách khác, lý do để ngoại tình và tâm lý người trong cuộc có lẽ đều giống nhau qua các thời kỳ. Tác phẩm có giá trị lâu dài và trở thành kinh điển một phần cũng vì thế.
Ngoài Rodolphe, nhân vật Léon cũng đại diện cho một loại đàn ông dễ dàng quyến rũ phụ nữ trong xã hội: một luật sư trẻ trung, phong nhã, vừa có sự nhút nhát đầu đời nhưng lại cũng vừa sẵn sàng bày tỏ ra cái tình cảm mãnh liệt dành cho người phụ nữ. Sống cạnh một người chồng cục mịch khô khan, bà Bovary – vốn có một trái tim rạo rực luôn khao khát yêu đương – bị hấp dẫn bởi Léon âu cũng là một điều dễ hiểu. Sự tài tình trong việc xây dựng nhân vật của tác giả nằm ở đó.
Trong truyện, bà Bovary không chỉ vỡ mộng một, hai mà đến ba lần và cấp độ đau thương cứ tăng lên dần. Càng khát khao tình yêu, nàng ta càng nhận lấy quả đắng gấp bội. Ngoại tình là vậy, làm sao có được kết quả tốt đẹp? Không chỉ giấc mộng phù phiếm của nàng tan vỡ, mà cả cuộc sống người chồng tội nghiệp là Charles cũng bị hủy hoại. Anh đã yêu thương, chiều chuộng nàng hết mực, say mê trong niềm hạnh phúc đơn phương mình anh tưởng tượng, và cho đến cùng khi đau đớn nhận ra mình bị phản bội vẫn không căm hận người vợ hay những gã nhân tình của nàng. Thậm chí, anh chối bỏ luôn bản thân khi nhìn vào gã nhân tình của vợ và ước rằng mình có thể trở thành như thế.
“Đó là định mệnh.” Anh bắt chước cách nói chuyện giả vờ đạo lý văn thơ của Rodolphe.
Không chỉ cái kết đắng bị ruồng bỏ và mất tất cả bao gồm mạng sống của bà Bovary, sự khốn khổ của Charles cũng là biểu hiện rõ nhất cho chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm. Người đàn ông ấy ngay từ đầu đã luôn sống theo sự sắp đặt của cha mẹ, không dám trái ý vợ trước là người phụ nữ góa chồng, xuôi theo dòng chảy của xã hội mà chẳng có cái tôi, bản ngã của riêng mình, bị lừa dối và đến cuối truyện người vợ anh thương dù không còn gì vẫn không cần anh. Cái tên “Bà Bovary” mà Gustave Flaubert đặt cho tác phẩm dường như là một sự châm biếm mỉa mai: cái tên đó khẳng định người phụ nữ ấy thuộc về Charles Bovary, nhưng thực tế thì chưa bao giờ!
Bà Bovary là một nhân vật đáng trách nhiều hơn đáng thương, nhất là đối với thế hệ độc giả thế kỷ 21. Cũng vì tác phẩm mà một thời gian nhà văn Gustave Flaubert phải ra hầu tòa. Và đến tận bây giờ, “Bà Bovary” vẫn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, đây vẫn là một tác phẩm thật sự đáng đọc vì tài năng của nhà văn cùng chủ nghĩa hiện thực. Đọng lại trong độc giả, ngoài giấc mơ tan vỡ của người phụ nữ xinh đẹp kia còn là những đại lộ có cửa hàng bán tranh nghệ thuật, những buổi tiệc nhộn nhịp, những bộ trang phục cầu kỳ lộng lẫy, những điệu nhảy phóng khoáng, những đồng cỏ trải dài ngập nắng, những đêm trăng đẹp, những khu chợ nhiều âm thanh, những buổi tranh luận của giới trí thức… tất cả làm nên một bức tranh xã hội nước Pháp thế kỷ 19 thật sinh động.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Điểm sách: Bà Bovary và cái tầm thường
Diemsach
Tiểu thuyết Bà Bovary đã có một sức sống dài lâu trong lịch sử văn học thế giới. Mọi thứ Flaubert thể hiện trong kiệt tác này không chỉ ảnh hưởng đến các thế hệ nhà văn sau ông về phong cách nghệ thuật mà còn về nội dung tư tưởng. Trong số đó, vấn đề cái tầm thường vẫn luôn là một đề tài được nhiều nhà văn tiếp tục đào sâu khai thác.
Văn học hiện thực Pháp thế kỷ XIX
Thế kỷ XIX được đánh dấu là một thế kỷ lớn trong văn học Pháp nói riêng và văn học thế giới nói chung, mang tính chất bản lề khi mở ra những triển vọng về chiều hướng thẩm mỹ mới và khép lại những tư tưởng thẩm mỹ cũ. Phong phú và đa dạng với nhiều trào lưu, khuynh hướng, hiện tượng văn học song có thể nhìn nhận được hai dòng chủ lưu của thế kỷ này : trào lưu lãng mạn thăng hoa rực rỡ vào những thập niên đầu thế kỷ XIX và sau đó là sự lên ngôi của trào lưu hiện thực với những thành tựu đặc sắc của những tên tuổi như Stendhal, H. Balzac, Gustave Flaubert, G. de Maupassant… khiến văn đàn Pháp chói sáng.
Chủ nghĩa lãng mạn đi sâu và khám phá cái tôi cá nhân và biểu hiện nó bằng những trạng thái tâm lý khác nhau, đặc biệt là nỗi cô đơn của con người khi phải đối diện với hiện thực. Các nhà văn lãng mạn tìm đến với thiên nhiên, lịch sử và sự say mê về một xã hội lý tưởng. Chủ nghĩa lãng mạn đã mở đầu thế kỷ XIX và được coi là hiện thân tinh thần của cả một thời đại với ý nghĩa quan trọng mà nó tạo ra.
Trong khi đó, chủ nghĩa hiện thực (Realism) trên cơ sở kế thừa tinh thần của những nhà văn đầu thế kỷ thì đến năm 1857, Tuyên ngôn chủ nghĩa hiện thực của Champfleury đã trở thành chủ thuyết chính thức của xu hướng văn học này. Ở đó, các nhà văn bộc lộ sự quan tâm đến đời sống sinh hoạt, những phong tục, những vấn đề của cơ cấu chính trị và xã hội, phản ánh thực tại xã hội mà ở đó tầng lớp tư sản đang càng ngày càng tìm cách khẳng định vị trí chủ thể của lịch sử. Với tinh thần quan sát, phân tích và khái quát quy luật cuộc đời thông qua những hình tượng văn học mang tính điển hình, chủ nghĩa hiện thực đã nhận thức và phê phán hiện thực một cách thành công. Vào những thập niên đầu của nửa sau XIX, văn học hiện thực đã có bước chuyển mình rõ rệt. Nếu như các nhà văn hiện thực nửa đầu XIX chọn việc mô tả bức tranh xã hội Pháp rộng lớn với muôn mặt con người, hoàn cảnh, trạng thái…thì các nhà văn về sau như Gustave Flaubert, Maupassant ngoài việc tái hiện khung cảnh ấy, còn đưa người đọc đến với những cảm thức mang tính ám ảnh của thời đại. Trong đó, Gustave Flaubert là tên tuổi được đánh giá như người tiên phong cho sự đổi mới đó.
Khái quát về Gustave Flaubert và tiểu thuyết Bà Bovary
Về tác giả Gustave Flaubert
Vài nét về tiểu sử
Gustave Flaubert (1821 – 1880). Ngay từ bé, Gustave Flaubert đã sớm mang trong lòng một thiên hướng nỗi buồn về sự bi quan, bên cạnh lòng yêu mến khoa học, một khả năng nhận xét tỉ mỉ và thận trọng, khách quan. Do điều kiện gia đình, ông đã sớm được tiếp nhận các kiến thức cũng như tư tưởng ngành y. Ông học trường cấp hai ở Rouen, năm 1841 ông học luật ở Paris. Từ đây, năng khiếu văn chương của Gustave Flaubert được khơi dậy.
Vào năm 1844, Flaubert mắc phải một căn bệnh thần kinh tương đối nghiêm trọng. Vì lý do sức khỏe, ông về nghỉ tại ngôi nhà của gia đình ở Le Croisset, nơi mà ông sống lặng lẽ và cống hiến bản thân cho sự nghiệp viết văn và nghiên cứu. Flaubert có mối quan hệ đặc biệt với hai phụ nữ trong cuộc đời. Người đầu tiên là Elisa Schlessinger, một phụ nữ lớn tuổi, đã kết hôn, bà được xem là hình mẫu lý tưởng trong lòng ông. Người phụ nữ còn lại là Louise Colet, một nhà thơ, tuy đã có gia đình nhưng bà đã trở thành là người tình của Flaubert. Dần dà, Flaubert trở nên suy sụp và thất vọng khi nhận ra Louise thật sự không giống như trong tưởng tượng ban đầu của ông. Vì vậy, sau cùng ông đã chọn sống một cuộc sống đơn độc ở Le Croisset. Trong quãng đời về già ông bị nhiều cú sốc nặng về cái chết của mẹ và những người bạn thân thiết như nữ sĩ George Sand. Ông lại khó khăn về tài chính khi phải hy sinh cả gia sản để cứu đứa cháu khỏi bị phá sản.
Tư tưởng nghệ thuật
Flaubert đã từng nói: “Ở trong tôi có hai con người, một bị lóa mắt trước những khoa trương văn vẻ tính trữ tình, những đôi cánh bay bổng và âm vang của câu chữ, những đỉnh cao lý tưởng; con người thứ hai thì đào bới lục lọi tất cả sự thật mà anh ta có thể, anh ta kết án điều nhỏ bé một cách mạnh mẽ cũng như khi anh ta kết án sự vĩ đại, anh ta muốn các bạn cảm nhận một cách cụ thể bằng cảm giác vật chất.”
“Con người thứ nhất” là khi ông đang ở thời kỳ sùng bái Victor Hugo chủ nghĩa lãng mạn, những đam mê thời non trẻ đã để lại trong Flaubert một trái tim dịu dàng nhạy cảm nhiệt tình mà sau này ông buộc phải phủ nhận tất cả để thay vào đó là một thái độ hoài nghi sâu sắc.
“Con người thứ hai” đã đứng trước nhiều băn khoăn và tan vỡ trong tâm hồn. Xuất phát từ cảm quan đó nên thái độ của Flaubert cũng khác với cá nhà văn hiện thực khác. Ông không cố đi tìm lại cái đẹp cái lý tưởng như Stendhal, không đấu tranh lên án những cái xa của những “kẻ hãnh tiến” trong xã hội đang trên đà tư sản hóa như Honoré de Balzac. Thái độ phê phán hiện thực của ông gắn liền với cảm giác tuyệt vọng. Nên các nhân vật thành công nhất của ông như Emma Bovary (trong Madame Bovary), Fréderic (trong L’Éducation sentimentale) đã nổi loạn hoặc thỏa hiệp một cách âm thầm.
Tiểu thuyết Bà Bovary
Kết quả hình ảnh cho Bà Bovary (Madame Bovary)
Giới thiệu tiểu thuyết Bà Bovary
Tác phẩm ra mắt độc giả lần đầu vào tháng 10 năm 1856 trên tờ báo Revue de Paris. Tiểu thuyết được dựa trên một câu chuyện của người bạn Louis Bouilhet. Bouilhet đã nhắc Flaubert nhớ về câu chuyện gia đình Delamare. Eugene Delamare là một sinh viên nghèo theo học y khoa với cha của Flaubert. Không vượt qua được kì thi, Eugene đã đến làm việc ở một thị trấn nhỏ gần Rouen. Tương tự như nhân vật Charles Bovary, Eugene kết hôn với một góa phụ lớn tuổi, sau khi bà ta mất, ông ta tái giá với một phụ nữ trẻ xinh đẹp là con gái của một nông dân trong vùng. Bà Delamare sớm trở nên buồn chán, thất vọng với cuộc sống hôn nhân. Cũng giống như nhân vật Emma Bovary, bà Delamre phung phí tiền bạc và ngoại tình. Dần dà bà không thể trang trải các khoản nợ nên cuối cùng phải uống thuốc độc tự sát. Vì quá yêu vợ, sau đó Eugene Delamare cũng qua đời để lại đứa con gái duy nhất cho mẹ mình nuôi nấng trong cảnh nghèo khó khốn cùng.
Sau khi cuốn tiểu thuyết này được phổ biến, nhà văn đã bị đưa ra tòa vì xúc phạm vào nền luân lý công cộng do vấn đề liên quan đến phong tục và các chi tiết thẳng thắn, nhưng rồi về sau, ông đã được tha bổng. Tác giả đã dùng thể văn gián tiếp tự do (Free indirect style) qua đó các tư tưởng của nhân vật được thuật lại bằng người kể chuyện rành mạch và khách quan.2.2.2 Tóm tắt tác phầm
Tác phẩm bắt đầu bằng việc giới thiệu Charles Bovary, một anh chàng lớn con thực thà và chậm chạp, làm đối tượng gây cười cho bạn bè trong lớp vì vẻ “thộn” của mình, là loại người không có cá tính, không có khả năng gây ra một sự ngạc nhiên nào cho người khác. Tuy vậy, anh ta hiền lành chăm chỉ, tuy không thông minh nhưng cũng lên lớp đều đều rồi theo học y sĩ, cuối cùng ra trường một cách vất vả, và về quê làm nghề thầy thuốc. Vì không có ý kiến và quan niệm riêng, Charles đã cưới một bà góa lớn tuổi nghe đồn là khá giả theo sự quyết định của bố mẹ. Từ khi Charles đi chữa bệnh cho một chủ trại và quen biết với con gái ông ta – cô Emma thì vợ Charles luôn ghen tuông. Về sau, vợ Charles chết vì một cơn uất ức. Charles kết hôn với Emma. Vì Emma là người được giáo dục trong tu viện nên có một tâm hồn mơ hồ, bí ẩn, luôn mong chờ thứ tình yêu lớn lao khác để đền bù cho sự buồn chán của thực tế. Mặc dù đã có con với Charles nhưng Emma này vẫn có hai mối tình dan díu với Rodolphe – người gặp ở hội chợ và gã luật sư Léon. Những cuộc tình dan díu nhanh chóng kết thúc trong sự chán nản cùng với sự suy sụp tài chính khiến cho Emma rơi vào tuyệt vọng. Mọi thứ đổ vỡ đưa Emma đến cảnh tự sát bằng thạch tín. Cái chết đau đớn và vật vã của Emma làm cho Charles sa sút về thể xác lẫn tinh thần. Và ít lâu sau, anh ta đột ngột chết khi đang ngồi ngoài ngoài vườn với con gái. Câu chuyện kết thúc bằng việc gã dược sĩ Homer được thưởng huy chương Bắc đẩu bội tinh.
Vấn đề cái tầm thường trong tiểu thuyết Bà Bovary
Với nội dung phê phán xã hội tư bản và mặt tiêu cực của nó khi làm tha hóa con người, đặt con người dưới sức mạnh đồng tiền, danh vọng, các nhà văn hiện thực thường chọn viết về cái xấu, cái ác. Hình ảnh con người lý tưởng của thời đại không còn chiếm thế thượng phong và dần bị lu mờ đi, thay vào đó, các nhà văn hiện thực tìm thấy cảm hứng với những vấn đề, những con người bình thường, thậm chí là tầm thường. Chính sự tầm thường đó đã phản ánh cách nhìn và thái độ của tác giả với hiện thực đời sống quanh mình. Tiếp thu từ những tiền nhân, Gustave Flaubert khai thác chủ đề vỡ mộng của con người, sự đối lập giữa hiện thực và lý tưởng đã khiến con người mất thăng bằng. Và trong chính trạng thái đó, cái tầm thường nổi lên như một vấn đề thời đại đáng được để tâm trong dòng chảy văn học.
Tiểu thuyết Bà Bovary nói lên sự phản kháng của cá nhân chống lại những quy tắc xã hội và đạo đức của thế giới tư sản chật hẹp và giả dối, đồng thời vạch ra sự tan vỡ của những ảo tưởng thơ mộng lãng mạn mà cá nhân khao khát hạnh phúc đặt vào cái thực tại tư sản tầm thường và hèn kém.
Cái tầm thường từ góc nhìn của bà Bovary
Emma Bovary mang nhiều đặc điểm của một nhân vật lãng mạn
Emma Bovary là con của một nông dân khá giả, nàng là một thiếu nữ có học, được nuôi dạy trong trường dòng cho đến năm 18 tuổi mới về nhà. Thay vì học giáo lý và các khuôn phép, ra khỏi trường Emma chỉ giữ lại một tâm hồn lãng mạn khát khao đi tìm một bóng hình lý tưởng như các tiểu thuyết mà cô đã đọc lén khi còn ở trong trường dòng. Emma chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết lãng mạn khá đậm nên ước mơ một cuộc sống phóng khoáng, phong lưu. Hình ảnh nàng gắn liền với váy áo lụa là, cung cách cư xử thanh lịch, yêu thích thêu thùa, đọc sách, vẽ tranh, chơi dương cầm. Nàng cư xử như một quý cô danh giá và nàng luôn khao khát mình là một phần tử của cái xã hội thượng lưu ấy, nàng không chấp nhận được cuộc sống tù túng và ngột ngạt của vùng quê Tostes. Sau một lần tham gia vũ hội nhà bá tước, nàng được tiếp xúc với thế giới khác, một thế giới giàu sang và cao quý. Được ở nơi sang trọng, ăn ngon, mặc đẹp và sinh hoạt theo cung cách hoàng gia. Đó chính là ước mơ lớn của nàng. Nhưng sau đó nàng buộc phải quay về với cuộc sống nhàm chán và tẻ nhạt trước đây làm nàng cảm thấy thất vọng, khó chịu và cáu gắt với mọi người xung quanh.
Cái tầm thường mà Bovary cảm nhận về con người.
Mang trong mình những tính cách lãng mạn như thế, Emma gần như sụp đổ khi phải đối diện với thực tại phũ phàng và không hề hoàn hảo như nàng mong muốn. Tượng đài tình yêu lý tưởng cùng với người yêu lãng mạn mà Emma luôn khao khát, lần lượt trở thành những thứ tình cảm xấu xí tầm thường.
Với Charles: Trong Emma, trước khi kết hôn cùng Charles nàng luôn nghĩ mình sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, những tháng ngày lãng mạn, được đến những chốn xa hoa, thoát khỏi cuộc sống nông thôn tẻ nhạt và cô quạnh cùng người cha của mình. Nhưng trong chính ngày hưởng tuần trăng mật, Emma phát hiện ra sự tầm thường của chồng mình : không lãng mạn, không chu đáo như những nhân vật tiểu thuyết mà nàng đã từng gặp. Chuyện trò với Charles thì tẻ nhạt như vỉa hè ngoài phố (…) Hắn chẳng biết bơi, chẳng biết múa kiếm, chẳng biết bắn súng. Có một hôm, hắn không cắt nghĩa nổi cho nàng một thuật ngữ về khoa cưỡi ngựa mà nàng đã đọc thấy trong một cuốn tiểu thuyết. (…) hắn chẳng dạy gì cả, chẳng biết gì cả, chẳng mong ước gì cả. Nàng cảm thấy chán nản vì người chồng không biết gì hết, nàng muốn tên tuổi mình được mọi người biết đến, muốn mình được vinh dự nhưng chồng không những không tiến bộ mà còn kém cỏi, ông bị đồng nghiệp sỉ nhục ngay trước mặt bệnh nhân. Nàng coi tất cả điều đó là những điều xấu hổ và nhục nhã với bản thân mình. Nàng chửi chồng người đâu mà hèn đến như vậy, những cử chỉ thô lỗ từ việc húp súp sùm sụp, đôi mắt nhỏ tí và dáng người phì ra chậm chạp làm nàng khó chịu chiếc mũ két của hắn chụp xuống tận chân mày, và đôi môi dày của hắn mấp máy, cái đó khiến cho vẻ mặt hắn thêm vẻ đần độn… và nàng cảm thấy ở đó phơi bày trên chiếc áo rơ-đanh-gôn tất cả cái tầm thường của con người. Một Charles bình thường, dưới con mắt của Emma lại là một người tầm thường đáng khinh, Emma luôn thấy Charles không thấu hiểu mình, không thể đem lại hạnh phúc cho mình, thế nên nàng xem ngoại tình là một con đường tất yếu để dẫn nàng đến với hạnh phúc thực sự của đời mình.
Với Rodolphe: Vậy là cuối cùng nàng sắp được những niềm vui của tình yêu, cái nóng hổi của hạnh phúc mà nàng đã thất vọng. (…) cuộc sống tầm thường chỉ xuất hiện ở xa, tận dưới kia, trong bóng tối. Thất vọng với chồng, Emma dường như coi Rodolphe là cứu cánh tình yêu cho mình. Nàng tiếp tục nuôi ảo tưởng về một tình yêu hoàn hảo và lãng mạn như tiểu thuyết và nàng đặt Rodolphe là nam chính. Nhưng một lần nữa, nàng lại rơi vào bi kịch khi nhận lấy sự từ chối phũ phàng từ người tình Rodolphe. Giữa lúc nàng khốn khó với số nợ chồng chất, Rodolphe mà nàng kì vọng đã ngoảnh mặt quay đi, để nàng tự xoay sở với món nợ ấy. Bằng tất cả sự phẫn nộ, nàng trút lên Rodolphe những lời mỉa mai cay độc, nhưng thực sự, đó là sự tuyệt vọng của nàng. Rodolphe cũng đã hiện ra với chân dung một con người tầm thường trong cuộc sống thực tại. Sau những tuyệt vọng ấy, nàng tìm đến cái chết một cách đau xót.
Với Léon: Emma đã trải qua cuộc tình cùng với Léon, một chàng luật sư trẻ mới ra trường, đó là một mẫu người mà Emma muốn lựa chọn, Léon có một tâm hồn say mê nghệ thuật, chính điều này đã làm nên sự đồng điệu giữa họ. Cuộc tình của hai người diễn ra êm đềm và lãng mạn như trong tiểu thuyết, nhưng sự nhàm chán bắt đầu xuất hiện trong mối quan hệ đó, khi những mâu thuẩn nảy sinh cũng là lúc Emma cảm thấy sự tầm thường nơi Léon như chính người chồng Charles. Và rồi hai người cũng chỉ dừng lại bởi con người quá tầm thường như Léon cũng không thể nào giúp thỏa mãn và đáp ứng được nhu cầu của Emma. Y thiếu dũng khí, hèn yếu, tầm thường, nhu nhược hơn một người đàn bà, vả lại y keo kiệt và nhút nhát. Rồi lúc nguôi đi, cuối cùng nàng nhận ra nàng chắc hẳn đã vu oan cho y. Nhưng việc bới xấu người mình yêu bao giờ cũng đẩy mình ra xa họ một chút. Không nên đụng đến các tượng thánh: chất mạ vàng của ngôi tượng sẽ dính vào tay. Emma lại thấy trong ngoại tình mọi điều vô vị của hôn nhân. Cho đến khi Emma rơi vào bế tắc thì nàng mới quay lại nhờ Léon giúp đỡ. Nhưng tác giả lại xây dựng tình huống Léon từ chối bởi vì cả hai con người đến với nhau có lẽ là một sự hưởng lời và lợi dụng lẫn nhau, chứ thật ra tình yêu chỉ là một bức bình phong, Léon từ chối lời giúp đỡ cũng là cách muốn tình yêu phải chia lìa. Và cuộc ngoại tình của Emma bị ruồng bỏ.
Tóm lại, dưới con mắt lãng mạn của Emma Bovary, những con người bình thường của xã hội hiện lên quá đỗi tầm thường, nàng luôn nhìn thấy ở họ sự thấp kém, hèn mọn. Chính cái ước mơ vượt thoát mà nàng khao khát đã giết chết nàng. Nàng đã lý tưởng hóa con người trong xã hội mình đang sống tới mức cực đoan. Nhưng nhìn ở một cách khác, có thể thấy Emma Bovary cũng là một người đáng thương. Xung quanh Emma, những con người sống cuộc đời nhàm chán, không ai có tư tưởng thoát khỏi sự tù túng, ngột ngạt của cái cuộc sống luẩn quẩn. Phía sau đời sống của người đàn bà, một xã hội tư sản Pháp hiện ra với nhiều sắc màu, để lại cho người đọc nhiều đánh giá, suy ngẫm. Nàng ngoại tình để tìm kiếm hạnh phúc hay chỉ là sự thỏa mãn những ham muốn xác thịt tầm thường trong con người nàng.
Cái tầm thường từ điểm nhìn của tác giả Gustave Flaubert
Việc nói đến “cái tầm thường” trong tác phẩm không chỉ được thông qua điểm nhìn của nhân vật nữ chính Emma Bovary mà trong đó còn là tiếng nói kín đáo của Gustave Flaubert. Nhà văn người Pháp này đã dùng cái nhìn, đánh giá của một loạt các nhân vật khác để chuyển tải đến cho người đọc thấy được suy nghĩ của bản thân. Không có một nhà văn nào lại không để cho tác phẩm của mình như một “phát ngôn viên” chứa đựng những tư tưởng cá nhân bên cạnh hình tượng nhân vật, và Flaubert cũng không là ngoại lệ. Chúng ta có thể tóm gọn “cái tầm thuờng” theo tác giả cảm nhận ấy qua nhưng điểm chính sau đây.
Tôn giáo không còn giữ được vị trí quan trọng trong cuộc sống
Nếu ở thời kì trước đó, tôn giáo mà cụ thể ở đây là Kitô giáo là một quyền lực thần quyền chi phối toàn bộ đời sống tinh thần của con người, nắm trong tay sự sùng kính của các tín đồ mộ đạo thì đến sau này, với sự lên ngôi của tư tưởng duy lý ở thế kỷ XVIII, những luồng ánh sáng mới thì tôn giáo đã dần đánh mất đi vị thế của mình. Đến thế kỷ XIX, trong tác phẩm Bà Bovary, mặc dù Gustave Flaubert không hoàn toàn chịu ảnh hưởng của tinh thần duy lý như thế kỷ trước nhưng ông cũng đã lồng ghép trong nội dung tác phẩm sự đi xuống của tôn giáo trong cuộc sống con người.
Tác giả đã để chính các nhân vật của mình nói lên cách đánh giá về tôn giáo qua hình ảnh đại diện là viên linh mục. Viên linh mục hiện lên lúc thì mặt mũi y đỏ gay và thân hình y vạm vỡ, lúc thì thở phì phò, cười thô lỗ… Còn tay dược sĩ Homais thì cho rằng chẳng cần đến nhà thờ để hôn những đĩa bạc và để bỏ tiền túi ra nuôi béo một lũ trò hề ăn sung mặc sướng hơn chúng ta; với ông ta thì các cha cố xưa nay vẫn đắm chìm trong sự ngu dốt và họ cố dìm dân chúng vào đấy với họ. Cuộc đấu khẩu giữa viên linh mục và Homais thật ra chính là tiếng nói giữa hai bộ phận, một bên là Giáo hội cũ kĩ còn một bên là hiện thực cuộc sống. Và nhân vật chính của chúng ta, nàng Emma Bovary lại tìm đến Chúa vẫn bằng những lời ngọt ngào mà xưa kia nàng đã tỉ tê với tình nhân, trong những lúc đôi gian phu dâm phụ bộc lộ nỗi lòng để gây dựng niềm tin nhưng cuối cùng lại thấy một sự lừa dối lớn lao. Khi hẹn hò với tình nhân Léon – viên luật sư tập sự, Emma đã chọn đến nhà thờ, để rồi mỉa mai làm sao khi viên giám sát tuy oai nghiêm hơn một hồng y giáo chủ và bóng lộn như cái bình bạc đựng thánh thể lại là người gây phiền phức đến buồn cười. Với Léon, nhà thờ lúc ấy lại được xem như một khuê phòng đồ sộ.
Dường như tất cả nhân vật kể trên đều chỉ xem nhà thờ nói riêng và tôn giáo nói chung là một phương tiện để che giấu những cái tầm thường trong tâm hồn mỗi người, đây đã không còn là nơi đón nhận sự thờ kính, tin tưởng thật sự. Hình ảnh viên mục sư hay viên giám sát hiện lên với vẻ thô kệch, tầm thường hay bóng bẩy đến giả tạo. Mọi thứ chỉ còn mang trên mình lớp vỏ của quá khứ, của một thời mà nói như tay dược sĩ là Chúa chưa phải là Chúa của Socrate, của Franklin, của Voltaire và của Béranger.
Một xã hội tư sản giả dối, mị dân
Ở thế kỷ XVIII, khuynh hướng tư sản hóa bao trùm tất cả, tinh thần dân chủ hóa trong đời sống và văn học đều hướng tới những vấn đề về tiêu ngữ : tự do – bình đẳng – bác ái như một lời hiệu triệu, một lời hứa hẹn của tầng lớp tư sản với tất cả mọi người. Tuy nhiên tinh thần tốt đẹp này chỉ thật sự tồn tại trong khoảng thời gian ngắn, sang đầu thế kỷ XIX, châu Âu bước vào thời kì hiện đại và đã hé lộ ra nhiều điều đi ngược lại với mong ước trước đó.
Cái đi ngược lại ấy trong Bà Bovary được cụ thể hóa và khái quát hóa qua chi tiết Hội chợ nông nghiệp. Ngày hội này là một ngày cực kì quan trọng khi đó là lúc các quan chức cao cấp sẽ đến dự và phát biểu. Nhưng nếu đọc kĩ thì cái việc tất bật chuẩn bị cho hội chợ qua ngòi bút tác giả lại trở nên rất lộn xộn, màu mè khiến hội chợ này có vẻ như là một gánh xiếc. Bài phát biểu của ông nghị toàn là những lời lẽ sáo rỗng, vô thưởng vô phạt, đem cái ngôn văn của chính quyền để che lấp đi thực tại xã hội, cuộc sống thật sự của người nông dân. Việc Nhà nước sẽ chú ý tới các bạn, Nhà nước khích lệ các bạn, bảo hộ các bạn như ông nghị nói không thể làm người đọc quên đi sự miêu tả đời sống trước đó: nhiều trường hợp mắc bệnh do điều kiện vệ sinh tồi tệ, đường sá chật hẹp, chợ thì nghèo nàn, thị trấn lười biếng cứ xa rời đồng ruộng… Sự xen lẫn không liên quan giữa bài phát biểu và những lời tán tỉnh của Rodolphe với Emma tạo nên tiếng cười trào phúng kín đáo đối với bộ mặt của sự thống trị. Khi ông nghị nói đến vấn đề trách nhiệm thì Rodolphe đã thốt lên rằng: Lại nhiệm vụ… Họ là một lũ người giàu u mê mặc áo gilê nỉ mỏng, một bọn sùng đạo ngu muội mang lồng ấp và tràng hạt không ngớt hát vào tai ta: “Nhiệm vụ! Nhiệm vụ!”… Ôi lạy Chúa! Nhiệm vụ là cảm thấy cái gì lớn lao, thiết tha đến cái gì đẹp, chứ đâu phải thừa nhận mọi tục lệ xã hội với những điều nhục nhã mà xã hội buộc ta phải chịu, cho thấy sự bất bình, phản đối, coi thường của con người trước xã hội thực tại.
Chi tiết trao thưởng một huy chương bạc giá hai mươi lăm quan cho một bà lão nông dân đã lao dịch năm mươi tư năm liền trong một trang trại thật hết sức lố bịch, dối giá, lừa bịp người dân vô cùng. Đứng trước bọn tư sản phởn phơ kia là cả một nửa thế kỷ tôi đòi, cái phần thưởng danh dự ấy không thể che lấp đi sự thật về một cuộc sống nghèo khổ, vất vả, thân phận con người bị bỏ quên. Tất cả mọi thứ kiểu cách phô trương ấy cuối cùng đều đi đến một kết thúc đám đông giải tán; và bây giờ các diễn văn đọc xong rồi, ai nấy đều trở về địa vị của mình và mọi sự lại trở về lề lối cũ: chủ nhân ngược đãi đầy tớ, đánh đập súc vật, những kẻ chiến thắng thản nhiên trở về chuồng với một vòng lá xanh giữa cặp sừng, ngoài ra còn có sự đồng ý ngầm giữa Rodolphe và Emma Bovary về một cuộc ngoại tình vụng trộm. Đây mới chính là lát cắt thật sự của bộ mặt xã hội tư sản lúc bấy giờ.
Sự xuống cấp, tha hóa đạo đức của con người trong xã hội
Tác giả đã tạo dựng cho tác phẩm của mình một hệ thống nhân vật mang trong mình những đặc điểm yếu kém. Với một xã hội tư sản tầm thường như ở trên thì cũng khó lòng đòi hỏi được những con người với những lý tưởng tốt đẹp. Ta có thể mượn lời của nhân vật Léon để bước đầu vẽ ra bức tranh tổng thể về con người như sau: Binet, vài nhà buôn, hai ba chủ quán rượu, ông linh mục, và sau hết, ông Tuvache thị trưởng, với hai con trai ông, những người giàu sụ, lỗ mãn, đần độn, tự tay cấy lấy ruộng, chè chén no say ở xó nhà; hơn nữa lại sùng đạo và có một lối xã giao hoàn toàn làm cho người khác khó chịu.
Con người đến với nhau bằng sự tính toán hẹp hòi, luôn coi lợi ích bản thân là mục đích hướng tới đầu tiên. Tay dược sĩ tỏ ra là người hàng xóm tốt bụng nhất nhưng không phải từ nhu cầu chăm sóc người khác mà sau đó là cả một kế hoạch: chạy trốn pháp luật. Vì mong muốn sự nổi tiếng, Homais cùng Charles đã bất chấp kiến thức thấp kém của mình, liều lĩnh làm cuộc phẫu thuật cho anh chàng Hippolyte ngốc nghếch, khốn khổ tội nghiệp; rồi khi thất bại lại trốn chạy. Lương tâm y sĩ còn được bộc lộ qua việc chữa chạy của tay bác sĩ Canivet: đến nhà bệnh nhân của mình, bao giờ ông ta cũng lưu tâm trước tiên tới con ngựa cái và chiếc xe của ông ta đã. Linh mục – đại diện cho tình thương, an ủi con người thì trước đau đớn của Hippolyte, ngài hết sức vui mừng và coi đó là ý Chúa, xen lẫn những lời giễu cợt. Các tình nhân đến với Emma chỉ vì sắc đẹp ban đầu để rồi sau đó thấy nàng thật như thứ gì đó dẻo dai và đồi bại, vừa ghê sợ nàng vừa coi thường nàng; cuối cùng khi nàng muốn họ bên mình mãi mãi thì họ lại lẩn tránh không suy nghĩ. Những tờ giấy cho vay, những khoản nợ mà Emma gánh lấy là kết quả của “lòng tốt” từ những tay buôn lúc nào cũng sẵn sàng kiếm sống trên sự khó khăn của kẻ khác.
Tác giả Flaubert nói về con người trong truyện với lời kể hết sức tự nhiên, không có một sự đánh giá trực tiếp nào nhưng qua cách xây dựng hành động, suy nghĩ, những con người ấy hiện lên một cách rõ ràng, vây quanh Emma Bovary như chính là cuộc sống hiện thực mà nàng phải đối mặt. Trực tiếp hay gián tiếp, những con người này, xã hội này đã một phần đẩy bà Bovary đến bước tận cùng của cuộc sống; đây là những mâu thuẫn của tính hiện thực ở cuộc sống với những mong muốn ảo mộng của nàng Emma.
Nguyên nhân và hậu quả của “cái tầm thường” trong tác phẩm
Nguyên nhân
Nguyên nhân cơ bản và dễ thấy nhất là những ước mơ, khát vọng của con người và thực tại cuộc sống có một khoảng cách xa vời đồng thời lại đối lập nhau. Nó là ranh giới làm cho con người không thoát khỏi “cái tầm thường” được khắc họa qua hình tượng nhân vật trung tâm Emma Bovary. Là người phụ nữ được hun đúc và trưởng thành trong thế giới lãng mạn nên khi nhìn thấy hiện thực phũ phàng thì nàng hoàn toàn vỡ mộng rồi rơi vào hố sâu tuyệt vọng, nàng ngày càng bị ám ảnh và suy nghĩ trở nên tiêu cực. Từ cái nhìn chủ quan của mình, bà Bovary lúc nào cũng thấy chán chường, thất vọng và cuối cùng là trạng thái tâm lí chán ghét, không thể dung hòa với thế giới mình đang sống, luôn cảm thấy tất cả thật tầm thường.
Sâu xa hơn chính là tâm trạng cô đơn. Bà Bovary với sự cô đơn của mình – một đề tài về cái tôi trong các tác phẩm lãng mạn – cùng suy nghĩ rằng những con người tầm thường xung quanh không cách nào hiểu được những ham muốn của bản thân càng ngày càng tách mình ra khỏi thế giới hiện thực. Lúc bé, nàng cảm thấy cô đơn với tuổi thơ ở vùng nông thôn; khi kết hôn, nàng lại thấy tẻ nhạt trước một người chồng ù lỳ, đơn điệu, không đủ sức đong đầy trái tim cuồng nhiệt tình yêu của nàng. Nàng đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn cuộc đời cô đơn của mình. Bà Bovary đến với những người tình nhân như một lối thoát cho sự tù túng, đau khổ. Flaubert đưa Emma từ niềm hy vọng sang sự thất vọng để nêu bật lên rằng, sự tồn tại của Emma chỉ có thể gắn với nỗi cô đơn thường trực trong nàng, với những mong muốn không thể nào đạt được.
Flaubert đã xây dựng nhân vật ở trên cả hai yếu tố lãng mạn và hiện thực. Sự đối nghịch của hai thế giới này càng khiến cho Emma với sắc đẹp, trí tuệ trở nên bế tắc, lạc lõng giữa một cuộc sống tư sản coi trọng giá trị vật chất. Đó là những người sống xung quanh Emma Bovary luôn giả dối, tư tưởng họ thấp kém, họ bị lôi cuốn vào đam mê sắc dục, chẳng hạn hai người tình của nàng: Léon Dupuis và Rodolphe Boulanger. Sự khoác lác, ích kỉ, nhỏ mọn, tham lam, nịnh bợ của tay dược sĩ Homais, sự thật thà “ngẩn ngơ”của anh chồng Charles hay tính chất con buôn của gã Lheureux. Mọi thứ trên khiến Emma trở thành một côn đảo trước dòng đời, khiến không ai có thể hiểu nàng cũng như càng khẳng định suy nghĩ về tất cả mọi điều xung quang đều tầm thường của nàng.
Kết cục bi kịch của cuộc đời từ “cái tầm thường
Thông qua góc nhìn đa chiều từ các nhân vật, vấn đề cái tầm thường đã dần trở thành sợi dây nối kết từng nhân vật tưởng như rời rạc, nhỏ bé trong tác phẩm, cho ta thấy được suy nghĩ, hành động ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung truyện tạo nên tính chặt chẽ cho tác phẩm. Từ thế giới quan của mình, từ việc vấp ngã trong sự hòa hợp giữa lý tưởng và thực tại, Emma đần trở nên phóng đãng, thêm chán ghét cuộc sống, đỉnh cao là nàng cũng tự thấy rằng nàng đã rơi đến tận đáy sâu của sự tầm thường, chịu đựng mọi sự lăng nhục nhưng vẫn chấp nhận.
Tiểu thuyết kết thúc bằng cái chết đau đớn của nhân vật bà Bovary, một kết cục cho bước đường cùng cả về vật chất lẫn tinh thần của người phụ nữ này, là sự giải thoát cho những mộng tưởng tan vỡ của nàng dưới sự tàn nhẫn của thực tại. Nỗi đau bi kịch của Emma Bovary cũng chính là nỗi đau của Flaubert, ông đã từng nói: Khi miêu tả cảnh Emma Bovary uống thuốc độc, quả thật tôi đã cảm thấy trong miệng mình có cái vị của thạch tín, tôi cảm thấy như tôi đã uống thuốc độc, hai lần tôi thấy khó chịu thực sự, khó chịu đến mức tôi bị nôn kia, ông hiểu được cái cô đơn của nhân vật này “Bà Bovary, đó là tôi!” (“Madame Bovary, c’est moi!”). Ta hiểu được rằng cái tầm thường không xuất hiện đột ngột hay to lớn mà nó tồn tại hằng ngày xung quanh chúng ta, tuy vô hình nhưng có sức tàn phá tàn nhẫn về cả tinh thần và thể xác con người.
Nghệ thuật trong Bà Bovary
Sự khách quan trong miêu tả
Tác giả vạch ra cái hiện thực xã hội tư sản lúc bấy giờ – một xã hội đã không còn mang tính chất của những lời hứa “bình đẳng – dân chủ – bác ái” như trước đó. Về nhân vật trong truyện, ông đã vạch ra cái tầm thường ngay trong các ảo mộng tốt đẹp, cho thấy sự xuống dốc của mọi lực lượng trí tuệ cũng như sự sa đọa về nhân cách con người. Flaubert quan niệm sáng tạo nghệ thuật là một hành vi nhận thức. Nghệ
sĩ phải thể hiện bản chất của sự vật, phải nhìn hiện tượng trong tổng thể, trong mối liên hệ với các hiện tượng khác, phải logic hơn tính ngẫu nhiên của các hiện tượng, phải gạt bỏ cá nhân nghệ sĩ ra ngoài tác phẩm văn học. Nhà văn Nga Maksim Gorky đã từng nhận định Flaubert là “nhà pháp sư của ngôn ngữ, cũng khách quan như mặt trời gay gắt rọi sáng cả vào đám bùn nhơ ngoài phố lẫn mớ đăng-ten sang trọng”
Điểm nhìn mở rộng
Không chỉ qua điểm nhìn từ nhân vật chính là bà Bovary và từ chính những ghi nhận của mình, Flaubert còn để cho mạch truyện được xây dựng qua góc nhìn của các nhân vật khác như Charles, Léon hoặc Rodolphe, và có cả qua tiếng nói của chính tác giả… Tất cả điều này giúp người đọc có cái nhìn với biên độ lớn hơn và ít mang tính chủ quan hơn về nội dung mà tác phẩm nói đến, tuy có thể gây ra cho nhiều người cảm giác thiếu tập trung nhưng lại thích hợp để miêu tả, tái hiện bức tranh xã hội phức tạp, đa tâm.
Miêu tả tâm lý tài tình
Flaubert đã xây dựng tâm lý nhân vật Bovary rất sâu sắc, với vô số những biến đổi phức tạp. Emma Bovary sinh ra trong một gia đình nông dân khá giả, được học hành và chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết lãng mạn Pháp nên nàng có rất nhiều mộng ước về tình yêu và dường như cuộc đời phơi phới đợi nàng phía trước. Nhưng đến tuổi lấy chồng, Emma phải kết hôn với một người đàn ông hiền lành đến mức tẻ nhạt. Trong một cuộc sống tư sản đủ về vật chất nhưng thật đơn điệu, nhàm chán, nàng thấm thía được nỗi chán chường, sự vỡ mộng. Emma đắm chìm trong những khát khao và rồi lại liên tiếp vỡ mộng. Sau khi sinh con, nàng cảm thấy cuộc đời của mình như thế là chấm hết. Nàng mơ một cuộc sống khác, lung linh màu sắc, lãng mạn, thi vị như trong các cuốn tiểu thuyết. Điều đó đã khiến Emma đi ngoại tình – ngoại tình là một trào lưu của giới tư sản Pháp trong thế kỷ XIX. Emma đã yêu say đắm và muốn cùng người đàn ông mà nàng yêu bỏ trốn. Nhưng chính con đường này đã dẫn nàng đến một kết cục bi đát : một lần nữa Emma vỡ mộng thảm hại và đã phải tìm đến cái chết. Emma Bovary mang một tính cách phức tạp, đem lại cho người đọc nhiều xúc cảm: vừa đáng thương vừa đáng trách. Ban đầu, nàng chỉ lẳng lặng đánh giá người và cảnh vật xung quanh là tầm thường. Nàng chê bai mọi thứ, chán chường hết thảy trong tâm tưởng. Mỗi một giấc mơ nàng vẽ ra trong dòng suy nghĩ của bản thân là thêm một lần nàng gián tiếp hạ thấp hiện thực nàng đang sống. Dần sau đó, nàng đã có những hành động cụ thể như để phản kháng lại cuộc sống đang dần đi vào lối mòn của mình.
Đa dạng trong cách miêu tả thời gian
Đó là những phương pháp miêu tả tự nhiên, miêu tả đồ vật và miêu tả tâm lý. Cách miêu tả tự nhiên và miêu tả tâm lý đã trở nên quen thuộc và ít nhiều được nói đến ở trên, ở đây chỉ xin nói rõ hơn về khía cạnh miêu tả đồ vật. Theo Flaubert mọi sự trên đời không đổi mới mà chỉ là sự tuần hoàn bất biến. Chính vì vậy mà bức tranh thiên nhiên của ông mang sự chuyển động của thời gian mà vẫn im lìm, lặng lẽ và đôi khi thiu ngủ trong một nỗi buồn mênh mang. Trong Bà Bovary ta thấy có một hệ thống đồ vật đã “xâm lăng” vào không gian sống, hoạt động của con người. Miêu tả đồ vật trong trạng thái nhất định cũng là một phương thức biểu thị thời gian: Đồ đạc dường như càng trở nên bất động tại chỗ và mất đi trong bóng tối như trong đại dương u ám. Lửa trong lò sưởi đã tắt, chiếc đồng hồ quả lắc vẫn đu đưa và Emma sửng sốt một cách mơ hồ trước sự yên tĩnh ấy của mọi vật…Đưa hệ thống đồ vật vào tác phẩm, tác giả làm nổi bật hơn tính trì trệ về thời gian trong tiến trình phát triển của nhân vật.
Sự lạc điệu, khoảng trống
Điều này là một nét nghệ thuật mới trong tác phẩm, được thể hiện qua Hội chợ nông nghiệp, chi tiết này được xem như then chốt của tư tưởng và nghệ thuật của Flaubert. Một bên là khung cảnh nhộn nhịp, ồn ào của chương trình hội chợ, một là lời diễn văn của một vị tai to mặt lớn và một bên là lời tình tự giữa Emma và Rodolphe: một bên nói chuyện lợn, bò, phân bón…một bên thì ước mơ hạnh phúc, tình cảm cao đẹp. Trên văn bản chúng ta không hề thấy một mối liên hệ nào giữa những mạch ngắt đoạn của hai phát ngôn trên, tưởng như một cuộc hoà tấu lỡ điệu. Khoảng trống và quãng lặng toát ra từ chính sự khập khiễng, không ăn khớp của các đối thoại. Một bên là giọng bịp bợm, mị dân của chính quyền với bọn ưa phỉnh nịnh. Một bên là sự lừa bịp của tình yêu. Tác giả không đưa ra một lời bình luận, giải thích, so sánh trực tiếp nào mà chính người đọc phải tự tìm lấy qua những đối thoại “ông chẳng bà chuộc”, “ông nói gà bà nói vịt” kia. Khoảng trống và quãng lặng góp phần tạo ra tính đa âm, khách quan và giầu sức thuyết phục.
Kết luận
Theo dòng chảy thời gian, tiểu thuyết Bà Bovary đã có một sức sống dài lâu trong lịch sử văn học thế giới. Mọi thứ Flaubert thể hiện trong kiệt tác này không chỉ ảnh hưởng đến các thế hệ nhà văn sau ông về phong cách nghệ thuật mà còn về nội dung tư tưởng. Trong số đó, vấn đề cái tầm thường vẫn luôn là một đề tài được nhiều nhà văn tiếp tục đào sâu khai thác. Đây là hiện thân cho kết quả của sự mâu thuẫn và va chạm giữa ước mơ và đời thực, là một bi kịch điển hình mà mỗi người chúng ta đều cảm thấy ít nhiều trong đời. Nếu trong tác phẩm, nhân vật bà Bovary phải giải quyết bi kịch cuộc đời bằng việc dùng đến thạch tín thì ngoài đời thực, nỗi cô đơn của nàng đã nhận được sự sẻ chia rộng khắp trong suốt hơn 150 năm qua khi từ câu chuyện cuộc đời nàng đã phái sinh ra chủ nghĩa Bovary (Bovarisme) – một chủ nghĩa nơi mà những ai khao khát sự vượt thoát khỏi sự tầm thường của đời sống, của kiếp người đều hướng đến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khảo sát sự chuyển hướng thẩm mĩ Văn học Pháp cuối thế kỉ XIX – TS. Nguyễn Hữu Hiếu (2011)
Bà Bovary (Madame Bovary), NXB Văn học, 2012
Lịch sử văn học Pháp, Darcos Xavier, Nxb Văn hóa Thông tin, 1997
Gustave Flaubert – website:
Vĩ Như
(Khoa Văn học và Ngôn ngữ – ĐHKHXH&NV)
nguồn: https://ivivi.vn/ba-bovary-va-cai-tam-thuong
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Bookish
10 cuốn sách bàn về chủ đề khó nói: Ngoại tình
By Mèo Heo
“Số liệu thống kê cho thấy, có tới khoảng 65% khả năng rằng người tình của bạn đang cắm sừng bạn. Vì thế, hãy cảnh giác cao độ mọi lúc mọi nơi.”
– Bạn là đồ vô dụng, Scott Dikkers.
1. Chữ A màu đỏ (Nathaniel Hawthorne)
Câu chuyện diễn ra ở Boston, thủ phủ bang Massachusetts (thuộc New England vùng đông bắc nước Mỹ) trong những năm 1640, vào một thời mà xã hội vùng này bị giam hãm trong vòng luật lệ và giáo lý nghiệt ngã của nhà thờ Thanh giáo. Một người phụ nữ tên là Hester Prynne, vì một đứa con hoang, đã bị kết án bêu trên bục tội nhân ba tiếng đồng hồ trước công chúng và chịu hình phạt sỉ nhục mang một chữ A màu đỏ (Adultery – ngoại tình) cài trên ngực cho đến hết đời.
Chữ A màu đỏ
Không ai ngờ được rằng người bố của đứa con hoang ấy lại là mục sư Arthur Dimmesdale, một giáo sĩ trẻ đầy tài năng, được con chiên ngưỡng mộ như một vị thiên thần. Hester Prynne chịu đựng nỗi nhục nhã đau đớn; còn Arthur Dimmesdale, bị sự giày vò khủng khiếp của lòng hối hận, ngày một gầy mòn xanh xao. Thế nhưng, quần chúng không hề hay biết gì cả, vẫn sùng kính anh như một vị thánh sống.
Giữa lúc đó, xuất hiện thêm một nhân vật, hình thành đủ bộ ba trong diễn biến xung đột của câu chuyện. Đó là chồng của Hester, một con người tuổi đã xế chiều, ngoại hình dị dạng, mà Hester không hề yêu. Lão đã sống cuộc đời lang bạt, nay vừa đến đây thì thấy vợ trên cái bục ô nhục. Lão bắt đầu một cuộc săn tìm kẻ tình địch để báo thù.
Tiểu thuyết Chữ A màu đỏ của Nathaniel Hawthorne, xuất bản năm 1850, đã được nhiều nhà phê bình đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn học thế giới.
2. Những chiếc cầu ở quận Madison (Robert James Waller)
Là một câu chuyện tình lãng mạn, day dứt và ám ảnh của nhà văn Mỹ nổi tiếng Robert James Waller, Những chiếc cầu ở quận Madison bắt đầu bởi cuộc gặp gỡ định mệnh giữa nhiếp ảnh gia Robert Kincaid và Francesca – người phụ nữ nông thôn đã có gia đình. Những con người không thể tìm thấy nhau ở năm tháng tươi trẻ đã chạm nhau ở ngưỡng gần như chấp nhận sự sắp đặt của số phận.
Những chiếc cầu ở quận Madison
Tình yêu chỉ diễn ra trong bốn ngày, nhưng nó đủ cho cả cuộc đời. Nỗi đau êm đềm mà day dứt, âm thầm mà dai dẳng. Và dù chỉ có chiếc cầu ở quận Madison là nhân chứng duy nhất, tình yêu ấy vẫn bất diệt. Tác giả đã có cái nhìn nhân văn về diễn biến nội tâm của Francesa khi không phán xét cô, không áp lên người phụ nữ này những trách nhiệm, bổn phận kèm theo nghĩa vụ, đạo đức bắt buộc phải thực hiện và cho rằng những diễn biến trong đời sống tinh thần của cô không quan trọng và có phần vớ vẩn. Ranh giới giữa tình yêu và tội lỗi, đôi khi chỉ cách nhau một cách nhìn. Có nhiều chuyện, mãi mãi không có câu trả lời, không có nhận biết đúng sai; thước đo công minh nhất, chính là trái tim và lý trí.
Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim năm 1995 – ba năm sau khi cuốn tiểu thuyết được xuất bản và trở thành hiện tượng tại Mỹ.
3. Bà Bovary (Gustave Flaubert)
Bà Bovary là cuốn tiểu thuyết cỡ lớn, mô tả các nhân vật tầm thường mà không thể quên được. Tác phẩm kể về nàng Emma Bovary, con một nông dân khá giả chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết lãng mạn nên ước mơ một cuộc sống phóng khoáng, phong lưu nhưng cuối cùng nàng lấy phải một anh chồng đần độn và nàng bị giam hãm vào cuộc sống tư sản chật hẹp, buồn tẻ tầm thường nơi tỉnh nhỏ. Để đạt được ước mơ Emma không tránh khỏi con đường ngoại tình rồi cuối cùng bị lừa gạt, mang công mắc nợ và nàng phải tự tử.
Bà Bovary
Sau khi cuốn tiểu thuyết này được phổ biến, nhà văn Gustave Flaubert đã bị đưa ra tòa vì xúc phạm vào nền luân lý công cộng do vấn đề liên quan tới phong tục và các chi tiết trần trụi, nhưng rồi về sau, ông đã được tha bổng. Qua tác phẩm này, người đọc có thể nhận ra nơi các nhân vật các đặc tính tầm thường, đôi khi ngu xuẩn và tác giả hầu như muốn nói rằng Thượng Đế không ở trên thế gian. Tác giả đã dùng thể văn gián tiếp tự do (free indirect style) qua đó các tư tưởng của nhân vật được thuật lại bằng người kể chuyện rành mạch và khách quan.
4. Vợ, người tình và quý ông hoàn hảo (Maria Metlitskaya)
Nadya – một người phụ nữ tưởng như đã được số phận đối đãi hậu hĩnh khi ban cho một người chồng học thức, thành đạt cùng một cô con gái xinh đẹp ở nước ngoài và một cuộc sống đủ đầy, không phải lo toan cơm áo như bao người đàn bà khác.
Vợ, người tình và quý ông hoàn hảo
Thế nhưng sự hoàn hảo đó chỉ là vẻ bề ngoài, chẳng một ai biết được cô đã cô đơn nhường nào bên những người ruột thịt trong chính tổ ấm mà mình vẫn vun vén hằng ngày. Và cái ngày người chồng mà cô tôn thờ như Chúa sống nằm xuống, ngỡ như rằng từ đây cô đã có thể nhẹ nhõm sống đời riêng mình, nhưng hóa ra, đó lại là cú nốc ao mà người chồng chung thủy dành tặng cho người vợ tận tụy bao năm của mình. Nadya tình cờ phát hiện ra chồng cô có một cuộc đời bí mật. Một cuộc đời ngồn ngộn sự kiện, trải nghiệm và đồng cảm về một người đàn bà khác. Ngoài vợ mình.
5. Vợ phi công (Anita Shreve)
Vợ của phi công là những người được dạy chuẩn bị tinh thần đón nhận một cú gõ cửa bất thình lình vào đêm khuya. Nhưng với Kathryn Lyons, khi nhận được tin chiếc máy bay do Jack, chồng cô, điều khiển bị nổ tung gần bờ biển Ireland, cô còn phải đương đầu với bí mật sâu kín, một bí mật đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của cô. Thôi thúc bởi những tin đổn sau cái chết của Jack rằng anh có một cuộc sống bí mật, Kathryn quyết định thực hiện hành trình khám phá chồng mình thật sự là người như thế nào, bất chấp việc cô có thể phải trả giá đắt cho sự thật đó. Cuộc kiếm tìm của cô xuyên suốt cuốn tiểu thuyết dữ dội, kịch tính này cũng là lời đáp đầy xúc động cho câu hỏi: Chúng ta thực sự biết về một người khác đến đâu, ngay cả khi đó là người thân thuộc của chính mình?
Vợ phi công
Đây là một trong những cuốn sách ăn khách nhất tại Mỹ, đã được chọn vào “Ophra’s Book Club” và được dựng thành phim. Lôi cuốn, chân thực và bất ngờ là điều đã đưa cuốn sách này ghi dấu trong trái tim hàng triệu bạn đọc.
6. Hai cuốn nhật ký (Tanizaki Junichiro)
Lần đầu đăng trên tạp chí Chuuō Kōron năm 1956, Hai cuốn nhật ký được trình bày qua lời kể song song của một đôi vợ chồng tuổi trung niên theo hình thức ghi chép cá nhân.
Hai cuốn nhật ký
Bắt đầu từ ngày mùng một tháng Giêng trong nhật ký của người chồng: “Tôi quyết định từ năm nay sẽ bắt đầu ghi lại tất cả những điều chưa từng dám viết vào nhật ký. Trước giờ, những việc phòng the, sinh hoạt vợ chồng, tôi thường không dám ghi chép tỉ mỉ lại, bởi e ngại vợ mình đọc trộm mà sinh tức giận…”, Hai cuốn nhật ký dần mở ra cánh cửa dẫn vào cuộc sống chăn gối hoan lạc của cặp đôi buổi xế tà đang loay hoay tìm đường khơi lại ngọn lửa tình ái. Một đằng là ông chồng già cũng ham lạc thú tà dâm nhưng thể trạng yếu kém dẫn đến lực bất tòng tâm, một đằng là cô vợ đã một qua một đời sinh nở nhưng vẫn hừng hực sung mãn, ham muốn mạnh mẽ đến mức phi thường. Trạng huống trớ trêu đẩy cặp đôi “đũa lệch” ấy vào bước đường phải tìm đến những thứ “thuốc kích thích” lạ lùng để thỏa mãn nhu cầu sinh lý. Cứ thế lún sâu vào bể tình hoan lạc, họ bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp sức khỏe và cả tính mạng cho cuộc vui nhục dục nhưng kỳ diệu làm sao vẫn có thể gọi là thực thi toàn vẹn đạo làm vợ làm chồng (!).
Toàn bộ câu chuyện là những chuỗi tâm lý vặn xoắn bất ngờ và hồi hộp xuất phát từ động cơ tính toán riêng biệt của cả bốn nhân vật. Ông giáo sư một lòng tôn thờ cô vợ “tốt của” nhưng sẵn sàng tạo điều kiện cho vợ gian díu với con rể tương lai để tăng cường tinh lực. Cô vợ tiết trinh cổ hủ lòng đã mau chóng ngả theo nhân tình nhưng một mực tâm niệm phải làm chồng hưng phấn. Cô con gái Toshiko phần thì căm ghét ông bố biến thái, phần thì ganh ghét với người mẹ xinh đẹp, bề ngoài thờ ơ lãnh đạm với cuộc hôn nhân sắp đặt nhưng lòng dạ ai nào tỏ cho tường? Anh con rể tương lai có lẽ đam mê bà mẹ đầy phong vận hơn nhưng biết đâu cũng chỉ lợi dụng để tiếp cận cô con gái?
7. Anna Karenina (Lev Tolstoy)
Bốn năm sau khi viết xong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, khoảng ngày 19 tháng 3 năm 1873, Tolstoy bắt đầu viết Anna Karenina. Sau khi hoàn thành, cuốn tiểu thuyết này đã đưa nhà văn lên một địa vị mới trên văn đàn văn học Nga và thế giới. Anna Karenina lập tức được xem là một trong những quyển tiểu thuyết hay nhất của nền văn học nhân loại.
Anna Karenina
Nhân vật chính trong truyện được Tolstoy sáng tác dựa vào Maria Aleksandrovna Hartung, người con gái lớn của đại thi hào Aleksandr Sergeyevich Pushkin. Theo một cuộc thăm dò gần đây, dựa trên ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời, tiểu thuyết Anna Karenina là tác phẩm có số phiếu bầu cao nhất trong danh sách 10 tác phẩm vĩ đại nhất mọi thời đại.
Ý nghĩa xã hội và tác dụng nhận thức các vấn đề lớn do cuốn truyện đặt ra đã được thể hiện bằng một ngòi bút điêu luyện bậc thầy. Vượt ra ngoài khuôn khổ của một tấn thảm kịch ngoại tình, Anna Karenina đã trở thành một bộ Bách khoa thư về đời sống xã hội.
8. Tỉnh thức (Kate Chopin)
Tỉnh thức (The Awakening) là cuốn tiểu thuyết của Kate Chopin, xuất bản lần đầu vào năm 1899. Bối cảnh được đặt ở New Orleans và bờ biến phía Nam bang Louisiana vào cuối thế kỷ XIX, cốt truyện tập trung vào Edna Pontellier và cuộc đấu tranh của nàng về bản năng nữ tính và làm mẹ khi thái độ xã hội hiện hành ngày càng không theo truyền thống ở Nam Mỹ vào thời điểm đó.
Tỉnh thức
Tỉnh thức là một trong những tiểu thuyết Mỹ sớm nhất tập trung vào các vấn đề của phụ nữ không cam chịu. Nó cũng được coi như là một công việc mang tính bước ngoặt đầu tiên của chủ nghĩa nữ quyền, tạo ra phản ứng trái chiều và những lời chỉ trích cay nghiệt từ độc giả đương đại.
Là cuốn tiểu thuyết dựa vào câu chuyện thực tế, mang tính bình luận xã hội sâu sắc, và mô tả sắc nét những phức tạp tâm lý đã khiến cho Tỉnh thức trở thành một tác phẩm tiền thân của văn học hiện đại Mỹ. Nó cũng có thể được coi là một trong những công trình đầu tiên ở miền Nam cùng với những kiệt tác của Faulkner, Flannery O’Connor, Eudora Welty, Katherine Anne Porter, và Tennessee Williams đưa nền văn học Mỹ tiến lên đỉnh cao của thời đại.
9. Rabbit ơi, chạy đi (John Updike)
John Updike, bằng nghệ thuật kể chuyện và phân tích tâm lý bậc thầy, cho ta thấy lằn ranh giữa các khái niệm khác nhau về nhân cách con người là mù mờ và võ đoán ra sao.
Rabbit ơi, chạy đi
Harry “Rabbit” Angstrom, một chàng trai hai mươi sáu tuổi, cựu ngôi sao bóng rổ nay là nhân viên bán hàng lưu động, là một nam nhi quyến rũ và một con người phức tạp. Anh hành động theo bản năng nhưng dường như chẳng phải là người không biết nghĩ. Bỏ vợ con trong một phút bốc đồng, anh vừa tìm thấy khoái lạc vừa cảm nhận ra một khoảng trống trong chính anh, khoảng trống mà anh chật vật cố lấp đầy. Loại phụ nữ nào cần đến anh và loại phụ nữ nào nguyền rủa anh? Anh đáng cho ta cảm thông hay đáng bị ta căm ghét?
10. Đời nhẹ khôn kham (Milan Kundera)
Đời nhẹ khôn kham là tiểu thuyết của nhà văn Milan Kundera viết năm 1982 và xuất bản lần đầu tiên năm 1984 tại Pháp.
Đời nhẹ khôn kham
Liệu người ta có thể vừa dành tình cảm sâu nặng cho người bạn đời của mình, nhưng cũng vừa dính líu đến nhiều mối quan hệ ngoài luồng? Vì sao quan hệ tình dục ngoài phạm vi tình yêu (và những lời thề ước trong hôn nhân) lại bị coi là vi phạm chuẩn mực xã hội? Những nan đề đạo đức này, không hề có câu trả lời dứt khoát, diễn ra trong bối cảnh một Tiệp Khắc đang quay cuồng dưới sự thống trị của Liên Xô ở đỉnh cao chiến tranh lạnh. Cuốn tiểu thuyết chói lọi của Kundera được kết hợp nhuần nhuyễn trong mâu thuẫn đan xen giữa ham muốn tình dục và tình yêu bền vững bán-ổn-định.
Hết.
10 cuốn sách bàn về chủ đề khó nói: Ngoại tình
By Mèo Heo
“Số liệu thống kê cho thấy, có tới khoảng 65% khả năng rằng người tình của bạn đang cắm sừng bạn. Vì thế, hãy cảnh giác cao độ mọi lúc mọi nơi.”
– Bạn là đồ vô dụng, Scott Dikkers.
1. Chữ A màu đỏ (Nathaniel Hawthorne)
Câu chuyện diễn ra ở Boston, thủ phủ bang Massachusetts (thuộc New England vùng đông bắc nước Mỹ) trong những năm 1640, vào một thời mà xã hội vùng này bị giam hãm trong vòng luật lệ và giáo lý nghiệt ngã của nhà thờ Thanh giáo. Một người phụ nữ tên là Hester Prynne, vì một đứa con hoang, đã bị kết án bêu trên bục tội nhân ba tiếng đồng hồ trước công chúng và chịu hình phạt sỉ nhục mang một chữ A màu đỏ (Adultery – ngoại tình) cài trên ngực cho đến hết đời.
Chữ A màu đỏ
Không ai ngờ được rằng người bố của đứa con hoang ấy lại là mục sư Arthur Dimmesdale, một giáo sĩ trẻ đầy tài năng, được con chiên ngưỡng mộ như một vị thiên thần. Hester Prynne chịu đựng nỗi nhục nhã đau đớn; còn Arthur Dimmesdale, bị sự giày vò khủng khiếp của lòng hối hận, ngày một gầy mòn xanh xao. Thế nhưng, quần chúng không hề hay biết gì cả, vẫn sùng kính anh như một vị thánh sống.
Giữa lúc đó, xuất hiện thêm một nhân vật, hình thành đủ bộ ba trong diễn biến xung đột của câu chuyện. Đó là chồng của Hester, một con người tuổi đã xế chiều, ngoại hình dị dạng, mà Hester không hề yêu. Lão đã sống cuộc đời lang bạt, nay vừa đến đây thì thấy vợ trên cái bục ô nhục. Lão bắt đầu một cuộc săn tìm kẻ tình địch để báo thù.
Tiểu thuyết Chữ A màu đỏ của Nathaniel Hawthorne, xuất bản năm 1850, đã được nhiều nhà phê bình đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn học thế giới.
2. Những chiếc cầu ở quận Madison (Robert James Waller)
Là một câu chuyện tình lãng mạn, day dứt và ám ảnh của nhà văn Mỹ nổi tiếng Robert James Waller, Những chiếc cầu ở quận Madison bắt đầu bởi cuộc gặp gỡ định mệnh giữa nhiếp ảnh gia Robert Kincaid và Francesca – người phụ nữ nông thôn đã có gia đình. Những con người không thể tìm thấy nhau ở năm tháng tươi trẻ đã chạm nhau ở ngưỡng gần như chấp nhận sự sắp đặt của số phận.
Những chiếc cầu ở quận Madison
Tình yêu chỉ diễn ra trong bốn ngày, nhưng nó đủ cho cả cuộc đời. Nỗi đau êm đềm mà day dứt, âm thầm mà dai dẳng. Và dù chỉ có chiếc cầu ở quận Madison là nhân chứng duy nhất, tình yêu ấy vẫn bất diệt. Tác giả đã có cái nhìn nhân văn về diễn biến nội tâm của Francesa khi không phán xét cô, không áp lên người phụ nữ này những trách nhiệm, bổn phận kèm theo nghĩa vụ, đạo đức bắt buộc phải thực hiện và cho rằng những diễn biến trong đời sống tinh thần của cô không quan trọng và có phần vớ vẩn. Ranh giới giữa tình yêu và tội lỗi, đôi khi chỉ cách nhau một cách nhìn. Có nhiều chuyện, mãi mãi không có câu trả lời, không có nhận biết đúng sai; thước đo công minh nhất, chính là trái tim và lý trí.
Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim năm 1995 – ba năm sau khi cuốn tiểu thuyết được xuất bản và trở thành hiện tượng tại Mỹ.
3. Bà Bovary (Gustave Flaubert)
Bà Bovary là cuốn tiểu thuyết cỡ lớn, mô tả các nhân vật tầm thường mà không thể quên được. Tác phẩm kể về nàng Emma Bovary, con một nông dân khá giả chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết lãng mạn nên ước mơ một cuộc sống phóng khoáng, phong lưu nhưng cuối cùng nàng lấy phải một anh chồng đần độn và nàng bị giam hãm vào cuộc sống tư sản chật hẹp, buồn tẻ tầm thường nơi tỉnh nhỏ. Để đạt được ước mơ Emma không tránh khỏi con đường ngoại tình rồi cuối cùng bị lừa gạt, mang công mắc nợ và nàng phải tự tử.
Bà Bovary
Sau khi cuốn tiểu thuyết này được phổ biến, nhà văn Gustave Flaubert đã bị đưa ra tòa vì xúc phạm vào nền luân lý công cộng do vấn đề liên quan tới phong tục và các chi tiết trần trụi, nhưng rồi về sau, ông đã được tha bổng. Qua tác phẩm này, người đọc có thể nhận ra nơi các nhân vật các đặc tính tầm thường, đôi khi ngu xuẩn và tác giả hầu như muốn nói rằng Thượng Đế không ở trên thế gian. Tác giả đã dùng thể văn gián tiếp tự do (free indirect style) qua đó các tư tưởng của nhân vật được thuật lại bằng người kể chuyện rành mạch và khách quan.
4. Vợ, người tình và quý ông hoàn hảo (Maria Metlitskaya)
Nadya – một người phụ nữ tưởng như đã được số phận đối đãi hậu hĩnh khi ban cho một người chồng học thức, thành đạt cùng một cô con gái xinh đẹp ở nước ngoài và một cuộc sống đủ đầy, không phải lo toan cơm áo như bao người đàn bà khác.
Vợ, người tình và quý ông hoàn hảo
Thế nhưng sự hoàn hảo đó chỉ là vẻ bề ngoài, chẳng một ai biết được cô đã cô đơn nhường nào bên những người ruột thịt trong chính tổ ấm mà mình vẫn vun vén hằng ngày. Và cái ngày người chồng mà cô tôn thờ như Chúa sống nằm xuống, ngỡ như rằng từ đây cô đã có thể nhẹ nhõm sống đời riêng mình, nhưng hóa ra, đó lại là cú nốc ao mà người chồng chung thủy dành tặng cho người vợ tận tụy bao năm của mình. Nadya tình cờ phát hiện ra chồng cô có một cuộc đời bí mật. Một cuộc đời ngồn ngộn sự kiện, trải nghiệm và đồng cảm về một người đàn bà khác. Ngoài vợ mình.
5. Vợ phi công (Anita Shreve)
Vợ của phi công là những người được dạy chuẩn bị tinh thần đón nhận một cú gõ cửa bất thình lình vào đêm khuya. Nhưng với Kathryn Lyons, khi nhận được tin chiếc máy bay do Jack, chồng cô, điều khiển bị nổ tung gần bờ biển Ireland, cô còn phải đương đầu với bí mật sâu kín, một bí mật đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của cô. Thôi thúc bởi những tin đổn sau cái chết của Jack rằng anh có một cuộc sống bí mật, Kathryn quyết định thực hiện hành trình khám phá chồng mình thật sự là người như thế nào, bất chấp việc cô có thể phải trả giá đắt cho sự thật đó. Cuộc kiếm tìm của cô xuyên suốt cuốn tiểu thuyết dữ dội, kịch tính này cũng là lời đáp đầy xúc động cho câu hỏi: Chúng ta thực sự biết về một người khác đến đâu, ngay cả khi đó là người thân thuộc của chính mình?
Vợ phi công
Đây là một trong những cuốn sách ăn khách nhất tại Mỹ, đã được chọn vào “Ophra’s Book Club” và được dựng thành phim. Lôi cuốn, chân thực và bất ngờ là điều đã đưa cuốn sách này ghi dấu trong trái tim hàng triệu bạn đọc.
6. Hai cuốn nhật ký (Tanizaki Junichiro)
Lần đầu đăng trên tạp chí Chuuō Kōron năm 1956, Hai cuốn nhật ký được trình bày qua lời kể song song của một đôi vợ chồng tuổi trung niên theo hình thức ghi chép cá nhân.
Hai cuốn nhật ký
Bắt đầu từ ngày mùng một tháng Giêng trong nhật ký của người chồng: “Tôi quyết định từ năm nay sẽ bắt đầu ghi lại tất cả những điều chưa từng dám viết vào nhật ký. Trước giờ, những việc phòng the, sinh hoạt vợ chồng, tôi thường không dám ghi chép tỉ mỉ lại, bởi e ngại vợ mình đọc trộm mà sinh tức giận…”, Hai cuốn nhật ký dần mở ra cánh cửa dẫn vào cuộc sống chăn gối hoan lạc của cặp đôi buổi xế tà đang loay hoay tìm đường khơi lại ngọn lửa tình ái. Một đằng là ông chồng già cũng ham lạc thú tà dâm nhưng thể trạng yếu kém dẫn đến lực bất tòng tâm, một đằng là cô vợ đã một qua một đời sinh nở nhưng vẫn hừng hực sung mãn, ham muốn mạnh mẽ đến mức phi thường. Trạng huống trớ trêu đẩy cặp đôi “đũa lệch” ấy vào bước đường phải tìm đến những thứ “thuốc kích thích” lạ lùng để thỏa mãn nhu cầu sinh lý. Cứ thế lún sâu vào bể tình hoan lạc, họ bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp sức khỏe và cả tính mạng cho cuộc vui nhục dục nhưng kỳ diệu làm sao vẫn có thể gọi là thực thi toàn vẹn đạo làm vợ làm chồng (!).
Toàn bộ câu chuyện là những chuỗi tâm lý vặn xoắn bất ngờ và hồi hộp xuất phát từ động cơ tính toán riêng biệt của cả bốn nhân vật. Ông giáo sư một lòng tôn thờ cô vợ “tốt của” nhưng sẵn sàng tạo điều kiện cho vợ gian díu với con rể tương lai để tăng cường tinh lực. Cô vợ tiết trinh cổ hủ lòng đã mau chóng ngả theo nhân tình nhưng một mực tâm niệm phải làm chồng hưng phấn. Cô con gái Toshiko phần thì căm ghét ông bố biến thái, phần thì ganh ghét với người mẹ xinh đẹp, bề ngoài thờ ơ lãnh đạm với cuộc hôn nhân sắp đặt nhưng lòng dạ ai nào tỏ cho tường? Anh con rể tương lai có lẽ đam mê bà mẹ đầy phong vận hơn nhưng biết đâu cũng chỉ lợi dụng để tiếp cận cô con gái?
7. Anna Karenina (Lev Tolstoy)
Bốn năm sau khi viết xong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, khoảng ngày 19 tháng 3 năm 1873, Tolstoy bắt đầu viết Anna Karenina. Sau khi hoàn thành, cuốn tiểu thuyết này đã đưa nhà văn lên một địa vị mới trên văn đàn văn học Nga và thế giới. Anna Karenina lập tức được xem là một trong những quyển tiểu thuyết hay nhất của nền văn học nhân loại.
Anna Karenina
Nhân vật chính trong truyện được Tolstoy sáng tác dựa vào Maria Aleksandrovna Hartung, người con gái lớn của đại thi hào Aleksandr Sergeyevich Pushkin. Theo một cuộc thăm dò gần đây, dựa trên ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời, tiểu thuyết Anna Karenina là tác phẩm có số phiếu bầu cao nhất trong danh sách 10 tác phẩm vĩ đại nhất mọi thời đại.
Ý nghĩa xã hội và tác dụng nhận thức các vấn đề lớn do cuốn truyện đặt ra đã được thể hiện bằng một ngòi bút điêu luyện bậc thầy. Vượt ra ngoài khuôn khổ của một tấn thảm kịch ngoại tình, Anna Karenina đã trở thành một bộ Bách khoa thư về đời sống xã hội.
8. Tỉnh thức (Kate Chopin)
Tỉnh thức (The Awakening) là cuốn tiểu thuyết của Kate Chopin, xuất bản lần đầu vào năm 1899. Bối cảnh được đặt ở New Orleans và bờ biến phía Nam bang Louisiana vào cuối thế kỷ XIX, cốt truyện tập trung vào Edna Pontellier và cuộc đấu tranh của nàng về bản năng nữ tính và làm mẹ khi thái độ xã hội hiện hành ngày càng không theo truyền thống ở Nam Mỹ vào thời điểm đó.
Tỉnh thức
Tỉnh thức là một trong những tiểu thuyết Mỹ sớm nhất tập trung vào các vấn đề của phụ nữ không cam chịu. Nó cũng được coi như là một công việc mang tính bước ngoặt đầu tiên của chủ nghĩa nữ quyền, tạo ra phản ứng trái chiều và những lời chỉ trích cay nghiệt từ độc giả đương đại.
Là cuốn tiểu thuyết dựa vào câu chuyện thực tế, mang tính bình luận xã hội sâu sắc, và mô tả sắc nét những phức tạp tâm lý đã khiến cho Tỉnh thức trở thành một tác phẩm tiền thân của văn học hiện đại Mỹ. Nó cũng có thể được coi là một trong những công trình đầu tiên ở miền Nam cùng với những kiệt tác của Faulkner, Flannery O’Connor, Eudora Welty, Katherine Anne Porter, và Tennessee Williams đưa nền văn học Mỹ tiến lên đỉnh cao của thời đại.
9. Rabbit ơi, chạy đi (John Updike)
John Updike, bằng nghệ thuật kể chuyện và phân tích tâm lý bậc thầy, cho ta thấy lằn ranh giữa các khái niệm khác nhau về nhân cách con người là mù mờ và võ đoán ra sao.
Rabbit ơi, chạy đi
Harry “Rabbit” Angstrom, một chàng trai hai mươi sáu tuổi, cựu ngôi sao bóng rổ nay là nhân viên bán hàng lưu động, là một nam nhi quyến rũ và một con người phức tạp. Anh hành động theo bản năng nhưng dường như chẳng phải là người không biết nghĩ. Bỏ vợ con trong một phút bốc đồng, anh vừa tìm thấy khoái lạc vừa cảm nhận ra một khoảng trống trong chính anh, khoảng trống mà anh chật vật cố lấp đầy. Loại phụ nữ nào cần đến anh và loại phụ nữ nào nguyền rủa anh? Anh đáng cho ta cảm thông hay đáng bị ta căm ghét?
10. Đời nhẹ khôn kham (Milan Kundera)
Đời nhẹ khôn kham là tiểu thuyết của nhà văn Milan Kundera viết năm 1982 và xuất bản lần đầu tiên năm 1984 tại Pháp.
Đời nhẹ khôn kham
Liệu người ta có thể vừa dành tình cảm sâu nặng cho người bạn đời của mình, nhưng cũng vừa dính líu đến nhiều mối quan hệ ngoài luồng? Vì sao quan hệ tình dục ngoài phạm vi tình yêu (và những lời thề ước trong hôn nhân) lại bị coi là vi phạm chuẩn mực xã hội? Những nan đề đạo đức này, không hề có câu trả lời dứt khoát, diễn ra trong bối cảnh một Tiệp Khắc đang quay cuồng dưới sự thống trị của Liên Xô ở đỉnh cao chiến tranh lạnh. Cuốn tiểu thuyết chói lọi của Kundera được kết hợp nhuần nhuyễn trong mâu thuẫn đan xen giữa ham muốn tình dục và tình yêu bền vững bán-ổn-định.
Hết.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Review sách Người tình – Marguerite Duras
Reviewsach
“Hoàn cảnh”, hai chữ định hình cuộc sống con người, vì hoàn cảnh mà đôi khi chẳng có lựa chọn nào khác. Với “Người tình”, Marguerite Duras đưa người đọc cảm nhận rõ thế nào là sức ảnh hưởng của “hoàn cảnh” đối với cuộc đời của mỗi người, cụ thể là một cô gái mới mười lăm tuổi. Vì cuộc sống xa xứ nghèo khổ, vì những ám ảnh của bà mẹ và của người tình, chính nhân vật trong truyện – tác giả, đã đi qua quá nhiều nấc thăng trầm so với cuộc sống của một cô gái đương tuổi thiếu niên.
Cuộc sống ám ảnh của Duras ở Sa Đéc (Vĩnh Long) cùng với gia đình của mình
Khi con người rời xa quê hương, họ ít nhiều đều cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Duras không còn cha ở bên cạnh, ông chọn trở về Pháp để ra đi. Ở lại Việt Nam cùng với mẹ và hai anh trai của mình, tuổi thơ của cô hiện lên ngột ngạt qua từng con chữ. Vì nghèo khổ, vì cô đơn, mẹ của Duras luôn đặt cô vào khuôn khổ bà sắp xếp sẵn. Qua những tự sự của nhà văn, bạn đọc cảm nhận sự dồn nén của nhân vật – con người khi mất tự do thường sẽ vẫy vùng. Cái nghèo đói đã làm mẹ Duras và cả cô ấy mệt mỏi, không chỉ có thế, trong cô còn là sự hỗn tạp của những cảm xúc như thù ghét hay xót thương người mẹ làm nghề giáo.
Những người mẹ, bằng một cách nào đó, họ luôn dành sự ưu tiên cho con trai cả. Đây là lối mòn suy nghĩ từ Đông sang Tây của các bà mẹ, điều này làm Duras và anh kế của cô đau khổ, vì người anh cả chỉ mang lại nợ nần và giả tạo. Theo lời nhà văn, giữa cái nóng hừng hực ở xứ miền Tây sông nước xa lạ chốn Đông Dương, sự đói khổ nhưng luôn tỏ ra thanh cao một cách đáng thương của người mẹ, cùng với sự áp đặt nặng nề khi bà gạt phăng giấc mơ viết lách của con bé, đã làm những trang đầu quyển sách ngập trong sự mỏi mệt, bức bối và giằng xé của người con gái.
Người tình xuất hiện
Trên một con phà đang sang sông vào một ngày nắng nóng, người tình của nữ nhà văn xuất hiện cùng với một chiếc limousine đen sang trọng và người tài xế mặc đồ trắng. Khác với ngôi thứ nhất khi tác giả xưng hô để kể về mẹ và chính mình, những câu chuyện về người đàn ông Trung Hoa này luôn được kể lại bằng ngôi thứ ba. Duras gọi bản thân là “cô” và người đàn ông kia là “anh”.
Những trang truyện về cuộc tình này luôn có gì đó ngăn trở, dù tác giả chẳng nói về bản thân mình là bao. Duras nói cô yêu tiền của “anh”, nhưng trong lòng người thiếu nữ mới lớn lại có nhiều điều giằng xé, một thứ cảm xúc mới lạ chớm nở trong tâm hồn khô cằn của cô. Cảm xúc ấy mạnh mẽ đến mức như ra bật ra khỏi trang sách. Nữ nhà văn nói về lần mời thuốc làm quen của “anh”, về cuộc làm tình đầu tiên và những cuộc làm tình đều đặn sau này. Và trong từng hành động của người đàn ông đó, có một chi tiết mà Duras miêu tả rất kỹ lưỡng, đó là sự run rẩy của “anh” trong những lần nói về tình yêu.
Khác với sự nâng niu và né tránh của người đàn ông ba mươi mốt tuổi, Duras đã thẳng thừng từ chối ngay từ đầu: “Anh hãy làm tình với em như cách anh làm với bao người đàn bà khác”. Vì những tự sự về người tình này được viết theo ngôi thứ ba, người đọc mơ hồ cảm thấy nữ nhà văn đến với “anh” chỉ vì tiền, nhưng những trang giấy tiếp về sau đã cho thấy chuyến phà định mệnh ấy thật sự là khởi đầu cho thứ tình cảm của hai con người dễ bị tổn thương. Cô gái mới mười lăm, mang trong mình bao suy tư muộn phiền, nghĩ rằng cuộc đời thật tẻ nhạt, nhưng khi đối mặt với thứ cảm xúc dễ chịu thì không dễ tiếp nhận. Có lẽ vì vậy đến khi đánh mất cảm xúc đó, cô mới hiểu và tiếc nuối.
Những tự sự cuối cùng của nữ nhà văn
Đến mãi khi xấp trang còn lại của quyển sách đã mỏng, nhà văn mới nói nhiều hơn về chính bản thân mình, một cách trực tiếp. Duras thể hiện tình yêu của mình với người anh thứ – người anh trai luôn yêu thương cô thay vì chửi bới như người anh cả; Duras kể về nỗi ám ảnh thuở bé, kể về mẹ già bằng một chất giọng trìu mến yêu thương thay vì những vật vã giữa hai mẹ con trong kí ức ở Sa Đéc, và kể về người tình khi cả hai quyết định chia xa. Cuộc chia tay nằm trong khoảng tầm hai đến ba trang giấy cuối cùng, khi anh quay mặt đi để né tránh trong lần chào tạm biệt, và cũng tại chiếc limousine ấy mà anh chăm chú nhìn cô trên chuyến tàu trở về Pháp, và lần đầu tiên, nữ nhà văn nói về nỗi đau của mình, cô khóc. Cuối cùng, quyển sách kết thúc bằng sự liên lạc qua điện thoại của cả hai khi “hoàn cảnh” đã chẳng thể đổi thay con người thêm một lần nào nữa.
Điểm sáng: tuy “gián tiếp” nhưng mà lại “trực tiếp”
Cái hay về nghệ thuật trong “Người tình” là lối kể chuyện ngôi thứ ba không mang lại góc nhìn khách quan như định nghĩa về vai trò của nó, mà nó lại thể hiện cảm xúc chủ quan của Duras một cách rõ nét hơn. Bằng những chi tiết nhỏ bé như đồ vật trong căn phòng, bãi cỏ khô bị cháy vì nóng ở sân sau, chúng như là bằng chứng chứng minh nữ nhà văn đã mãi chẳng thể quên về “lần đầu”. Những lời tâm sự mà “anh” nói với tác giả, tất cả được khái quát chung bằng cụm từ “lời thì thầm”, những cụm từ này cứ xuất hiện mãi ở các trang sách, điều đó chứng tỏ ký ức của nữ nhà văn chẳng thể nào phai về người tình.
Bên cạnh đó, những phép so sánh đặc biệt khác như người anh thứ bất tử trong nữ nhà văn dù anh ta đã ra đi ở tuổi hai bảy, hay cách mà người đàn ông Trung Hoa yêu cô như yêu con gái, tất cả đều cho thấy sự cảm nhận sâu sắc và thấm thía của một cô gái còn đang tuổi dậy thì. Sự thay đổi ngôi kể của Duras, sự biến chuyển bất ngờ của những mẩu chuyện không theo mốc thời gian nào cả, những hình ảnh so sánh sẽ gây khó dễ cho người đọc nếu họ chưa từng trải qua cảm giác đó, tất cả đã tạo nên một “Người tình” tuyệt tác.
Nhớ mãi về một cuộc tình
Không đơn thuần chỉ là tình cảm đôi lứa nam nữ, “Người tình” đưa người đọc đến một góc nhìn khác của một gia đình người Pháp khổ sở ở Việt Nam, tâm tư của một cô gái mười lăm tuổi rưỡi chẳng thể đưa ra lựa chọn theo đúng ý mình trong cái “hoàn cảnh”. Nhưng có lẽ “Người tình” đã vẽ nên một bức tranh đẹp ở vùng Sa Đéc sông nước khó quên cho độc giả, khi mà một cô gái mười lăm tuổi rưỡi và người đàn ông ba mươi mốt tuổi yêu nhau chân thành; khi mà đằng sau một người mẹ ám ảnh và khổ đau luôn chất chứa tình thương con, và cả những hình ảnh ẩn dụ mà có lẽ người đọc khó mà lý giải được mỗi khi Duras nói về tâm trạng của mình, nhưng tất cả, sẽ ghi mãi trong tim đọc giả một cách bền chặt tựa như chúng được khắc ghi trên đá.
Gấu Mèo
Reviewsach
“Hoàn cảnh”, hai chữ định hình cuộc sống con người, vì hoàn cảnh mà đôi khi chẳng có lựa chọn nào khác. Với “Người tình”, Marguerite Duras đưa người đọc cảm nhận rõ thế nào là sức ảnh hưởng của “hoàn cảnh” đối với cuộc đời của mỗi người, cụ thể là một cô gái mới mười lăm tuổi. Vì cuộc sống xa xứ nghèo khổ, vì những ám ảnh của bà mẹ và của người tình, chính nhân vật trong truyện – tác giả, đã đi qua quá nhiều nấc thăng trầm so với cuộc sống của một cô gái đương tuổi thiếu niên.
Cuộc sống ám ảnh của Duras ở Sa Đéc (Vĩnh Long) cùng với gia đình của mình
Khi con người rời xa quê hương, họ ít nhiều đều cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Duras không còn cha ở bên cạnh, ông chọn trở về Pháp để ra đi. Ở lại Việt Nam cùng với mẹ và hai anh trai của mình, tuổi thơ của cô hiện lên ngột ngạt qua từng con chữ. Vì nghèo khổ, vì cô đơn, mẹ của Duras luôn đặt cô vào khuôn khổ bà sắp xếp sẵn. Qua những tự sự của nhà văn, bạn đọc cảm nhận sự dồn nén của nhân vật – con người khi mất tự do thường sẽ vẫy vùng. Cái nghèo đói đã làm mẹ Duras và cả cô ấy mệt mỏi, không chỉ có thế, trong cô còn là sự hỗn tạp của những cảm xúc như thù ghét hay xót thương người mẹ làm nghề giáo.
Những người mẹ, bằng một cách nào đó, họ luôn dành sự ưu tiên cho con trai cả. Đây là lối mòn suy nghĩ từ Đông sang Tây của các bà mẹ, điều này làm Duras và anh kế của cô đau khổ, vì người anh cả chỉ mang lại nợ nần và giả tạo. Theo lời nhà văn, giữa cái nóng hừng hực ở xứ miền Tây sông nước xa lạ chốn Đông Dương, sự đói khổ nhưng luôn tỏ ra thanh cao một cách đáng thương của người mẹ, cùng với sự áp đặt nặng nề khi bà gạt phăng giấc mơ viết lách của con bé, đã làm những trang đầu quyển sách ngập trong sự mỏi mệt, bức bối và giằng xé của người con gái.
Người tình xuất hiện
Trên một con phà đang sang sông vào một ngày nắng nóng, người tình của nữ nhà văn xuất hiện cùng với một chiếc limousine đen sang trọng và người tài xế mặc đồ trắng. Khác với ngôi thứ nhất khi tác giả xưng hô để kể về mẹ và chính mình, những câu chuyện về người đàn ông Trung Hoa này luôn được kể lại bằng ngôi thứ ba. Duras gọi bản thân là “cô” và người đàn ông kia là “anh”.
Những trang truyện về cuộc tình này luôn có gì đó ngăn trở, dù tác giả chẳng nói về bản thân mình là bao. Duras nói cô yêu tiền của “anh”, nhưng trong lòng người thiếu nữ mới lớn lại có nhiều điều giằng xé, một thứ cảm xúc mới lạ chớm nở trong tâm hồn khô cằn của cô. Cảm xúc ấy mạnh mẽ đến mức như ra bật ra khỏi trang sách. Nữ nhà văn nói về lần mời thuốc làm quen của “anh”, về cuộc làm tình đầu tiên và những cuộc làm tình đều đặn sau này. Và trong từng hành động của người đàn ông đó, có một chi tiết mà Duras miêu tả rất kỹ lưỡng, đó là sự run rẩy của “anh” trong những lần nói về tình yêu.
Khác với sự nâng niu và né tránh của người đàn ông ba mươi mốt tuổi, Duras đã thẳng thừng từ chối ngay từ đầu: “Anh hãy làm tình với em như cách anh làm với bao người đàn bà khác”. Vì những tự sự về người tình này được viết theo ngôi thứ ba, người đọc mơ hồ cảm thấy nữ nhà văn đến với “anh” chỉ vì tiền, nhưng những trang giấy tiếp về sau đã cho thấy chuyến phà định mệnh ấy thật sự là khởi đầu cho thứ tình cảm của hai con người dễ bị tổn thương. Cô gái mới mười lăm, mang trong mình bao suy tư muộn phiền, nghĩ rằng cuộc đời thật tẻ nhạt, nhưng khi đối mặt với thứ cảm xúc dễ chịu thì không dễ tiếp nhận. Có lẽ vì vậy đến khi đánh mất cảm xúc đó, cô mới hiểu và tiếc nuối.
Những tự sự cuối cùng của nữ nhà văn
Đến mãi khi xấp trang còn lại của quyển sách đã mỏng, nhà văn mới nói nhiều hơn về chính bản thân mình, một cách trực tiếp. Duras thể hiện tình yêu của mình với người anh thứ – người anh trai luôn yêu thương cô thay vì chửi bới như người anh cả; Duras kể về nỗi ám ảnh thuở bé, kể về mẹ già bằng một chất giọng trìu mến yêu thương thay vì những vật vã giữa hai mẹ con trong kí ức ở Sa Đéc, và kể về người tình khi cả hai quyết định chia xa. Cuộc chia tay nằm trong khoảng tầm hai đến ba trang giấy cuối cùng, khi anh quay mặt đi để né tránh trong lần chào tạm biệt, và cũng tại chiếc limousine ấy mà anh chăm chú nhìn cô trên chuyến tàu trở về Pháp, và lần đầu tiên, nữ nhà văn nói về nỗi đau của mình, cô khóc. Cuối cùng, quyển sách kết thúc bằng sự liên lạc qua điện thoại của cả hai khi “hoàn cảnh” đã chẳng thể đổi thay con người thêm một lần nào nữa.
Điểm sáng: tuy “gián tiếp” nhưng mà lại “trực tiếp”
Cái hay về nghệ thuật trong “Người tình” là lối kể chuyện ngôi thứ ba không mang lại góc nhìn khách quan như định nghĩa về vai trò của nó, mà nó lại thể hiện cảm xúc chủ quan của Duras một cách rõ nét hơn. Bằng những chi tiết nhỏ bé như đồ vật trong căn phòng, bãi cỏ khô bị cháy vì nóng ở sân sau, chúng như là bằng chứng chứng minh nữ nhà văn đã mãi chẳng thể quên về “lần đầu”. Những lời tâm sự mà “anh” nói với tác giả, tất cả được khái quát chung bằng cụm từ “lời thì thầm”, những cụm từ này cứ xuất hiện mãi ở các trang sách, điều đó chứng tỏ ký ức của nữ nhà văn chẳng thể nào phai về người tình.
Bên cạnh đó, những phép so sánh đặc biệt khác như người anh thứ bất tử trong nữ nhà văn dù anh ta đã ra đi ở tuổi hai bảy, hay cách mà người đàn ông Trung Hoa yêu cô như yêu con gái, tất cả đều cho thấy sự cảm nhận sâu sắc và thấm thía của một cô gái còn đang tuổi dậy thì. Sự thay đổi ngôi kể của Duras, sự biến chuyển bất ngờ của những mẩu chuyện không theo mốc thời gian nào cả, những hình ảnh so sánh sẽ gây khó dễ cho người đọc nếu họ chưa từng trải qua cảm giác đó, tất cả đã tạo nên một “Người tình” tuyệt tác.
Nhớ mãi về một cuộc tình
Không đơn thuần chỉ là tình cảm đôi lứa nam nữ, “Người tình” đưa người đọc đến một góc nhìn khác của một gia đình người Pháp khổ sở ở Việt Nam, tâm tư của một cô gái mười lăm tuổi rưỡi chẳng thể đưa ra lựa chọn theo đúng ý mình trong cái “hoàn cảnh”. Nhưng có lẽ “Người tình” đã vẽ nên một bức tranh đẹp ở vùng Sa Đéc sông nước khó quên cho độc giả, khi mà một cô gái mười lăm tuổi rưỡi và người đàn ông ba mươi mốt tuổi yêu nhau chân thành; khi mà đằng sau một người mẹ ám ảnh và khổ đau luôn chất chứa tình thương con, và cả những hình ảnh ẩn dụ mà có lẽ người đọc khó mà lý giải được mỗi khi Duras nói về tâm trạng của mình, nhưng tất cả, sẽ ghi mãi trong tim đọc giả một cách bền chặt tựa như chúng được khắc ghi trên đá.
Gấu Mèo
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Marguerite Duras: Một người tình khắc nghiệt và thù hận
(Thethaovanhoa.vn) - Ai bảo Người tình là chuyện tình say đắm? Có người thấy trong đó một mối thù, một tình yêu thiếu thốn dịu dàng. Tự nhận là một người đàn bà khắc nghiệt, Duras cũng không hề có ý định yêu dịu dàng.
Một ngày rất nhiều con số 4: 4/4/2014, là dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nữ văn sĩ nổi tiếng nước Pháp Marguerite Duras (sinh ngày 4/4/1914). Người ta gọi bà là “Người phụ nữ của ngôn từ” của nước Pháp thế kỷ 20. Duras dành cả cuộc đời để viết ra những kiệt tác, từ tiểu thuyết đến các tiểu luận, kịch bản phim. Bà từng nói: “Đàn ông thích phụ nữ biết viết văn, dù họ không nói thế. Mỗi nhà văn là một đất nước khác”.
Tác giả và linh hồn của Người tình
Một người đàn bà cung Bạch Dương. Đàn bà Bạch Dương điển hình yêu rất mãnh liệt, riêng Duras viết cũng mãnh liệt. Và rất Pháp. Tờ Independent viết về bà “nhân vật mâu thuẫn nhất và ở vài khía cạnh nào đó, hư hỏng nhất, trong bối cảnh văn học ở Paris thời hậu chiến”.
Bà sinh ra ở Việt Nam, rời xứ sở xa xôi này để trở về quê mẹ Pháp năm 17 tuổi nhưng tâm hồn vẫn hướng về quãng đời ngấp nghé giữa niên thiếu và trưởng thành ở Việt Nam. Quãng đời này được khắc họa trong tiểu thuyết mang dáng dấp tự truyện tiêu biểu nhất của bà, Người tình (tiếng Pháp L’Amant, tiếng Anh The Lover).
Marguerite Duras xinh đẹp thuở thiếu thời
Cuốn sách không chỉ mang về cho Duras giải Goncourt danh giá của văn học Pháp, mà còn được in hơn 3 triệu bản, dịch ra hơn 40 thứ tiếng và được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên Pháp nổi tiếng không kém. Phim quay tại Việt Nam năm 1986.
Duras là người trộn lẫn sự thật và hư cấu vào nhau trong văn chương một cách huyền ảo, đến nỗi gây ra nhiều tranh cãi bàn luận mãi sau này về chuyện đâu là thực, đâu là hư. Chính bà nhận mình là nguyên mẫu nhân vật nữ trong Người tình, cô gái 15 tuổi rưỡi rơi vào cuộc tình bỏng cháy như lửa với người đàn ông Trung Hoa 27 tuổi giàu có, mà nguyên mẫu được cho là công tử Huỳnh Thủy Lê (người Việt gốc Hoa) ở Đồng Tháp, những năm đầu thế kỷ 20. Bà không đặt tên cho họ, gọi họ là “cô gái” và “người đàn ông”, là “nàng” và “chàng”.
Nếu người đọc bối rối vì sự lẫn lộn thực tế - hư cấu trong cuốn sách thì bản thân Duras cũng vậy. Bà từng thừa nhận chìm đắm vào tác phẩm đến nỗi không còn phân biệt được rạch ròi thực hư. Người tình là tác phẩm thứ 48, ra mắt năm Duras đã 70 tuổi, vậy mà văn chương vẫn đầy rạo rực như thuở thiếu thời.
“Nàng nói, em muốn thà anh đừng yêu em. Nhưng nếu anh yêu em, anh hãy hành động như anh vẫn thường làm với đàn bà”. Người tình 27 tuổi cũng phải sửng sốt vì nàng thiếu nữ đó. Tính cách đó có thể có ở Duras năm 17 tuổi, hoặc 70 tuổi, hoặc được vun đắp trong suốt những năm tháng ở giữa. Tiểu thuyết tên là Người tình, để chỉ nhân vật nam, nhưng nhân vật nữ lại ấn tượng hơn hẳn và như là linh hồn của cuốn sách.
Người đàn bà “bị tàn phá”
Khó có thể quên những dòng mở đầu ấn tượng của Người tình, khi Duras không ngần ngại mô tả bản thân mình khi về già như sau: “Một ngày nọ, khi tôi đã già, một người đàn ông tiến đến bên tôi, ở lối vào một nơi công cộng. Ông ta tự giới thiệu mình, rồi nói: “Tôi biết bà nhiều năm rồi. Ai cũng nói khi còn trẻ bà rất xinh đẹp, nhưng tôi muốn nói với bà rằng tôi thấy bà hiện giờ còn xinh đẹp hơn thời ấy nữa. Tôi yêu thích khuôn mặt bà lúc này hơn là khuôn mặt bà khi còn thiếu nữ. Một khuôn mặt bị tàn phá”.
Khi viết về Duras vào đầu năm 1991, khi bà đã 77 tuổi, tờ New York Times nhận định tình yêu trong sách của bà hướng về sự hủy hoại và cái chết. Một cách diễn đạt khác của nét “bị tàn phá” mà người đàn ông nọ đã nhìn ra. “Anh hủy hoại em. Anh thật tử tế với em” - lời nhân vật nữ trong Hiroshima, tình yêu của tôi. Để tổng kết sự nghiệp văn học và điện ảnh hàng chục năm đầy thành tựu của bà, cũng đơn giản thôi: bà dùng ngôn ngữ để truyền tải niềm đam mê và khao khát, nỗi đau và sự tuyệt vọng.
Bí ẩn của tình yêu và tình dục làm bà mê mẩn, nhưng các tác phẩm của bà thiếu thốn tình cảm, cũng chính tờ báo đó (New York Times) viết như vậy khi bà qua đời vào năm 1996. Trong cuộc đời bà cũng vậy, không giàu tình cảm. Tại sao có mâu thuẫn này? Duras từng nói trong một cuộc phỏng vấn năm 1990: “Tôi viết về tình yêu, ừ đúng thế, nhưng không phải về sự dịu dàng”. “Tôi không thích những người dịu dàng. Bản thân tôi là người khắc nghiệt. Khi tôi yêu ai đó, tôi khao khát họ. Nhưng sự dịu dàng sẽ phá hỏng khao khát”. Đàn bà Bạch Dương điển hình không được biết đến với sự dịu dàng, họ nổi tiếng vì tính cách quyết liệt, như Scarlett O’Hara trong Cuốn theo chiều gió. Và đúng như Duras nói, khi yêu, họ khao khát.
Cuối đời, Duras viết tiểu thuyết The North Chinese Man (Người tình Hoa Bắc), được coi là viết mới về câu chuyện trong Người tình. Bà đặt bút viết Người tình Hoa Bắc sau khi ông Huỳnh Thủy Lê qua đời. Tác phẩm này cũng đã được xuất bản ở Việt Nam, dù không nổi tiếng bằng Người tình.
Một trong những tiết lộ kinh hoàng của Người tình Hoa Bắc là quan hệ loạn luân giữa Duras và 2 người anh em trai. Bà yêu thương tha thiết em trai Paulo, người bị tự kỷ, còn người anh Pierre là kẻ bạo lực. Những câu chữ mơ hồ mà đầy sức gợi trong cuốn sách cho thấy Duras và Paulo đã có quan hệ thể xác. Còn Pierre, bà căm ghét đến mức bộc lộ ham muốn giết chết người anh này. Khi Paulo chết, bà đau đớn đến muốn tự tử. Hai thứ tình cảm mâu thuẫn dày vò tâm hồn cô gái trẻ, góp phần biến bà thành một nữ văn sĩ vô cùng độc đáo của thế kỷ 20.
Tình hay là thù?
Nhiều người say đắm Người tình như một chuyện tình bất hủ, cũng có người nhìn vào đó và chỉ thấy một cô gái - người đàn bà đầy nguy hiểm. Yêu người đàn ông đó, cô gái có tiền để cứu gia đình khỏi cảnh bần hàn. “Nếu yêu anh là sai thì em không muốn đúng” - nàng có thể nói thế nhưng thực tế tình yêu đó là điều cần làm cho gia đình nàng.
Sau này, người tình rời bỏ nàng. Bố chàng trả tiền cho nàng để trở về Pháp, đi khỏi cuộc đời của chàng. Người tình, có thể là một cuộc trả thù bằng ngôn từ của Duras. Viết cuốn sách, bà có tiền và danh tiếng, đều khổng lồ. “Có lẽ, khi đang sống trong mối tình đó, trong đầu bà đã chọn lọc từ ngữ để sau này kể lại câu chuyện” - cuốn tiểu sử Marguerite Duras: A Life của tác giả Laure Adler viết.
Trên thế giới bây giờ, nhiều người, hẳn là yêu văn học, vẫn nhìn Việt Nam bằng đôi mắt của Marguerite Duras. Họ nhìn Sài Gòn như một mảnh đất của những cuộc tình phiêu lưu say đắm, mỗi góc phố mỗi con ngõ đều có khách sạn hoặc nhà nghỉ. “Những gì xảy ra ở Sài Gòn, ai cũng biết, sẽ vĩnh viễn ở lại với Sài Gòn” - một bài báo du lịch trên New York Times.
Một Việt Nam như vậy, chưa nói là đẹp hay xấu, nhưng lãng mạn hơn hình tượng “đất nước của chiến tranh”.
Mi Ly
(Thethaovanhoa.vn) - Ai bảo Người tình là chuyện tình say đắm? Có người thấy trong đó một mối thù, một tình yêu thiếu thốn dịu dàng. Tự nhận là một người đàn bà khắc nghiệt, Duras cũng không hề có ý định yêu dịu dàng.
Một ngày rất nhiều con số 4: 4/4/2014, là dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nữ văn sĩ nổi tiếng nước Pháp Marguerite Duras (sinh ngày 4/4/1914). Người ta gọi bà là “Người phụ nữ của ngôn từ” của nước Pháp thế kỷ 20. Duras dành cả cuộc đời để viết ra những kiệt tác, từ tiểu thuyết đến các tiểu luận, kịch bản phim. Bà từng nói: “Đàn ông thích phụ nữ biết viết văn, dù họ không nói thế. Mỗi nhà văn là một đất nước khác”.
Tác giả và linh hồn của Người tình
Một người đàn bà cung Bạch Dương. Đàn bà Bạch Dương điển hình yêu rất mãnh liệt, riêng Duras viết cũng mãnh liệt. Và rất Pháp. Tờ Independent viết về bà “nhân vật mâu thuẫn nhất và ở vài khía cạnh nào đó, hư hỏng nhất, trong bối cảnh văn học ở Paris thời hậu chiến”.
Bà sinh ra ở Việt Nam, rời xứ sở xa xôi này để trở về quê mẹ Pháp năm 17 tuổi nhưng tâm hồn vẫn hướng về quãng đời ngấp nghé giữa niên thiếu và trưởng thành ở Việt Nam. Quãng đời này được khắc họa trong tiểu thuyết mang dáng dấp tự truyện tiêu biểu nhất của bà, Người tình (tiếng Pháp L’Amant, tiếng Anh The Lover).
Marguerite Duras xinh đẹp thuở thiếu thời
Cuốn sách không chỉ mang về cho Duras giải Goncourt danh giá của văn học Pháp, mà còn được in hơn 3 triệu bản, dịch ra hơn 40 thứ tiếng và được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên Pháp nổi tiếng không kém. Phim quay tại Việt Nam năm 1986.
Duras là người trộn lẫn sự thật và hư cấu vào nhau trong văn chương một cách huyền ảo, đến nỗi gây ra nhiều tranh cãi bàn luận mãi sau này về chuyện đâu là thực, đâu là hư. Chính bà nhận mình là nguyên mẫu nhân vật nữ trong Người tình, cô gái 15 tuổi rưỡi rơi vào cuộc tình bỏng cháy như lửa với người đàn ông Trung Hoa 27 tuổi giàu có, mà nguyên mẫu được cho là công tử Huỳnh Thủy Lê (người Việt gốc Hoa) ở Đồng Tháp, những năm đầu thế kỷ 20. Bà không đặt tên cho họ, gọi họ là “cô gái” và “người đàn ông”, là “nàng” và “chàng”.
Nếu người đọc bối rối vì sự lẫn lộn thực tế - hư cấu trong cuốn sách thì bản thân Duras cũng vậy. Bà từng thừa nhận chìm đắm vào tác phẩm đến nỗi không còn phân biệt được rạch ròi thực hư. Người tình là tác phẩm thứ 48, ra mắt năm Duras đã 70 tuổi, vậy mà văn chương vẫn đầy rạo rực như thuở thiếu thời.
“Nàng nói, em muốn thà anh đừng yêu em. Nhưng nếu anh yêu em, anh hãy hành động như anh vẫn thường làm với đàn bà”. Người tình 27 tuổi cũng phải sửng sốt vì nàng thiếu nữ đó. Tính cách đó có thể có ở Duras năm 17 tuổi, hoặc 70 tuổi, hoặc được vun đắp trong suốt những năm tháng ở giữa. Tiểu thuyết tên là Người tình, để chỉ nhân vật nam, nhưng nhân vật nữ lại ấn tượng hơn hẳn và như là linh hồn của cuốn sách.
Người đàn bà “bị tàn phá”
Khó có thể quên những dòng mở đầu ấn tượng của Người tình, khi Duras không ngần ngại mô tả bản thân mình khi về già như sau: “Một ngày nọ, khi tôi đã già, một người đàn ông tiến đến bên tôi, ở lối vào một nơi công cộng. Ông ta tự giới thiệu mình, rồi nói: “Tôi biết bà nhiều năm rồi. Ai cũng nói khi còn trẻ bà rất xinh đẹp, nhưng tôi muốn nói với bà rằng tôi thấy bà hiện giờ còn xinh đẹp hơn thời ấy nữa. Tôi yêu thích khuôn mặt bà lúc này hơn là khuôn mặt bà khi còn thiếu nữ. Một khuôn mặt bị tàn phá”.
Khi viết về Duras vào đầu năm 1991, khi bà đã 77 tuổi, tờ New York Times nhận định tình yêu trong sách của bà hướng về sự hủy hoại và cái chết. Một cách diễn đạt khác của nét “bị tàn phá” mà người đàn ông nọ đã nhìn ra. “Anh hủy hoại em. Anh thật tử tế với em” - lời nhân vật nữ trong Hiroshima, tình yêu của tôi. Để tổng kết sự nghiệp văn học và điện ảnh hàng chục năm đầy thành tựu của bà, cũng đơn giản thôi: bà dùng ngôn ngữ để truyền tải niềm đam mê và khao khát, nỗi đau và sự tuyệt vọng.
Bí ẩn của tình yêu và tình dục làm bà mê mẩn, nhưng các tác phẩm của bà thiếu thốn tình cảm, cũng chính tờ báo đó (New York Times) viết như vậy khi bà qua đời vào năm 1996. Trong cuộc đời bà cũng vậy, không giàu tình cảm. Tại sao có mâu thuẫn này? Duras từng nói trong một cuộc phỏng vấn năm 1990: “Tôi viết về tình yêu, ừ đúng thế, nhưng không phải về sự dịu dàng”. “Tôi không thích những người dịu dàng. Bản thân tôi là người khắc nghiệt. Khi tôi yêu ai đó, tôi khao khát họ. Nhưng sự dịu dàng sẽ phá hỏng khao khát”. Đàn bà Bạch Dương điển hình không được biết đến với sự dịu dàng, họ nổi tiếng vì tính cách quyết liệt, như Scarlett O’Hara trong Cuốn theo chiều gió. Và đúng như Duras nói, khi yêu, họ khao khát.
Cuối đời, Duras viết tiểu thuyết The North Chinese Man (Người tình Hoa Bắc), được coi là viết mới về câu chuyện trong Người tình. Bà đặt bút viết Người tình Hoa Bắc sau khi ông Huỳnh Thủy Lê qua đời. Tác phẩm này cũng đã được xuất bản ở Việt Nam, dù không nổi tiếng bằng Người tình.
Một trong những tiết lộ kinh hoàng của Người tình Hoa Bắc là quan hệ loạn luân giữa Duras và 2 người anh em trai. Bà yêu thương tha thiết em trai Paulo, người bị tự kỷ, còn người anh Pierre là kẻ bạo lực. Những câu chữ mơ hồ mà đầy sức gợi trong cuốn sách cho thấy Duras và Paulo đã có quan hệ thể xác. Còn Pierre, bà căm ghét đến mức bộc lộ ham muốn giết chết người anh này. Khi Paulo chết, bà đau đớn đến muốn tự tử. Hai thứ tình cảm mâu thuẫn dày vò tâm hồn cô gái trẻ, góp phần biến bà thành một nữ văn sĩ vô cùng độc đáo của thế kỷ 20.
Tình hay là thù?
Nhiều người say đắm Người tình như một chuyện tình bất hủ, cũng có người nhìn vào đó và chỉ thấy một cô gái - người đàn bà đầy nguy hiểm. Yêu người đàn ông đó, cô gái có tiền để cứu gia đình khỏi cảnh bần hàn. “Nếu yêu anh là sai thì em không muốn đúng” - nàng có thể nói thế nhưng thực tế tình yêu đó là điều cần làm cho gia đình nàng.
Sau này, người tình rời bỏ nàng. Bố chàng trả tiền cho nàng để trở về Pháp, đi khỏi cuộc đời của chàng. Người tình, có thể là một cuộc trả thù bằng ngôn từ của Duras. Viết cuốn sách, bà có tiền và danh tiếng, đều khổng lồ. “Có lẽ, khi đang sống trong mối tình đó, trong đầu bà đã chọn lọc từ ngữ để sau này kể lại câu chuyện” - cuốn tiểu sử Marguerite Duras: A Life của tác giả Laure Adler viết.
Trên thế giới bây giờ, nhiều người, hẳn là yêu văn học, vẫn nhìn Việt Nam bằng đôi mắt của Marguerite Duras. Họ nhìn Sài Gòn như một mảnh đất của những cuộc tình phiêu lưu say đắm, mỗi góc phố mỗi con ngõ đều có khách sạn hoặc nhà nghỉ. “Những gì xảy ra ở Sài Gòn, ai cũng biết, sẽ vĩnh viễn ở lại với Sài Gòn” - một bài báo du lịch trên New York Times.
Một Việt Nam như vậy, chưa nói là đẹp hay xấu, nhưng lãng mạn hơn hình tượng “đất nước của chiến tranh”.
Mi Ly
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Đọc Người Tình của Marguerite Duras*
Nguyễn Hà - voatiengviet
Tôi tìm đọc Người Tình của Marguerite Duras sau khi tôi xem phim vì tò mò muốn xem bà đã viết về tình dục như thế nào mà đạo diễn Jean-Jacques Annaud đã diễn dịch thành những khúc phim khiêu dâm bốc lửa như thế. Thật ra, Marguerite Duras không nặng tay với tình dục. Bà có cách viết kín đáo, gợi hình nhưng không tục tằn. Hai ba trang viết về tình dục gợi cảm nhất lại là những trang bà nói về cô bạn gái Hélène Lagonelle.
Nhà văn Mai Thảo khi viết bài nhận định về quyển Người Tình đã khen nghệ thuật xử dụng từ ngữ độc đáo của bà Duras. Ông viết: Tuy vậy tôi nghĩ văn chương tiểu thuyết của Duras vẫn còn nhiều điểm tinh lọc nằm tiềm ẩn và vô hình giữa hai hàng chữ, gọi đó là những "vùng im lặng" ghê gớm của ngôn ngữ Duras mà tôi chưa thấy được hết.” Nghe ông bảo thế tôi càng muốn đi tìm cái khoảng lặng này.
Văn của bà chất chứa quan niệm sống của một người từng trải. Gói ghém trong Người Tình là quan niệm về vẻ đẹp và cái hấp dẫn của người phụ nữ, cái thèm muốn được tự do sống theo ý thích cá nhân, thoát khỏi những ràng buộc của xã hội phong kiến, và những bước dọ dẫm của một cô bé mới bắt đầu lớn đi tìm tình yêu mà không biết tình yêu có hình dáng như thế nào. Bút pháp của bà rất điêu luyện. Marguerite Duras nổi tiếng về cách viết cố ý mập mờ. Bà bỏ bớt chi tiết để người đọc phải tự đoán, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Viết về một cô gái mười lăm tuổi rưỡi bắt đầu khám phá cái đam mê của xác thịt với một người đàn ông lớn hơn cô 12 tuổi, một thứ Lolita của Nabokov, bà không nhấn mạnh đến vẻ trẻ đẹp, hồn nhiên, hay tươi mát. Trái lại, bà nói về vẻ cằn cỗi của một tâm hồn già trước tuổi. Cô gái không ngây thơ như thiên thần. Cô chủ động, toan tính, luôn giữ vẻ xa cách, không phủ nhận là cô chỉ ngủ với anh vì tiền, dù thật sự là không phải chỉ vì tiền. Cũng qua cách viết mập mờ bà đưa độc giả vào một vài khu vực cấm kỵ của luân lý và đạo đức. Cô bé Marguerite đặc biệt yêu mến và bảo vệ người anh thứ nhì và thù ghét người anh cả. Đạo diễn Annaud dùng cái màn khiêu vũ của cô bé với người anh thứ nhì để gieo sự nghi ngờ là hai anh em có quan hệ khác thường. Loạn luân chẳng hạn. Bà nhẹ nhàng hơn, mù mờ hơn. Tuy thế vẫn đủ gợi lên trong óc độc giả một vài dấu hỏi. Còn người anh cả, hắn đã làm gì với người anh thứ hai. Xem chừng hắn là mẫu người dám làm tất cả những việc gì cho dẫu tồi bại hay tàn ác. Bạn hãy tiếp tục tưởng tượng và tự tìm câu trả lời.
Tất cả những nhân vật trong Người Tình đều mang một tâm lý bất ổn. Cả bà mẹ và ba người con đều mang mặc cảm vừa tự tôn vừa tự ti. Họ tự tôn vì họ là người da trắng thuộc về giai cấp thống trị. Họ tự ti vì nghèo. Cô bé mười lăm tuổi thiếu vắng tình yêu của cha thường thay thế sự thiếu hụt này bằng tình cảm của người đàn ông nhiều tuổi hơn. Một biến đổi của triệu chứng Oedipus. Cô gái trẻ tuy thông minh nhưng không có phương tiện và khả năng để vượt thoát cảnh nghèo. Người tình là phương tiện tài chính của cô. Bà mẹ rơi vào chứng trầm cảm vì thằng con cả của bà nghiện ngập và cờ bạc đến khánh tận gia sản đã đẩy cả gia đình vào chỗ nghèo đói. Thằng con thứ hai yếu đuối bạc nhược về tinh thần. Cái liên hệ của cô gái và hai người anh trai, và cái quan hệ của hai người anh là cái mà nhà văn Mai Thảo đã gọi là khoảng lặng.
Tình yêu qua ngọn bút của Duras không phải là tình yêu hạnh phúc. Trong mắt nhìn của xã hội và của chính hai đương sự đương thời đó chỉ là mối quan hệ tình dục. Với cô bé Marguerite kèm theo tình dục là sự nhục nhã vì cô làm tình để lấy tiền. Cô còn nhục nhã vì Người Tình không cùng giai cấp với cô mặc dù anh được hấp thụ nền học vấn Tây phương, dù anh là con của một ông nhà giàu có thế lực nhất nhì ở miền Nam Việt Nam trong những năm đầu thập niên ba mươi, dù anh có cử chỉ lịch thiệp, dáng dấp thanh nhã. Cô nhục nhã vì bố của Người Tình không chấp nhận cô điếm tí hon người da trắng làm vợ của con ông. Anh chàng người Hoa bị mẹ và hai người anh của Marguerite khinh rẻ dù họ chẳng có gì để hãnh diện ngoài cái màu da. Mối tình của Marguerite với Người Tình vào những năm ba mươi ở Việt Nam có lẽ là một xì căng đan chẳng khác gì chuyện tình của một cô gái da trắng với một người nô lệ da đen ở Mỹ. Cái nhìn của cô bé mười lăm tuổi Marguerite trong cuộc tình với người đàn ông lớn tuổi hơn, cho tôi cảm tưởng tôi đang đọc tư tưởng của Lolita khi bắt đầu khám phá tình dục.
Bà giáo người Pháp, mẹ của Marguerite, chinh phục tình cảm tôi vì tôi nhìn thấy ở bà hình ảnh một bà mẹ Việt Nam đáng thương. Bà kiệt sức nuôi ba đứa con, đứa thì cờ bạc nghiện ngập làm bà tán gia bại sản, đứa thì hư hỏng, và đứa thì yếu hèn. Bà và các con là những người di dân sống lạc lõng trong một xã hội không mấy thiện cảm với gia đình bà mặc dù bà đã cố gắng hòa đồng với người chung quanh.
* Bản dịch tiếng Anh của Barbara Bray
Về Marguerite Duras
Marguerite Duras tên thật là Margaret Donnadieu sinh ngày 4 tháng Tư năm 1914 và mất ngày 3 tháng Ba nắm 1996. Bà là nhà văn kiêm đạo diễn của Pháp. Ra đời ở Gia Định, Việt Nam, năm 17 tuổi bà trở về Pháp học Luật. Sau khi tốt nghiệp Luật có một thời gian bà tham gia đảng Cộng sản Pháp. Ngày còn ở VN bà có yêu một người Việt gốc Hoa và chuyện tình này xuất hiện trong một vài tác phẩm của bà với nhiều chi tiết trái ngược nhau. Tác phẩm Người Tình được xem là một quyển tự thuật về cuộc đời của bà. Người Tình được giải thưởng Prix Goncourt năm 1984.
Nguyễn Hà - voatiengviet
Tôi tìm đọc Người Tình của Marguerite Duras sau khi tôi xem phim vì tò mò muốn xem bà đã viết về tình dục như thế nào mà đạo diễn Jean-Jacques Annaud đã diễn dịch thành những khúc phim khiêu dâm bốc lửa như thế. Thật ra, Marguerite Duras không nặng tay với tình dục. Bà có cách viết kín đáo, gợi hình nhưng không tục tằn. Hai ba trang viết về tình dục gợi cảm nhất lại là những trang bà nói về cô bạn gái Hélène Lagonelle.
Nhà văn Mai Thảo khi viết bài nhận định về quyển Người Tình đã khen nghệ thuật xử dụng từ ngữ độc đáo của bà Duras. Ông viết: Tuy vậy tôi nghĩ văn chương tiểu thuyết của Duras vẫn còn nhiều điểm tinh lọc nằm tiềm ẩn và vô hình giữa hai hàng chữ, gọi đó là những "vùng im lặng" ghê gớm của ngôn ngữ Duras mà tôi chưa thấy được hết.” Nghe ông bảo thế tôi càng muốn đi tìm cái khoảng lặng này.
Văn của bà chất chứa quan niệm sống của một người từng trải. Gói ghém trong Người Tình là quan niệm về vẻ đẹp và cái hấp dẫn của người phụ nữ, cái thèm muốn được tự do sống theo ý thích cá nhân, thoát khỏi những ràng buộc của xã hội phong kiến, và những bước dọ dẫm của một cô bé mới bắt đầu lớn đi tìm tình yêu mà không biết tình yêu có hình dáng như thế nào. Bút pháp của bà rất điêu luyện. Marguerite Duras nổi tiếng về cách viết cố ý mập mờ. Bà bỏ bớt chi tiết để người đọc phải tự đoán, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Viết về một cô gái mười lăm tuổi rưỡi bắt đầu khám phá cái đam mê của xác thịt với một người đàn ông lớn hơn cô 12 tuổi, một thứ Lolita của Nabokov, bà không nhấn mạnh đến vẻ trẻ đẹp, hồn nhiên, hay tươi mát. Trái lại, bà nói về vẻ cằn cỗi của một tâm hồn già trước tuổi. Cô gái không ngây thơ như thiên thần. Cô chủ động, toan tính, luôn giữ vẻ xa cách, không phủ nhận là cô chỉ ngủ với anh vì tiền, dù thật sự là không phải chỉ vì tiền. Cũng qua cách viết mập mờ bà đưa độc giả vào một vài khu vực cấm kỵ của luân lý và đạo đức. Cô bé Marguerite đặc biệt yêu mến và bảo vệ người anh thứ nhì và thù ghét người anh cả. Đạo diễn Annaud dùng cái màn khiêu vũ của cô bé với người anh thứ nhì để gieo sự nghi ngờ là hai anh em có quan hệ khác thường. Loạn luân chẳng hạn. Bà nhẹ nhàng hơn, mù mờ hơn. Tuy thế vẫn đủ gợi lên trong óc độc giả một vài dấu hỏi. Còn người anh cả, hắn đã làm gì với người anh thứ hai. Xem chừng hắn là mẫu người dám làm tất cả những việc gì cho dẫu tồi bại hay tàn ác. Bạn hãy tiếp tục tưởng tượng và tự tìm câu trả lời.
Tất cả những nhân vật trong Người Tình đều mang một tâm lý bất ổn. Cả bà mẹ và ba người con đều mang mặc cảm vừa tự tôn vừa tự ti. Họ tự tôn vì họ là người da trắng thuộc về giai cấp thống trị. Họ tự ti vì nghèo. Cô bé mười lăm tuổi thiếu vắng tình yêu của cha thường thay thế sự thiếu hụt này bằng tình cảm của người đàn ông nhiều tuổi hơn. Một biến đổi của triệu chứng Oedipus. Cô gái trẻ tuy thông minh nhưng không có phương tiện và khả năng để vượt thoát cảnh nghèo. Người tình là phương tiện tài chính của cô. Bà mẹ rơi vào chứng trầm cảm vì thằng con cả của bà nghiện ngập và cờ bạc đến khánh tận gia sản đã đẩy cả gia đình vào chỗ nghèo đói. Thằng con thứ hai yếu đuối bạc nhược về tinh thần. Cái liên hệ của cô gái và hai người anh trai, và cái quan hệ của hai người anh là cái mà nhà văn Mai Thảo đã gọi là khoảng lặng.
Tình yêu qua ngọn bút của Duras không phải là tình yêu hạnh phúc. Trong mắt nhìn của xã hội và của chính hai đương sự đương thời đó chỉ là mối quan hệ tình dục. Với cô bé Marguerite kèm theo tình dục là sự nhục nhã vì cô làm tình để lấy tiền. Cô còn nhục nhã vì Người Tình không cùng giai cấp với cô mặc dù anh được hấp thụ nền học vấn Tây phương, dù anh là con của một ông nhà giàu có thế lực nhất nhì ở miền Nam Việt Nam trong những năm đầu thập niên ba mươi, dù anh có cử chỉ lịch thiệp, dáng dấp thanh nhã. Cô nhục nhã vì bố của Người Tình không chấp nhận cô điếm tí hon người da trắng làm vợ của con ông. Anh chàng người Hoa bị mẹ và hai người anh của Marguerite khinh rẻ dù họ chẳng có gì để hãnh diện ngoài cái màu da. Mối tình của Marguerite với Người Tình vào những năm ba mươi ở Việt Nam có lẽ là một xì căng đan chẳng khác gì chuyện tình của một cô gái da trắng với một người nô lệ da đen ở Mỹ. Cái nhìn của cô bé mười lăm tuổi Marguerite trong cuộc tình với người đàn ông lớn tuổi hơn, cho tôi cảm tưởng tôi đang đọc tư tưởng của Lolita khi bắt đầu khám phá tình dục.
Bà giáo người Pháp, mẹ của Marguerite, chinh phục tình cảm tôi vì tôi nhìn thấy ở bà hình ảnh một bà mẹ Việt Nam đáng thương. Bà kiệt sức nuôi ba đứa con, đứa thì cờ bạc nghiện ngập làm bà tán gia bại sản, đứa thì hư hỏng, và đứa thì yếu hèn. Bà và các con là những người di dân sống lạc lõng trong một xã hội không mấy thiện cảm với gia đình bà mặc dù bà đã cố gắng hòa đồng với người chung quanh.
* Bản dịch tiếng Anh của Barbara Bray
Về Marguerite Duras
Marguerite Duras tên thật là Margaret Donnadieu sinh ngày 4 tháng Tư năm 1914 và mất ngày 3 tháng Ba nắm 1996. Bà là nhà văn kiêm đạo diễn của Pháp. Ra đời ở Gia Định, Việt Nam, năm 17 tuổi bà trở về Pháp học Luật. Sau khi tốt nghiệp Luật có một thời gian bà tham gia đảng Cộng sản Pháp. Ngày còn ở VN bà có yêu một người Việt gốc Hoa và chuyện tình này xuất hiện trong một vài tác phẩm của bà với nhiều chi tiết trái ngược nhau. Tác phẩm Người Tình được xem là một quyển tự thuật về cuộc đời của bà. Người Tình được giải thưởng Prix Goncourt năm 1984.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG
Nam bộ đầu thế kỷ 20 qua tiểu thuyết Người tình của Marguerite Duras
NGUYỄN THỊ TUYẾT
Cuộc đời của Marguerite Duras (1914 - 1996) gần như ôm trọn thế kỷ hai mươi đầy biến động, và tác phẩm của bà, dù thuộc loại hình nghệ thuật nào (văn chương, kịch bản phim, sân khấu), cũng góp phần diễn giải về thời đại bà sống và viết.
Nam bộ đầu thế kỷ 20 qua tiểu thuyết Người tình của Marguerite Duras
Ảnh: internet
Sinh ra và lớn lên ở Gia Định (Sài Gòn), suốt mười tám năm đầu đời đã để lại nhiều ký ức khó phai về mảnh đất Đông Dương thuộc Pháp, không chỉ đối với đời sống tư tưởng tình cảm mà còn với mạch nguồn sáng tạo cho văn chương của bà. Vùng không gian tuổi thơ ấy trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của bà như Một con đập ngăn Thái Bình Dương (1950), Người tình (1984) và Người tình Hoa Bắc (1991). Trong đó, tác phẩm mang tính chất hồi ký Người tình đã phản ánh nhiều vấn đề của chủ nghĩa thực dân hiện đại, từ câu chuyện tình yêu của cô gái da trắng mười lăm tuổi rưỡi và chàng trai gốc Hoa hai mươi bảy tuổi, thoát thai từ mối tình đầu của Duras và thương gia Huỳnh Thủy Lê. Vết tích của mối tình ấy còn được lưu dấu tại ngôi nhà cổ gần một trăm ba mươi tuổi tại Sa Đéc, Đồng Tháp. Ngày nay, ngôi nhà ấy là điểm tham quan du lịch nổi tiếng, chứng tích của câu chuyện tình buồn, chứng tích của lịch sử dân tộc, thời thuộc Pháp.
Người tình (L’Amant) lần đầu tiên xuất bản ở Pháp năm 1984 và trở thành một hiện tượng văn học thế giới, khi nó nhanh chóng được dịch ra 43 thứ tiếng và tiêu thụ hơn 2,4 triệu bản. Đặc biệt, cuốn tiểu thuyết mang tính chất hồi ký này đã phá vỡ quy định của hội đồng trao giải thưởng Goncourt, giải thưởng danh giá nhất về văn chương ở Pháp, ngay trong năm xuất bản, với tiêu chí tìm kiếm gương mặt mới tài năng thì “gương mặt mới” bảy mươi tuổi ấy (1914 - 1984) đã có kinh nghiệm bốn mươi năm cầm bút. Tác phẩm được đạo diễn nổi tiếng người Pháp, Jean-Jacques Annaud (1943) chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1990, làm cho cuốn tiểu thuyết càng được biết đến rộng rãi hơn.
Cha mẹ của Duras là Henri Donnadieu và Marie Donnadieu, đến Đông Dương với khát vọng làm lại cuộc đời (họ đến với nhau sau thất bại trong cuộc hôn nhân đầu tiên), song khát vọng đó sớm rơi vào tuyệt vọng, ông Henri mắc bệnh kiết lỵ và qua đời năm 1918, khi nhà văn tương lai lên bốn tuổi. Một mình bà Marie bám trụ lại chốn thuộc địa này với đồng lương giáo viên tiểu học eo hẹp để nuôi dạy ba đứa con khôn lớn. Nhưng bất hạnh thay, đứa con trai cả thì nghiện ngập, đứa trai thứ thì yếu đuối và sai lầm nữa, khi bà dồn tiền mua mảnh đất không thể canh tác, ở Prey Nop ven Vịnh Thái Lan, mặc dù bà đã nỗ lực xây bức tường (nhiều lần) ngăn nước biển tràn vào đất trồng trọt… Cuộc sống chốn thuộc địa đã bào mòn sức khỏe, trí tuệ, tinh thần bà Marie; từ một người đầy đam mê và khát vọng, bà trở nên mòn mỏi và điên loạn. Bi kịch gia đình ấy là nỗi ám ảnh tuổi thơ Duras, đồng thời, đó cũng là văn liệu quan trọng góp phần hình thành nên thế giới nghệ thuật của nhà văn. Người tình là tác phẩm xuất sắc, chứa đựng những bi kịch tình yêu, gia đình, thời đại chốn thuộc địa, từ điểm nhìn bên trong của một thiếu nữ Pháp mười lăm tuổi rưỡi, điểm nhìn ấy di động, chồng chéo tâm sự của một bà già bảy mươi. Tác phẩm là bức tranh ấn tượng về Nam Bộ đầu thế kỷ 20, đặc biệt, qua từng góc quay của bộ phim cùng tên, bức tranh ấy lại rực rỡ, chân thực hơn bội phần. Đó là bức tranh sông nước mênh mông in đậm văn hóa con người Việt và khung cảnh phố người Hoa rực rỡ, hoa lệ ở Chợ Lớn, giữa lòng Sài Gòn, nơi quần cư của thương nhân gốc Hoa, thời Pháp thuộc.
1. Văn hóa sông nước
Sông nước trở thành nét riêng biệt trong địa hình Nam Bộ và hình thành nên đặc thù văn hóa của vùng đất này. Hệ thống sông ngòi dày đặc vừa hình thành nên hệ thống giao thông đường thủy quan trọng, vừa quy định không gian cư trú, đời sống văn hóa của người dân nơi đây: Không đi thì nhớ thì thương/ Đi thì lại mắc cái mương cái cầu (Ca dao). Vì vậy, gọi đò, xuôi thuyền, qua phà hay chợ nổi,… là những cách ứng phó với thiên nhiên, với sông nước của người dân nơi đây. Nó đã đi vào lời ăn tiếng nói, như một duyên cớ, một không gian văn hóa để con người bày tỏ nỗi lòng: Chiều qua phà Hậu Giang tiếng ai nhắc kỷ niệm xưa/ Tiếng ca gợi trong tim bao nhiêu niềm đau chưa lãng quên (Chiều qua phà Hậu Giang - Trịnh Lâm Ngân). Mở đầu tác phẩm của Duras là cảnh một cô gái Pháp bần hàn nhưng cá tính, mang niềm kiêu hãnh bị tổn thương, đứng hờ hững tựa vào lan can trên chuyến phà Sa Đéc - Vĩnh Long. Chuyến phà ồn ào, đông nghịt ấy làm nền, nổi bật lên cô gái da trắng và chiếc xe Limousine đen sang trọng của anh chàng người Hoa. Và cũng từ đây mở ra câu chuyện tình nóng bỏng của hai thân xác, bi kịch của hai tâm hồn.
Không-thời gian qua phà trên sông Mê Kông trở nên ngưng đọng và là sự kiện duy nhất trong tác phẩm trở đi trở lại như một nguyên cớ để nhân vật bộc lộ cảm xúc: “Tôi mười lăm tuổi rưỡi. Trên chuyến phà qua sông Cửu Long. Cái hình ảnh kéo dài suốt chuyến qua sông” (Chương 1). Một cô gái da trắng xinh đẹp có mặt sáng sớm trên chuyến phà bản xứ “thật là cả một sự ngạc nhiên” (Chương 9). Và dường như những năm tháng sau đó của cuộc đời, cho đến ngày bà viết Người tình thì tâm trí của bà cũng đang quy chiếu vào cái thời khắc qua sông ấy. Trải dài theo độ dày văn bản là độ dài thời gian cuộc đời của người kể chuyện từ năm mười lăm tuổi rưỡi đến lúc “ngay lúc tôi đang viết đây” (tức là năm 70 tuổi), dòng cảm xúc hỗn độn của tác giả, của người kể chuyện không tuân bất cứ quy luật nào, xoay quanh chi tiết cô gái da trắng mười lăm tuổi rưỡi qua sông trên chuyến phà Sa Đéc - Vĩnh Long trên một nhánh của sông Mê Kông, gặp người tình gốc Hoa. Đó là chi tiết chủ đạo chi phối toàn bộ kết cấu tác phẩm nghệ thuật như mảng khối chủ đạo trong bức tranh, như một điệp khúc trong bản nhạc trầm buồn, như tâm của những đường tròn đồng tâm, là vùng của những giao thoa và cộng hưởng. “Chuyến qua sông đó sẽ quan trọng như thế nào đối với cuộc đời tôi”, cuộc đời của một con người và một kẻ sáng tạo? Giờ đây hình ảnh chuyến phà Mỹ Thuận ấy chỉ còn là ký ức, chiếc cầu Mỹ Thuận (khánh thành năm 2000) đã khép lại vai trò lịch sử của nó, bến phà nối liền sông Tiền và sông Hậu của dòng Cửu Long mênh mông. Những trang văn của Duras không chỉ lưu giữ kỷ niệm cuộc đời, cuộc tình của riêng bà mà còn lưu giữ nếp sống, văn hóa Việt xưa.
Bên cạnh hình ảnh qua phà là chi tiết trung tâm của tác phẩm thì hình ảnh những dòng sông còn xuôi dài theo dòng chữ, chỉ 177 trang sách mỏng có đến 59 lần nhắc đến sông, 17 lần xuất hiện từ dòng chảy… Những dòng sông miên man như chạm đến chân trời, lặng lẽ trôi như máu chảy trong huyết quản, gắn với tuổi thơ tắm sông, hay kỷ niệm “săn beo đen trong những đầm lầy ngoài cửa sông”, hoặc có những lúc suy tư “nhìn xuống dòng sông”… Sông không chỉ êm đềm yên ả chở phù sa, mà lắm lúc cũng bạo liệt với những cơn bão quay cuồng dưới lòng nước và mang theo phần xác của cuộc sống vùng khí hậu nhiệt đới: “Những mái nhà tranh, những cánh rừng, những đám cháy đã tàn, những xác chim chết, chó chết, cọp và trâu chết đuối, người chết chìm, người bù nhìn, những đám lục bình”… (Chương 6).
Cô gái da trắng ấy thân thuộc với những dòng sông như bất kỳ cô gái bản địa nào, cô “đã biết người đưa phà từ khi cô còn là đứa bé”, và khi quyển sách này được viết, sông trở thành nỗi niềm thao thức khôn nguôi của bà già bảy mươi, nhớ về chốn đã nuôi dưỡng tuổi thơ và tâm hồn mình, bà nuối tiếc mãi: “Sẽ chẳng bao giờ tôi được thấy lại những dòng sông đẹp như vậy, lớn như vậy, hoang dã như vậy đâu, như sông Mê Kông và những nhánh của nó xuôi ra biển, những vùng nước sắp sửa biến mất trong các vực thẳm của đại dương ấy. Trong mênh mang hút mắt, những dòng sông ấy chảy xiết, nước đổ như thể mặt đất nghiêng” (Chương 3). Dẫu hình ảnh người bản địa duy nhất trong tác phẩm xuất hiện trong tác phẩm là chị Đỗ, người giúp việc của gia đình Duras, song bóng dáng người Việt vẫn đậm nét, từ tiếng chó sủa, vọng đến từ mọi phía, từ các thôn làng trong một sớm tinh sương, từ hình ảnh cánh đồng lúa bùn sình mênh mông trong gió, từ những dòng sông chảy dài man mác với thời gian…
2. Người Hoa ở Chợ Lớn
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên, tò mò vì sao người Pháp gọi Nam kỳ là Cochinchine (Giao Chỉ Trung Hoa) trong khi Bắc Kỳ được gọi là Tonkin (Đông Kinh), và Trung Kỳ là Annam (An Nam) dưới thời Pháp thuộc (1887 - 1945). Cần nói thêm rằng thuật ngữ Cochinchine đã có lịch sử lâu dài và phức tạp: “Cochinchine (hoặc các biến thể Cocinchina, Cauchinchina, Cochinchina) ban đầu dùng để gọi toàn bộ lãnh thổ quốc gia Đại Việt. Đến đầu thế kỷ 17, khi Trịnh - Nguyễn phân tranh, nước Đại Việt phân đôi thành Đàng Trong và Đàng Ngoài, thì Cochinchine được dùng để chỉ Đàng Trong, còn Tonkin chỉ Đàng Ngoài. Thời Pháp thuộc, Cochinchine mới được dùng để chỉ Nam Kỳ” (An Chi, 1995, tr.71 - 73). Tác giả An Chi khẳng định, danh xưng Cochinchine “đã được dùng để chỉ miền Bắc, miền Trung rồi cuối cùng mới được dùng để chỉ miền Nam (Nam Bộ)”. Tuy nhiên, kết luận như vậy vẫn chưa giải thích được vì sao thời Pháp thuộc, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, lại gọi Nam Bộ là Cochinchine.
Ngay buổi đầu, người Minh Hương di cư sang Việt Nam với quy mô lớn để tránh sự truy kích của chính quyền nhà Thanh sau các phong trào “phản Thanh phục Minh” thất bại cuối thế kỷ 17. Đáng chú ý là các nhóm di dân do Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch và Mạc Cửu dẫn đầu, đến định cư, mở mang đất đai, thông thương mậu dịch ở vùng Biên Hòa, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Định Tường, Hà Tiên,... Người Hoa di cư đến Nam Bộ theo nhiều đợt khác nhau, làm nhiều nghề khác nhau, song thành công nhất vẫn là buôn bán ở các đô thị. Người tình trong tác phẩm của Duras không có tên, song nguyên mẫu là ông Huỳnh Thủy Lê, con trai của thương gia giàu có Huỳnh Cẩm Thuận, một trong những người giàu có nức danh ở Sa Đéc lúc bấy giờ. Nhờ óc quan sát và tài kinh doanh, ông (Huỳnh Cẩm Thuận) “thuộc nhóm nhỏ những tay tư bản gốc Tàu, những người làm chủ tất cả những khu nhà đất của đám nhân dân lao động ở thuộc địa” (Chương 9). Khởi sự từ nghề xây nhà rồi cho người bản xứ thuê, ban đầu là vài dãy nhà cho thuê rẻ tiền, sát vách nhau, “nhưng rồi ông bán chúng đi để mua đất xây cất ở phía Nam Chợ Lớn”. Dần dà ông làm chủ nhiều đường phố, và “xây lên cả một loạt nhà cho thuê có bao lơn nhìn xuống đường phố”, “làm cho phố xá rất sáng sủa và xinh xắn” (Chương 9)… Địa danh Chợ Lớn được lặp lại 27 lần trong câu chuyện của Duras và trong không gian ấy bao giờ cũng gắn với người tình gốc Hoa của mình (Người tình ở Chợ Lớn, Người đàn ông trong Chợ Lớn). Đặc biệt, tác phẩm miêu tả tỉ mỉ, cặn kẽ đồ đạc trong căn phòng của người tình mà cô đến sau buổi học sáng thứ Năm: bức tường quét vôi trắng, tấm rèm vải, cánh cửa hình vòng cung, khu vườn lộ thiên, những dãy lan can màu xanh như những lan can ở ngôi biệt thự lớn ở Sa Ðéc… Bởi đây là không gian gắn với buổi chiều oi nồng mà cô thiếu nữ trở thành đàn bà, “buổi chiều ấy nàng sẽ không bao giờ quên”, buổi chiều hoan lạc nhuốm màu chết chóc, điêu tàn… Và cho tận đến lúc bà viết tác phẩm này, từng chi tiết nhỏ cũng sống dậy trong không gian hỗn tạp của mọi thứ âm thanh (tiếng guốc gỗ khua trên phố, tiếng nói chí chóe đến chói tai, tiếng còi hú, tiếng ồn ào của xe cộ,…), và hỗn tạp của mọi mùi vị (mùi caramen bay vào phòng, mùi lạc rang, thịt nướng, thảo mộc, hoa nhài, bụi bặm, xăng dầu, lửa than củi…). Bên cạnh những mùi vị, âm thanh hỗn tạp của một khu phố tấp nập thì mùi xa hoa, giàu có toát lên. Chàng người tình ở Chợ Lớn là một dạng cô ấm cậu chiêu, một phiên bản công tử Bạc Liêu rất phổ biến vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 ở Nam Bộ.
Với hàng trăm loại hàng hóa để buôn bán, làm giàu của các thương nhân người Hoa và với muôn vàn kiểu ăn chơi của các cô ấm cậu chiêu, song Duras chỉ nhắc đến hoạt động mua bán và hút thuốc phiện như một thú vui phổ biến thời đó. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, một trong những tội thực dân Pháp là “làm cho nòi giống ta suy nhược” bằng thuốc phiện nhưng có lẽ thủ phạm trước nhất là một bộ phận thương nhân người Hoa, với hoạt động buôn bán thuốc phiện (và nhiều loại hàng hóa khác) độc quyền trên quy mô rộng lớn, toàn Đông Nam Á. Chính quyền Pháp và các nước phương Tây “bảo hộ” ở các nước thuộc địa chịu sự chi phối ngầm của những ông trùm thuốc phiện, ngược lại chính quyền thực dân cũng thu được nguồn lợi lớn đóng góp vào ngân sách. Tác phẩm Người tình đã cho thấy thực trạng mua bán và sử dụng rộng rãi thuốc phiện, nó như một hàng hóa thiết yếu đầu thế kỷ 20 ở Nam Kỳ. Từ thói quen sử dụng thuốc phiện của một số người Hoa, họ di cư vào Việt Nam trong nhiều thời điểm và vùng miền khác nhau, cùng với cái bắt tay ủng hộ cho thương nhân người Hoa làm giàu của chính quyền thực dân, khiến cho “nơi nào có người Hoa, nơi đó có thuốc phiện” (dẫn theo Nguyễn Xuân Hồng, Bùi Trúc Linh, 2011, tr.11). Nhân vật Người tình đã nói về cha mình “Suốt mười năm qua ông ta chỉ ngồi nhìn sông, dính chặt vào bàn đèn thuốc phiện” (chương 9) và chính anh ta cũng chỉ là một con nghiện… Dân nghèo bản địa, và cả người Pháp cũng trở thành thị trường tiêu thụ thuốc phiện, điển hình là người anh trai cả của Duras, một kẻ phá nát gia sản, là gánh nặng của người mẹ, là nỗi sợ hãi của các em, là một tên trộm cắp, lục lọi đáng khinh bỉ. Như vậy, bên cạnh việc phát triển thương mại, hình thành nên các đô thị lớn thì một bộ phận thương nhân buôn bán thuốc phiện, làm giàu trên nỗi đau của người khác, gieo rắc tội ác và sự suy đồi. Đó là một vấn nạn của xã hội đương thời mà được chính quyền thực dân dung túng.
3. Những xung đột trong lòng xã hội thuộc địa
Nam Bộ vốn là vùng đất mới dung hợp cư dân và văn hóa của nhiều dân tộc khác nhau (Kinh, Hoa, Khmer, Chăm,..). Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, cùng với công cuộc đẩy mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, diện mạo cơ cấu xã hội có sự thay đổi sâu sắc. Đặc biệt, sự góp mặt của người Pháp (Tây) ở đây làm cho thành phần chủng tộc vốn đa dạng lại càng phức tạp hơn. Bản thân người Pháp xa lìa mẫu quốc đến các vùng thuộc địa cũng có nhiều thành phần khác nhau: tầng lớp tinh hoa và tầng lớp bình dân. Nếu tầng lớp tinh hoa sang Đông Dương (Việt Nam) để khai thác, thống trị thuộc địa thì thành phần bình dân mang khao khát làm giàu để đổi đời ở vùng viễn xứ xa xôi. Cha mẹ Duras là một trong số đó. Nhưng giấc mơ của họ đã thất bại khi ông Henri bị nhiễm bệnh nặng và phải trở về Pháp, bỏ lại người vợ trẻ bơ vơ, sa vào cảnh nghèo túng khi bà mua miếng đất ở Cam Bốt, miếng đất không thể canh tác vì nửa năm bị nước biển xâm thực. Những đứa con của họ đều được sinh ra vùng đất xa mẫu quốc. Dù trong huyết quản của Duras hoàn toàn là dòng máu thuần chủng da trắng, nhưng bà tự xem mình là “người đàn bà lai” (Bouthors - Paillart, 2008), với “làn da nước mưa”.
Cô gái mười lăm tuổi rưỡi ấy sống trong không gian chỉ có “một mùa nóng bức, đơn điệu, chúng tôi ở trong một vành đai nóng bức của trái đất, nơi không có mùa xuân, không có sự phục hồi” (Chương 1). Sự ngột ngạt tù bức ấy không chỉ là thời tiết, mà còn là không gian tâm lý cô đặc, nặng nề bao quanh ngôi nhà cô gái da trắng, vì vậy cô luôn trải qua những phút giây khủng khiếp. Mặc dù họ là người da trắng, mang niềm kiêu hãnh của người văn minh đi khai hóa thuộc địa song họ lại nghèo, lại sa sút: “Đôi khi chúng tôi phải ăn đồ lòng ruột, cò vạc, cá sấu con”. Họ phải bán ghế bàn và đồ dùng trong gia đình, họ phải mua đồ hạ giá… Họ vừa là nỗi hổ thẹn của người da trắng thực dân, vừa phải giữ chút kiêu hãnh còn sót lại đối với người dân thuộc địa; họ chênh vênh ở giữa, không thuộc về những người cùng chủng tộc Đông Dương này và cũng xa cách với mảnh đất mình đứng dưới chân. Và để cứu vãn gia đình khỏi cơn khủng hoảng, đói khát cô gái da trắng mười lăm tuổi rưỡi đã đồng ý làm người tình của người đàn ông gốc Hoa hai mươi bảy tuổi, giàu có. Chi tiết này phản ánh những mặt phức tạp trong đời sống xã hội Nam Bộ đầu thế kỷ: sự phân biệt chủng tộc và địa vị xã hội. Một mặt người da trắng luôn cố tỏ vẻ lạnh lùng kiêu hãnh song cái vẻ ấy lại đối lập hoàn toàn với thực tại nghèo đói, khủng hoảng: bà mẹ một mình lo toan cho cả gia đình đến mức điên loạn, người anh cả là một kẻ nghiện ngập, trộm cắp, người anh kế là kẻ yếu đuối vô tích sự, cô em út hiểu được tình hình của gia đình và lựa chọn cách cứu vãn cả gia đình bằng mối quan hệ tình - tiền với người đàn ông Trung Hoa. Mặc dù họ cảm thấy xấu hổ vì em gái của họ có quan hệ với người đàn ông da vàng, châu Á, thuộc địa, nhưng họ lại ăn uống ngấu nghiến khi được mời ăn tại một nhà hàng sang trọng ở Chợ Lớn. Họ xem người tình của nàng là không khí, là trong suốt hoặc không đáng để được nhìn tới. Mặc dù coi thường anh nhưng lại tìm mọi cách để được tiêu tiền của anh, khao khát có tiền của anh. Ngược lại, anh chàng gốc Hoa lịch lãm sang trọng, từ trong sâu thẳm, lại mang tâm lý tự ty, thua kém chủng tộc khi anh nhìn thấy cô gái da trắng trên phà. Người đàn ông thanh lịch, đi xe hơi hiệu Limousin bóng loáng, hút thuốc lá Ăng-lê bị kích động trước cô gái đội chiếc mũ dạ đàn ông, “tay ông run run” khi mời cô hút thuốc. Hành động đó bộc lộ sự tự ty về chủng tộc mặc dù anh rất có địa vị xã hội. Nếu cả gia đình cô gái da trắng khinh thường anh thì cha của người đàn ông gốc Hoa cũng khẳng định “sẽ không để con trai mình lấy một con điếm nhỏ da trắng ở Sa Đéc” (chương 9).
Như vậy mối tình của chàng và nàng cho thấy mối quan hệ xã hội phức tạp ở Nam kỳ nửa đầu thế kỷ và cho thấy người da trắng chưa hẳn giàu có, văn minh, người da vàng chưa hẳn là kẻ cần được “khai hóa”. Mối quan hệ tình cảm (tình yêu) giữa người da trắng (kẻ thống trị) và người da vàng (kẻ bị trị) có thể hài hòa ở tư cách cá nhân, nhưng từ phương diện gia đình và xã hội, mãi mãi còn là khoảng cách rất lớn, khoảng cách chủng tộc và văn hóa. Chính vì hiểu được điều đó nên chàng và nàng đã chấp nhận ngay từ đầu “chúng tôi không thể có một tương lai chung nào cả” (chương 12) và sau một năm rưỡi kéo dài, nàng trở về Pháp, chàng cưới người vợ đã được hứa hôn từ trước, dẫu đau đớn nhưng ai cũng giữ nỗi đau đó cho riêng mình, và cho đến cuối đời họ vẫn là người tình của nhau. Như thực tế Huỳnh Thủy Lê đã sang Pháp gặp Duras trước lúc từ giã cõi đời, còn với Duras, người tình thời tuổi trẻ ấy luôn sống động và liên tục được tái sinh trong trái tim, trong hoạt động sáng tạo văn chương của bà (Người tình, Người tình Hoa Bắc).
Người tình không chỉ cho thấy bi kịch của mối tình bị ngăn cách vì chủng tộc và văn hóa mà còn là sự phơi bày những bi kịch trong gia đình cô gái da trắng ở thuộc địa, Duras. Xuyên suốt tác phẩm là tâm trạng uể oải, lời nói rời rạc của cô gái sống trong một ngôi nhà mà sự nặng nề và chết chóc bao trùm. Cô gái lặng lẽ tìm cách thoát ra khỏi những bất hạnh của cuộc đời mẹ cô bằng những hy vọng bà đặt lên đôi vai cô, bà mẹ để lại nỗi ám ảnh khôn nguôi trong cả giấc mơ: “một người mẹ bị trầy xước bởi sự nghèo khổ hoặc bị quẩn trí và càu nhàu trong sự hoang vắng”… (Chương 12); Cô tìm cách thoát khỏi sự man rợ và độc ác của người anh cả, như niềm kinh hãi cô phải đối diện với chiến tranh và ngược lại, cô phải đối diện với anh cả: “Tôi thấy thời chiến và sự thống trị của người anh cả tôi là một”. “Tôi nhìn chiến tranh như tôi nhìn thấy anh, lan tràn khắp nơi, xâm nhập mọi chỗ, trộm cắp, giam cầm, luôn luôn ở đó, pha trộn lẫn lộn với mọi thứ, hiện diện trong thân xác, trong tinh thần, khi thức dậy và thiếp ngủ…” (Chương 12). Cô còn lại chút niềm thương mến với người anh kế yếu đuối, luôn bị người anh cả đàn áp. Có lẽ, giữa họ không còn là gia đình, không có tình thân khi họ luôn phải giấu diếm cảm xúc và né tránh lẫn nhau, sẵn sàng loại trừ nhau, và sự sống chết của nhau không còn ý nghĩa... Gia đình đó như một mô hình thu nhỏ của chế độ thực dân đối với cô gái nhỏ Marguerite, cách cô lựa chọn đến bên người tình là lựa chọn loại bỏ những gọng kìm kẹp tâm hồn mình, dẫu biết rằng: “Ngay từ lúc bước vào chiếc xe màu đen nàng đã biết nàng bị loại trừ ra khỏi gia đình lần đầu tiên và mãi mãi” (Chương 9).
Thời gian bối cảnh tác phẩm Người tình diễn ra vào những năm 1929 - 1931, gắn với thời gian cuộc tình từ lúc cô gái mười lăm tuổi rưỡi đến lúc cô mười tám tuổi, trở về Pháp, nhưng thời gian tâm tưởng có lẽ “cả cuộc đời người kể chuyện” (Phùng Văn Tửu, 2002, tr.176). Vì vậy, mỗi sự kiện được người kể chuyện phân tích, nghiền ngẫm, mỗi sự kiện được sống nhiều đời sống khác nhau, cả nỗi hoan lạc mê đắm và sự cô đơn xa lạ trong chính gia đình mình, cả tuổi thơ trong sáng và những ám ảnh về khổ đau, chết chóc… Người tình vượt lên trên câu chuyện với người tình gốc Hoa là câu chuyện về cuộc đời Duras (như một cuốn hồi ký), câu chuyện về xã hội chốn thuộc địa (Đông Dương) đầu thế kỷ 20.
*
Cuốn tiểu thuyết 16 chương, với nhiều cách tân, sáng tạo nghệ thuật trên các phương diện kết cấu, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu Người tình cùng với bộ phim chuyển thể cùng tên đã lưu giữ những ngấn tích về “tình yêu và ký ức về miền Nam Kỳ” (Hà Thanh Vân, 2015) của nhà văn M. Duras. Mối tình của cô gái da trắng sa sút mười lăm tuổi rưỡi với người đàn ông gốc Hoa giàu có hai mươi bảy tuổi là mối tình đặc biệt vừa phản ảnh những đối lập về quan niệm văn hóa, vừa cho thấy những bi kịch của cá nhân và thời đại. Song đây không phải là mối tình duy nhất của hai con người khác biệt, hai chủng tộc, hai nền văn hóa xa lạ trên mảnh đất Nam Bộ. Với khả năng lắng lọc và tiếp biến linh hoạt sự xa cách sẽ được rút gần, giao thoa và trở thành một cộng đồng chung, như chính cuộc đời và văn chương Duras. Tuổi thơ ở Đông Dương là nền tảng để bà bước vào đời ở cố quốc và mối tình tuổi hoa ở thuộc địa, nơi chốn chưa một lần bà trở lại, luôn sống mãi trong tim, từ lúc trẻ trung cho đến cuối đời; và bà đã viết, viết mãi về Người tình, Người tình Hoa Bắc.
Nếu không gian sông nước mênh mông tiêu biểu cho không gian nông thôn yên bình ở Lục Tỉnh Nam kỳ thì khu phố tấp nập Chợ Lớn là không gian đô thị mới vừa xa hoa vừa ngột ngạt. Tiểu thuyết Người tình đã vẽ những dáng vẻ khác nhau của vùng văn hóa độc đáo này qua lăng kính của hoài niệm. Nam Bộ hiện lên thật đẹp nhưng cũng thật oi bức và tù túng như chính sự tù túng trong tâm hồn cô gái trẻ, ở đó ẩn chứa những ám ảnh về nghèo đói, chết chóc và chiến tranh, thông qua bi kịch gia đình, bi kịch cuộc tình đầu đời của chính nữ nhà văn.
N.T.T
---------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. An Chi. 1995. Chuyện đông chuyện tây. Tạp chí kiến thức ngày nay số 186, Nxb.Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
2. Bouthors - Paillart, Catherine. 2008. Duras người đàn bà lai. Hoàng Cường dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội.
3. Duras, Marguerite. 2008. Người tình Hoa Bắc. Lê Hồng Sâm dịch, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Duras, Marguerite. 2010. Người tình. Lê Ngọc Mai dịch, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
5. Nguyễn Xuân Hồng, Bùi Trúc Linh. 2011. Một số hệ quả kinh doanh thuốc phiện của người Hoa ở Đông Nam Á nửa sau thế kỷ XIX. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số tháng 4, tr.10-17.
6. Phùng Văn Tửu. 2003. Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, Nxb. Giáo dục.
7. Hà Thanh Vân. Marguerite Duras với tình yêu và ký ức về miền Nam Kỳ lục tỉnh. Nguồn: http://khoanguvan.com.vn, ngày truy cập: 20/6/2018.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Page 6 of 50 • 1 ... 5, 6, 7 ... 28 ... 50
Page 6 of 50
Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum