Sách
Page 39 of 50 • Share
Page 39 of 50 • 1 ... 21 ... 38, 39, 40 ... 44 ... 50
Re: Sách
Lời bình, chú thích của tôi Rufus Griswold là kẻ thù, người ghét ông Poe, làm nghề xuất bản sách.
DIỄN ĐÀN VĂN HỌC TRẺ
Phong Cầm
Chia Sẻ 13 sự thật về Edgar Allan Poe kỳ lạ
Sau cái chết bí ẩn của bậc thầy của truyện bí ẩn và rùng rợn của nước Mỹ, đối thủ văn học của Edgar Allan Poe đã viết một cáo phó và tiểu sử cay độc của tác giả. Tuy nhiên, phần lớn những gì được viết bởi kẻ thù của Poe, Rufus Griswold, là không đúng sự thật. Báo thù vì những điều Poe đã viết về Griswold, bức chân dung sau khi chết của Poe đã miêu tả ông như một kẻ điên cuồng lăng nhăng, nghiện ma túy và không có đạo đức lẫn bạn bè.
Mặc dù khác xa sự thật, có nhiều điểm xuyên tạc của Griswold nhưng đó là cuốn tiểu sử duy nhất của Poe vào thời điểm đó - và là cuốn được đọc nhiều - kết hợp với giọng văn trong một số tác phẩm của Poe, nó có sức thuyết phục đối với công chúng muốn tin vào tai tiếng, mặt xấu xa của nhà văn. Mặc dù những bức thư có mục đích từ Poe gửi cho Griswold chứng minh những vu khống đó là giả mạo - và những người bạn của Poe đã kịch liệt phủ nhận – thì cho đến ngày nay, hình ảnh Poe như một con chim kỳ quặc cuồng nộ vẫn tồn tại.
Một thế kỷ rưỡi sau, có lẽ điều kỳ lạ nhất về Edgar Allan Poe là nhìn chung ông không kỳ quặc chút nào. Poe không ẩn nấp trong những nghĩa trang và vuốt ve những chiếc quan tài, mà thực tế là một nhà tiên phong chăm chỉ và xuất sắc, người đã thay đổi bộ mặt của nền văn học Mỹ. Với suy nghĩ đó, đây là một số điều kỳ lạ hơn bình thường cần biết về một trong những tác giả sáng tạo nhất của Hoa Kỳ.
1. Ông là một người đi tiên phong trong văn học
Poe được nhớ đến nhiều nhất với những câu chuyện kinh dị và những bài thơ ám ảnh (nổi tiếng nhất như 'The Raven,' 'The Black Cat' và 'The Tell-Tale Heart'…), ông cũng được coi là một trong những nhà văn viết truyện ngắn sớm nhất. Poe được coi là ông tổ của thể loại truyện trinh thám và hình sự, ông có sự ảnh hưởng đến Charles Baudelaire, Fyodor Dostoevsky, Sir Arthur Conan Doyle. ..
2. Ông viết sung sức
Tác phẩm của ông bao gồm truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết, sách giáo khoa, sách lý thuyết khoa học, và nhiều bài tiểu luận và phê bình sách.
3. Ông ấy đã tạo ra một nghề mới
Poe được coi là nhà văn chuyên nghiệp nổi tiếng đầu tiên của Mỹ (và do đó, nghệ sĩ chết đói); ông sống lại với tư cách là nhà lý luận và nhà phê bình văn học vĩ đại đầu tiên của đất nước.
Edgar Allan Poe.jpg
(13 sự thật về Edgar Allan Poe kỳ lạ - Ảnh chân dung của Poe)
4. Tên của ông có thể được đặt theo tên một nhân vật trong vở kịch của Shakespeare
Ông sinh ra là Edgar Poe ở Boston năm 1809; cha mẹ anh đều là diễn viên. Cha mẹ của ông đã biểu diễn trong vở kịch King Lear của Shakespeare vào năm anh sinh ra, dẫn đến suy đoán rằng anh được đặt tên theo con trai của Bá tước Gloucester trong vở kịch, Edgar.
5. Thơ và di truyền trong gia đình Poe
Poe là con giữa trong gia đình có ba anh em. Anh trai của ông, William Henry Leonard Poe, cũng là một nhà thơ, em gái của ông - Rosalie Poe là một giáo viên dạy bút pháp thơ.
6. Ông ấy là một đứa trẻ mồ côi
Khi Edgar chưa đầy 4 tuổi, cha mẹ qua đời và ông được một thương gia giàu có tên là John Allan và vợ, Francis nhận nuôi. Họ sống ở Richmond, Virginia, và đặt tên cho cậu bé là Edgar Allan Poe.
7. Ông ấy đã mô phỏng Lord Byron
Cha nuôi của Poe đã chuẩn bị cho anh đi kinh doanh và trở thành một quý ông Virginia, nhưng Poe lại mơ ước trở thành một nhà văn như thần tượng thời niên thiếu của anh, nhà thơ người Anh Lord Byron (phải). Đến năm 13 tuổi, Poe đã viết một tập thơ, mặc dù hiệu trưởng của ông đã thuyết phục cha của Poe không cho phép xuất bản cuốn sách.
8. Nghèo đói là nàng thơ của ngài
Poe bắt đầu sự nghiệp đại học, nhưng với sự hỗ trợ tài chính ít ỏi từ Allan keo kiệt, Poe dấn thân vào một cuộc hành trình dài của nghèo khổ và nợ nần. Vấn đề tiền bạc ám ảnh ông và những căng thẳng với cha nuôi đã thúc đẩy ông quyết tâm trở thành một nhà văn thành công.
9. Ông ấy là một thần đồng
Ông đã xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, "Tamerlane," khi mới 18 tuổi.
10. Ông ấy đã bị truất quyền thừa kế
Khi Allan chết, Poe đang sống trong cảnh nghèo khó, ông không nhận được thừa kế vì làm trái ý muốn trong di chúc, ông không muốn phải nuôi một đứa con ngoài giá thú mà Allan thậm chí chưa từng gặp mặt.
11. Ông ấy kết hôn với em họ tuổi teen của mình
Poe kết hôn với người em họ của mình, Virginia Clemm khi cô ấy 13 tuổi và anh ấy 27 tuổi (Chuyện này có lẽ điều đó hơi kỳ quặc theo tiêu chuẩn ngày nay.) Cô ấy qua đời ở tuổi 24 vì bệnh lao. Người phụ nữ yêu dấu đã rời bỏ Edgar mà đi. Một lần nữa, Edgar lại chìm trong đau đớn. Điều này có thể đã để lại những vết thương tâm lý và tình cảm sâu sắc nơi ông, lý giải tại sao ông thường bị ám ảnh và nói nhiều về cái chết.
12. Poe đã tạo ra cơn hận thù của Griswold
Poe giành được vị trí biên tập tại tạp chí Sứ giả văn học miền Nam, nơi ông trở nên nổi tiếng với những bài phê bình sách và phê bình gay gắt (chính là nơi sinh ra cơn giận của Griswold). Ông tiếp tục viết cho nhiều tạp chí. Việc xuất bản "The Raven" năm 1845 đã khiến ông trở thành một cái tên quen thuộc và cuối cùng đã đảm bảo cho ông thành công mà ông đang tìm kiếm.
13. Cái chết của ông ấy cũng bí ẩn như tác phẩm mà ông tạo ra
Năm 1849, Poe mất tích trong 5 ngày và được phát hiện "mặc quần áo xấu hơn" và mê sảng ở Baltimore. Ông được đưa đến bệnh viện và qua đời ngay sau đó ở tuổi 40. Không có khám nghiệm tử thi được thực hiện, nguyên nhân cái chết được nêu ra mơ hồ là "tắc nghẽn não" và ông được chôn cất sau đó hai ngày. Kì lạ nhất là Poe đã có một số báo trước về cái chết khi anh rời Richmond đến Baltimore vào cuối tháng Chín. Các chuyên gia và học giả đã đề xuất mọi thứ, từ giết người và bệnh dại đến chứng rối loạn tâm thần và ngộ độc khí carbon monoxide làm lý do cho cái chết của ông, nhưng cho đến nay nguyên nhân cái chết của Edgar Allan Poe vẫn là một bí ẩn.
***
[Thông tin thêm: Tác phẩm của Edgar Allan Poe được dịch ra tất cả các ngôn ngữ chủ yếu của thế giới. Những bản dịch của Charles Baudelaire, Stéphane Mallarmé ra tiếng Pháp tác phẩm của Poe trở thành những bản dịch nổi tiếng thế giới, có ảnh hưởng đến nhiều nhà văn, nhà thơ lớn khắp thế giới. Tác phẩm của Edgar Allan Poe đã được dịch rải rác sang tiếng Việt từ lâu. "Tuyển tập Edgar Allan Poe", dày 716 trang bao gồm phần lớn truyện ngắn của ông, do Ngô Tự Lập và nhóm Địa Cầu Văn Hoá dịch được nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, xuất bản năm 2002.
Lịch sử về Edgar Allan Poe đã xuất hiện như một nhân vật hư cấu, thường đại diện cho "thiên tài điên loạn" hoặc "nghệ sĩ bị dày vò" và khai thác những cuộc đấu tranh cá nhân của bản thân. Nhiều mô tả như vậy cũng phù hợp với các nhân vật trong các câu chuyện của Poe, cho thấy ông và các nhân vật tạo ra có chung danh tính. Thông thường, các mô tả hư cấu về Poe sử dụng các kỹ năng giải quyết bí ẩn của ông trong các tiểu thuyết như The Poe Shadow của Matthew Pearl..
Thế giới tâm thần hoảng loạn là một thế giới đặc trưng trong rất nhiều những truyện ngắn của Poe.
Ông đã phản ánh được trong tác phẩm của mình trạng thái tâm lý nhiễu loạn của nhân vật. Nỗi lo âu tiềm ẩn và đời sống tinh thần bất an, từ đó thể hiện mặt trái của giấc mơ Mỹ, giấc mơ của những cá nhân đầy tự lập và thành đạt. Và ông đã đưa ra cái bản chất thực sự của chủ nghĩa vật chất: ấy là sự cô đơn, bất ổn và cảm giác chết chóc luôn lơ lửng trong đời sống nội tâm của những thành viên trong xã hội.
Những tác phẩm kỳ dị của Poe nẩy nở từ dự cảm về vực thẳm ẩn sâu của đời sống hiện đại. Nó là một cơn ác mộng kéo dài, kinh hoàng. Nó in đậm trong những truyện ngắn vừa mang tính kinh dị, vừa đầy sự rối loại, bí ẩn, nặng nề của Poe, mà Con mèo đen chính là một điển hình.
DIỄN ĐÀN VĂN HỌC TRẺ
Phong Cầm
Chia Sẻ 13 sự thật về Edgar Allan Poe kỳ lạ
Sau cái chết bí ẩn của bậc thầy của truyện bí ẩn và rùng rợn của nước Mỹ, đối thủ văn học của Edgar Allan Poe đã viết một cáo phó và tiểu sử cay độc của tác giả. Tuy nhiên, phần lớn những gì được viết bởi kẻ thù của Poe, Rufus Griswold, là không đúng sự thật. Báo thù vì những điều Poe đã viết về Griswold, bức chân dung sau khi chết của Poe đã miêu tả ông như một kẻ điên cuồng lăng nhăng, nghiện ma túy và không có đạo đức lẫn bạn bè.
Mặc dù khác xa sự thật, có nhiều điểm xuyên tạc của Griswold nhưng đó là cuốn tiểu sử duy nhất của Poe vào thời điểm đó - và là cuốn được đọc nhiều - kết hợp với giọng văn trong một số tác phẩm của Poe, nó có sức thuyết phục đối với công chúng muốn tin vào tai tiếng, mặt xấu xa của nhà văn. Mặc dù những bức thư có mục đích từ Poe gửi cho Griswold chứng minh những vu khống đó là giả mạo - và những người bạn của Poe đã kịch liệt phủ nhận – thì cho đến ngày nay, hình ảnh Poe như một con chim kỳ quặc cuồng nộ vẫn tồn tại.
Một thế kỷ rưỡi sau, có lẽ điều kỳ lạ nhất về Edgar Allan Poe là nhìn chung ông không kỳ quặc chút nào. Poe không ẩn nấp trong những nghĩa trang và vuốt ve những chiếc quan tài, mà thực tế là một nhà tiên phong chăm chỉ và xuất sắc, người đã thay đổi bộ mặt của nền văn học Mỹ. Với suy nghĩ đó, đây là một số điều kỳ lạ hơn bình thường cần biết về một trong những tác giả sáng tạo nhất của Hoa Kỳ.
1. Ông là một người đi tiên phong trong văn học
Poe được nhớ đến nhiều nhất với những câu chuyện kinh dị và những bài thơ ám ảnh (nổi tiếng nhất như 'The Raven,' 'The Black Cat' và 'The Tell-Tale Heart'…), ông cũng được coi là một trong những nhà văn viết truyện ngắn sớm nhất. Poe được coi là ông tổ của thể loại truyện trinh thám và hình sự, ông có sự ảnh hưởng đến Charles Baudelaire, Fyodor Dostoevsky, Sir Arthur Conan Doyle. ..
2. Ông viết sung sức
Tác phẩm của ông bao gồm truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết, sách giáo khoa, sách lý thuyết khoa học, và nhiều bài tiểu luận và phê bình sách.
3. Ông ấy đã tạo ra một nghề mới
Poe được coi là nhà văn chuyên nghiệp nổi tiếng đầu tiên của Mỹ (và do đó, nghệ sĩ chết đói); ông sống lại với tư cách là nhà lý luận và nhà phê bình văn học vĩ đại đầu tiên của đất nước.
Edgar Allan Poe.jpg
(13 sự thật về Edgar Allan Poe kỳ lạ - Ảnh chân dung của Poe)
4. Tên của ông có thể được đặt theo tên một nhân vật trong vở kịch của Shakespeare
Ông sinh ra là Edgar Poe ở Boston năm 1809; cha mẹ anh đều là diễn viên. Cha mẹ của ông đã biểu diễn trong vở kịch King Lear của Shakespeare vào năm anh sinh ra, dẫn đến suy đoán rằng anh được đặt tên theo con trai của Bá tước Gloucester trong vở kịch, Edgar.
5. Thơ và di truyền trong gia đình Poe
Poe là con giữa trong gia đình có ba anh em. Anh trai của ông, William Henry Leonard Poe, cũng là một nhà thơ, em gái của ông - Rosalie Poe là một giáo viên dạy bút pháp thơ.
6. Ông ấy là một đứa trẻ mồ côi
Khi Edgar chưa đầy 4 tuổi, cha mẹ qua đời và ông được một thương gia giàu có tên là John Allan và vợ, Francis nhận nuôi. Họ sống ở Richmond, Virginia, và đặt tên cho cậu bé là Edgar Allan Poe.
7. Ông ấy đã mô phỏng Lord Byron
Cha nuôi của Poe đã chuẩn bị cho anh đi kinh doanh và trở thành một quý ông Virginia, nhưng Poe lại mơ ước trở thành một nhà văn như thần tượng thời niên thiếu của anh, nhà thơ người Anh Lord Byron (phải). Đến năm 13 tuổi, Poe đã viết một tập thơ, mặc dù hiệu trưởng của ông đã thuyết phục cha của Poe không cho phép xuất bản cuốn sách.
8. Nghèo đói là nàng thơ của ngài
Poe bắt đầu sự nghiệp đại học, nhưng với sự hỗ trợ tài chính ít ỏi từ Allan keo kiệt, Poe dấn thân vào một cuộc hành trình dài của nghèo khổ và nợ nần. Vấn đề tiền bạc ám ảnh ông và những căng thẳng với cha nuôi đã thúc đẩy ông quyết tâm trở thành một nhà văn thành công.
9. Ông ấy là một thần đồng
Ông đã xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, "Tamerlane," khi mới 18 tuổi.
10. Ông ấy đã bị truất quyền thừa kế
Khi Allan chết, Poe đang sống trong cảnh nghèo khó, ông không nhận được thừa kế vì làm trái ý muốn trong di chúc, ông không muốn phải nuôi một đứa con ngoài giá thú mà Allan thậm chí chưa từng gặp mặt.
11. Ông ấy kết hôn với em họ tuổi teen của mình
Poe kết hôn với người em họ của mình, Virginia Clemm khi cô ấy 13 tuổi và anh ấy 27 tuổi (Chuyện này có lẽ điều đó hơi kỳ quặc theo tiêu chuẩn ngày nay.) Cô ấy qua đời ở tuổi 24 vì bệnh lao. Người phụ nữ yêu dấu đã rời bỏ Edgar mà đi. Một lần nữa, Edgar lại chìm trong đau đớn. Điều này có thể đã để lại những vết thương tâm lý và tình cảm sâu sắc nơi ông, lý giải tại sao ông thường bị ám ảnh và nói nhiều về cái chết.
12. Poe đã tạo ra cơn hận thù của Griswold
Poe giành được vị trí biên tập tại tạp chí Sứ giả văn học miền Nam, nơi ông trở nên nổi tiếng với những bài phê bình sách và phê bình gay gắt (chính là nơi sinh ra cơn giận của Griswold). Ông tiếp tục viết cho nhiều tạp chí. Việc xuất bản "The Raven" năm 1845 đã khiến ông trở thành một cái tên quen thuộc và cuối cùng đã đảm bảo cho ông thành công mà ông đang tìm kiếm.
13. Cái chết của ông ấy cũng bí ẩn như tác phẩm mà ông tạo ra
Năm 1849, Poe mất tích trong 5 ngày và được phát hiện "mặc quần áo xấu hơn" và mê sảng ở Baltimore. Ông được đưa đến bệnh viện và qua đời ngay sau đó ở tuổi 40. Không có khám nghiệm tử thi được thực hiện, nguyên nhân cái chết được nêu ra mơ hồ là "tắc nghẽn não" và ông được chôn cất sau đó hai ngày. Kì lạ nhất là Poe đã có một số báo trước về cái chết khi anh rời Richmond đến Baltimore vào cuối tháng Chín. Các chuyên gia và học giả đã đề xuất mọi thứ, từ giết người và bệnh dại đến chứng rối loạn tâm thần và ngộ độc khí carbon monoxide làm lý do cho cái chết của ông, nhưng cho đến nay nguyên nhân cái chết của Edgar Allan Poe vẫn là một bí ẩn.
***
[Thông tin thêm: Tác phẩm của Edgar Allan Poe được dịch ra tất cả các ngôn ngữ chủ yếu của thế giới. Những bản dịch của Charles Baudelaire, Stéphane Mallarmé ra tiếng Pháp tác phẩm của Poe trở thành những bản dịch nổi tiếng thế giới, có ảnh hưởng đến nhiều nhà văn, nhà thơ lớn khắp thế giới. Tác phẩm của Edgar Allan Poe đã được dịch rải rác sang tiếng Việt từ lâu. "Tuyển tập Edgar Allan Poe", dày 716 trang bao gồm phần lớn truyện ngắn của ông, do Ngô Tự Lập và nhóm Địa Cầu Văn Hoá dịch được nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, xuất bản năm 2002.
Lịch sử về Edgar Allan Poe đã xuất hiện như một nhân vật hư cấu, thường đại diện cho "thiên tài điên loạn" hoặc "nghệ sĩ bị dày vò" và khai thác những cuộc đấu tranh cá nhân của bản thân. Nhiều mô tả như vậy cũng phù hợp với các nhân vật trong các câu chuyện của Poe, cho thấy ông và các nhân vật tạo ra có chung danh tính. Thông thường, các mô tả hư cấu về Poe sử dụng các kỹ năng giải quyết bí ẩn của ông trong các tiểu thuyết như The Poe Shadow của Matthew Pearl..
Thế giới tâm thần hoảng loạn là một thế giới đặc trưng trong rất nhiều những truyện ngắn của Poe.
Ông đã phản ánh được trong tác phẩm của mình trạng thái tâm lý nhiễu loạn của nhân vật. Nỗi lo âu tiềm ẩn và đời sống tinh thần bất an, từ đó thể hiện mặt trái của giấc mơ Mỹ, giấc mơ của những cá nhân đầy tự lập và thành đạt. Và ông đã đưa ra cái bản chất thực sự của chủ nghĩa vật chất: ấy là sự cô đơn, bất ổn và cảm giác chết chóc luôn lơ lửng trong đời sống nội tâm của những thành viên trong xã hội.
Những tác phẩm kỳ dị của Poe nẩy nở từ dự cảm về vực thẳm ẩn sâu của đời sống hiện đại. Nó là một cơn ác mộng kéo dài, kinh hoàng. Nó in đậm trong những truyện ngắn vừa mang tính kinh dị, vừa đầy sự rối loại, bí ẩn, nặng nề của Poe, mà Con mèo đen chính là một điển hình.
Last edited by LDN on Thu Jan 26, 2023 2:28 pm; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
review sách
Truyện ngắn Con Mèo Đen – Egar Allan Poe
The Black Cat (Con mèo đen) – truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe – một tác phẩm kinh dị đáng suy ngẫm, vượt thoát ranh giới một truyện ngắn thông thường bởi nó đem lại cho người đọc những câu hỏi nan giải về bản ngã con người chân chính là Thiện hay là Ác, là Tốt hay là Xấu.
The Black Cat (Con mèo đen) được sáng tác năm 1843. Tác phẩm là lời thú tội của nhân vật xưng Tôi. Tôi muốn kể lại câu chuyện của cuộc đời mình xoay quanh “con mèo đen”. Thuở nhỏ, anh ta vốn là cậu bé nhút nhát, nhân hậu, yêu thú vật. Khi lớn lên, anh ta uống rượu rồi dần dần trở nên hung bạo hành hạ thú vật và đánh đập vợ.
Review truyện ngắn con mèo đen Egar Allan Poe
Tôi khoét mắt, treo cổ con mèo đen tên Pluto vốn là vật nuôi trước đây anh ta rất yêu quý. Hỏa hoạn xảy ra, trên bức tường cháy loang lỗ hiện ra gương mặt con mèo khổng lồ và nút dây thắt cổ. Tôi hối hận và tìm kiếm con mèo trong các quán rượu.
Một hôm, anh ta tìm được một con mèo đen giống hệt Pluto, cũng bị khoét mắt nhưng nó có một đốm trắng ở cổ. Anh ta đem con mèo về nuôi và hứa sẽ yêu quý nó. Nhưng khi say rượu, anh ta lại chán ghét con mèo.
Một hôm khac, trên đường xuống hầm, bị con mèo quấn chân, anh ta định giết con mèo nhưng bị người vợ cản lại, nhân vật Tôi đã giết vợ và chôn xác sau bức tường trong hầm. Bốn ngày sau, cảnh sát đến điều tra. Anh ta vô cùng tự tin dẫn cảnh sát xuống hầm và gõ vào bức tường mới xây để chứng minh sự vô tội, thì có tiếng mèo kêu. Thì ra, lúc chôn xác vợ, anh ta đã chôn luôn con mèo vào đó.
Trong truyện ngắn Con mèo đen ngoài nhân vật xưng Tôi, con mèo đen là nhân vật chính thứ hai. Con mèo đen đầu tiên có tên là Pluto được miêu tả như sau:“Con mèo này là một con vật rất to và đẹp, đen tuyền, và khôn đến mức độ đáng kinh ngạc” và “Pluto – tên con mèo – là con vật tôi quý nhất, là người bạn của tôi”. Truy ngược về quá khứ thì việc xem mèo đen là phù thủy xuất hiện rất nhiều trong các truyện thần thoại, cổ tích và trong quan niệm của người phương Tây. Dơi, quạ, mèo đen và số 13 là biểu tượng của sự không may mắn, điềm rủi.
Từ những huyền thoại trên, đã làm hình ảnh con mèo đen mang một giá trị biểu tượng tự thân – biểu tượng cho điềm xấu, không may mắn.
Tác giả sách Egar Allan Poe
Trong truyện, con mèo của Tôi được đặt tên là Pluto, truy về nguồn gốc đó chính là tên của vị thần Hades cai quản thế giới Âm phủ trong Thần thoại Hy Lạp. Như vậy, có thể thấy được tính biểu trưng cho Cái Chết và những điều xui xẻo trong hình ảnh con mèo Pluto. Tác giả đã dùng những quan niệm mặc định trong tâm thức người đọc để phủ một lớp huyền thoại ma quái và chết chóc lên con mèo Pluto ngay từ đầu truyện.
Nếu bóc tách từng lớp vỏ tác phẩm thì ở vẻ bên ngoài, tác giả đã dùng huyền thoại như một công cụ biện hộ cho Tôi hay nói chính xác hơn là Tôi dùng con mèo đen để biện hộ cho tội ác của mình. Anh ta cứ nói nhiều đến sự vô tội, ngây thơ của con mèo nhưng đồng thời tạo ra những chi tiết hướng người đọc vào sự tối tăm, huyền bí của con mèo Pluto (nhắc đến phù thủy, nhắc đến sự thay đổi bất thường xúc bản thân dù không muốn điều đó, hình ảnh đầu mèo trên tường, sự xuất hiện của Pluto thứ hai, vô ý giết vợ, con mèo kêu lên làm cảnh sát phát hiện ra tội ác anh ta…). Hình tượng Con mèo đen ở lớp ý nghĩa thứ nhất tượng trưng cho nỗi sợ hãi của con người trước những điều không thể giải thích bằng khoa học. Nỗi sợ có từ quan niệm thời cổ xưa về tà thuật, phù thủy, ma quỷ. Con mèo đen đem đến cái Xấu, cái Ác khiến nhân vật Tôi từ người hiền lành lương thiện trở thành tên giết người.
Ở lớp nghĩa thứ hai, biểu tượng con mèo đen chỉ mang tính chất lừa mị. Lừa dối bản thân và mị hoặc mọi người. Toàn bộ câu truyện là lời nói của một tên giết người đã bị kết án, theo đúng logic tâm lý, anh ta mong muốn được thoát tội. Nếu nhìn theo góc độ này thì ta có thể đặt ra nghi vấn: thật sự có con mèo Pluto tồn tại? hay chỉ là cái cớ nhân vật Tôi gợi lòng thương cảm và sự đồng tình của mọi người. Hay ta có quyền nghi vấn toàn bộ câu chuyện chỉ là sự phân thân của một người bệnh thần kinh. Anh ta tự tách bản thân ra hai phần phần Thiện và phần Ác, phần Người và phần Thú (con mèo đen).
Con mèo đen trong huyền thoại vừa có tích tiêu cực nhưng cũng có mặt tích cực, vừa đại diện cho bóng tối, cái chết vừa đại diện cho sự tinh khôn, mưu mẹo. Từ huyền thoại bước vào tác phẩm của Poe, con mèo đen trở thành biểu tượng cho những giằng xé thiện ác, tỉnh mê trong mỗi con người. Con mèo đen vừa là mê tín nhưng có thật là mê tín không? Hay là mượn mê tín để phủ lấp lên sự thật nhằm che đậy sự xấu xa, đen tối. Tôi là người khôn ngoan tỉnh táo biết cách lấm liếm sự thật hay là kẻ nhu nhược, sợ hãi, loạn trí. Chính vì vậy mà biểu tượng con mèo đen trong tác phẩm có thể hiểu như biểu tượng cho sự đa đoan, đa dạng, đa diện của đời sống nội tâm con người.
Truyện ngắn Con mèo đen nhìn theo khía cạnh này bỗng trở thành ẩn dụ lớn về con người và cái cách con người chọn để sống ở cuộc đời này. Trong suốt cuộc đời, con người đứng trước rất nhiều ngã rẽ nhưng chỉ được chọn một. Cũng giống như Tôi, có rất nhiều cách đương đầu với cuộc đời nhưng anh ta đã chọn cách tiêu cực nhất. Những đối cực trong người nhân vật xưng Tôi là những mâu thuẫn có trong mỗi con người, nhưng cái khác là cách hành xử. Con người phải luôn luôn tranh đấu để phần Tốt tồn tại và phần Xấu ẩn đi, để ánh sáng lấn áp bóng tối và cái Thiện chiến thắng.
Chủ đề con người và tội lỗi, tội ác và sự trừng phạt trong các quan niệm truyền thống chỉ mang tính giáo huấn. Còn trong Con mèo đen đó là sự phức tạp, rối ren trong tâm lý con người. Không có ai là toàn thiện, không có gì là toàn mỹ. Tội lỗi và trong sạch chỉ cách nhau một khoảng cách mơ hồ. E.A.Poe đã đem bài học luân lý không dễ tiếp thu ấy vào một câu chuyện kinh dị và kỳ ảo.
Lương Thị Hoài Tâm
Linh Naby - tác giả tại Reviewsach.net
Linh là một biên tập viên khó tính, hay gắt gỏng và cực kỳ nghiêm khắc với những ai hay mắc lỗi chính tả.
Cá tính nhưng không hòa đồng, đẹp gái nhưng dễ gây mất lòng
Truyện ngắn Con Mèo Đen – Egar Allan Poe
The Black Cat (Con mèo đen) – truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe – một tác phẩm kinh dị đáng suy ngẫm, vượt thoát ranh giới một truyện ngắn thông thường bởi nó đem lại cho người đọc những câu hỏi nan giải về bản ngã con người chân chính là Thiện hay là Ác, là Tốt hay là Xấu.
The Black Cat (Con mèo đen) được sáng tác năm 1843. Tác phẩm là lời thú tội của nhân vật xưng Tôi. Tôi muốn kể lại câu chuyện của cuộc đời mình xoay quanh “con mèo đen”. Thuở nhỏ, anh ta vốn là cậu bé nhút nhát, nhân hậu, yêu thú vật. Khi lớn lên, anh ta uống rượu rồi dần dần trở nên hung bạo hành hạ thú vật và đánh đập vợ.
Review truyện ngắn con mèo đen Egar Allan Poe
Tôi khoét mắt, treo cổ con mèo đen tên Pluto vốn là vật nuôi trước đây anh ta rất yêu quý. Hỏa hoạn xảy ra, trên bức tường cháy loang lỗ hiện ra gương mặt con mèo khổng lồ và nút dây thắt cổ. Tôi hối hận và tìm kiếm con mèo trong các quán rượu.
Một hôm, anh ta tìm được một con mèo đen giống hệt Pluto, cũng bị khoét mắt nhưng nó có một đốm trắng ở cổ. Anh ta đem con mèo về nuôi và hứa sẽ yêu quý nó. Nhưng khi say rượu, anh ta lại chán ghét con mèo.
Một hôm khac, trên đường xuống hầm, bị con mèo quấn chân, anh ta định giết con mèo nhưng bị người vợ cản lại, nhân vật Tôi đã giết vợ và chôn xác sau bức tường trong hầm. Bốn ngày sau, cảnh sát đến điều tra. Anh ta vô cùng tự tin dẫn cảnh sát xuống hầm và gõ vào bức tường mới xây để chứng minh sự vô tội, thì có tiếng mèo kêu. Thì ra, lúc chôn xác vợ, anh ta đã chôn luôn con mèo vào đó.
Trong truyện ngắn Con mèo đen ngoài nhân vật xưng Tôi, con mèo đen là nhân vật chính thứ hai. Con mèo đen đầu tiên có tên là Pluto được miêu tả như sau:“Con mèo này là một con vật rất to và đẹp, đen tuyền, và khôn đến mức độ đáng kinh ngạc” và “Pluto – tên con mèo – là con vật tôi quý nhất, là người bạn của tôi”. Truy ngược về quá khứ thì việc xem mèo đen là phù thủy xuất hiện rất nhiều trong các truyện thần thoại, cổ tích và trong quan niệm của người phương Tây. Dơi, quạ, mèo đen và số 13 là biểu tượng của sự không may mắn, điềm rủi.
Từ những huyền thoại trên, đã làm hình ảnh con mèo đen mang một giá trị biểu tượng tự thân – biểu tượng cho điềm xấu, không may mắn.
Tác giả sách Egar Allan Poe
Trong truyện, con mèo của Tôi được đặt tên là Pluto, truy về nguồn gốc đó chính là tên của vị thần Hades cai quản thế giới Âm phủ trong Thần thoại Hy Lạp. Như vậy, có thể thấy được tính biểu trưng cho Cái Chết và những điều xui xẻo trong hình ảnh con mèo Pluto. Tác giả đã dùng những quan niệm mặc định trong tâm thức người đọc để phủ một lớp huyền thoại ma quái và chết chóc lên con mèo Pluto ngay từ đầu truyện.
Nếu bóc tách từng lớp vỏ tác phẩm thì ở vẻ bên ngoài, tác giả đã dùng huyền thoại như một công cụ biện hộ cho Tôi hay nói chính xác hơn là Tôi dùng con mèo đen để biện hộ cho tội ác của mình. Anh ta cứ nói nhiều đến sự vô tội, ngây thơ của con mèo nhưng đồng thời tạo ra những chi tiết hướng người đọc vào sự tối tăm, huyền bí của con mèo Pluto (nhắc đến phù thủy, nhắc đến sự thay đổi bất thường xúc bản thân dù không muốn điều đó, hình ảnh đầu mèo trên tường, sự xuất hiện của Pluto thứ hai, vô ý giết vợ, con mèo kêu lên làm cảnh sát phát hiện ra tội ác anh ta…). Hình tượng Con mèo đen ở lớp ý nghĩa thứ nhất tượng trưng cho nỗi sợ hãi của con người trước những điều không thể giải thích bằng khoa học. Nỗi sợ có từ quan niệm thời cổ xưa về tà thuật, phù thủy, ma quỷ. Con mèo đen đem đến cái Xấu, cái Ác khiến nhân vật Tôi từ người hiền lành lương thiện trở thành tên giết người.
Ở lớp nghĩa thứ hai, biểu tượng con mèo đen chỉ mang tính chất lừa mị. Lừa dối bản thân và mị hoặc mọi người. Toàn bộ câu truyện là lời nói của một tên giết người đã bị kết án, theo đúng logic tâm lý, anh ta mong muốn được thoát tội. Nếu nhìn theo góc độ này thì ta có thể đặt ra nghi vấn: thật sự có con mèo Pluto tồn tại? hay chỉ là cái cớ nhân vật Tôi gợi lòng thương cảm và sự đồng tình của mọi người. Hay ta có quyền nghi vấn toàn bộ câu chuyện chỉ là sự phân thân của một người bệnh thần kinh. Anh ta tự tách bản thân ra hai phần phần Thiện và phần Ác, phần Người và phần Thú (con mèo đen).
Con mèo đen trong huyền thoại vừa có tích tiêu cực nhưng cũng có mặt tích cực, vừa đại diện cho bóng tối, cái chết vừa đại diện cho sự tinh khôn, mưu mẹo. Từ huyền thoại bước vào tác phẩm của Poe, con mèo đen trở thành biểu tượng cho những giằng xé thiện ác, tỉnh mê trong mỗi con người. Con mèo đen vừa là mê tín nhưng có thật là mê tín không? Hay là mượn mê tín để phủ lấp lên sự thật nhằm che đậy sự xấu xa, đen tối. Tôi là người khôn ngoan tỉnh táo biết cách lấm liếm sự thật hay là kẻ nhu nhược, sợ hãi, loạn trí. Chính vì vậy mà biểu tượng con mèo đen trong tác phẩm có thể hiểu như biểu tượng cho sự đa đoan, đa dạng, đa diện của đời sống nội tâm con người.
Truyện ngắn Con mèo đen nhìn theo khía cạnh này bỗng trở thành ẩn dụ lớn về con người và cái cách con người chọn để sống ở cuộc đời này. Trong suốt cuộc đời, con người đứng trước rất nhiều ngã rẽ nhưng chỉ được chọn một. Cũng giống như Tôi, có rất nhiều cách đương đầu với cuộc đời nhưng anh ta đã chọn cách tiêu cực nhất. Những đối cực trong người nhân vật xưng Tôi là những mâu thuẫn có trong mỗi con người, nhưng cái khác là cách hành xử. Con người phải luôn luôn tranh đấu để phần Tốt tồn tại và phần Xấu ẩn đi, để ánh sáng lấn áp bóng tối và cái Thiện chiến thắng.
Chủ đề con người và tội lỗi, tội ác và sự trừng phạt trong các quan niệm truyền thống chỉ mang tính giáo huấn. Còn trong Con mèo đen đó là sự phức tạp, rối ren trong tâm lý con người. Không có ai là toàn thiện, không có gì là toàn mỹ. Tội lỗi và trong sạch chỉ cách nhau một khoảng cách mơ hồ. E.A.Poe đã đem bài học luân lý không dễ tiếp thu ấy vào một câu chuyện kinh dị và kỳ ảo.
Lương Thị Hoài Tâm
Linh Naby - tác giả tại Reviewsach.net
Linh là một biên tập viên khó tính, hay gắt gỏng và cực kỳ nghiêm khắc với những ai hay mắc lỗi chính tả.
Cá tính nhưng không hòa đồng, đẹp gái nhưng dễ gây mất lòng
Last edited by LDN on Fri Feb 03, 2023 10:11 pm; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Tại sao bạn nên đọc Edgar Allan Poe?
Jayson Vo - spiderum
All we see or seem is but a dream within a dream
Một vầng trán rộng bị tóc đen xoăn rối che phủ, một làn da xanh xao bệnh hoạn, một cái nhìn của trí tuệ sâu sắc và vẻ kiệt sức còn sâu sắc hơn trong đôi mắt tối tăm, hõm sâu của ông. Hình tượng Edgar Allan Poe không những dễ nhận ra mà còn hoàn toàn phù hợp với tiếng tăm của ông. Từ một tù nhân bị trói dưới lưỡi dao lắc đang dần hạ xuống cho tới một con quạ không chịu rời phòng của người kể chuyện, những câu chuyện sáng tạo đầy rùng tợn mang phong cách Gô-tích của Poe đã để lại dấu ấn khó phai trong lịch sử văn chương. Nhưng điều gì đã đưa Edgar Allan Poe trở thành một trong những nhà văn Mỹ vĩ đại nhất ?
Ở thời ông, thể loại kinh dị khá phổ biến với nhiều tác giả, nhưng Poe vẫn nổi bật nhờ sự tỉ mỉ trong thể loại và phong cách. Trong vai trò nhà phê bình văn học, ông đã xác định hai quy tắc cốt yếu cho thể loại truyện ngắn:
1. Truyện phải đủ ngắn để có thể đọc hết trong một lượt.
2. Mỗi từ mỗi chữ đều phải có mục đích.
Áp dụng thuần thục hai quy tắc này, Poe đã thu hút sự chú ý của độc giả và đem lại cho họ trải nghiêm căng thẳng và rất riêng mà ông gọi là sự kết hợp các hiệu ứng ( unity of effect).
Vượt qua cả nỗi sợ đơn thuần, truyện ngắn của Poe gồm yếu tố bạo lực, rùng rợn để khám phá nghịch lý và bí ẩn của tình yêu, nỗi đau, và tội lỗi, với các thông điệp đạo đức được diễn giải mập mờ và phức tạp. Dù các tác phẩm của Poe thường hàm ẩn yếu tố siêu nhiên, mảng tối thực sự mà chúng hướng tới chính là tâm trí con người và khuynh hướng tự diệt của nó. Trong truyện ngắn " The Tell-Tale Heart", một vụ giết người tàn nhẫn được đặt tương phản cạnh sự cảm thông của kẻ thủ ác với nạn nhân tạo nên mối liên kết để rồi mối liên kết sẽ quay về ám ảnh hắn. Nhân vật Ligeia trong truyện ngắn cùng tên từ cõi chết trở về qua xác chết của người vợ thứ của chồng cô hoặc ít nhất là người kể chuyện nghiện ngập nghĩ vậy. Và khi nhân vật chính của "William Wilson" dằn mặt kẻ mà anh ta cho là đã bám đuôi mình có lẽ chỉ đang đối mặt với hình ảnh của chính mình trong gương.
Tiên phong trong việc sử dụng những người dẫn chuyện không đáng tin, Poe buộc độc giả phải tham gia chủ động và tự mình quyết định xem người kể chuyện có đang hiểu sai hay thậm chí là nói dối về những chuyện họ kể. Tuy được biết đến nhiều nhất nhờ các truyện ngắn kinh dị, Poe thực ra lại là một trong những tắc giả đa tài và chịu khó thử nghiệm nhất thế kỷ XIX. Ông sáng tạo ra thể loại truyện trinh thám ta đọc hàng ngày nay với "Án mạng phố Rue Morgue", tiếp đó là "Bí ẩn Marie Roget" và "Lá thư bị đánh cắp". Cả ba truyện ngắn này đều xuất hiện nhân vật thám tử ghế bành C.Auguste Dupin, dùng năng lực quan sát, suy luận thiên tài và khác người để phá cá vụ án làm đau đầu giới cảnh sát.
Poe cũng viết tác phẩm châm biếm xã hội và các trào lưu văn học, cũng như một số tin vịt định hướng khoa học viễn tưởng sau này. Các tin vịt gồm chuyến bay khinh khí cầu tới mặt trăng và báo cáo về một nhân hấp hối bị đưa vào trạng thôi miên để có thể nói chuyện từ thế giới bên kia. Poe thậm chí còn viết tiểu thuyết phiêu lưu về chuyến đi Nam Cực và viết lý luận về vật lý thiên văn khi còn đang làm biên tập và xuất bản hàng trăm trang phê bình sách và lý thuyết văn học. Sẽ thật thiếu sót nếu đánh giá sự nghiệp văn chương của ông mà không có những áng thơ đầy mê hoặc và ám ảnh. Nổi tiếng nhất là khúc ca viết về nỗi đau, hay như Poet viết: "Nỗi nhớ thống khổ và khôn nguôi" ( mournful and never-ending remembrance). Bài "Con quạ", với người kể chuyện trút nỗi đau vào con quạ- con vật chỉ lặp lại một âm thanh duy nhất (Nevermore) đã giúp Poe nổi danh.
Dù thành công trong sự nghiệp văn chương, Poe vẫn sống trong nghèo khổ suốt những năm làm việc và cuộc sống tăm tối như chính. Cái chết ở tuổi 24 của cả mẹ và vợ do bệnh lao đã ám ảnh Poe cả đời. Ông đánh vật với chứng nghiện rượu và thường đối đầu với các nhà văn nổi tiếng khác. Phần nhiều danh tiếng của ông tới từ các tác phẩm chuyển thể rất khác với nguyên gốc sau khi ông qua đời. Nếu có thể biết được các tác phẩm của mình đã đem lại bao niềm vui và cảm hứng cho nhiều thế hệ độc giả và tác giả, có lẽ nụ cười đã nở trên khuôn mặt ưu sầu nổi tiếng ấy.
_______________________________________
Source: Ted Ed Why should you read Edgar Allan Poe?- Scott Peeples
Jayson Vo - spiderum
All we see or seem is but a dream within a dream
Một vầng trán rộng bị tóc đen xoăn rối che phủ, một làn da xanh xao bệnh hoạn, một cái nhìn của trí tuệ sâu sắc và vẻ kiệt sức còn sâu sắc hơn trong đôi mắt tối tăm, hõm sâu của ông. Hình tượng Edgar Allan Poe không những dễ nhận ra mà còn hoàn toàn phù hợp với tiếng tăm của ông. Từ một tù nhân bị trói dưới lưỡi dao lắc đang dần hạ xuống cho tới một con quạ không chịu rời phòng của người kể chuyện, những câu chuyện sáng tạo đầy rùng tợn mang phong cách Gô-tích của Poe đã để lại dấu ấn khó phai trong lịch sử văn chương. Nhưng điều gì đã đưa Edgar Allan Poe trở thành một trong những nhà văn Mỹ vĩ đại nhất ?
Ở thời ông, thể loại kinh dị khá phổ biến với nhiều tác giả, nhưng Poe vẫn nổi bật nhờ sự tỉ mỉ trong thể loại và phong cách. Trong vai trò nhà phê bình văn học, ông đã xác định hai quy tắc cốt yếu cho thể loại truyện ngắn:
1. Truyện phải đủ ngắn để có thể đọc hết trong một lượt.
2. Mỗi từ mỗi chữ đều phải có mục đích.
Áp dụng thuần thục hai quy tắc này, Poe đã thu hút sự chú ý của độc giả và đem lại cho họ trải nghiêm căng thẳng và rất riêng mà ông gọi là sự kết hợp các hiệu ứng ( unity of effect).
Vượt qua cả nỗi sợ đơn thuần, truyện ngắn của Poe gồm yếu tố bạo lực, rùng rợn để khám phá nghịch lý và bí ẩn của tình yêu, nỗi đau, và tội lỗi, với các thông điệp đạo đức được diễn giải mập mờ và phức tạp. Dù các tác phẩm của Poe thường hàm ẩn yếu tố siêu nhiên, mảng tối thực sự mà chúng hướng tới chính là tâm trí con người và khuynh hướng tự diệt của nó. Trong truyện ngắn " The Tell-Tale Heart", một vụ giết người tàn nhẫn được đặt tương phản cạnh sự cảm thông của kẻ thủ ác với nạn nhân tạo nên mối liên kết để rồi mối liên kết sẽ quay về ám ảnh hắn. Nhân vật Ligeia trong truyện ngắn cùng tên từ cõi chết trở về qua xác chết của người vợ thứ của chồng cô hoặc ít nhất là người kể chuyện nghiện ngập nghĩ vậy. Và khi nhân vật chính của "William Wilson" dằn mặt kẻ mà anh ta cho là đã bám đuôi mình có lẽ chỉ đang đối mặt với hình ảnh của chính mình trong gương.
Tiên phong trong việc sử dụng những người dẫn chuyện không đáng tin, Poe buộc độc giả phải tham gia chủ động và tự mình quyết định xem người kể chuyện có đang hiểu sai hay thậm chí là nói dối về những chuyện họ kể. Tuy được biết đến nhiều nhất nhờ các truyện ngắn kinh dị, Poe thực ra lại là một trong những tắc giả đa tài và chịu khó thử nghiệm nhất thế kỷ XIX. Ông sáng tạo ra thể loại truyện trinh thám ta đọc hàng ngày nay với "Án mạng phố Rue Morgue", tiếp đó là "Bí ẩn Marie Roget" và "Lá thư bị đánh cắp". Cả ba truyện ngắn này đều xuất hiện nhân vật thám tử ghế bành C.Auguste Dupin, dùng năng lực quan sát, suy luận thiên tài và khác người để phá cá vụ án làm đau đầu giới cảnh sát.
Poe cũng viết tác phẩm châm biếm xã hội và các trào lưu văn học, cũng như một số tin vịt định hướng khoa học viễn tưởng sau này. Các tin vịt gồm chuyến bay khinh khí cầu tới mặt trăng và báo cáo về một nhân hấp hối bị đưa vào trạng thôi miên để có thể nói chuyện từ thế giới bên kia. Poe thậm chí còn viết tiểu thuyết phiêu lưu về chuyến đi Nam Cực và viết lý luận về vật lý thiên văn khi còn đang làm biên tập và xuất bản hàng trăm trang phê bình sách và lý thuyết văn học. Sẽ thật thiếu sót nếu đánh giá sự nghiệp văn chương của ông mà không có những áng thơ đầy mê hoặc và ám ảnh. Nổi tiếng nhất là khúc ca viết về nỗi đau, hay như Poet viết: "Nỗi nhớ thống khổ và khôn nguôi" ( mournful and never-ending remembrance). Bài "Con quạ", với người kể chuyện trút nỗi đau vào con quạ- con vật chỉ lặp lại một âm thanh duy nhất (Nevermore) đã giúp Poe nổi danh.
Dù thành công trong sự nghiệp văn chương, Poe vẫn sống trong nghèo khổ suốt những năm làm việc và cuộc sống tăm tối như chính. Cái chết ở tuổi 24 của cả mẹ và vợ do bệnh lao đã ám ảnh Poe cả đời. Ông đánh vật với chứng nghiện rượu và thường đối đầu với các nhà văn nổi tiếng khác. Phần nhiều danh tiếng của ông tới từ các tác phẩm chuyển thể rất khác với nguyên gốc sau khi ông qua đời. Nếu có thể biết được các tác phẩm của mình đã đem lại bao niềm vui và cảm hứng cho nhiều thế hệ độc giả và tác giả, có lẽ nụ cười đã nở trên khuôn mặt ưu sầu nổi tiếng ấy.
_______________________________________
Source: Ted Ed Why should you read Edgar Allan Poe?- Scott Peeples
Last edited by LDN on Wed Jan 25, 2023 9:48 pm; edited 2 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
TRANG TRINH THÁM - by PHAN BA
Mặt nạ tử thần đỏ - EDGAR ALLAN POE
The Mask of the Red Death
Lê Bá Kông dịch
“Tử Thần Đỏ” đã hoành hành tại miền này từ lâu.
Từ trước đến giờ chưa có bệnh nào nguy hại hay trông kinh khủng như vậy. Máu là dấu hiệu của chứng bệnh đó – cái màu đỏ của máu. Con bệnh đau một cách dữ dội và bỗng nhiên có cảm giác như trí não đang quay cuồng trong đầu, rồi máu rỉ ra trên da, dù da không đứt, không nứt, và toàn thân đột nhiên suy bại. Những vết chấm đỏ trên người và nhất là trên mặt bệnh nhân vĩnh viễn tách hẳn y với đồng bào của y. Và cơn bệnh từ đầu chí cuối không lâu quá nửa giờ đồng hồ.
Nhưng Nam tước Baron Prospero vẫn sung sướng, khoẻ mạnh và khôn ngoan. Khi một nửa dân số trên mảnh đất của ông đã chết. Ông liền tụ tập một ngàn người bạn thân, khỏe mạnh và vui tính, rồi cùng họ rời đi thật xa, tới một trong số những dinh thự của ông. Đó là một dinh thự to lớn và đẹp do chính ông vẽ kiểu. Quanh dinh thự ấy có một bức tường cao và chắc chắn bao bọc. Tường ấy lại có cửa bằng sắt. Khi đã vào trong dinh rồi, mọi người liền lấy lửa nung đỏ sắt cửa và gắn liền chúng lại để chẳng có khóa nào có thể mở được nữa.
Họ muốn từ đấy chẳng còn ai có thể ra hay vào nơi đó được. Trong dinh thự, có đủ lương thực. Họ có thể quên chứng bệnh kia ở đây. Họ phó mặc cho thế giới bên ngoài tự lo lấy thân. Họ đâu có dại gì mà nghĩ ngợi và buồn cho thế giới ấy. Chủ nhà đã lo đủ mọi thứ cần thiết cho mọi thú vui của họ. Có âm nhạc, khiêu vũ, sắc đẹp và rượu ngon. Tất cả những thứ đó đều có trong dinh, và trong dinh ấy họ sẽ được yên ổn. Bên ngoài bức tường kia là “Tử Thần Đỏ”.
Họ sống ở đó đã được năm sáu tháng. Vào khoảng cuối thời gian ấy, Nam tước Baron Prospero tổ chức cho các bạn của ông một buổi đại tiệc hóa trang. Buổi tiệc hôm đó cực kỳ huy hoàng. Nhưng trước hết xin hãy để tôi nói về những căn phòng được dùng để tổ chức dạ hội đó. Có bảy phòng. Trong nhiều dinh thự, các cửa thường được mở để mọi người có thể nhìn thông qua ngay một lúc những phòng giống như bảy phòng này. Nhưng ở dinh thự này lại khác hẳn. Cùng một lúc người ta chỉ có thể nhìn thấy một phòng thôi. Cứ hai ba mươi thước lại có một khúc quẹo.
Ở bên phải và bên trái, giữa mỗi bức tường có một cái cửa sổ cao và nhọn. Những cửa sổ này đều có gắn kính cùng màu với đồ đạc trong phòng. Phòng phía đông, trướng phủ tường đều bằng vải màu xanh – và cửa sổ cũng gắn kính màu xanh. Phòng thứ nhì có trướng màu tím đỏ và cửa sổ cũng màu tím đỏ. Phòng thứ ba màu xanh lá cây và cửa sổ cũng đồng màu ấy. Phòng thứ tư có trướng và cửa sổ màu vàng – phòng thứ năm màu trắng – phòng thứ sáu màu xanh pha đỏ mệnh danh là tím. Phòng thứ bảy có trướng bằng vải mềm và quý màu đen, và sàn phòng cũng được phủ một thứ vải như thế. Nhưng trong phòng này, cửa sổ lại gắn kính màu khác. Kính ở đây màu đỏ thắm – màu máu đỏ thắm.
Để soi sáng những phòng ấy người ta đốt lửa trong những lò sắt đặt bên ngoài mỗi cửa sổ. Ánh sáng lọt vào, trông thật là kỳ dị và nhiều khi lại đẹp nữa. Nhưng trong căn phòng phía tây hay căn phòng màu đen, ánh lửa chiếu qua những tấm kính màu máu rọi lên những bức trướng đen trông thật khủng khiếp, nó làm gương mặt của những người bước vào đây có một vẻ man rợ, đến nỗi rất ít người trong bọn họ dám đặt chân vào trong những bức tường đen tối đó.
Trong căn phòng ấy có kê một cái đồng hồ lớn bằng gỗ đen. Cái đồng hồ ấy đánh dấu những thời gian qua đi bằng thứ tiếng buồn man mác và nặng nề; khi tới giờ đánh chuông, người ta nghe thấy một tiếng trong, to và trầm, du dương như tiếng nhạc nhưng lại lạ lùng đến nỗi tất cả những người đang khiêu vũ đều dừng lại và đứng yên lắng nghe. Ngay cả những người vui tươi nhất cũng tái mặt đi, còn những người có tuổi hình như lại chìm đắm trong suy tư. Rồi tất cả mọi người lại cười và bảo nhau là lần sau họ sẽ không dừng chân để nghe nữa. Thế rồi, sau đó sáu mươi phút (ba ngàn sáu trăm giây của Thời Gian lướt qua) chuông đồng hồ ấy lại đánh và những người đang khiêu vũ lại dừng lại như trước.
Tuy nhiên, đó vẫn là một buổi dạ hội tưng bừng vui vẻ. Thị hiếu của chủ nhà không giống thị hiếu của người khác. Ông rất sành về màu sắc và công dụng của nó. Chương trình của ông thật táo bạo và cuồng nhiệt. Có một số người bảo rằng ông ta đã không tự kiểm soát được mình nữa. Nhưng những người theo ông đều tin tưởng vào ông. Cần phải nghe, nhìn, và tiếp xúc với ông ta để tin tưởng ông ta.
Chính thị hiếu của ông đã giúp người tham dự buổi dạ hội hóa trang hiểu biết về cách ăn mặc của họ. Bạn có thể chắc chắn là họ ngông và kỳ dị. Rất nhiều vẻ đẹp có điểm thêm ít nhiều vẻ kinh khủng và cũng chẳng thiếu vẻ ghê tởm. Đây đó thật ra có ngàn con người trong mộng, tản bộ qua các phòng.
Dường như bước chân họ không đi theo nhịp âm nhạc, mà chính nhạc đã phát ra từ bước chân họ.
Rồi tiếng chuông của cái đồng hồ đen đánh, và tất cả đều im lặng chỉ còn tiếng chuông đồng hồ ấy. Mọi người đứng trơ ra như bụt. Rồi tiếng nhạc lại nổi lên, những người trong mộng lại chuyển động, cười và nhảy múa vui vẻ, sung sướng hơn bao giờ hết, nhuộm mình vào màu cửa kính do ánh lửa bên ngoài hắt vào.
Nhưng trong căn phòng nằm ở tận phía tây, không còn người đeo mặt nạ nào tới đó nữa, vì một làn ánh sáng đỏ hơn tỏa xuyên qua cửa sổ và màu đen của những bức trướng khiến họ sợ, và người nào bước chân vào đó cũng nghe thấy tiếng chuông đồng hồ đen đánh rõ hơn.
Những căn phòng khác đều chật ních người. Và trong những căn phòng này nhịp sống đập một cách cuồng nhiệt. Cuộc khiêu vũ cứ tiếp tục kéo dài cho đến lúc chuông đồng hồ đánh 12 tiếng. Rồi tiếng nhạc ngừng, mọi người đang khiêu vũ đứng yên trong khi đó tiếng chuông đồng hồ vẫn điểm. Trước khi tiếng chuông đồng hồ ngừng lại, nhiều người trong bọn họ đã có thì giờ nhìn thấy rằng, lẫn trong bọn họ, có một người hóa trang ở đó từ nãy đến giờ mà họ không nhận thấy. Họ thì thầm với nhau về người khách lạ đó, mọi người đều cảm thấy ngạc nhiên, rồi kinh hãi và khủng khiếp, ghê tởm.
Trong một nhóm người như tôi vừa tả, ta có thể nói rằng chỉ một kẻ hóa trang rất kỳ dị mới có thể gây ra một cảm giác như thế. Ngay cả những người coi thường sống chết vẫn có một số sự việc không thể coi nhẹ được. Thật vậy, tất cả mọi người dường như đều cảm thấy không thể nào cho phép kẻ mặc cái áo dài kia dự dạ hội được. Người ấy cao lêu nghêu. Từ đầu tới chân phủ vải như một người chết sắp được an táng. Cái mặt nạ trên mặt người đó cũng giống y như bộ mặt người đã chết, đến nỗi người đứng gần nhất cũng không thể thấy được sự khác biệt. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đều có thể được chấp nhận. Nhưng người khách đeo mặt nạ còn đi xa hơn đến độ bắt chước cả cái vẻ của “Tử Thần Đỏ.” Quần áo y có điểm những vết máu – và mặt y cũng điểm những chấm đỏ thắm khủng khiếp.
Khi Nam Tước Baron Prospero thấy hình dáng kinh khủng kia đi chậm chạp giữa những người khiêu vũ thì người ta nhận thấy trước tiên ông tỏ ra khiếp hãi, rồi giận dữ.
Ông quát lên: “Tên nào kia? Bắt lấy nó rồi lột mặt nạ nó ra để xem đến sáng chúng ta sẽ xử giảo tên nào đây?”
Baron Prospero đứng trong căn phòng phía đông màu xanh khi ông nói thế. Tiếng ông vang lên rõ rệt khắp cả bảy căn phòng. Nghe ông nói, mọi người đổ xô lại phía người lạ nhưng chẳng ai dám giơ tay ra để đụng tới người y.
Y đi cách vị Nam Tước không tới một thước; và trong khi mọi người nép vào hai bên tường, y tự do bước đều và chậm chạp qua căn phòng xanh rồi sang căn phòng tím đỏ – từ căn phòng màu tím đỏ sang căn phòng màu xanh lá cây – từ căn phòng màu xanh lá cây sang căn phòng màu vàng – từ phòng màu vàng sang phòng màu trắng – rồi sau đó sang phòng màu tím. Lúc bấy giờ Nam Tước Baron Prospero giận dữ và vội vã chạy xô qua sáu phòng. Vì sợ đến chết khiếp nên không ai theo Nam Tước cả. Giữa lúc Nam Tước cầm con dao găm giơ cao lên trên đầu khi chỉ còn cách kẻ lạ chừng ba bốn bước thì người này quay lại và đứng đối diện với ông.
Một tiếng kêu thét lên – con dao găm sáng loáng rơi xuống nền nhà đen, và một phút sau Nam Tước Baron Prospero cũng ngã xuống sàn nhà, nằm chết.
Tất cả mọi người xô nhau chạy vào căn phòng màu đen. Họ túm chặt lấy người khách lạ hóa trang đang đứng cao sừng sững bên cạnh cái đồng hồ đen và họ khủng khiếp kêu lên khi thấy phía trong bộ quần áo người chết và dưới cái mặt nạ giống như mặt người chết chỉ là khoảng không mà thôi. Đến lúc đó họ hiểu ra là “Tử Thần Đỏ” đã tới với họ rồi. Lần lượt từng người một ngã quỵ và từng người một chết ngay khi vừa ngã xuống. Và cái đồng hồ đen cũng chết luôn khi người khách cuối cùng ngã xuống. Lửa cũng tắt. Bóng Tối, Điêu Tàn, và “Tử Thần Đỏ” đã vĩnh viễn ngự trị trên tất cả.
Mặt nạ tử thần đỏ - EDGAR ALLAN POE
The Mask of the Red Death
Lê Bá Kông dịch
“Tử Thần Đỏ” đã hoành hành tại miền này từ lâu.
Từ trước đến giờ chưa có bệnh nào nguy hại hay trông kinh khủng như vậy. Máu là dấu hiệu của chứng bệnh đó – cái màu đỏ của máu. Con bệnh đau một cách dữ dội và bỗng nhiên có cảm giác như trí não đang quay cuồng trong đầu, rồi máu rỉ ra trên da, dù da không đứt, không nứt, và toàn thân đột nhiên suy bại. Những vết chấm đỏ trên người và nhất là trên mặt bệnh nhân vĩnh viễn tách hẳn y với đồng bào của y. Và cơn bệnh từ đầu chí cuối không lâu quá nửa giờ đồng hồ.
Nhưng Nam tước Baron Prospero vẫn sung sướng, khoẻ mạnh và khôn ngoan. Khi một nửa dân số trên mảnh đất của ông đã chết. Ông liền tụ tập một ngàn người bạn thân, khỏe mạnh và vui tính, rồi cùng họ rời đi thật xa, tới một trong số những dinh thự của ông. Đó là một dinh thự to lớn và đẹp do chính ông vẽ kiểu. Quanh dinh thự ấy có một bức tường cao và chắc chắn bao bọc. Tường ấy lại có cửa bằng sắt. Khi đã vào trong dinh rồi, mọi người liền lấy lửa nung đỏ sắt cửa và gắn liền chúng lại để chẳng có khóa nào có thể mở được nữa.
Họ muốn từ đấy chẳng còn ai có thể ra hay vào nơi đó được. Trong dinh thự, có đủ lương thực. Họ có thể quên chứng bệnh kia ở đây. Họ phó mặc cho thế giới bên ngoài tự lo lấy thân. Họ đâu có dại gì mà nghĩ ngợi và buồn cho thế giới ấy. Chủ nhà đã lo đủ mọi thứ cần thiết cho mọi thú vui của họ. Có âm nhạc, khiêu vũ, sắc đẹp và rượu ngon. Tất cả những thứ đó đều có trong dinh, và trong dinh ấy họ sẽ được yên ổn. Bên ngoài bức tường kia là “Tử Thần Đỏ”.
Họ sống ở đó đã được năm sáu tháng. Vào khoảng cuối thời gian ấy, Nam tước Baron Prospero tổ chức cho các bạn của ông một buổi đại tiệc hóa trang. Buổi tiệc hôm đó cực kỳ huy hoàng. Nhưng trước hết xin hãy để tôi nói về những căn phòng được dùng để tổ chức dạ hội đó. Có bảy phòng. Trong nhiều dinh thự, các cửa thường được mở để mọi người có thể nhìn thông qua ngay một lúc những phòng giống như bảy phòng này. Nhưng ở dinh thự này lại khác hẳn. Cùng một lúc người ta chỉ có thể nhìn thấy một phòng thôi. Cứ hai ba mươi thước lại có một khúc quẹo.
Ở bên phải và bên trái, giữa mỗi bức tường có một cái cửa sổ cao và nhọn. Những cửa sổ này đều có gắn kính cùng màu với đồ đạc trong phòng. Phòng phía đông, trướng phủ tường đều bằng vải màu xanh – và cửa sổ cũng gắn kính màu xanh. Phòng thứ nhì có trướng màu tím đỏ và cửa sổ cũng màu tím đỏ. Phòng thứ ba màu xanh lá cây và cửa sổ cũng đồng màu ấy. Phòng thứ tư có trướng và cửa sổ màu vàng – phòng thứ năm màu trắng – phòng thứ sáu màu xanh pha đỏ mệnh danh là tím. Phòng thứ bảy có trướng bằng vải mềm và quý màu đen, và sàn phòng cũng được phủ một thứ vải như thế. Nhưng trong phòng này, cửa sổ lại gắn kính màu khác. Kính ở đây màu đỏ thắm – màu máu đỏ thắm.
Để soi sáng những phòng ấy người ta đốt lửa trong những lò sắt đặt bên ngoài mỗi cửa sổ. Ánh sáng lọt vào, trông thật là kỳ dị và nhiều khi lại đẹp nữa. Nhưng trong căn phòng phía tây hay căn phòng màu đen, ánh lửa chiếu qua những tấm kính màu máu rọi lên những bức trướng đen trông thật khủng khiếp, nó làm gương mặt của những người bước vào đây có một vẻ man rợ, đến nỗi rất ít người trong bọn họ dám đặt chân vào trong những bức tường đen tối đó.
Trong căn phòng ấy có kê một cái đồng hồ lớn bằng gỗ đen. Cái đồng hồ ấy đánh dấu những thời gian qua đi bằng thứ tiếng buồn man mác và nặng nề; khi tới giờ đánh chuông, người ta nghe thấy một tiếng trong, to và trầm, du dương như tiếng nhạc nhưng lại lạ lùng đến nỗi tất cả những người đang khiêu vũ đều dừng lại và đứng yên lắng nghe. Ngay cả những người vui tươi nhất cũng tái mặt đi, còn những người có tuổi hình như lại chìm đắm trong suy tư. Rồi tất cả mọi người lại cười và bảo nhau là lần sau họ sẽ không dừng chân để nghe nữa. Thế rồi, sau đó sáu mươi phút (ba ngàn sáu trăm giây của Thời Gian lướt qua) chuông đồng hồ ấy lại đánh và những người đang khiêu vũ lại dừng lại như trước.
Tuy nhiên, đó vẫn là một buổi dạ hội tưng bừng vui vẻ. Thị hiếu của chủ nhà không giống thị hiếu của người khác. Ông rất sành về màu sắc và công dụng của nó. Chương trình của ông thật táo bạo và cuồng nhiệt. Có một số người bảo rằng ông ta đã không tự kiểm soát được mình nữa. Nhưng những người theo ông đều tin tưởng vào ông. Cần phải nghe, nhìn, và tiếp xúc với ông ta để tin tưởng ông ta.
Chính thị hiếu của ông đã giúp người tham dự buổi dạ hội hóa trang hiểu biết về cách ăn mặc của họ. Bạn có thể chắc chắn là họ ngông và kỳ dị. Rất nhiều vẻ đẹp có điểm thêm ít nhiều vẻ kinh khủng và cũng chẳng thiếu vẻ ghê tởm. Đây đó thật ra có ngàn con người trong mộng, tản bộ qua các phòng.
Dường như bước chân họ không đi theo nhịp âm nhạc, mà chính nhạc đã phát ra từ bước chân họ.
Rồi tiếng chuông của cái đồng hồ đen đánh, và tất cả đều im lặng chỉ còn tiếng chuông đồng hồ ấy. Mọi người đứng trơ ra như bụt. Rồi tiếng nhạc lại nổi lên, những người trong mộng lại chuyển động, cười và nhảy múa vui vẻ, sung sướng hơn bao giờ hết, nhuộm mình vào màu cửa kính do ánh lửa bên ngoài hắt vào.
Nhưng trong căn phòng nằm ở tận phía tây, không còn người đeo mặt nạ nào tới đó nữa, vì một làn ánh sáng đỏ hơn tỏa xuyên qua cửa sổ và màu đen của những bức trướng khiến họ sợ, và người nào bước chân vào đó cũng nghe thấy tiếng chuông đồng hồ đen đánh rõ hơn.
Những căn phòng khác đều chật ních người. Và trong những căn phòng này nhịp sống đập một cách cuồng nhiệt. Cuộc khiêu vũ cứ tiếp tục kéo dài cho đến lúc chuông đồng hồ đánh 12 tiếng. Rồi tiếng nhạc ngừng, mọi người đang khiêu vũ đứng yên trong khi đó tiếng chuông đồng hồ vẫn điểm. Trước khi tiếng chuông đồng hồ ngừng lại, nhiều người trong bọn họ đã có thì giờ nhìn thấy rằng, lẫn trong bọn họ, có một người hóa trang ở đó từ nãy đến giờ mà họ không nhận thấy. Họ thì thầm với nhau về người khách lạ đó, mọi người đều cảm thấy ngạc nhiên, rồi kinh hãi và khủng khiếp, ghê tởm.
Trong một nhóm người như tôi vừa tả, ta có thể nói rằng chỉ một kẻ hóa trang rất kỳ dị mới có thể gây ra một cảm giác như thế. Ngay cả những người coi thường sống chết vẫn có một số sự việc không thể coi nhẹ được. Thật vậy, tất cả mọi người dường như đều cảm thấy không thể nào cho phép kẻ mặc cái áo dài kia dự dạ hội được. Người ấy cao lêu nghêu. Từ đầu tới chân phủ vải như một người chết sắp được an táng. Cái mặt nạ trên mặt người đó cũng giống y như bộ mặt người đã chết, đến nỗi người đứng gần nhất cũng không thể thấy được sự khác biệt. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đều có thể được chấp nhận. Nhưng người khách đeo mặt nạ còn đi xa hơn đến độ bắt chước cả cái vẻ của “Tử Thần Đỏ.” Quần áo y có điểm những vết máu – và mặt y cũng điểm những chấm đỏ thắm khủng khiếp.
Khi Nam Tước Baron Prospero thấy hình dáng kinh khủng kia đi chậm chạp giữa những người khiêu vũ thì người ta nhận thấy trước tiên ông tỏ ra khiếp hãi, rồi giận dữ.
Ông quát lên: “Tên nào kia? Bắt lấy nó rồi lột mặt nạ nó ra để xem đến sáng chúng ta sẽ xử giảo tên nào đây?”
Baron Prospero đứng trong căn phòng phía đông màu xanh khi ông nói thế. Tiếng ông vang lên rõ rệt khắp cả bảy căn phòng. Nghe ông nói, mọi người đổ xô lại phía người lạ nhưng chẳng ai dám giơ tay ra để đụng tới người y.
Y đi cách vị Nam Tước không tới một thước; và trong khi mọi người nép vào hai bên tường, y tự do bước đều và chậm chạp qua căn phòng xanh rồi sang căn phòng tím đỏ – từ căn phòng màu tím đỏ sang căn phòng màu xanh lá cây – từ căn phòng màu xanh lá cây sang căn phòng màu vàng – từ phòng màu vàng sang phòng màu trắng – rồi sau đó sang phòng màu tím. Lúc bấy giờ Nam Tước Baron Prospero giận dữ và vội vã chạy xô qua sáu phòng. Vì sợ đến chết khiếp nên không ai theo Nam Tước cả. Giữa lúc Nam Tước cầm con dao găm giơ cao lên trên đầu khi chỉ còn cách kẻ lạ chừng ba bốn bước thì người này quay lại và đứng đối diện với ông.
Một tiếng kêu thét lên – con dao găm sáng loáng rơi xuống nền nhà đen, và một phút sau Nam Tước Baron Prospero cũng ngã xuống sàn nhà, nằm chết.
Tất cả mọi người xô nhau chạy vào căn phòng màu đen. Họ túm chặt lấy người khách lạ hóa trang đang đứng cao sừng sững bên cạnh cái đồng hồ đen và họ khủng khiếp kêu lên khi thấy phía trong bộ quần áo người chết và dưới cái mặt nạ giống như mặt người chết chỉ là khoảng không mà thôi. Đến lúc đó họ hiểu ra là “Tử Thần Đỏ” đã tới với họ rồi. Lần lượt từng người một ngã quỵ và từng người một chết ngay khi vừa ngã xuống. Và cái đồng hồ đen cũng chết luôn khi người khách cuối cùng ngã xuống. Lửa cũng tắt. Bóng Tối, Điêu Tàn, và “Tử Thần Đỏ” đã vĩnh viễn ngự trị trên tất cả.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
TRANG TRINH THÁM - by PHAN BA
CON BỌ HUNG VÀNG - EDGAR ALLAN POE - người dịch: LÊ BÁ KÔNG,
(The Gold Bug)
Nhiều năm trước đây tôi chơi rất thân với một người tên là William Legrand. Anh xuất thân trong một gia đình cổ và danh giá, trước kia giàu có nhưng về sau bị khánh kiệt. Vì không muốn nhiều người biết rõ chuyện phiền muộn của mình nên anh đã rời khỏi thành phố New Orleans là quê hương của anh và đến sống trên đảo Sullivan’s, gần đô thị Charleston, phía Nam bang Carolina.
Hòn đảo này dài chừng năm cây số và không có chỗ nào rộng hơn bốn trăm thước. Một lạch nước chảy lững lờ ngăn cách hòn đảo và đất liền. Trên đảo không có cây to. Gần cuối đảo, về phía Tây, có mấy căn nhà gỗ tồi tàn là nơi dân chúng từ đô thị Charleston lui tới vào mùa hè để tránh bụi bặm và nóng bức. Ở đây người ta chỉ thấy một ít cây cọ. Khắp đảo, trừ dọc bờ biển trắng xóa, đều có những cây sim phủ kín, giống thảo mộc này cao từ bốn đến sáu bộ, và hoa sim tỏa hương thơm dịu dàng trong không khí.
William Legrand dựng một căn nhà nhỏ gần cuối đảo về phía đông và sống tại đây khi tôi tình cờ gặp anh. Tình bạn giữa chúng tôi nảy nở rất nhanh chóng vì anh có nhiều đức tính làm tôi mến mộ. Tôi nhận thấy anh là người có học thức, với trí thông minh vượt mức bình thường, nhưng anh không thích giao du, và tính tình thất thường, khi vui vẻ khi buồn bã.
Anh có nhiều sách nhưng ít khi đọc. Hầu hết thời gian anh dùng vào việc săn bắn và câu cá, hay đi dạo chơi trên bờ biển và trong đám sim để tìm bọ hung. Anh đã tìm thấy rất nhiều bọ hung, đủ các loại hiếm có và giữ gìn chúng rất cẩn thận.
Một ông cụ người da đen, tên là Jupiter, thường theo anh trong những cuộc dạo chơi này. Hồi gia đình William Legrand còn giàu có đã mua lão Jupiter, rồi sau giải phóng cho lão ta, nhưng lão không muốn rời khỏi cậu chủ của lão.
Mùa Đông ở đảo Sullivan’s ít khi lạnh, và về cuối năm thường không cần phải đốt lửa sưởi ấm. Tuy nhiên vào khoảng giữa tháng 10 năm 18…, có một hôm thời tiết rất lạnh. Ngay trước khi mặt trời xế bóng tôi đi len giữa đám sim xanh um để đến nhà bạn tôi. Đã mấy tuần tôi không đến thăm anh. Hồi đó tôi ở Charleston, cách đảo mười lăm cây số, nhưng thời bấy giờ đi về không dễ dàng như ngày nay.
Khi tới căn nhà nhỏ, tôi gõ cửa nhưng không thấy ai trả lời nên tôi tìm chiếc chìa khóa dấu ở một nơi tôi đã biết. Tôi mở khóa cửa rồi vào trong nhà. Một ngọn lửa trong lò sưởi đang cháy làm tôi ngạc nhiên và thích thú. Tôi cởi áo choàng, ngồi trên một chiếc ghế lớn bên cạnh lò sưởi, và đợi hai bạn tôi trở về.
Sau chiều tà một lúc, họ trở về và có vẻ rất hoan hỷ được gặp tôi. Lão Jupiter cười ngoác cả miệng, đi lại lăng xăng để làm cơm. William Legrand thì coi bộ vui vẻ, hớn hở. Với sự giúp đỡ của lão Jupiter, anh đã tìm thấy và bắt được một con côn trùng lớn thuộc loài bọ hung mà anh tin rằng con bọ hung này hoàn toàn mới lạ đối với những người nào nghiên cứu về những giống này. Anh muốn rằng sáng hôm sau tôi sẽ cho anh biết ý kiến về con bọ hung này.
“Sao lại không bàn ngay tối nay.” Tôi vừa hỏi vừa đưa tay về phía lửa, và không muốn nghe chuyện côn trùng thuộc loại bọ hung.
William Legrand nói: “Chà, phải chi tôi đã biết trước là anh đến đây. Nhưng đã lâu tôi không gặp anh. Làm sao tôi biết trước được anh sẽ đến thăm tôi ngay đêm nay nhỉ? Khi tôi đang về nhà thì gặp một người bạn ở đầu hòn đảo bên kia, và tôi đưa hắn cầm con bọ hung đó. Đêm nay anh ở lại đây, rồi tới rạng đông tôi sẽ cho lão Jupiter đi lấy về. Nó đẹp tuyệt trần!”
“Sao? Rạng đông đẹp à?”
“Không, con bọ hung. Màu nó vàng óng ánh, dài chừng năm phân, có hai chấm đen ở gần đuôi và một chấm đen khác dài hơn ở phía đầu. Nhưng sợi râu thì thiệt là…”
Lão Jupiter nghe không rõ, vội cãi: “Nó không phải bằng thiếc đâu cậu ạ, cháu cam đoan vậy. Con bọ này có một chất quý hơn thiếc. Nó là con bọ hung vàng, toàn vàng, hết thảy cả trong lẫn ngoài, chỉ trừ cánh. Trong đời cháu chưa bao giờ thấy con bọ hung nào nặng như thế.”
William Legrand trả lời: “Ừ thì cho nó là bằng vàng, nhưng không phải vì thế mà lão để cháy khê thức ăn nhé! Màu của nó (nói đến đây anh quay về phía tôi) thật đúng như lời lão Jupiter nói. Chưa bao giờ anh trông thấy một thứ gì sáng óng ánh hơn con bọ hung này – nhưng đến mai anh mới có thể thẩm định được. Tuy nhiên tôi có thể cho anh biết sơ qua về hình dáng nó.” Nói đến đây anh ngồi trước một cái bàn nhỏ, tìm giấy nhưng không thấy. Cuối cùng anh nói: “Không cần, dùng miếng này cũng được”. Anh rút trong áo ra một miếng gì trông như tấm giấy cũ, bẩn và dày, rồi vẽ trên mặt giấy. Trong khi anh vẽ, tôi vẫn ngồi cạnh lửa vì tôi vẫn thấy rét. Khi vẽ xong anh trao tấm giấy cho tôi mà không đứng dậy. Khi tôi cầm tấm giấy, chúng tôi nghe thấy tiếng động ở ngoài cửa. Lão Jupiter mở cửa, một con chó lớn của William Legrand chạy vào, nó nhảy chồm lên vai tôi và áp mặt nó lên mặt tôi; chúng tôi đã thân nhau trong những lần tôi đến chơi trước. Khi nó nhảy xuống, tôi nhìn tấm giấy, và thực tình tôi thấy rất khó hiểu hình vẽ bạn tôi vừa đưa tôi xem.
“Ừ,” tôi nói sau khi nhìn hình vẽ mấy phút, “con bọ hung này thật là kỳ lạ. Bây giờ mới thấy lần đầu tiên, trước kia tôi chưa hề thấy cái gì như thế này – trừ khi nó là cái sọ người, hay là cái đầu lâu người chết. Trông nó giống thế hơn là bất kỳ cái gì khác tôi từng trông thấy.”
William Legrand nói: “Cái đầu người chết! Ờ, phải, phải rồi, trông trên giấy thấy giống như vậy thật, chắc là thế. Hai cái chấm đen ở trên trông như hai con mắt và cái chấm dài hơn ở dưới như cái miệng – thế rồi lại cả hình dạng của toàn thể con bọ nữa.”
Tôi nói: “Có lẽ thế, nhưng anh William Legrand ạ, tôi e rằng tài vẽ của anh còn kém cỏi chăng. Tôi phải đợi để chính mắt được xem con bọ đó nếu tôi muốn biết hình dạng nó ra sao?”
Anh nói: “Không biết nữa. Hình này vẽ không đến nỗi dở lắm, phải không?”
Tôi nói: “Bạn ơi, cái đầu lâu này bạn vẽ rất khá, thật đấy mà, tôi có thể nói rằng rất cừ là đằng khác và con bọ hung của anh phải là một con bọ kỳ dị nhất thế giới nếu nó giống như thế này. Còn những cái râu mà anh nói đâu?”
William Legrand nói: “Râu à! Tôi chắc anh trông thấy những cái râu chứ. Tôi vẽ rất rõ cơ mà.”
“Có lẽ anh đã vẽ, nhưng tôi chẳng thấy gì cả,” tôi nói rồi trao cho anh mảnh giấy. Quả thật tôi không trông thấy râu nó đâu cả, và toàn thể hình vẽ trông rất giống những hình vẽ đầu người chết mà ta vẫn thường thấy.
Anh cầm tờ giấy, sắp sửa ném nó vào lửa thì thấy một điều gì đập vào mắt mình. Một lúc sau mặt anh đỏ rần, rồi lại tái nhợt. Anh tiếp tục ngắm nghía hình vẽ rất kỹ trong mấy phút. Cuối cùng anh cầm tờ giấy tới góc phòng bên kia rồi lại nhìn nữa, xoay tấm giấy đủ mọi phía nhưng không nói câu nào. Anh làm tôi ngạc nhiên, nhưng tôi thấy cần phải làm ra vẻ không để ý tới những cử chỉ kỳ quặc của anh.
Một lúc sau, anh cẩn thận cất tấm giấy trong bàn viết. Từ đó anh lộ vẻ suy tư mỗi lúc một nhiều hơn. Đêm hôm đó, tôi định ở lại nhà anh như nhiều lần trước nhưng lần này tôi thấy nên về là hơn. Anh không giữ tôi ở lại, nhưng khi tôi từ biệt, anh cầm tay tôi và xiết chặt một cách nồng nhiệt hơn thường lệ.
* * *
Sau đó chừng một tháng, lão Jupiter đến Charleston thăm tôi. Tôi chưa bao giờ thấy lão già da đen hiền lành đó lại có vẻ buồn bã như thế, và tôi sợ rằng bạn tôi gặp điều gì phiền muộn hệ trọng chăng.
Tôi nói: “Này, bác Jupiter, có chuyện gì thế?”
“Thú thực với cậu, cậu William cháu không được khỏe lắm”.
“Nghe bác nói tôi buồn quá. Cậu ấy đau ra sao?”
“Cậu cháu chẳng nói năng gì cả. Nhưng bịnh nặng lắm”.
“Bịnh nặng lắm, hả bác Jupiter. Cậu ấy đau liệt giường hay sao?”
“Thưa, không ạ. Cháu lo ngại cho cậu William quá. Cậu cháu chẳng cho biết bị bịnh gì cả. Trái lại, không hiểu tại sao cậu cháu cứ đi lang thang, đầu cúi gầm xuống, vai so lên và mặt nhợt nhạt? Hơn nữa cậu cháu cứ viết những con số hoài – những con số quái lạ nhất mà bây giờ cháu mới thấy. Cháu sắp hoảng lên đây, cậu ạ. Cháu phải canh chừng cậu cháu mới được. Hôm nọ cậu cháu ra đi trước khi mặt trời mọc rồi suốt cả ngày hôm đó không trở về. Vả lại, trông cậu cháu tiều tụy quá!”
“Thế bác không biết nguyên nhân căn bịnh này sao? Hay nói cho đúng hơn, sự gì đã làm cậu ấy thay đổi như thế? Có gì xảy ra từ khi tôi gặp cậu ta không?”
“Thưa không, chẳng có gì xảy ra từ hôm đó cả. Sự này xảy ra ngay hôm cậu ở đó.”
“Sao? Bác nói sao?”
“Cháu muốn nói con bọ hung. Đó, chuyện chỉ có thế!”
“Con bọ hung à?”
“Cậu William bị con bọ hung vàng làm hại. Con bọ hung ấy dữ lắm. Cháu chưa bao giờ thấy một con bọ hung nào dữ tợn như thế. Mới đầu cậu William bắt nó, nhưng cậu ấy phải thả ngay nó ra. Miệng con bọ hung đó trông dễ sợ quá. Cháu không dám cầm nó bằng tay cháu. Cháu bắt nó bằng một tấm giấy mà cháu tìm thấy rồi cháu quấn tờ giấy chung quanh mình nó, cháu bắt nó như thế đó.”
“Thế bác nghĩ rằng đúng con bọ hung đó là nguyên nhân cảnh huống này sao?”
“Cháu không còn nghi ngờ gì cả, cháu biết chắc như thế mà. Vậy cái gì làm cậu William mơ tưởng tới vàng liên mien như vậy, nếu không phải là con bọ hung vàng?”
“Tại sao bác biết cậu ta mơ tưởng đến vàng?”
“Vì cậu cháu nói thế trong giấc ngủ! Vì vậy mà cháu biết.”
“Này bác Jupiter, có phải bác đến để kể cho tôi biết chuyện này không?”
“Thưa không ạ, cháu đến để đưa cậu bức thư này.”
Lão đưa cho tôi một bức thư viết như sau:
Thân gởi Anh,
Tại sao lâu nay tôi không gặp anh? Tôi mong rằng tôi đã không làm hay nói điều gì làm anh phải xa lánh tôi, nhưng không, chúng ta hiểu nhau quá mà.
Từ khi gặp anh tôi đã khám phá ra một chuyện muốn nói với anh, tuy nhiên tôi không biết nói chuyện này ra sao, và chẳng hiểu có nên nói hay không.
Mấy bữa qua tôi không được mạnh lắm, còn lão Jupiter khốn khổ thì lúc nào cũng quanh quẩn bên tôi để cố săn sóc tôi một cách quá ân cần.
Từ hôm chúng ta gặp nhau lần cuối cùng, tôi không tìm được con bọ hung nào khác.
Nếu có thể được, mời anh cùng đến với lão Jupiter. Mong anh tới. Tôi muốn gặp anh tối nay vì có một việc quan trọng.
Tôi có thể nói với anh rằng việc này tối quan trọng.
Thân ái,
William Legrand
Bức thư này làm tôi lo ngại. Lời lẽ có vẻ không phải của anh. Anh đang lo âu một việc gì? “Việc tối quan trọng” của anh là việc gì? Lão Jupiter lại cho tôi biết là anh không được khỏe. Tôi e rằng anh mất trí vì những điều phiền muộn chăng. Bởi vậy tôi liền đi ngay với lão Jupiter.
Khi tới bờ lạch, tôi trông thấy một cái hái và ba cái mai, tất cả đều mới, nằm dưới đáy thuyền. Tôi hỏi: “Những thứ này dùng để làm gì? Cậu William nhà bác định dùng những thứ này để làm gì?”
Lão Jupiter nói: “Cháu hiểu sao nổi, và cháu cho rằng đến cả cậu cháu cũng không hiểu nốt. Nhưng hết thảy đều tại con bọ hung vàng mà ra cả.”
The Gold BugTHE GOLD BUG
Tôi tới căn nhà nhỏ vào lúc gần ba giờ chiều. William Legrand nắm tay tôi một cách nồng nhiệt, bồn chồn làm tôi ngạc nhiên và tăng thêm mối lo ngại về anh. Mặt anh trắng bệch, hai mắt sâu hoắm sáng quắc. Sau vài ba câu hỏi thăm sức khỏe, tôi hỏi anh xem người bạn kia đã trả con bọ hung chưa.
Anh trả lời, vẻ mặt biến sắc: “À, có. Tôi lấy nó lại ngay sáng hôm sau. Không gì có thể chia rẽ tôi với con bọ hung được. Anh có biết rằng lão Jupiter nói đúng về nó không?”
“Đúng thế nào?” Tôi hỏi, và sợ phải nghe câu trả lời tiếp theo.
“Vì hắn cho rằng con bọ hung đó bằng vàng thật.” Anh nói câu đó một cách rất nghiêm trang. “Con bọ hung sẽ làm tôi giàu,” anh nói tiếp. “Giàu như trước kia! Tôi chỉ cần sử dụng con bọ hung đúng cách, rồi tôi sẽ tìm được đến chỗ có vàng như nó đã báo điềm trước. Này bác Jupiter, bác đưa cho tôi con bọ hung đó.”
“Gì ạ, con bọ hung hả cậu? Cháu không muốn quấy rầy con bọ hung đó đâu. Cậu đi mà lấy.”
William Legrand đứng dậy rồi đem con bọ hung lại cho tôi. Con bọ này đẹp thật và chưa từng có con nào như vậy. Gần phía cuối đuôi có hai chấm đen tròn, và một chấm dài ở gần phía trước. Thân nó cứng và có màu vàng óng ánh. Nó cũng nặng lắm. Xét ra, tôi có thể hiểu tại sao lão Jupiter lại sợ hãi con bọ hung này. Tuy nhiên, tôi không hiểu tại sao một người có học thức như William Legrand lại có thể đồng ý với lão Jupiter.
William Legrand nói: “Tôi cho mời anh đến để được anh giúp trong việc lấy những của cải mà thần thánh và con bọ hung này ban cho tôi.”
Tôi la lên: “Anh William, nhất định anh bị bịnh rồi. Anh phải nằm nghỉ mới được, tôi sẽ ở lại đây cho tới khi anh bình phục.”
Anh nói: “Anh sờ tim tôi đập mà xem.”
Tôi sờ tim đập thì sự thực không thấy anh bị bệnh gì cả.
“Nhưng tôi vẫn cho rằng anh nên đi nằm thì hơn.”
William Legrand nói: “Được biết những điều tôi hiện đang biết, mà tôi vẫn khoẻ thế này là tốt hết sức rồi. Nếu quả thật anh muốn làm tôi được dễ chịu hơn, tôi có thể bảo anh cách làm việc đó.”
“Tôi phải làm gì?”
“Dễ lắm. Lão Jupiter và tôi sắp đi vào miền núi, bên đất liền, và chúng tôi cần sự giúp đỡ của một người chúng tôi có thể tin cậy được; người đó là anh. Dù chúng ta thành công hay thất bại, anh cũng sẽ thấy rằng tôi sẽ lành bệnh.”
Tôi đáp: “Tôi muốn giúp anh; nhưng có phải anh định nói rằng con bọ hung này có liên quan đến việc anh đi vào miền núi không?”
“Phải”.
“Nếu thế, tôi không muốn dính dáng gì đến chuyến đi này đâu?”
“Vậy thì phiền quá, vì chúng tôi sẽ phải cố làm việc đó một mình. Chúng tôi sẽ đi ngay lập tức và sẽ trở về lúc rạng đông.”
“Nếu tôi đi, anh có lấy danh dự hứa rằng khi nào giải quyết xong việc con bọ hung này, anh sẽ trở về nhà và làm đúng như lời tôi nói không?”
“Có, tôi xin hứa như vậy, bây giờ chúng ta hãy đi kẻo phí thì giờ.”
Tôi đi với bạn tôi mà lòng buồn bã. Chúng tôi bắt đầu ra đi hồi bốn giờ chiều. William Legrand, lão Jupiter, con chó, và tôi. Lão Jupiter cầm hái và mai, vì theo như tôi nghĩ, lão sợ giao những thứ đó vào tay cậu chủ của lão. Về phần tôi, tôi đảm nhiệm việc cầm hai cái đèn. William Legrand cầm con bọ hung, anh đã buộc nó vào một sợi dây. Trong khi chúng tôi đi đường anh cử động cánh tay làm con bọ hung như bay chung quanh chúng tôi. Khi trông thấy thế tôi gần như muốn khóc vì thương hại trí óc cuồng loạn của bạn tôi. Tuy nhiên, lúc đó tôi thấy không nên đả động gì đến con bọ hung thì hơn.
Để trả lời những câu hỏi của tôi về mục đích cuộc đi này, anh chỉ đáp: “Rồi anh sẽ biết.”
Chúng tôi vượt qua giòng nước, đi lên phía đất cao ở bên đất liền, và tiếp tục tiến về phía Tây Bắc, xuyên qua một vùng hoang vu, không thấy một vết chân người. William Legrand dẫn đầu, thỉnh thoảng lại dừng chân để tìm những chỗ mà anh đã đánh dấu trong chuyến đi trước.
Chúng tôi cứ tiếp tục đi như vậy trong hai giờ, và khi mặt trời vừa ngả về Tây, chúng tôi đã tới một khoảng đất bằng phẳng, bên sườn một ngọn đồi rất cao. Tôi chưa thấy chỗ nào hoang dã như chỗ này. Cây cối rậm rạp, những tảng đá lớn nằm ngổn ngang trên mặt đất.
Đi tới đây, lão Jupiter phải dùng cái hái để phát những bụi cây rậm rạp. Dưới sự điều khiển của William Legrand, lão Jupiter dọn lối cho chúng tôi đi đến một cây lớn mọc cao hơn hẳn các cây khác chung quanh nó. Cây này có dáng thon và đẹp nhất tôi từng thấy. Khi chúng tôi tới nơi, William Legrand quay lại hỏi lão Jupiter có thể trèo lên cây đó không.
Lão già lộ vẻ ngạc nhiên về câu hỏi. Lão bước chậm chạp chung quanh thân cây và ngắm nghía cẩn thận, rồi nói: “Thưa cậu, trèo được ạ, tôi có thể trèo bất cứ cây nào.”
“Vậy lão trèo nhanh lên kẻo trời sắp tối mịt thì không còn trông thấy những việc chúng ta đang làm.”
“Cháu phải trèo cao tới đâu, hả cậu?”
“Cứ trèo thẳng tít lên đã, rồi tôi sẽ bảo. À này, cầm theo con bọ hung nữa.”
“Con bọ hung, hả cậu William! Con bọ hung!” lão da đen vừa la vừa lảng ra chỗ khác. “Để làm gì?”
“Này lão Jupiter, nếu to xác như bác mà sợ con bọ hung tí xíu chết tiệt này thì bác cầm sợi dây này. Nếu bác không chịu cầm con bọ hung này, tôi sẽ nện bể đầu bác bằng cái mai này cho coi.”
Lão Jupiter nói: “Cậu bảo sao? Cháu mà sợ con bọ hung này hả? Con bọ hung này làm gì được cháu?” Lão ta cầm lấy sợi dây, và tay cầm con bọ hung giang xa hết sức có thể rồi sửa soạn trèo lên cây.
Lão cố sức giang cánh tay và đầu gối để ôm chặt vào thân cây rồi bắt đầu trèo lên. Cuối cùng, sau một vài lần xuýt té, lão trèo tới cành cây lớn thứ nhất, cách mặt đất chừng mười tám hay hai mươi thước.
Lão Jupiter hỏi: “Trèo đâu bây giờ, hả cậu William?”
William Legrand nói: “Trèo lên cành cây lớn nhất đó.”
Lão Jupiter lại tiếp tục trèo, mỗi lúc một cao, cho tới khi chúng tôi không trông thấy lão nữa. Một lát sau chúng tôi nghe tiếng lão nói:
“Cháu phải lên bao xa nữa?”
“Bác lên tới đâu rồi?” William Legrand hỏi.
Người da đen trả lời: “Xa lắm. Cháu có thể trông thấy bầu trời qua ngọn cây rồi.”
“Mặc kệ trời với đất, hãy lắng tai nghe tôi nói. Nhìn xuống dưới cây rồi đếm những cành cây ở phía dưới bác về bên này. Bác đã trèo được bao nhiêu cành rồi?”
“Một, hai, ba, bốn, năm – cháu trèo được năm cành bự ở phía bên này rồi, cậu ạ!”
“Vậy bác leo lên cành trên nữa”.
Mấy phút sau chúng tôi lại nghe thấy tiếng lão ta đã trèo tới cành thứ bảy.
William Legrand la: “Này bác Jupiter, bây giờ tôi muốn bác trèo ra tít ngoài đầu cành đó. Nếu bác trông thấy vật gì lạ thì cho tôi hay.”
Đến lúc này tôi chắc là bạn tôi mất trí thật rồi. Làm thế nào để bảo anh trở về nhà?
Chúng tôi lại nghe thấy tiếng lão Jupiter: “Trèo quá ra ngoài thì sợ lắm vì cành này chết héo rồi mà!”
William Legrand nói: “Trời đất ơi, thế này thì tôi phải làm sao bây giờ?”
Tôi nói: “Làm sao! Đi về mà ngủ. Đi nào, bồ! Khuya rồi đấy, anh nhớ lời anh hứa chứ!”
Anh la lên: “Này bác Jupiter, có nghe thấy tôi nói không? Thử gỗ xem. Chém sâu vào xem. Có thật cành đó đã chết và mục rồi không?”
Người da đen trả lời: “Đúng là nó mục rồi. Nếu cháu quẳng quách con bọ hung nặng chình chịch này đi, thì cháu sẽ không làm gãy cành.”
William Legrand la lên: “Lão Jupiter, nếu lão để con bọ hung rơi xuống, tôi sẽ vặn cổ lão. Có nghe tôi nói không?”
“Thưa cậu, có ạ!”
“Trèo ra ngoài cành đó, cầm cả con bọ hung nữa, trèo ra tới hết chỗ còn vững chắc thì thôi, rồi tôi sẽ thưởng cho một đồng bạc.”
Người da đen trả lời: “Cháu đang trèo ra gần tới đầu cành rồi đây.”
“Ra tận đầu cành!” William Legrand la lớn tiếng. “Tận đầu cành!”
“Gần đầu cành rồi cậu ơi! Ô… ối, lạy Chúa tôi! Cái gì ở trên đây thế này?”
William Legrand mừng cuống quít rồi la lên: “Này! Cái gì thế?”
“Cậu ơi, có cái sọ người thôi! Kẻ nào đã bỏ lại cái đầu lâu ở trên cây để đàn chim rỉa thịt hết trơn hết trọi à.”
“Cái sọ hả! Tốt lắm! Nó được gắn vào cây như thế nào?”
“Thưa cậu, cháu phải nhìn đã. Kỳ cục quá. Một chiếc đinh bự đóng chặt cái sọ vào cây.”
“Này bác Jupiter, bây giờ bác hãy làm đúng như lời tôi dặn, bác có nghe thấy không? Tìm con mắt bên trái của cái sọ. Bác có biết mắt nào phải và mắt nào trái không?”
“Có phải mắt trái của cái sọ ở cùng phía với tay trái của cái sọ không? Dĩ nhiên là cái sọ không có tay nhưng đây là mắt trái. Cháu phải làm gì đây?”
“Luồn con bọ hung qua mắt trái rồi thả hết dây xuống, nhưng phải giữ lấy dây.”
Trong lúc hai người nói với nhau, chúng tôi không trông thấy lão Jupiter nhưng lúc này con bọ hung hiện ra ở đầu dây, óng ánh như vàng trong ánh mặt trời tàn. Nếu để nó rơi, nó sẽ sa xuống chân chúng tôi.
William Legrand cầm một cái hái hình tròn đường kính chừng ba bốn thước; rồi anh bảo lão Jupiter buông dây ra và trèo xuống.
Anh lấy một cái cọc gỗ đánh dấu chỗ con bọ hung vừa rơi xuống. Rồi anh lấy ra một cái thước dây dài, buộc một đầu dây vào thân cây gần cái cọc gỗ đánh dấu mà anh vừa cắm. Rồi anh kéo cái thước dây từ thân cây ra đến cọc gỗ đánh dấu, rồi cứ thẳng theo hướng đó, anh đi thong thả, kéo theo cái thước dây. Lão Jupiter đi phía trước anh và dùng cái hái để dọn lối đi. Sau khi đi được mười lăm thước anh đứng lại và cắm xuống đất một cái cọc gỗ đánh dấu nữa.
Tại đây anh vạch một hình tròn nữa, đường kính độ 1 thước 20. William Legrand cầm một cái mai, đưa cho lão Jupiter một cái và tôi một cái rồi bảo chúng tôi bắt đầu đào sâu xuống đất và đào thật nhanh.
Sự thực, tôi không thích việc làm này một chút nào, nhưng tôi không muốn từ chối người bạn đáng thương đó. Tôi biết chắc rằng anh đã nghe thấy chuyện chôn của cải dưới đất và tin như vậy. Ý nghĩ này đã trở nên mãnh liệt hơn vì lão Jupiter nói rằng con bọ hung bằng vàng thật. Nhưng tôi không thể làm gì hơn là cầm cái mai hăm hở đào. Rồi anh sẽ tự biết là mình lầm.
Lúc này chúng tôi đã cần phải đốt đèn. Hai cái đèn chiếu sáng trong khi chúng tôi bắt đầu đào. Tôi nghĩ đến cảnh tượng chúng tôi bày ra ở chỗ đó. Nếu người nào tình cờ gặp chúng tôi họ sẽ cho rằng những hành động của chúng tôi thật là kỳ quái!
Chúng tôi đào suốt hai giờ. Nói với nhau rất ít, chỉ có tiếng chó sủa. William Legrand sợ có kẻ nào nghe thấy tiếng chó sủa mà tìm thấy chúng tôi ở đó – phải chi có ai tìm thấy chúng tôi thật thì tôi mừng quá. Sau cùng lão Jupiter nhảy ra ngoài cái hố chúng tôi đang đào để bịt mõm con chó lại.
Chúng tôi đã đào sâu độ một thước rưỡi nhưng không thấy của cải đâu cả. Chúng tôi dừng lại, tôi bắt đầu mừng thầm là cái trò điên cuồng này sắp chấm dứt. Tuy nhiên, William Legrand bắt đầu nới rộng cái vòng ra và chúng tôi đào sâu thêm sáu tấc nữa. Vẫn không thấy gì cả. Rốt cuộc kẻ tìm vàng đành phải ngừng lại. Anh mặc áo và bảo lão Jupiter cầm mấy cái mai và hái.
Khi chúng tôi đã đi được chừng mười hai bước theo hướng về nhà thì William Legrand bỗng quay lại phía lão Jupiter.
Anh nói: “Đồ ngu như bò! Trả lời ta ngay lập tức. Mắt trái của lão đâu?”
“Ô, cậu William, mắt trái của cháu đây ạ.” lão Jupiter vừa la vừa đặt tay lên trên mắt phải rồi cứ để nguyên tay như vậy.
“Ta đã đoán đúng vậy mà! Ta biết mà!” William Legrand la lên. Anh nhảy cẫng lên. “Chúng ta phải quay lại. Trò chơi chưa xong đâu.” Anh đi đầu trong lúc chúng tôi quay lại cái cây lớn ấy.
Rồi anh nói: “Jupiter, lại đây! Cái sọ đóng quay mặt ra ngoài hay về phía cành cây?”
“Mặt quay ra ngoài, cậu ạ, có thế đàn chim mới dễ rỉa hai con mắt, chẳng phải khó khăn gì”.
“Thế lão thả con bọ hung qua mắt này hay mắt kia?”
William Legrand sờ vào từng mắt của lão Jupiter.
“Mắt này, cậu ạ – mắt trái – đúng như lời cậu dặn,” lão da đen sờ vào mắt bên phải của lão.
“Chúng ta phải thử lại.”
Tôi bắt đầu nhận thấy những hành động của bạn tôi đều có phương pháp mạch lạc, tuy nhiên tôi vẫn cho rằng anh bị mất trí. Anh chuyển cái cọc đánh dấu từ chỗ con bọ hung rơi tới một chỗ cách đó chừng bảy phân về phía Tây. Anh lấy cái thước dây, đặt như trước, từ cái cây đến cái cọc, rồi kéo ra xa độ mười lăm thước. Chỗ mới này cách nơi chúng tôi vừa đào mấy thước.
Chúng tôi lại cầm mai để bắt đầu đào. Tôi bỗng cảm thấy hứng thú một cách lạ lùng, mặc dầu không biết tại sao. Có lẽ từ cách suy nghĩ của anh đã làm tôi thay đổi như vậy. Tôi hăng hái đào, và thỉnh thoảng lại nhìn xem có tìm thấy vàng trong khi tôi vẫn chắc chắn là không có.
Có lẽ chúng tôi đã đào được một giờ rưỡi thì lại nghe chó sủa. Lần này lão Jupiter không thể giữ nó lâu để kịp buộc mõm nó lại. Nó sổng ra khỏi tay lão Jupiter và nhảy xuống hố, rồi nó bắt đầu bới đất loạn xạ. Một lúc sau, chúng tôi trông thấy ở dưới hố có hai bộ xương người và hình như cả những mảnh áo nữa. Khi chúng tôi tiếp tục đào nữa thì hiện ra ba bốn đồng tiền vàng và bạc.
Lão Jupiter mừng rỡ khi trông thấy những đồng tiền này, nhưng mặt chủ của lão thì lại lộ vẻ rằng anh không mong chỉ tìm thấy có thế thôi. Do đó anh bảo chúng tôi cứ tiếp tục đào, và ngay lúc đó tôi ngã nhào về phía trước vì hai chân vướng phải một cái vòng sắt lớn.
Lúc này chúng tôi đào hăng hơn trước, và tôi chưa bao giờ cảm thấy thích thú như vậy trong mười phút sau đó. Lúc này chúng tôi đã đào trúng một cái rương gỗ dài một thước, rộng chín tấc, và sâu bảy tấc rưỡi. Cái rương được cột chặt bằng những đai sắt. Mỗi đầu có ba cái vòng sắt – sáu cái vòng tất cả – để sáu người có thể khiêng được nó. Ba chúng tôi chỉ xê dịch cái rương được một chút xíu ở dưới hố. Chúng tôi thấy ngay rằng chúng tôi không thể nào nhấc được cái rương quá nặng như vậy.
Tuy nhiên, những cái đai này dễ mở. Chúng tôi vừa run lập cập vừa mở nắp rương ra. Trong khoảnh khắc vàng bạc châu báu nhiều vô số, lấp lánh hiện ra trước mắt chúng tôi. Hai cái đèn chiếu ánh sáng xuống tận dưới hố sâu, vàng và bảo thạch lóng lánh toả ánh sáng làm chúng tôi hoa mắt.
Tôi không thể tả hết những cảm giác của tôi trong lúc đó. Dĩ nhiên lúc đầu tôi ngạc nhiên và sửng sốt. William Legrand chỉ nói được mấy câu. Mặt lão Jupiter thì xanh như chàm đổ. Lão quỳ dưới hố, vục cả hai cánh tay vào đống vàng, và lão cứ ngồi như thế có vẻ cảm thấy thú vị khi được sờ tay vào vàng.
Cuối cùng lão nói: “Tất cả châu báu này đều do con bọ hung vàng mà ra! Con bọ hung vàng trông mới xinh làm sao! Con bọ hung vàng trông mới tội nghiệp làm sao! Con bọ hung vàng tôi đã ghét bỏ”.
Rốt cuộc tôi phải bảo William Legrand và lão Jupiter biết rằng phải chuyển cái rương này đi. Chúng tôi lấy ra độ hai phần ba báu vật, dấu trên mặt đất để con chó canh giữ. Rồi chúng tôi vội khiêng về nhà cái rương và số châu báu còn lại. Đến một giờ sáng thì chúng tôi về tới nhà. Chúng tôi nghỉ đến hai giờ sáng, ăn uống qua loa rồi mang ba cái túi thật dày trở lại cái hố chúng tôi đã đào. Chúng tôi chia số vàng và bảo thạch còn lại thành ba phần đều nhau rồi lại trở về nhà. Lần thứ hai chúng tôi về tới nhà ngay trước khi mặt trời mọc. Chúng tôi buồn ngủ lắm, nhưng sau ba bốn giờ trằn trọc chúng tôi lại trở dậy để xem xét đếm vàng của chúng tôi.
Chúng tôi ngồi suốt cả ngày và gần hết đêm hôm sau để xem xét tỉ mỉ cái rương đựng những gì. Chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi đã kiếm được nhiều hơn là đã phỏng đoán lúc đầu. Về tiền thì có hơn bốn trăm năm mươi ngàn Mỹ kim, con số mà chúng tôi tính gần sát. Không có tiền bằng bạc. Chỉ có toàn tiền vàng, những đồng tiền lâu đời thuộc đủ các loại – Pháp, Tây Ban Nha, Đức, và Anh. Có những đồng đã được sử dụng nhiều đến nỗi không đọc được những chữ đúc trên mặt.
Việc trị giá các bảo thạch lại khó hơn. Nhiều thứ rất lớn và trong vắt, và lại có rất nhiều loại – một trăm mười viên kim cương, mười tám viên hồng ngọc, ba trăm mười viên ngọc bích, hai mươi mốt viên lam ngọc, và một viên ngọc mắt mèo.
Những viên bảo thạch này trước kia đã được cẩn vào đồ trang sức bằng vàng. Chúng tôi còn thấy cả những đồ trang sức đó nữa, nhưng đã bị đập bẹp. Cũng có gần hai trăm cái nhẫn và hoa tai rất nặng, những vòng đeo cổ quý giá – tôi nhớ hình như ba mươi vòng thì phải, và nhiều thứ khác. Tất cả những thứ này phải nặng hơn một trăm năm mươi ký, đó là tôi không kể một trăm chín mươi bảy cái đồng hồ vàng. Cuối cùng chúng tôi thấy tất cả những đồ quý báu này đáng giá trên một triệu rưỡi Mỹ kim.
William Legrand thấy tôi đang nóng ruột muốn biết rõ đầu đuôi vụ này.
Anh nói: “Anh còn nhớ hôm tôi đưa anh tấm hình con bọ hung mà tôi đã vẽ. Và anh cũng nói rằng hình vẽ trông giống cái sọ người. Tôi tưởng anh chế nhạo hình vẽ của tôi, và tôi không thích anh nói đùa như vậy. Khi anh trả lại tôi tấm giấy da mỏng đó, tôi bực mình định quẳng luôn nó vào lửa.”
“Anh định nói mảnh giấy chứ,” tôi nói.
“Không. Trông nó giống giấy lắm, nhưng khi vẽ tôi mới thấy nó là một miếng da mỏng. Như anh đã biết, trước kia rất lâu người ta đã dùng da mỏng để viết và ghi những tài liệu quan trọng không thể ghi vào giấy. Trong lúc tôi sắp ném mảnh da mỏng đó vào lửa, tôi thấy quả thật có hình vẽ cái đầu lâu ở ngay chỗ tôi đã vẽ con bọ hung. Tôi đến cuối phòng đằng kia rồi ngắm tấm giấy da cẩn thận hơn. Khi lật tấm giấy da tôi thấy hình con bọ hung như tôi đã vẽ. Nhưng sự thật thì cả hai hình vẽ rất giống nhau, và thoạt đầu tôi đã ngạc nhiên về điều này đến nỗi tôi không nghĩ được gì hơn.
“Rồi dần dà tôi bắt đầu nhận thấy rằng còn có sự kỳ dị hơn. Khi tôi vẽ con bọ hung thì cả hai mặt miếng giấy da không có hình vẽ. Tôi còn nhớ đã lật đi lật lại miếng giấy da để tìm một chỗ sạch để dùng. Nếu lúc đó đã có hình vẽ cái sọ thì tôi không thể nào không nhận thấy được. Đây quả là một sự bí mật, nhưng sâu trong trí óc tiềm tàng của tôi nó như một ánh lửa ở phía xa xa, tôi có thể trông thấy đầu mối của sự thật mà chúng ta đã chứng minh đêm qua. Tôi cất miếng giấy da để khi nào ngồi một mình sẽ suy nghĩ.
“Khi anh đã ra về và lão Jupiter đã ngủ, trước hết tôi bắt đầu nghĩ đến chỗ đã nhặt được tấm giấy da. Chúng tôi bắt được con bọ hung ở bên đất liền. Tôi đã cầm lên nhưng vì sợ nên lại bỏ nó xuống. Rồi lão Jupiter nhìn quanh quẩn để tìm một vật gì để có thể cầm nó. Lão ta trông thấy một góc miếng giấy da liền lôi lên, vì một nửa tấm giấy vùi ở dưới đất. Gần chỗ đó, tôi trông thấy một vật gì như gỗ mục trước kia là một chiếc xuồng trên tàu biển.
“Lão Jupiter bắt con bọ hung bằng tấm giấy da rồi đưa cho tôi. Trên đường về, chúng tôi gặp người bạn, và đưa hắn con bọ hung đó. Nhưng tôi vô tình giữ lại tấm giấy da. Về sau, chắc anh còn nhớ khi tôi tìm một mảnh giấy để vẽ lại con bọ hung, tôi đã lấy tấm giấy da này ở trong áo tôi.
“Tôi đã chắp hai đoạn mối dây liên lạc vĩ đại này với nhau. Có một chiếc xuồng nằm ở trên bờ biển, và gần chiếc xuồng có một miếng giấy da – không phải giấy thường – có hình một cái sọ. Cái sọ là biểu hiện quen thuộc của bọn hải tặc.
“Đây là da chứ không phải là giấy. Viết lên da không phải dễ, nhưng nó bền hầu như mãi mãi. Đối với tôi, sự kiện đó có một ý nghĩa. Hơn nữa là hình dạng tấm giấy da. Khuôn khổ như vậy là để ghi chép một tài liệu gì cần được nhớ lâu và giữ gìn cẩn thận.”
Tôi nói: “Nhưng anh bảo cái sọ không có ở trên tấm giấy da khi anh vẽ con bọ hung cơ mà. Vậy tại sao cái sọ lại có liên quan với cái xuồng nát?”
“Nó chỉ hiện ra trên tấm giấy da (chỉ có ông Trời mới hiểu nổi làm sao), mãi sau khi anh về. Ấy, bí mật là ở chỗ đó, tuy nhiên tôi tìm ra giải đáp cũng chẳng khó khăn mấy. Việc làm của tôi tiến hành từng bước rất vững chắc và đã đem lại một kết quả duy nhất.
“Tôi đã chú ý nhìn anh trong khi anh ngắm tấm giấy da. Không phải chính anh đã vẽ cái sọ. Cũng chẳng có người nào khác đã vẽ. Ấy thế mà cái sọ lại hiện ra trên tấm giấy da. Nghĩ đến điều này tôi cố nhớ lại, và đã nhớ rõ, mọi sự đã xảy ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó. Tiết trời hôm đó lạnh (thật là hên quá!) và có lửa cháy. Tôi ấm nên ngồi gần cái bàn, còn anh thì ngồi gần lò sưởi. Khi tôi trao tấm giấy da vào tay anh thì con chó nhảy lên vai anh. Anh lấy tay trái ngăn nó lại, trong khi tay phải của anh cầm tấm giấy da và để xuống giữa hai đầu gối và gần ngọn lửa. Đã có lúc tôi tưởng ngọn lửa bén vào tấm giấy da nên tôi định bảo anh, nhưng anh đã rụt lại.
“Khi nghĩ đến những sự việc này, tôi thấy chắc chắn rằng hơi nóng đã làm cái sọ hiện ra. Hẳn anh biết rõ rằng hiện nay và hàng mấy thế kỷ qua đã có những chất được dùng để viết trên giấy hay giấy da để người ta chỉ nhìn thấy chữ viết khi tờ giấy thường hay giấy da được hơ nóng. Khi tấm giấy da nguội thì chữ sẽ biến mất, nhưng lại hiện ra khi hơ nóng.
“Rồi tôi ngắm cẩn thận cái đầu lâu. Hình vẽ có những chỗ rõ và có những chỗ mờ. Tác dụng của hơi nóng chưa đủ. Tôi lập tức nhóm một ngọn lửa khác rồi cầm tấm giấy da hơ gần lửa. Một lúc sau tôi trông thấy hình vẽ một con vật. Tôi chắc chắn rằng con vật đó là một con dê con (kid). Có lẽ anh đã được nghe nói về Đại úy Kidd, tên hải tặc trứ danh. Tôi chắc chắn rằng đây là lối ký tên của hắn. Cái đầu lâu ở phía trên tấm giấy da, và con dê con ở phía dưới cùng. Khoảng giữa không có gì cả.”
“Tôi chắc rằng anh hy vọng có một bức thư ở quãng giữa.”
“Phải. Và tôi cảm thấy có một sự gì rất tốt đẹp đến với tôi. Tôi không biết tại sao. Có lẽ tôi mong ước hơn là tôi tin tưởng như vậy. Tôi có ý nghĩ như vậy vì lão Jupiter bảo rằng con bọ hung bằng vàng. Thật lạ lùng, tất cả việc này lại xảy ra trong một ngày khi chúng ta cần lửa sưởi! Nếu không có lửa, nếu con chó không đến đúng lúc, thì tôi sẽ không khi nào tìm thấy của cải!”
Tôi nói: “Nói tiếp đi! Tôi muốn nghe nốt câu chuyện này quá.”
“Dĩ nhiên là anh đã nghe hàng ngàn chuyện mà người ta kể về việc lão Kidd và đồng bọn của hắn đã bí mật chôn của cải tại một nơi dọc bờ biển Đại Tây Dương thuộc miền này. Nhưng chuyện này có phần xác thực. Và nếu lão Kidd đã trở lại để lấy của thì những câu chuyện phải được kể khác hẳn.
Nhưng ta chỉ nghe nói toàn những chuyện về những kẻ đi tìm của cải chứ không phải về những kẻ tìm thấy của cải. Có sự gì đã cản trở lão Kidd trở lại lấy số châu báu của hắn. Bọn thủ hạ của hắn biết vậy nên chúng cố tìm số tiền đó để lấy đi nhưng không thấy. Những câu chuyện đều bắt đầu như vậy. Có khi nào anh nghe nói tới việc đào được những của cải quan trọng không?”
“Không khi nào”.
“Nhưng lão Kidd có một số châu báu kếch sù. Điều đó ai cũng biết. Tôi nói với anh rằng tôi hy vọng, và hầu như chắc chắn, rằng miếng giấy da là tài liệu ghi chỗ hắn chôn của cải, đã bị thất lạc.”
“Sau đó anh làm gì?”
“Tôi lại để tấm giấy da gần lửa nhưng không có gì hiện ra cả. Tôi quyết định rửa nó. Tôi nhúng nó vào nước nóng rồi để vào một cái hộp mà tôi có thể đặt thẳng trên lửa. Mấy phút sau tôi mừng quá vì thấy miếng giấy da lấm chấm mấy chỗ như hiện ra những chữ số. Tôi lại để nó lên lửa một phút nữa. Rồi nó y như thế này, anh xem đây”.
Nói đến đây William Legrand đưa cho tôi xem tấm giấy da mà anh đã hơ lại. Tôi trông thấy những giòng sau đây viết bằng mực đỏ ở quãng giữa cái đầu lâu và con dê con:
“53‡‡†305))6*;4826)4‡)4‡);806*;48†8¶60))85;1‡);:‡
*8†83(88)5*†;46(;88*96*?;*‡(;485);5*†2:*‡(;4956*
2(5*—4)8¶8*;4069285);)6†8)4‡‡;1(‡9;48081;8:8‡1;4
8†85;4)485†528806*81(‡9;48;(88;4(‡?34;48)4‡;161;:
188;‡?;”
Tôi nói: “Nhưng tôi vẫn chẳng hiểu chút nào cả”.
William Legrand nói: “Ấy thế mà lại dễ tìm ra giải đáp hơn là anh tưởng. Những chữ số này có một ý nghĩa; chúng hợp thành một lối chữ gọi là mật mã. Mỗi số và mỗi dấu phẩy tiêu biểu cho một chữ. Theo như tôi biết về lão Kidd, tôi không tin hắn có thể nghĩ ra một lối mật mã mà tôi không tìm nổi cách giải.”
“Thế thật anh tìm ra được cách giải đáp đấy à?”
“Dễ ợt. Tôi đã tìm ra giải đáp cho những vấn đề khó khăn gấp hàng ngàn lần. Tôi thích làm những việc như vậy. Tôi không tin rằng trí óc con người có thể nghĩ ra một vấn đề mà chính trí óc con người lại không thể giải nổi. Thực vậy, ngay sau khi tôi đọc được các chữ số trên tấm giấy da, tôi biết rằng tìm ra ý nghĩa của nó là việc rất dễ.
“Vấn đề đầu tiên tôi phải làm là tìm xem bản viết này bằng tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Pháp hay tiếng Anh. Thường thường cách duy nhất là thử lần lượt dò ra bằng từng thứ ngôn ngữ. Nhưng đây tôi tìm ra giải đáp theo kiểu chữ ký tên trên tấm giấy da, Hình vẽ con dê con (kid) là tượng trưng cho tên Kidd. Chữ này chỉ có nghĩa trong tiếng Anh. Vì vậy tôi biết mật mã này viết bằng tiếng Anh.
“Anh thấy các số và ký hiệu không được chia thành chữ. Nếu được phân ra như vậy thì mật mã này còn dễ đọc hơn. Nếu vậy tôi đã bắt đầu bằng cách phân tích những chữ ngắn hơn. Nếu thấy chữ nào chỉ có một mẫu tự (như a hay I *) thì tôi chắc chắn sẽ thành công. Bởi vậy bước đầu của tôi là tìm chữ cái nào thường thấy nhiều hơn những chữ khác, v.v…
Anh xem kết quả ở đây.” Anh đưa cho tôi một tấm giấy tôi đọc như sau:
Số 8 có 33 lần
Dấu ; có 26 lần
Số 4 có 19 lần
Dấu ‡ ) có 16 lần
Dấu * có 13 lần
Số 5 có 12 lần
Số 6 có 11 lần
Dấu † 1 có 8 lần
Số 0 có 6 lần
Số 9 và 2 có 5 lần
Dấu :3 có 4 lần
Dấu ? có 3 lần
Dấu ¶ có 2 lần
Dấu -. có 1 lần
“Nay, mẫu tự e là chữ thường gặp nhiều nhất trong tiếng Anh. Sau mẫu tự này là những mẫu tự dưới đây: a o i d h n r s t u y c f g m w b k p q x z
“Tuy nhiên mẫu tự e được dùng nhiều đến nỗi nếu anh chỉ ghép một vài chữ với nhau, thì chắc chắn cũng đã thấy rằng nó là mẫu tự được dùng nhiều nhất. Vì thế, ngay khi mới bắt đầu, chúng ta đã có một căn bản để suy tính chứ không phải chỉ phỏng đoán mà thôi. Chúng ta hãy bắt đầu cho rằng số 8 là mẫu tự e. Muốn cho chắc chắn, chúng ta hãy xem có phải số 8 thường được dùng kép không – vì mẫu tự e thường được dùng kép trong Anh ngữ, trong những chữ meet, deep, agree, seen, been. Ở đây ta thấy mẫu tự e đi đôi đến năm lần, mặc dầu bản mật mã này viết ngắn.
“Rồi, trong hết thảy mọi chữ trong tiếng Anh chỉ có chữ the là thông dụng nhất. Vì vậy, chúng ta hãy tìm xem có ba số hay dấu được viết theo thứ tự giống nhau mà số cuối là 8 được dùng nhiều lần. Nếu chúng ta tìm thấy như vậy thì có lẽ ba số hay dấu đó tiêu biểu cho chữ the. Khi xem, ta tìm thấy nhóm chữ số ; 48. Như vậy ta có thể giả định rằng dấu ; là t, 4 là h, và 8 là e. Chúng ta đã tiến được một bước dài.
“Bây giờ chúng ta đã biết một chữ, và chúng ta cũng biết một điều khác rất quan trọng. Chúng ta đã tìm ra chữ đầu và chữ cuối cùng của những tiếng khác. Ta hãy nhìn nhóm dấu ở cạnh nhóm ;48 – gần cuối bản mật mã. Chữ sau bắt đầu bằng dấu ; và trong sáu mẫu tự theo sau, có năm mẫu tự chúng ta đã biết rồi. Chúng ta hãy viết ra bằng cách dùng những mẫu tự mà ta biết và chừa ra một khoảng trống cho chữ ta chưa biết: t eeth.
“Đến đây ta có thể nói ngay rằng hai mẫu tự th không hợp vào với mẫu tự nào bắt đầu bằng mẫu tự t vì khi thử điền hết thảy các mẫu tự của Anh ngữ vào khoảng trống, chúng ta thấy rằng không có chữ nào có thể điền được mẫu tự th vào. Như vậy ta có: t ee và, thử điền hết mẫu tự nọ đến mẫu tự kia như trước, ta gặp chữ tree, là chữ duy nhất có thể đọc được. Nay ta có thêm một mẫu tự nữa, đó là r, mà trong bản mật mã dùng dấu (. Ta cũng có hai chữ cùng đi với nhau: the tree (cái cây).
“Sau những chữ này, ta lại thấy nhóm ; 48. Nay ta nhìn những chữ đứng ở đằng trước nhóm đó. Ta có đoạn này: the tree; 4 ( §? 34 the hay là dùng những mẫu tự mà ta biết thì thấy: the tree the §? 34 the.
“Thế rồi! nếu ta viết giòng đó như sau: the tree thr… h the. Ta hiểu ngay là chữ through (xuyên qua). Ta cũng đã khám phá được ba chữ mới 0, u và g mà bản mật mã dùng các dấu § ? và 3.
“Bây giờ tìm kỹ trong bản mật mã những top chữ đã viết thì ta thấy sau đoạn đầu một chút những chữ như sau: 83(88 tức là egree. Như vậy rõ ràng là đoạn cuối của chữ degree (độ), và ta có thêm một mẫu tự nữa, đó là d, được thay bằng dấu +.
“Cách tiếng degree bốn mẫu tự ta thấy tốp này: ;46 (; 88°. Dựa theo những mẫu tự đã biết, ta có thể viết tốp đó như sau: th, rtee.
“Ta thấy ngay tốp mẫu tự này là chữ thirteen 13 và ta kiếm ra hai mẫu tự mới, đó là i và n, mà bản mật mã dùng dấu 6 và °.
“Bây giờ ta hãy trở lại phần đầu bản mật mã, ta thấy tốp này: 53 § § +. Làm như trước ta thấy: .good. Và ta có thể chắc chắn rằng chữ thứ nhất là A, và hai tiếng đầu là A good.
“Để việc làm của chúng ta có thứ tự, bây giờ là lúc ta phải kê những chữ đã tìm ra thành một bản như dưới đây:
5 là a, 6 là i
+ là d, o là n
8 là e, § là o
3 là g, ( là r
4 là h, ; là t
“Như vậy chúng ta có mười chữ cái quan trọng nhất trong bản mật mã. Tôi không cần phải nói cho anh biết phần cuối của việc tôi đã làm. Tôi đã nói khá nhiều để anh biết rằng những loại mật mã như kiểu này rất dễ hiểu. Anh biết nó được thành lập như thế nào rồi. Bản mật mã ở trước mắt chúng ta đây rất giản dị. Nay tôi giải đáp hết bản mật mã trên tấm giấy da như dưới đây:
A good glass in the bishop’s hostel in the devil’s seat twenty one degrees and thirteen minutes northeast and by north main branch seventh limb east side shoot from the left eye of the death’s head a beeline from the tree through the shot fifty feet out. (Một cái ly tốt ở lữ quán của đức Giám mục nơi cái ghế của con quỷ hai mươi mốt độ và mười ba phút hướng Đông Bắc và phía Bắc cành cái nhánh thứ bảy về phía Đông ngắm từ mắt trái cái đầu người chết một đường thẳng từ cái cây qua tầm xa mười lăm thước).
Tôi nói: “Những điều bí ẩn này vẫn còn khó hiểu quá. Làm sao có thể biết được nghĩa những chữ lẩm cẩm ‘những cái ghế của con quỷ, những cái đầu lâu, và những lữ quán của đức Giám mục?’”
William Legrand trả lời: “Tôi phải công nhận rằng nội dung bản này không phải dễ hiểu gì? Tôi đã bắt đầu chia những chữ thành từng đoạn như kẻ viết bản mật mã này đã cố ý chia ra như vậy.”
“Nhưng anh chia ra bằng cách nào?”
“Tôi biết rằng kẻ viết bản mật mã thường viết những câu liền với nhau để không ai có thể đọc được bản mật mã. Một kẻ kém học thức lại hay làm thái quá. Khi đến quãng nghỉ trong bản mật mã, hắn càng viết các dấu thật sát nhau. Nếu anh nhìn tấm giấy da, anh có thể trông thấy ngay những chỗ có dấu đặt sát nhau hơn thường lệ. Theo ý nghĩ này, tôi viết rõ những chữ như sau:
A good glass in the Bishop’s hostel in the Devil’s seat – twenty one degrees and thirteen minutes – northeast and by north – main branch seventh limb east side – shoot from the left eye of the death’s head – a bee line from the tree through the shot fifty feet out. (Một chiếc ly tốt ở lữ quán của đức Giám mục nơi cái ghế của con quỷ – hai mươi mốt độ và mười ba phút – hướng Đông Bắc và phía Bắc – cành cái nhánh thứ bảy về phía Đông – ngắm từ mắt trái cái đầu người chết – một đường thẳng từ cái cây qua tầm xa mười lăm thước).”
Tôi nói: “Tôi vẫn chẳng hiểu gì cả.”
William Legrand trả lời: “Tôi cũng không hiểu bí mật này mất mấy hôm. Trong thời gian đó tôi hỏi khắp nơi gần đảo Sullivan’s về một căn nhà mang tên là Lữ Quán đức Giám Mục (Bishop’s Hotel), hay Quán Cơm đức Giám mục (Bishop’s House) và dĩ nhiên tôi bỏ chữ hostel thuộc về cổ ngữ, nhưng không có kết quả. Khi tôi sắp sửa đi xa đảo Sullivan’s hơn nữa để hỏi dò thì tôi chợt nghĩ đến một giòng họ lâu đời có tên là Bessop. Từ ngày xưa giòng họ này có một tòa nhà cổ rất lớn cách xa sáu cây số về phía Bắc đảo này. Tôi tới hỏi những người da đen trong vùng. Cuối cùng một trong những bà cụ già nhất cho biết rằng bà ta đã nghe nói tới một chỗ gọi là Lâu Đài Bessop, và bà có thể đưa tôi đến đấy. Nhưng nó không phải là lâu đài hay dinh thự, và cũng không phải là lữ quán cho du khách, hay khách sạn, hay quán cơm, mà là một khối đá cao.
“Tôi hứa trả công rất hậu nên bà ta đưa tôi đến. Chỗ đó rất dễ tìm thấy. Tôi cho bà ta về nhà rồi quan sát tứ phía. Chỗ đó có nhiều tảng đá, có một tảng cao đặc biệt. Tôi trèo lên đỉnh tảng đá rồi không biết phải làm gì nữa. Khi đang đứng nghỉ, tôi trông thấy một chỗ trong tảng đá dưới nơi tôi đang đứng. Trông nó rất giống một cái ghế, mặt phiến đá sâu xuống độ bốn mươi phân và rộng không quá ba mươi phân. Tôi chắc chắn chỗ này là cái ghế của con quỷ, thế là tôi bắt đầu tìm ra giải đáp cho vấn đề bí mật này.
“Tôi biết rằng cái “ly tốt” chẳng qua chỉ là một cái kính viễn vọng; vì các thủy thủ phải có một cái kính viễn vọng để họ có thể nhìn được những nơi rất xa ở trên mặt biển, và bao giờ họ cũng gọi kính viễn vọng là ‘glass.’ Đến đây tôi thấy ngay rằng cần phải dùng một cái kính viễn vọng. Còn những chữ ”hai mươi mốt độ và mười ba phút”, và ”Đông Bắc và phía Bắc” là những lời chỉ dẫn để ngắm kính viễn vọng được đúng hướng. Tôi vội vàng trở về lấy kính viễn vọng rồi trở lại tảng đá.
Tôi bước xuống cái ghế thì thấy chỉ có thể ngồi được một thế. Việc này chứng tỏ rằng tôi đã nghĩ đúng. Tôi xử dụng kính viễn vọng, nhìn về hướng ”Đông Bắc và phía Bắc”, nhấc lên tới tầm mà tôi ước lượng độ ”hai mươi mốt độ và mười ba phút” phía trên chân trời. Tôi nhích lên nhích xuống kính viễn vọng rất cẩn thận cho đến khi tôi thấy một khoảng trống tròn ở gần ngọn một cái cây lớn, cao hơn hẳn các cây ở gần nó. Giữa khoảng trống này tôi trông thấy một chấm trắng, nhưng mới đầu tôi không biết là cái gì. Bây giờ tôi xử dụng kính viễn vọng hết sức cẩn thận, kéo nó dài ra rồi lại thu ngắn lại cho đến khi tôi nhìn thấy cái chấm trắng rất rõ. Đó là cái sọ người.
“Khi tìm ra cái sọ tôi yên trí là đã giải đáp hoàn toàn ”Cành cái, nhánh thứ bảy, phía Đông” phải có nghĩa là vị trí cái sọ ở trên cây. “Ngắm từ mắt trái cái đầu người chết” cũng có thể được giải thích bằng một cách duy nhất, nếu nó có liên quan đến của cải chôn dưới đất. Ý câu này là thả một vật gì từ mắt trái cái sọ xuống đất. Còn đường thẳng (beeline – bee: con ong; line: đường) thì anh biết rằng con ong là một con côn trùng đánh dấu chiều hướng bằng cách bay thẳng. Như vậy, giai đoạn sau là phải đo từ cái cây ngang qua chỗ vật thả xuống đến một điểm cách thân cây 15 thước. Vì vậy một điểm nhỏ hẹp đã được chỉ định rất rõ. Tôi nghĩ thầm, có thể một vật gì quý giá đã được chôn ở dưới đất tại chỗ đó.”
Tôi nói: “Anh đã giải thích rất rõ ràng. Anh làm gì sau khi đã rời khỏi Lữ Quán của đức Giám mục?”
“Tôi về nhà. Sau khi tôi đã rời khỏi phiến đá ”Cái ghế của con quỷ” dù xoay thế nào tôi cũng không thể trông thấy “lỗ hổng ở giữa vòm cây.” Sự này đối với tôi là phần lạ lùng nhất trong toàn thể việc này.
“Hôm ấy lão Jupiter đã đi với tôi. Ngày hôm sau tôi dậy rất sớm và đi một mình để tìm cái cây. Tôi đã tìm ra được cái cây đó. Còn phần cuối câu chuyện thì tôi chắc anh cũng hiểu rõ như tôi.”
Tôi nói: “Có phải anh không tìm thấy chỗ chôn của cải ngay lần đầu tiên mà chúng ta đào vì lão Jupiter dùng nhầm mắt của cái sọ?”
“Đúng thế. Nếu tôi đã không chắc rằng vàng ở một chỗ nào gần cái cây thì việc đào đó chỉ là công dã tràng”.
“Có phải lão Kidd đã nghĩ đến việc dùng cái sọ chỉ vì cái sọ là biểu hiệu của hải tặc?”
“Có lẽ. Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng dùng cái sọ là khôn lắm. Nếu không phải là màu trắng thì không thể nào nhìn thấy từ ”Cái ghế của con quỷ”. Không có thứ gì có thể mỗi ngày một trở nên trắng hơn bằng cái sọ người nếu phải để lộ thiên hết năm này qua năm khác trong thời tiết thay đổi?”
“Nhưng anh dùng con bọ hung vàng! Tại sao anh bảo lão Jupiter thả nó từ cái sọ xuống đất?”
“Thú thực, tôi rất tức vì anh cứ tưởng rằng tôi loạn óc. Tôi định làm một việc gì để anh phải nghĩ ngợi. Dĩ nhiên sức nặng của con bọ hung cũng rất có ích”.
“Tôi hiểu rồi. Bây giờ tôi còn một câu hỏi nữa. Chúng ta nghĩ sao về những cái xương người thấy ở trên đống vàng?”
“Đây là một câu hỏi mà tôi không thể trả lời hơn anh được. Tuy nhiên hình như chỉ có một cách giải thích duy nhất. Chắc chắn là lão Kidd cần phải có người giúp việc chôn của cải xuống đất cho hắn. Nhưng khi việc này gần xong, có thể hắn không muốn một người nào khác biết bí mật ấy. Có lẽ chỉ cần hai nhát kiếm là đủ trong khi người giúp việc đang mải đào đất; có lẽ mười hay mười hai nhát cũng nên – ai biết được?”
CON BỌ HUNG VÀNG - EDGAR ALLAN POE - người dịch: LÊ BÁ KÔNG,
(The Gold Bug)
Nhiều năm trước đây tôi chơi rất thân với một người tên là William Legrand. Anh xuất thân trong một gia đình cổ và danh giá, trước kia giàu có nhưng về sau bị khánh kiệt. Vì không muốn nhiều người biết rõ chuyện phiền muộn của mình nên anh đã rời khỏi thành phố New Orleans là quê hương của anh và đến sống trên đảo Sullivan’s, gần đô thị Charleston, phía Nam bang Carolina.
Hòn đảo này dài chừng năm cây số và không có chỗ nào rộng hơn bốn trăm thước. Một lạch nước chảy lững lờ ngăn cách hòn đảo và đất liền. Trên đảo không có cây to. Gần cuối đảo, về phía Tây, có mấy căn nhà gỗ tồi tàn là nơi dân chúng từ đô thị Charleston lui tới vào mùa hè để tránh bụi bặm và nóng bức. Ở đây người ta chỉ thấy một ít cây cọ. Khắp đảo, trừ dọc bờ biển trắng xóa, đều có những cây sim phủ kín, giống thảo mộc này cao từ bốn đến sáu bộ, và hoa sim tỏa hương thơm dịu dàng trong không khí.
William Legrand dựng một căn nhà nhỏ gần cuối đảo về phía đông và sống tại đây khi tôi tình cờ gặp anh. Tình bạn giữa chúng tôi nảy nở rất nhanh chóng vì anh có nhiều đức tính làm tôi mến mộ. Tôi nhận thấy anh là người có học thức, với trí thông minh vượt mức bình thường, nhưng anh không thích giao du, và tính tình thất thường, khi vui vẻ khi buồn bã.
Anh có nhiều sách nhưng ít khi đọc. Hầu hết thời gian anh dùng vào việc săn bắn và câu cá, hay đi dạo chơi trên bờ biển và trong đám sim để tìm bọ hung. Anh đã tìm thấy rất nhiều bọ hung, đủ các loại hiếm có và giữ gìn chúng rất cẩn thận.
Một ông cụ người da đen, tên là Jupiter, thường theo anh trong những cuộc dạo chơi này. Hồi gia đình William Legrand còn giàu có đã mua lão Jupiter, rồi sau giải phóng cho lão ta, nhưng lão không muốn rời khỏi cậu chủ của lão.
Mùa Đông ở đảo Sullivan’s ít khi lạnh, và về cuối năm thường không cần phải đốt lửa sưởi ấm. Tuy nhiên vào khoảng giữa tháng 10 năm 18…, có một hôm thời tiết rất lạnh. Ngay trước khi mặt trời xế bóng tôi đi len giữa đám sim xanh um để đến nhà bạn tôi. Đã mấy tuần tôi không đến thăm anh. Hồi đó tôi ở Charleston, cách đảo mười lăm cây số, nhưng thời bấy giờ đi về không dễ dàng như ngày nay.
Khi tới căn nhà nhỏ, tôi gõ cửa nhưng không thấy ai trả lời nên tôi tìm chiếc chìa khóa dấu ở một nơi tôi đã biết. Tôi mở khóa cửa rồi vào trong nhà. Một ngọn lửa trong lò sưởi đang cháy làm tôi ngạc nhiên và thích thú. Tôi cởi áo choàng, ngồi trên một chiếc ghế lớn bên cạnh lò sưởi, và đợi hai bạn tôi trở về.
Sau chiều tà một lúc, họ trở về và có vẻ rất hoan hỷ được gặp tôi. Lão Jupiter cười ngoác cả miệng, đi lại lăng xăng để làm cơm. William Legrand thì coi bộ vui vẻ, hớn hở. Với sự giúp đỡ của lão Jupiter, anh đã tìm thấy và bắt được một con côn trùng lớn thuộc loài bọ hung mà anh tin rằng con bọ hung này hoàn toàn mới lạ đối với những người nào nghiên cứu về những giống này. Anh muốn rằng sáng hôm sau tôi sẽ cho anh biết ý kiến về con bọ hung này.
“Sao lại không bàn ngay tối nay.” Tôi vừa hỏi vừa đưa tay về phía lửa, và không muốn nghe chuyện côn trùng thuộc loại bọ hung.
William Legrand nói: “Chà, phải chi tôi đã biết trước là anh đến đây. Nhưng đã lâu tôi không gặp anh. Làm sao tôi biết trước được anh sẽ đến thăm tôi ngay đêm nay nhỉ? Khi tôi đang về nhà thì gặp một người bạn ở đầu hòn đảo bên kia, và tôi đưa hắn cầm con bọ hung đó. Đêm nay anh ở lại đây, rồi tới rạng đông tôi sẽ cho lão Jupiter đi lấy về. Nó đẹp tuyệt trần!”
“Sao? Rạng đông đẹp à?”
“Không, con bọ hung. Màu nó vàng óng ánh, dài chừng năm phân, có hai chấm đen ở gần đuôi và một chấm đen khác dài hơn ở phía đầu. Nhưng sợi râu thì thiệt là…”
Lão Jupiter nghe không rõ, vội cãi: “Nó không phải bằng thiếc đâu cậu ạ, cháu cam đoan vậy. Con bọ này có một chất quý hơn thiếc. Nó là con bọ hung vàng, toàn vàng, hết thảy cả trong lẫn ngoài, chỉ trừ cánh. Trong đời cháu chưa bao giờ thấy con bọ hung nào nặng như thế.”
William Legrand trả lời: “Ừ thì cho nó là bằng vàng, nhưng không phải vì thế mà lão để cháy khê thức ăn nhé! Màu của nó (nói đến đây anh quay về phía tôi) thật đúng như lời lão Jupiter nói. Chưa bao giờ anh trông thấy một thứ gì sáng óng ánh hơn con bọ hung này – nhưng đến mai anh mới có thể thẩm định được. Tuy nhiên tôi có thể cho anh biết sơ qua về hình dáng nó.” Nói đến đây anh ngồi trước một cái bàn nhỏ, tìm giấy nhưng không thấy. Cuối cùng anh nói: “Không cần, dùng miếng này cũng được”. Anh rút trong áo ra một miếng gì trông như tấm giấy cũ, bẩn và dày, rồi vẽ trên mặt giấy. Trong khi anh vẽ, tôi vẫn ngồi cạnh lửa vì tôi vẫn thấy rét. Khi vẽ xong anh trao tấm giấy cho tôi mà không đứng dậy. Khi tôi cầm tấm giấy, chúng tôi nghe thấy tiếng động ở ngoài cửa. Lão Jupiter mở cửa, một con chó lớn của William Legrand chạy vào, nó nhảy chồm lên vai tôi và áp mặt nó lên mặt tôi; chúng tôi đã thân nhau trong những lần tôi đến chơi trước. Khi nó nhảy xuống, tôi nhìn tấm giấy, và thực tình tôi thấy rất khó hiểu hình vẽ bạn tôi vừa đưa tôi xem.
“Ừ,” tôi nói sau khi nhìn hình vẽ mấy phút, “con bọ hung này thật là kỳ lạ. Bây giờ mới thấy lần đầu tiên, trước kia tôi chưa hề thấy cái gì như thế này – trừ khi nó là cái sọ người, hay là cái đầu lâu người chết. Trông nó giống thế hơn là bất kỳ cái gì khác tôi từng trông thấy.”
William Legrand nói: “Cái đầu người chết! Ờ, phải, phải rồi, trông trên giấy thấy giống như vậy thật, chắc là thế. Hai cái chấm đen ở trên trông như hai con mắt và cái chấm dài hơn ở dưới như cái miệng – thế rồi lại cả hình dạng của toàn thể con bọ nữa.”
Tôi nói: “Có lẽ thế, nhưng anh William Legrand ạ, tôi e rằng tài vẽ của anh còn kém cỏi chăng. Tôi phải đợi để chính mắt được xem con bọ đó nếu tôi muốn biết hình dạng nó ra sao?”
Anh nói: “Không biết nữa. Hình này vẽ không đến nỗi dở lắm, phải không?”
Tôi nói: “Bạn ơi, cái đầu lâu này bạn vẽ rất khá, thật đấy mà, tôi có thể nói rằng rất cừ là đằng khác và con bọ hung của anh phải là một con bọ kỳ dị nhất thế giới nếu nó giống như thế này. Còn những cái râu mà anh nói đâu?”
William Legrand nói: “Râu à! Tôi chắc anh trông thấy những cái râu chứ. Tôi vẽ rất rõ cơ mà.”
“Có lẽ anh đã vẽ, nhưng tôi chẳng thấy gì cả,” tôi nói rồi trao cho anh mảnh giấy. Quả thật tôi không trông thấy râu nó đâu cả, và toàn thể hình vẽ trông rất giống những hình vẽ đầu người chết mà ta vẫn thường thấy.
Anh cầm tờ giấy, sắp sửa ném nó vào lửa thì thấy một điều gì đập vào mắt mình. Một lúc sau mặt anh đỏ rần, rồi lại tái nhợt. Anh tiếp tục ngắm nghía hình vẽ rất kỹ trong mấy phút. Cuối cùng anh cầm tờ giấy tới góc phòng bên kia rồi lại nhìn nữa, xoay tấm giấy đủ mọi phía nhưng không nói câu nào. Anh làm tôi ngạc nhiên, nhưng tôi thấy cần phải làm ra vẻ không để ý tới những cử chỉ kỳ quặc của anh.
Một lúc sau, anh cẩn thận cất tấm giấy trong bàn viết. Từ đó anh lộ vẻ suy tư mỗi lúc một nhiều hơn. Đêm hôm đó, tôi định ở lại nhà anh như nhiều lần trước nhưng lần này tôi thấy nên về là hơn. Anh không giữ tôi ở lại, nhưng khi tôi từ biệt, anh cầm tay tôi và xiết chặt một cách nồng nhiệt hơn thường lệ.
* * *
Sau đó chừng một tháng, lão Jupiter đến Charleston thăm tôi. Tôi chưa bao giờ thấy lão già da đen hiền lành đó lại có vẻ buồn bã như thế, và tôi sợ rằng bạn tôi gặp điều gì phiền muộn hệ trọng chăng.
Tôi nói: “Này, bác Jupiter, có chuyện gì thế?”
“Thú thực với cậu, cậu William cháu không được khỏe lắm”.
“Nghe bác nói tôi buồn quá. Cậu ấy đau ra sao?”
“Cậu cháu chẳng nói năng gì cả. Nhưng bịnh nặng lắm”.
“Bịnh nặng lắm, hả bác Jupiter. Cậu ấy đau liệt giường hay sao?”
“Thưa, không ạ. Cháu lo ngại cho cậu William quá. Cậu cháu chẳng cho biết bị bịnh gì cả. Trái lại, không hiểu tại sao cậu cháu cứ đi lang thang, đầu cúi gầm xuống, vai so lên và mặt nhợt nhạt? Hơn nữa cậu cháu cứ viết những con số hoài – những con số quái lạ nhất mà bây giờ cháu mới thấy. Cháu sắp hoảng lên đây, cậu ạ. Cháu phải canh chừng cậu cháu mới được. Hôm nọ cậu cháu ra đi trước khi mặt trời mọc rồi suốt cả ngày hôm đó không trở về. Vả lại, trông cậu cháu tiều tụy quá!”
“Thế bác không biết nguyên nhân căn bịnh này sao? Hay nói cho đúng hơn, sự gì đã làm cậu ấy thay đổi như thế? Có gì xảy ra từ khi tôi gặp cậu ta không?”
“Thưa không, chẳng có gì xảy ra từ hôm đó cả. Sự này xảy ra ngay hôm cậu ở đó.”
“Sao? Bác nói sao?”
“Cháu muốn nói con bọ hung. Đó, chuyện chỉ có thế!”
“Con bọ hung à?”
“Cậu William bị con bọ hung vàng làm hại. Con bọ hung ấy dữ lắm. Cháu chưa bao giờ thấy một con bọ hung nào dữ tợn như thế. Mới đầu cậu William bắt nó, nhưng cậu ấy phải thả ngay nó ra. Miệng con bọ hung đó trông dễ sợ quá. Cháu không dám cầm nó bằng tay cháu. Cháu bắt nó bằng một tấm giấy mà cháu tìm thấy rồi cháu quấn tờ giấy chung quanh mình nó, cháu bắt nó như thế đó.”
“Thế bác nghĩ rằng đúng con bọ hung đó là nguyên nhân cảnh huống này sao?”
“Cháu không còn nghi ngờ gì cả, cháu biết chắc như thế mà. Vậy cái gì làm cậu William mơ tưởng tới vàng liên mien như vậy, nếu không phải là con bọ hung vàng?”
“Tại sao bác biết cậu ta mơ tưởng đến vàng?”
“Vì cậu cháu nói thế trong giấc ngủ! Vì vậy mà cháu biết.”
“Này bác Jupiter, có phải bác đến để kể cho tôi biết chuyện này không?”
“Thưa không ạ, cháu đến để đưa cậu bức thư này.”
Lão đưa cho tôi một bức thư viết như sau:
Thân gởi Anh,
Tại sao lâu nay tôi không gặp anh? Tôi mong rằng tôi đã không làm hay nói điều gì làm anh phải xa lánh tôi, nhưng không, chúng ta hiểu nhau quá mà.
Từ khi gặp anh tôi đã khám phá ra một chuyện muốn nói với anh, tuy nhiên tôi không biết nói chuyện này ra sao, và chẳng hiểu có nên nói hay không.
Mấy bữa qua tôi không được mạnh lắm, còn lão Jupiter khốn khổ thì lúc nào cũng quanh quẩn bên tôi để cố săn sóc tôi một cách quá ân cần.
Từ hôm chúng ta gặp nhau lần cuối cùng, tôi không tìm được con bọ hung nào khác.
Nếu có thể được, mời anh cùng đến với lão Jupiter. Mong anh tới. Tôi muốn gặp anh tối nay vì có một việc quan trọng.
Tôi có thể nói với anh rằng việc này tối quan trọng.
Thân ái,
William Legrand
Bức thư này làm tôi lo ngại. Lời lẽ có vẻ không phải của anh. Anh đang lo âu một việc gì? “Việc tối quan trọng” của anh là việc gì? Lão Jupiter lại cho tôi biết là anh không được khỏe. Tôi e rằng anh mất trí vì những điều phiền muộn chăng. Bởi vậy tôi liền đi ngay với lão Jupiter.
Khi tới bờ lạch, tôi trông thấy một cái hái và ba cái mai, tất cả đều mới, nằm dưới đáy thuyền. Tôi hỏi: “Những thứ này dùng để làm gì? Cậu William nhà bác định dùng những thứ này để làm gì?”
Lão Jupiter nói: “Cháu hiểu sao nổi, và cháu cho rằng đến cả cậu cháu cũng không hiểu nốt. Nhưng hết thảy đều tại con bọ hung vàng mà ra cả.”
The Gold BugTHE GOLD BUG
Tôi tới căn nhà nhỏ vào lúc gần ba giờ chiều. William Legrand nắm tay tôi một cách nồng nhiệt, bồn chồn làm tôi ngạc nhiên và tăng thêm mối lo ngại về anh. Mặt anh trắng bệch, hai mắt sâu hoắm sáng quắc. Sau vài ba câu hỏi thăm sức khỏe, tôi hỏi anh xem người bạn kia đã trả con bọ hung chưa.
Anh trả lời, vẻ mặt biến sắc: “À, có. Tôi lấy nó lại ngay sáng hôm sau. Không gì có thể chia rẽ tôi với con bọ hung được. Anh có biết rằng lão Jupiter nói đúng về nó không?”
“Đúng thế nào?” Tôi hỏi, và sợ phải nghe câu trả lời tiếp theo.
“Vì hắn cho rằng con bọ hung đó bằng vàng thật.” Anh nói câu đó một cách rất nghiêm trang. “Con bọ hung sẽ làm tôi giàu,” anh nói tiếp. “Giàu như trước kia! Tôi chỉ cần sử dụng con bọ hung đúng cách, rồi tôi sẽ tìm được đến chỗ có vàng như nó đã báo điềm trước. Này bác Jupiter, bác đưa cho tôi con bọ hung đó.”
“Gì ạ, con bọ hung hả cậu? Cháu không muốn quấy rầy con bọ hung đó đâu. Cậu đi mà lấy.”
William Legrand đứng dậy rồi đem con bọ hung lại cho tôi. Con bọ này đẹp thật và chưa từng có con nào như vậy. Gần phía cuối đuôi có hai chấm đen tròn, và một chấm dài ở gần phía trước. Thân nó cứng và có màu vàng óng ánh. Nó cũng nặng lắm. Xét ra, tôi có thể hiểu tại sao lão Jupiter lại sợ hãi con bọ hung này. Tuy nhiên, tôi không hiểu tại sao một người có học thức như William Legrand lại có thể đồng ý với lão Jupiter.
William Legrand nói: “Tôi cho mời anh đến để được anh giúp trong việc lấy những của cải mà thần thánh và con bọ hung này ban cho tôi.”
Tôi la lên: “Anh William, nhất định anh bị bịnh rồi. Anh phải nằm nghỉ mới được, tôi sẽ ở lại đây cho tới khi anh bình phục.”
Anh nói: “Anh sờ tim tôi đập mà xem.”
Tôi sờ tim đập thì sự thực không thấy anh bị bệnh gì cả.
“Nhưng tôi vẫn cho rằng anh nên đi nằm thì hơn.”
William Legrand nói: “Được biết những điều tôi hiện đang biết, mà tôi vẫn khoẻ thế này là tốt hết sức rồi. Nếu quả thật anh muốn làm tôi được dễ chịu hơn, tôi có thể bảo anh cách làm việc đó.”
“Tôi phải làm gì?”
“Dễ lắm. Lão Jupiter và tôi sắp đi vào miền núi, bên đất liền, và chúng tôi cần sự giúp đỡ của một người chúng tôi có thể tin cậy được; người đó là anh. Dù chúng ta thành công hay thất bại, anh cũng sẽ thấy rằng tôi sẽ lành bệnh.”
Tôi đáp: “Tôi muốn giúp anh; nhưng có phải anh định nói rằng con bọ hung này có liên quan đến việc anh đi vào miền núi không?”
“Phải”.
“Nếu thế, tôi không muốn dính dáng gì đến chuyến đi này đâu?”
“Vậy thì phiền quá, vì chúng tôi sẽ phải cố làm việc đó một mình. Chúng tôi sẽ đi ngay lập tức và sẽ trở về lúc rạng đông.”
“Nếu tôi đi, anh có lấy danh dự hứa rằng khi nào giải quyết xong việc con bọ hung này, anh sẽ trở về nhà và làm đúng như lời tôi nói không?”
“Có, tôi xin hứa như vậy, bây giờ chúng ta hãy đi kẻo phí thì giờ.”
Tôi đi với bạn tôi mà lòng buồn bã. Chúng tôi bắt đầu ra đi hồi bốn giờ chiều. William Legrand, lão Jupiter, con chó, và tôi. Lão Jupiter cầm hái và mai, vì theo như tôi nghĩ, lão sợ giao những thứ đó vào tay cậu chủ của lão. Về phần tôi, tôi đảm nhiệm việc cầm hai cái đèn. William Legrand cầm con bọ hung, anh đã buộc nó vào một sợi dây. Trong khi chúng tôi đi đường anh cử động cánh tay làm con bọ hung như bay chung quanh chúng tôi. Khi trông thấy thế tôi gần như muốn khóc vì thương hại trí óc cuồng loạn của bạn tôi. Tuy nhiên, lúc đó tôi thấy không nên đả động gì đến con bọ hung thì hơn.
Để trả lời những câu hỏi của tôi về mục đích cuộc đi này, anh chỉ đáp: “Rồi anh sẽ biết.”
Chúng tôi vượt qua giòng nước, đi lên phía đất cao ở bên đất liền, và tiếp tục tiến về phía Tây Bắc, xuyên qua một vùng hoang vu, không thấy một vết chân người. William Legrand dẫn đầu, thỉnh thoảng lại dừng chân để tìm những chỗ mà anh đã đánh dấu trong chuyến đi trước.
Chúng tôi cứ tiếp tục đi như vậy trong hai giờ, và khi mặt trời vừa ngả về Tây, chúng tôi đã tới một khoảng đất bằng phẳng, bên sườn một ngọn đồi rất cao. Tôi chưa thấy chỗ nào hoang dã như chỗ này. Cây cối rậm rạp, những tảng đá lớn nằm ngổn ngang trên mặt đất.
Đi tới đây, lão Jupiter phải dùng cái hái để phát những bụi cây rậm rạp. Dưới sự điều khiển của William Legrand, lão Jupiter dọn lối cho chúng tôi đi đến một cây lớn mọc cao hơn hẳn các cây khác chung quanh nó. Cây này có dáng thon và đẹp nhất tôi từng thấy. Khi chúng tôi tới nơi, William Legrand quay lại hỏi lão Jupiter có thể trèo lên cây đó không.
Lão già lộ vẻ ngạc nhiên về câu hỏi. Lão bước chậm chạp chung quanh thân cây và ngắm nghía cẩn thận, rồi nói: “Thưa cậu, trèo được ạ, tôi có thể trèo bất cứ cây nào.”
“Vậy lão trèo nhanh lên kẻo trời sắp tối mịt thì không còn trông thấy những việc chúng ta đang làm.”
“Cháu phải trèo cao tới đâu, hả cậu?”
“Cứ trèo thẳng tít lên đã, rồi tôi sẽ bảo. À này, cầm theo con bọ hung nữa.”
“Con bọ hung, hả cậu William! Con bọ hung!” lão da đen vừa la vừa lảng ra chỗ khác. “Để làm gì?”
“Này lão Jupiter, nếu to xác như bác mà sợ con bọ hung tí xíu chết tiệt này thì bác cầm sợi dây này. Nếu bác không chịu cầm con bọ hung này, tôi sẽ nện bể đầu bác bằng cái mai này cho coi.”
Lão Jupiter nói: “Cậu bảo sao? Cháu mà sợ con bọ hung này hả? Con bọ hung này làm gì được cháu?” Lão ta cầm lấy sợi dây, và tay cầm con bọ hung giang xa hết sức có thể rồi sửa soạn trèo lên cây.
Lão cố sức giang cánh tay và đầu gối để ôm chặt vào thân cây rồi bắt đầu trèo lên. Cuối cùng, sau một vài lần xuýt té, lão trèo tới cành cây lớn thứ nhất, cách mặt đất chừng mười tám hay hai mươi thước.
Lão Jupiter hỏi: “Trèo đâu bây giờ, hả cậu William?”
William Legrand nói: “Trèo lên cành cây lớn nhất đó.”
Lão Jupiter lại tiếp tục trèo, mỗi lúc một cao, cho tới khi chúng tôi không trông thấy lão nữa. Một lát sau chúng tôi nghe tiếng lão nói:
“Cháu phải lên bao xa nữa?”
“Bác lên tới đâu rồi?” William Legrand hỏi.
Người da đen trả lời: “Xa lắm. Cháu có thể trông thấy bầu trời qua ngọn cây rồi.”
“Mặc kệ trời với đất, hãy lắng tai nghe tôi nói. Nhìn xuống dưới cây rồi đếm những cành cây ở phía dưới bác về bên này. Bác đã trèo được bao nhiêu cành rồi?”
“Một, hai, ba, bốn, năm – cháu trèo được năm cành bự ở phía bên này rồi, cậu ạ!”
“Vậy bác leo lên cành trên nữa”.
Mấy phút sau chúng tôi lại nghe thấy tiếng lão ta đã trèo tới cành thứ bảy.
William Legrand la: “Này bác Jupiter, bây giờ tôi muốn bác trèo ra tít ngoài đầu cành đó. Nếu bác trông thấy vật gì lạ thì cho tôi hay.”
Đến lúc này tôi chắc là bạn tôi mất trí thật rồi. Làm thế nào để bảo anh trở về nhà?
Chúng tôi lại nghe thấy tiếng lão Jupiter: “Trèo quá ra ngoài thì sợ lắm vì cành này chết héo rồi mà!”
William Legrand nói: “Trời đất ơi, thế này thì tôi phải làm sao bây giờ?”
Tôi nói: “Làm sao! Đi về mà ngủ. Đi nào, bồ! Khuya rồi đấy, anh nhớ lời anh hứa chứ!”
Anh la lên: “Này bác Jupiter, có nghe thấy tôi nói không? Thử gỗ xem. Chém sâu vào xem. Có thật cành đó đã chết và mục rồi không?”
Người da đen trả lời: “Đúng là nó mục rồi. Nếu cháu quẳng quách con bọ hung nặng chình chịch này đi, thì cháu sẽ không làm gãy cành.”
William Legrand la lên: “Lão Jupiter, nếu lão để con bọ hung rơi xuống, tôi sẽ vặn cổ lão. Có nghe tôi nói không?”
“Thưa cậu, có ạ!”
“Trèo ra ngoài cành đó, cầm cả con bọ hung nữa, trèo ra tới hết chỗ còn vững chắc thì thôi, rồi tôi sẽ thưởng cho một đồng bạc.”
Người da đen trả lời: “Cháu đang trèo ra gần tới đầu cành rồi đây.”
“Ra tận đầu cành!” William Legrand la lớn tiếng. “Tận đầu cành!”
“Gần đầu cành rồi cậu ơi! Ô… ối, lạy Chúa tôi! Cái gì ở trên đây thế này?”
William Legrand mừng cuống quít rồi la lên: “Này! Cái gì thế?”
“Cậu ơi, có cái sọ người thôi! Kẻ nào đã bỏ lại cái đầu lâu ở trên cây để đàn chim rỉa thịt hết trơn hết trọi à.”
“Cái sọ hả! Tốt lắm! Nó được gắn vào cây như thế nào?”
“Thưa cậu, cháu phải nhìn đã. Kỳ cục quá. Một chiếc đinh bự đóng chặt cái sọ vào cây.”
“Này bác Jupiter, bây giờ bác hãy làm đúng như lời tôi dặn, bác có nghe thấy không? Tìm con mắt bên trái của cái sọ. Bác có biết mắt nào phải và mắt nào trái không?”
“Có phải mắt trái của cái sọ ở cùng phía với tay trái của cái sọ không? Dĩ nhiên là cái sọ không có tay nhưng đây là mắt trái. Cháu phải làm gì đây?”
“Luồn con bọ hung qua mắt trái rồi thả hết dây xuống, nhưng phải giữ lấy dây.”
Trong lúc hai người nói với nhau, chúng tôi không trông thấy lão Jupiter nhưng lúc này con bọ hung hiện ra ở đầu dây, óng ánh như vàng trong ánh mặt trời tàn. Nếu để nó rơi, nó sẽ sa xuống chân chúng tôi.
William Legrand cầm một cái hái hình tròn đường kính chừng ba bốn thước; rồi anh bảo lão Jupiter buông dây ra và trèo xuống.
Anh lấy một cái cọc gỗ đánh dấu chỗ con bọ hung vừa rơi xuống. Rồi anh lấy ra một cái thước dây dài, buộc một đầu dây vào thân cây gần cái cọc gỗ đánh dấu mà anh vừa cắm. Rồi anh kéo cái thước dây từ thân cây ra đến cọc gỗ đánh dấu, rồi cứ thẳng theo hướng đó, anh đi thong thả, kéo theo cái thước dây. Lão Jupiter đi phía trước anh và dùng cái hái để dọn lối đi. Sau khi đi được mười lăm thước anh đứng lại và cắm xuống đất một cái cọc gỗ đánh dấu nữa.
Tại đây anh vạch một hình tròn nữa, đường kính độ 1 thước 20. William Legrand cầm một cái mai, đưa cho lão Jupiter một cái và tôi một cái rồi bảo chúng tôi bắt đầu đào sâu xuống đất và đào thật nhanh.
Sự thực, tôi không thích việc làm này một chút nào, nhưng tôi không muốn từ chối người bạn đáng thương đó. Tôi biết chắc rằng anh đã nghe thấy chuyện chôn của cải dưới đất và tin như vậy. Ý nghĩ này đã trở nên mãnh liệt hơn vì lão Jupiter nói rằng con bọ hung bằng vàng thật. Nhưng tôi không thể làm gì hơn là cầm cái mai hăm hở đào. Rồi anh sẽ tự biết là mình lầm.
Lúc này chúng tôi đã cần phải đốt đèn. Hai cái đèn chiếu sáng trong khi chúng tôi bắt đầu đào. Tôi nghĩ đến cảnh tượng chúng tôi bày ra ở chỗ đó. Nếu người nào tình cờ gặp chúng tôi họ sẽ cho rằng những hành động của chúng tôi thật là kỳ quái!
Chúng tôi đào suốt hai giờ. Nói với nhau rất ít, chỉ có tiếng chó sủa. William Legrand sợ có kẻ nào nghe thấy tiếng chó sủa mà tìm thấy chúng tôi ở đó – phải chi có ai tìm thấy chúng tôi thật thì tôi mừng quá. Sau cùng lão Jupiter nhảy ra ngoài cái hố chúng tôi đang đào để bịt mõm con chó lại.
Chúng tôi đã đào sâu độ một thước rưỡi nhưng không thấy của cải đâu cả. Chúng tôi dừng lại, tôi bắt đầu mừng thầm là cái trò điên cuồng này sắp chấm dứt. Tuy nhiên, William Legrand bắt đầu nới rộng cái vòng ra và chúng tôi đào sâu thêm sáu tấc nữa. Vẫn không thấy gì cả. Rốt cuộc kẻ tìm vàng đành phải ngừng lại. Anh mặc áo và bảo lão Jupiter cầm mấy cái mai và hái.
Khi chúng tôi đã đi được chừng mười hai bước theo hướng về nhà thì William Legrand bỗng quay lại phía lão Jupiter.
Anh nói: “Đồ ngu như bò! Trả lời ta ngay lập tức. Mắt trái của lão đâu?”
“Ô, cậu William, mắt trái của cháu đây ạ.” lão Jupiter vừa la vừa đặt tay lên trên mắt phải rồi cứ để nguyên tay như vậy.
“Ta đã đoán đúng vậy mà! Ta biết mà!” William Legrand la lên. Anh nhảy cẫng lên. “Chúng ta phải quay lại. Trò chơi chưa xong đâu.” Anh đi đầu trong lúc chúng tôi quay lại cái cây lớn ấy.
Rồi anh nói: “Jupiter, lại đây! Cái sọ đóng quay mặt ra ngoài hay về phía cành cây?”
“Mặt quay ra ngoài, cậu ạ, có thế đàn chim mới dễ rỉa hai con mắt, chẳng phải khó khăn gì”.
“Thế lão thả con bọ hung qua mắt này hay mắt kia?”
William Legrand sờ vào từng mắt của lão Jupiter.
“Mắt này, cậu ạ – mắt trái – đúng như lời cậu dặn,” lão da đen sờ vào mắt bên phải của lão.
“Chúng ta phải thử lại.”
Tôi bắt đầu nhận thấy những hành động của bạn tôi đều có phương pháp mạch lạc, tuy nhiên tôi vẫn cho rằng anh bị mất trí. Anh chuyển cái cọc đánh dấu từ chỗ con bọ hung rơi tới một chỗ cách đó chừng bảy phân về phía Tây. Anh lấy cái thước dây, đặt như trước, từ cái cây đến cái cọc, rồi kéo ra xa độ mười lăm thước. Chỗ mới này cách nơi chúng tôi vừa đào mấy thước.
Chúng tôi lại cầm mai để bắt đầu đào. Tôi bỗng cảm thấy hứng thú một cách lạ lùng, mặc dầu không biết tại sao. Có lẽ từ cách suy nghĩ của anh đã làm tôi thay đổi như vậy. Tôi hăng hái đào, và thỉnh thoảng lại nhìn xem có tìm thấy vàng trong khi tôi vẫn chắc chắn là không có.
Có lẽ chúng tôi đã đào được một giờ rưỡi thì lại nghe chó sủa. Lần này lão Jupiter không thể giữ nó lâu để kịp buộc mõm nó lại. Nó sổng ra khỏi tay lão Jupiter và nhảy xuống hố, rồi nó bắt đầu bới đất loạn xạ. Một lúc sau, chúng tôi trông thấy ở dưới hố có hai bộ xương người và hình như cả những mảnh áo nữa. Khi chúng tôi tiếp tục đào nữa thì hiện ra ba bốn đồng tiền vàng và bạc.
Lão Jupiter mừng rỡ khi trông thấy những đồng tiền này, nhưng mặt chủ của lão thì lại lộ vẻ rằng anh không mong chỉ tìm thấy có thế thôi. Do đó anh bảo chúng tôi cứ tiếp tục đào, và ngay lúc đó tôi ngã nhào về phía trước vì hai chân vướng phải một cái vòng sắt lớn.
Lúc này chúng tôi đào hăng hơn trước, và tôi chưa bao giờ cảm thấy thích thú như vậy trong mười phút sau đó. Lúc này chúng tôi đã đào trúng một cái rương gỗ dài một thước, rộng chín tấc, và sâu bảy tấc rưỡi. Cái rương được cột chặt bằng những đai sắt. Mỗi đầu có ba cái vòng sắt – sáu cái vòng tất cả – để sáu người có thể khiêng được nó. Ba chúng tôi chỉ xê dịch cái rương được một chút xíu ở dưới hố. Chúng tôi thấy ngay rằng chúng tôi không thể nào nhấc được cái rương quá nặng như vậy.
Tuy nhiên, những cái đai này dễ mở. Chúng tôi vừa run lập cập vừa mở nắp rương ra. Trong khoảnh khắc vàng bạc châu báu nhiều vô số, lấp lánh hiện ra trước mắt chúng tôi. Hai cái đèn chiếu ánh sáng xuống tận dưới hố sâu, vàng và bảo thạch lóng lánh toả ánh sáng làm chúng tôi hoa mắt.
Tôi không thể tả hết những cảm giác của tôi trong lúc đó. Dĩ nhiên lúc đầu tôi ngạc nhiên và sửng sốt. William Legrand chỉ nói được mấy câu. Mặt lão Jupiter thì xanh như chàm đổ. Lão quỳ dưới hố, vục cả hai cánh tay vào đống vàng, và lão cứ ngồi như thế có vẻ cảm thấy thú vị khi được sờ tay vào vàng.
Cuối cùng lão nói: “Tất cả châu báu này đều do con bọ hung vàng mà ra! Con bọ hung vàng trông mới xinh làm sao! Con bọ hung vàng trông mới tội nghiệp làm sao! Con bọ hung vàng tôi đã ghét bỏ”.
Rốt cuộc tôi phải bảo William Legrand và lão Jupiter biết rằng phải chuyển cái rương này đi. Chúng tôi lấy ra độ hai phần ba báu vật, dấu trên mặt đất để con chó canh giữ. Rồi chúng tôi vội khiêng về nhà cái rương và số châu báu còn lại. Đến một giờ sáng thì chúng tôi về tới nhà. Chúng tôi nghỉ đến hai giờ sáng, ăn uống qua loa rồi mang ba cái túi thật dày trở lại cái hố chúng tôi đã đào. Chúng tôi chia số vàng và bảo thạch còn lại thành ba phần đều nhau rồi lại trở về nhà. Lần thứ hai chúng tôi về tới nhà ngay trước khi mặt trời mọc. Chúng tôi buồn ngủ lắm, nhưng sau ba bốn giờ trằn trọc chúng tôi lại trở dậy để xem xét đếm vàng của chúng tôi.
Chúng tôi ngồi suốt cả ngày và gần hết đêm hôm sau để xem xét tỉ mỉ cái rương đựng những gì. Chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi đã kiếm được nhiều hơn là đã phỏng đoán lúc đầu. Về tiền thì có hơn bốn trăm năm mươi ngàn Mỹ kim, con số mà chúng tôi tính gần sát. Không có tiền bằng bạc. Chỉ có toàn tiền vàng, những đồng tiền lâu đời thuộc đủ các loại – Pháp, Tây Ban Nha, Đức, và Anh. Có những đồng đã được sử dụng nhiều đến nỗi không đọc được những chữ đúc trên mặt.
Việc trị giá các bảo thạch lại khó hơn. Nhiều thứ rất lớn và trong vắt, và lại có rất nhiều loại – một trăm mười viên kim cương, mười tám viên hồng ngọc, ba trăm mười viên ngọc bích, hai mươi mốt viên lam ngọc, và một viên ngọc mắt mèo.
Những viên bảo thạch này trước kia đã được cẩn vào đồ trang sức bằng vàng. Chúng tôi còn thấy cả những đồ trang sức đó nữa, nhưng đã bị đập bẹp. Cũng có gần hai trăm cái nhẫn và hoa tai rất nặng, những vòng đeo cổ quý giá – tôi nhớ hình như ba mươi vòng thì phải, và nhiều thứ khác. Tất cả những thứ này phải nặng hơn một trăm năm mươi ký, đó là tôi không kể một trăm chín mươi bảy cái đồng hồ vàng. Cuối cùng chúng tôi thấy tất cả những đồ quý báu này đáng giá trên một triệu rưỡi Mỹ kim.
William Legrand thấy tôi đang nóng ruột muốn biết rõ đầu đuôi vụ này.
Anh nói: “Anh còn nhớ hôm tôi đưa anh tấm hình con bọ hung mà tôi đã vẽ. Và anh cũng nói rằng hình vẽ trông giống cái sọ người. Tôi tưởng anh chế nhạo hình vẽ của tôi, và tôi không thích anh nói đùa như vậy. Khi anh trả lại tôi tấm giấy da mỏng đó, tôi bực mình định quẳng luôn nó vào lửa.”
“Anh định nói mảnh giấy chứ,” tôi nói.
“Không. Trông nó giống giấy lắm, nhưng khi vẽ tôi mới thấy nó là một miếng da mỏng. Như anh đã biết, trước kia rất lâu người ta đã dùng da mỏng để viết và ghi những tài liệu quan trọng không thể ghi vào giấy. Trong lúc tôi sắp ném mảnh da mỏng đó vào lửa, tôi thấy quả thật có hình vẽ cái đầu lâu ở ngay chỗ tôi đã vẽ con bọ hung. Tôi đến cuối phòng đằng kia rồi ngắm tấm giấy da cẩn thận hơn. Khi lật tấm giấy da tôi thấy hình con bọ hung như tôi đã vẽ. Nhưng sự thật thì cả hai hình vẽ rất giống nhau, và thoạt đầu tôi đã ngạc nhiên về điều này đến nỗi tôi không nghĩ được gì hơn.
“Rồi dần dà tôi bắt đầu nhận thấy rằng còn có sự kỳ dị hơn. Khi tôi vẽ con bọ hung thì cả hai mặt miếng giấy da không có hình vẽ. Tôi còn nhớ đã lật đi lật lại miếng giấy da để tìm một chỗ sạch để dùng. Nếu lúc đó đã có hình vẽ cái sọ thì tôi không thể nào không nhận thấy được. Đây quả là một sự bí mật, nhưng sâu trong trí óc tiềm tàng của tôi nó như một ánh lửa ở phía xa xa, tôi có thể trông thấy đầu mối của sự thật mà chúng ta đã chứng minh đêm qua. Tôi cất miếng giấy da để khi nào ngồi một mình sẽ suy nghĩ.
“Khi anh đã ra về và lão Jupiter đã ngủ, trước hết tôi bắt đầu nghĩ đến chỗ đã nhặt được tấm giấy da. Chúng tôi bắt được con bọ hung ở bên đất liền. Tôi đã cầm lên nhưng vì sợ nên lại bỏ nó xuống. Rồi lão Jupiter nhìn quanh quẩn để tìm một vật gì để có thể cầm nó. Lão ta trông thấy một góc miếng giấy da liền lôi lên, vì một nửa tấm giấy vùi ở dưới đất. Gần chỗ đó, tôi trông thấy một vật gì như gỗ mục trước kia là một chiếc xuồng trên tàu biển.
“Lão Jupiter bắt con bọ hung bằng tấm giấy da rồi đưa cho tôi. Trên đường về, chúng tôi gặp người bạn, và đưa hắn con bọ hung đó. Nhưng tôi vô tình giữ lại tấm giấy da. Về sau, chắc anh còn nhớ khi tôi tìm một mảnh giấy để vẽ lại con bọ hung, tôi đã lấy tấm giấy da này ở trong áo tôi.
“Tôi đã chắp hai đoạn mối dây liên lạc vĩ đại này với nhau. Có một chiếc xuồng nằm ở trên bờ biển, và gần chiếc xuồng có một miếng giấy da – không phải giấy thường – có hình một cái sọ. Cái sọ là biểu hiện quen thuộc của bọn hải tặc.
“Đây là da chứ không phải là giấy. Viết lên da không phải dễ, nhưng nó bền hầu như mãi mãi. Đối với tôi, sự kiện đó có một ý nghĩa. Hơn nữa là hình dạng tấm giấy da. Khuôn khổ như vậy là để ghi chép một tài liệu gì cần được nhớ lâu và giữ gìn cẩn thận.”
Tôi nói: “Nhưng anh bảo cái sọ không có ở trên tấm giấy da khi anh vẽ con bọ hung cơ mà. Vậy tại sao cái sọ lại có liên quan với cái xuồng nát?”
“Nó chỉ hiện ra trên tấm giấy da (chỉ có ông Trời mới hiểu nổi làm sao), mãi sau khi anh về. Ấy, bí mật là ở chỗ đó, tuy nhiên tôi tìm ra giải đáp cũng chẳng khó khăn mấy. Việc làm của tôi tiến hành từng bước rất vững chắc và đã đem lại một kết quả duy nhất.
“Tôi đã chú ý nhìn anh trong khi anh ngắm tấm giấy da. Không phải chính anh đã vẽ cái sọ. Cũng chẳng có người nào khác đã vẽ. Ấy thế mà cái sọ lại hiện ra trên tấm giấy da. Nghĩ đến điều này tôi cố nhớ lại, và đã nhớ rõ, mọi sự đã xảy ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó. Tiết trời hôm đó lạnh (thật là hên quá!) và có lửa cháy. Tôi ấm nên ngồi gần cái bàn, còn anh thì ngồi gần lò sưởi. Khi tôi trao tấm giấy da vào tay anh thì con chó nhảy lên vai anh. Anh lấy tay trái ngăn nó lại, trong khi tay phải của anh cầm tấm giấy da và để xuống giữa hai đầu gối và gần ngọn lửa. Đã có lúc tôi tưởng ngọn lửa bén vào tấm giấy da nên tôi định bảo anh, nhưng anh đã rụt lại.
“Khi nghĩ đến những sự việc này, tôi thấy chắc chắn rằng hơi nóng đã làm cái sọ hiện ra. Hẳn anh biết rõ rằng hiện nay và hàng mấy thế kỷ qua đã có những chất được dùng để viết trên giấy hay giấy da để người ta chỉ nhìn thấy chữ viết khi tờ giấy thường hay giấy da được hơ nóng. Khi tấm giấy da nguội thì chữ sẽ biến mất, nhưng lại hiện ra khi hơ nóng.
“Rồi tôi ngắm cẩn thận cái đầu lâu. Hình vẽ có những chỗ rõ và có những chỗ mờ. Tác dụng của hơi nóng chưa đủ. Tôi lập tức nhóm một ngọn lửa khác rồi cầm tấm giấy da hơ gần lửa. Một lúc sau tôi trông thấy hình vẽ một con vật. Tôi chắc chắn rằng con vật đó là một con dê con (kid). Có lẽ anh đã được nghe nói về Đại úy Kidd, tên hải tặc trứ danh. Tôi chắc chắn rằng đây là lối ký tên của hắn. Cái đầu lâu ở phía trên tấm giấy da, và con dê con ở phía dưới cùng. Khoảng giữa không có gì cả.”
“Tôi chắc rằng anh hy vọng có một bức thư ở quãng giữa.”
“Phải. Và tôi cảm thấy có một sự gì rất tốt đẹp đến với tôi. Tôi không biết tại sao. Có lẽ tôi mong ước hơn là tôi tin tưởng như vậy. Tôi có ý nghĩ như vậy vì lão Jupiter bảo rằng con bọ hung bằng vàng. Thật lạ lùng, tất cả việc này lại xảy ra trong một ngày khi chúng ta cần lửa sưởi! Nếu không có lửa, nếu con chó không đến đúng lúc, thì tôi sẽ không khi nào tìm thấy của cải!”
Tôi nói: “Nói tiếp đi! Tôi muốn nghe nốt câu chuyện này quá.”
“Dĩ nhiên là anh đã nghe hàng ngàn chuyện mà người ta kể về việc lão Kidd và đồng bọn của hắn đã bí mật chôn của cải tại một nơi dọc bờ biển Đại Tây Dương thuộc miền này. Nhưng chuyện này có phần xác thực. Và nếu lão Kidd đã trở lại để lấy của thì những câu chuyện phải được kể khác hẳn.
Nhưng ta chỉ nghe nói toàn những chuyện về những kẻ đi tìm của cải chứ không phải về những kẻ tìm thấy của cải. Có sự gì đã cản trở lão Kidd trở lại lấy số châu báu của hắn. Bọn thủ hạ của hắn biết vậy nên chúng cố tìm số tiền đó để lấy đi nhưng không thấy. Những câu chuyện đều bắt đầu như vậy. Có khi nào anh nghe nói tới việc đào được những của cải quan trọng không?”
“Không khi nào”.
“Nhưng lão Kidd có một số châu báu kếch sù. Điều đó ai cũng biết. Tôi nói với anh rằng tôi hy vọng, và hầu như chắc chắn, rằng miếng giấy da là tài liệu ghi chỗ hắn chôn của cải, đã bị thất lạc.”
“Sau đó anh làm gì?”
“Tôi lại để tấm giấy da gần lửa nhưng không có gì hiện ra cả. Tôi quyết định rửa nó. Tôi nhúng nó vào nước nóng rồi để vào một cái hộp mà tôi có thể đặt thẳng trên lửa. Mấy phút sau tôi mừng quá vì thấy miếng giấy da lấm chấm mấy chỗ như hiện ra những chữ số. Tôi lại để nó lên lửa một phút nữa. Rồi nó y như thế này, anh xem đây”.
Nói đến đây William Legrand đưa cho tôi xem tấm giấy da mà anh đã hơ lại. Tôi trông thấy những giòng sau đây viết bằng mực đỏ ở quãng giữa cái đầu lâu và con dê con:
“53‡‡†305))6*;4826)4‡)4‡);806*;48†8¶60))85;1‡);:‡
*8†83(88)5*†;46(;88*96*?;*‡(;485);5*†2:*‡(;4956*
2(5*—4)8¶8*;4069285);)6†8)4‡‡;1(‡9;48081;8:8‡1;4
8†85;4)485†528806*81(‡9;48;(88;4(‡?34;48)4‡;161;:
188;‡?;”
Tôi nói: “Nhưng tôi vẫn chẳng hiểu chút nào cả”.
William Legrand nói: “Ấy thế mà lại dễ tìm ra giải đáp hơn là anh tưởng. Những chữ số này có một ý nghĩa; chúng hợp thành một lối chữ gọi là mật mã. Mỗi số và mỗi dấu phẩy tiêu biểu cho một chữ. Theo như tôi biết về lão Kidd, tôi không tin hắn có thể nghĩ ra một lối mật mã mà tôi không tìm nổi cách giải.”
“Thế thật anh tìm ra được cách giải đáp đấy à?”
“Dễ ợt. Tôi đã tìm ra giải đáp cho những vấn đề khó khăn gấp hàng ngàn lần. Tôi thích làm những việc như vậy. Tôi không tin rằng trí óc con người có thể nghĩ ra một vấn đề mà chính trí óc con người lại không thể giải nổi. Thực vậy, ngay sau khi tôi đọc được các chữ số trên tấm giấy da, tôi biết rằng tìm ra ý nghĩa của nó là việc rất dễ.
“Vấn đề đầu tiên tôi phải làm là tìm xem bản viết này bằng tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Pháp hay tiếng Anh. Thường thường cách duy nhất là thử lần lượt dò ra bằng từng thứ ngôn ngữ. Nhưng đây tôi tìm ra giải đáp theo kiểu chữ ký tên trên tấm giấy da, Hình vẽ con dê con (kid) là tượng trưng cho tên Kidd. Chữ này chỉ có nghĩa trong tiếng Anh. Vì vậy tôi biết mật mã này viết bằng tiếng Anh.
“Anh thấy các số và ký hiệu không được chia thành chữ. Nếu được phân ra như vậy thì mật mã này còn dễ đọc hơn. Nếu vậy tôi đã bắt đầu bằng cách phân tích những chữ ngắn hơn. Nếu thấy chữ nào chỉ có một mẫu tự (như a hay I *) thì tôi chắc chắn sẽ thành công. Bởi vậy bước đầu của tôi là tìm chữ cái nào thường thấy nhiều hơn những chữ khác, v.v…
Anh xem kết quả ở đây.” Anh đưa cho tôi một tấm giấy tôi đọc như sau:
Số 8 có 33 lần
Dấu ; có 26 lần
Số 4 có 19 lần
Dấu ‡ ) có 16 lần
Dấu * có 13 lần
Số 5 có 12 lần
Số 6 có 11 lần
Dấu † 1 có 8 lần
Số 0 có 6 lần
Số 9 và 2 có 5 lần
Dấu :3 có 4 lần
Dấu ? có 3 lần
Dấu ¶ có 2 lần
Dấu -. có 1 lần
“Nay, mẫu tự e là chữ thường gặp nhiều nhất trong tiếng Anh. Sau mẫu tự này là những mẫu tự dưới đây: a o i d h n r s t u y c f g m w b k p q x z
“Tuy nhiên mẫu tự e được dùng nhiều đến nỗi nếu anh chỉ ghép một vài chữ với nhau, thì chắc chắn cũng đã thấy rằng nó là mẫu tự được dùng nhiều nhất. Vì thế, ngay khi mới bắt đầu, chúng ta đã có một căn bản để suy tính chứ không phải chỉ phỏng đoán mà thôi. Chúng ta hãy bắt đầu cho rằng số 8 là mẫu tự e. Muốn cho chắc chắn, chúng ta hãy xem có phải số 8 thường được dùng kép không – vì mẫu tự e thường được dùng kép trong Anh ngữ, trong những chữ meet, deep, agree, seen, been. Ở đây ta thấy mẫu tự e đi đôi đến năm lần, mặc dầu bản mật mã này viết ngắn.
“Rồi, trong hết thảy mọi chữ trong tiếng Anh chỉ có chữ the là thông dụng nhất. Vì vậy, chúng ta hãy tìm xem có ba số hay dấu được viết theo thứ tự giống nhau mà số cuối là 8 được dùng nhiều lần. Nếu chúng ta tìm thấy như vậy thì có lẽ ba số hay dấu đó tiêu biểu cho chữ the. Khi xem, ta tìm thấy nhóm chữ số ; 48. Như vậy ta có thể giả định rằng dấu ; là t, 4 là h, và 8 là e. Chúng ta đã tiến được một bước dài.
“Bây giờ chúng ta đã biết một chữ, và chúng ta cũng biết một điều khác rất quan trọng. Chúng ta đã tìm ra chữ đầu và chữ cuối cùng của những tiếng khác. Ta hãy nhìn nhóm dấu ở cạnh nhóm ;48 – gần cuối bản mật mã. Chữ sau bắt đầu bằng dấu ; và trong sáu mẫu tự theo sau, có năm mẫu tự chúng ta đã biết rồi. Chúng ta hãy viết ra bằng cách dùng những mẫu tự mà ta biết và chừa ra một khoảng trống cho chữ ta chưa biết: t eeth.
“Đến đây ta có thể nói ngay rằng hai mẫu tự th không hợp vào với mẫu tự nào bắt đầu bằng mẫu tự t vì khi thử điền hết thảy các mẫu tự của Anh ngữ vào khoảng trống, chúng ta thấy rằng không có chữ nào có thể điền được mẫu tự th vào. Như vậy ta có: t ee và, thử điền hết mẫu tự nọ đến mẫu tự kia như trước, ta gặp chữ tree, là chữ duy nhất có thể đọc được. Nay ta có thêm một mẫu tự nữa, đó là r, mà trong bản mật mã dùng dấu (. Ta cũng có hai chữ cùng đi với nhau: the tree (cái cây).
“Sau những chữ này, ta lại thấy nhóm ; 48. Nay ta nhìn những chữ đứng ở đằng trước nhóm đó. Ta có đoạn này: the tree; 4 ( §? 34 the hay là dùng những mẫu tự mà ta biết thì thấy: the tree the §? 34 the.
“Thế rồi! nếu ta viết giòng đó như sau: the tree thr… h the. Ta hiểu ngay là chữ through (xuyên qua). Ta cũng đã khám phá được ba chữ mới 0, u và g mà bản mật mã dùng các dấu § ? và 3.
“Bây giờ tìm kỹ trong bản mật mã những top chữ đã viết thì ta thấy sau đoạn đầu một chút những chữ như sau: 83(88 tức là egree. Như vậy rõ ràng là đoạn cuối của chữ degree (độ), và ta có thêm một mẫu tự nữa, đó là d, được thay bằng dấu +.
“Cách tiếng degree bốn mẫu tự ta thấy tốp này: ;46 (; 88°. Dựa theo những mẫu tự đã biết, ta có thể viết tốp đó như sau: th, rtee.
“Ta thấy ngay tốp mẫu tự này là chữ thirteen 13 và ta kiếm ra hai mẫu tự mới, đó là i và n, mà bản mật mã dùng dấu 6 và °.
“Bây giờ ta hãy trở lại phần đầu bản mật mã, ta thấy tốp này: 53 § § +. Làm như trước ta thấy: .good. Và ta có thể chắc chắn rằng chữ thứ nhất là A, và hai tiếng đầu là A good.
“Để việc làm của chúng ta có thứ tự, bây giờ là lúc ta phải kê những chữ đã tìm ra thành một bản như dưới đây:
5 là a, 6 là i
+ là d, o là n
8 là e, § là o
3 là g, ( là r
4 là h, ; là t
“Như vậy chúng ta có mười chữ cái quan trọng nhất trong bản mật mã. Tôi không cần phải nói cho anh biết phần cuối của việc tôi đã làm. Tôi đã nói khá nhiều để anh biết rằng những loại mật mã như kiểu này rất dễ hiểu. Anh biết nó được thành lập như thế nào rồi. Bản mật mã ở trước mắt chúng ta đây rất giản dị. Nay tôi giải đáp hết bản mật mã trên tấm giấy da như dưới đây:
A good glass in the bishop’s hostel in the devil’s seat twenty one degrees and thirteen minutes northeast and by north main branch seventh limb east side shoot from the left eye of the death’s head a beeline from the tree through the shot fifty feet out. (Một cái ly tốt ở lữ quán của đức Giám mục nơi cái ghế của con quỷ hai mươi mốt độ và mười ba phút hướng Đông Bắc và phía Bắc cành cái nhánh thứ bảy về phía Đông ngắm từ mắt trái cái đầu người chết một đường thẳng từ cái cây qua tầm xa mười lăm thước).
Tôi nói: “Những điều bí ẩn này vẫn còn khó hiểu quá. Làm sao có thể biết được nghĩa những chữ lẩm cẩm ‘những cái ghế của con quỷ, những cái đầu lâu, và những lữ quán của đức Giám mục?’”
William Legrand trả lời: “Tôi phải công nhận rằng nội dung bản này không phải dễ hiểu gì? Tôi đã bắt đầu chia những chữ thành từng đoạn như kẻ viết bản mật mã này đã cố ý chia ra như vậy.”
“Nhưng anh chia ra bằng cách nào?”
“Tôi biết rằng kẻ viết bản mật mã thường viết những câu liền với nhau để không ai có thể đọc được bản mật mã. Một kẻ kém học thức lại hay làm thái quá. Khi đến quãng nghỉ trong bản mật mã, hắn càng viết các dấu thật sát nhau. Nếu anh nhìn tấm giấy da, anh có thể trông thấy ngay những chỗ có dấu đặt sát nhau hơn thường lệ. Theo ý nghĩ này, tôi viết rõ những chữ như sau:
A good glass in the Bishop’s hostel in the Devil’s seat – twenty one degrees and thirteen minutes – northeast and by north – main branch seventh limb east side – shoot from the left eye of the death’s head – a bee line from the tree through the shot fifty feet out. (Một chiếc ly tốt ở lữ quán của đức Giám mục nơi cái ghế của con quỷ – hai mươi mốt độ và mười ba phút – hướng Đông Bắc và phía Bắc – cành cái nhánh thứ bảy về phía Đông – ngắm từ mắt trái cái đầu người chết – một đường thẳng từ cái cây qua tầm xa mười lăm thước).”
Tôi nói: “Tôi vẫn chẳng hiểu gì cả.”
William Legrand trả lời: “Tôi cũng không hiểu bí mật này mất mấy hôm. Trong thời gian đó tôi hỏi khắp nơi gần đảo Sullivan’s về một căn nhà mang tên là Lữ Quán đức Giám Mục (Bishop’s Hotel), hay Quán Cơm đức Giám mục (Bishop’s House) và dĩ nhiên tôi bỏ chữ hostel thuộc về cổ ngữ, nhưng không có kết quả. Khi tôi sắp sửa đi xa đảo Sullivan’s hơn nữa để hỏi dò thì tôi chợt nghĩ đến một giòng họ lâu đời có tên là Bessop. Từ ngày xưa giòng họ này có một tòa nhà cổ rất lớn cách xa sáu cây số về phía Bắc đảo này. Tôi tới hỏi những người da đen trong vùng. Cuối cùng một trong những bà cụ già nhất cho biết rằng bà ta đã nghe nói tới một chỗ gọi là Lâu Đài Bessop, và bà có thể đưa tôi đến đấy. Nhưng nó không phải là lâu đài hay dinh thự, và cũng không phải là lữ quán cho du khách, hay khách sạn, hay quán cơm, mà là một khối đá cao.
“Tôi hứa trả công rất hậu nên bà ta đưa tôi đến. Chỗ đó rất dễ tìm thấy. Tôi cho bà ta về nhà rồi quan sát tứ phía. Chỗ đó có nhiều tảng đá, có một tảng cao đặc biệt. Tôi trèo lên đỉnh tảng đá rồi không biết phải làm gì nữa. Khi đang đứng nghỉ, tôi trông thấy một chỗ trong tảng đá dưới nơi tôi đang đứng. Trông nó rất giống một cái ghế, mặt phiến đá sâu xuống độ bốn mươi phân và rộng không quá ba mươi phân. Tôi chắc chắn chỗ này là cái ghế của con quỷ, thế là tôi bắt đầu tìm ra giải đáp cho vấn đề bí mật này.
“Tôi biết rằng cái “ly tốt” chẳng qua chỉ là một cái kính viễn vọng; vì các thủy thủ phải có một cái kính viễn vọng để họ có thể nhìn được những nơi rất xa ở trên mặt biển, và bao giờ họ cũng gọi kính viễn vọng là ‘glass.’ Đến đây tôi thấy ngay rằng cần phải dùng một cái kính viễn vọng. Còn những chữ ”hai mươi mốt độ và mười ba phút”, và ”Đông Bắc và phía Bắc” là những lời chỉ dẫn để ngắm kính viễn vọng được đúng hướng. Tôi vội vàng trở về lấy kính viễn vọng rồi trở lại tảng đá.
Tôi bước xuống cái ghế thì thấy chỉ có thể ngồi được một thế. Việc này chứng tỏ rằng tôi đã nghĩ đúng. Tôi xử dụng kính viễn vọng, nhìn về hướng ”Đông Bắc và phía Bắc”, nhấc lên tới tầm mà tôi ước lượng độ ”hai mươi mốt độ và mười ba phút” phía trên chân trời. Tôi nhích lên nhích xuống kính viễn vọng rất cẩn thận cho đến khi tôi thấy một khoảng trống tròn ở gần ngọn một cái cây lớn, cao hơn hẳn các cây ở gần nó. Giữa khoảng trống này tôi trông thấy một chấm trắng, nhưng mới đầu tôi không biết là cái gì. Bây giờ tôi xử dụng kính viễn vọng hết sức cẩn thận, kéo nó dài ra rồi lại thu ngắn lại cho đến khi tôi nhìn thấy cái chấm trắng rất rõ. Đó là cái sọ người.
“Khi tìm ra cái sọ tôi yên trí là đã giải đáp hoàn toàn ”Cành cái, nhánh thứ bảy, phía Đông” phải có nghĩa là vị trí cái sọ ở trên cây. “Ngắm từ mắt trái cái đầu người chết” cũng có thể được giải thích bằng một cách duy nhất, nếu nó có liên quan đến của cải chôn dưới đất. Ý câu này là thả một vật gì từ mắt trái cái sọ xuống đất. Còn đường thẳng (beeline – bee: con ong; line: đường) thì anh biết rằng con ong là một con côn trùng đánh dấu chiều hướng bằng cách bay thẳng. Như vậy, giai đoạn sau là phải đo từ cái cây ngang qua chỗ vật thả xuống đến một điểm cách thân cây 15 thước. Vì vậy một điểm nhỏ hẹp đã được chỉ định rất rõ. Tôi nghĩ thầm, có thể một vật gì quý giá đã được chôn ở dưới đất tại chỗ đó.”
Tôi nói: “Anh đã giải thích rất rõ ràng. Anh làm gì sau khi đã rời khỏi Lữ Quán của đức Giám mục?”
“Tôi về nhà. Sau khi tôi đã rời khỏi phiến đá ”Cái ghế của con quỷ” dù xoay thế nào tôi cũng không thể trông thấy “lỗ hổng ở giữa vòm cây.” Sự này đối với tôi là phần lạ lùng nhất trong toàn thể việc này.
“Hôm ấy lão Jupiter đã đi với tôi. Ngày hôm sau tôi dậy rất sớm và đi một mình để tìm cái cây. Tôi đã tìm ra được cái cây đó. Còn phần cuối câu chuyện thì tôi chắc anh cũng hiểu rõ như tôi.”
Tôi nói: “Có phải anh không tìm thấy chỗ chôn của cải ngay lần đầu tiên mà chúng ta đào vì lão Jupiter dùng nhầm mắt của cái sọ?”
“Đúng thế. Nếu tôi đã không chắc rằng vàng ở một chỗ nào gần cái cây thì việc đào đó chỉ là công dã tràng”.
“Có phải lão Kidd đã nghĩ đến việc dùng cái sọ chỉ vì cái sọ là biểu hiệu của hải tặc?”
“Có lẽ. Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng dùng cái sọ là khôn lắm. Nếu không phải là màu trắng thì không thể nào nhìn thấy từ ”Cái ghế của con quỷ”. Không có thứ gì có thể mỗi ngày một trở nên trắng hơn bằng cái sọ người nếu phải để lộ thiên hết năm này qua năm khác trong thời tiết thay đổi?”
“Nhưng anh dùng con bọ hung vàng! Tại sao anh bảo lão Jupiter thả nó từ cái sọ xuống đất?”
“Thú thực, tôi rất tức vì anh cứ tưởng rằng tôi loạn óc. Tôi định làm một việc gì để anh phải nghĩ ngợi. Dĩ nhiên sức nặng của con bọ hung cũng rất có ích”.
“Tôi hiểu rồi. Bây giờ tôi còn một câu hỏi nữa. Chúng ta nghĩ sao về những cái xương người thấy ở trên đống vàng?”
“Đây là một câu hỏi mà tôi không thể trả lời hơn anh được. Tuy nhiên hình như chỉ có một cách giải thích duy nhất. Chắc chắn là lão Kidd cần phải có người giúp việc chôn của cải xuống đất cho hắn. Nhưng khi việc này gần xong, có thể hắn không muốn một người nào khác biết bí mật ấy. Có lẽ chỉ cần hai nhát kiếm là đủ trong khi người giúp việc đang mải đào đất; có lẽ mười hay mười hai nhát cũng nên – ai biết được?”
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
VnExpress
Edgar Poe - ông tổ của nền văn học trinh thám
Theo đánh giá của giới phê bình văn học, thế kỷ XIX là thế kỷ mở đầu của thể loại văn học trinh thám và nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe được coi là ông tổ khai sáng cho dòng văn học kỳ vĩ này.
Quốc Anh -
Edgar Allan Poe sinh năm 1809 tại Boston, trong một gia đình diễn viên. Suốt bốn mươi năm ngắn ngủi của cuộc đời mình, Poe đã nhiều lần phải đối mặt với những cái chết bi thảm xảy đến với người thân. Bố mẹ, rồi người vợ thân yêu của ông lần lượt chết bởi bệnh lao phổi. Điều này lý giải tại sao ông thường bị ám ảnh và nói nhiều về cái chết như một nhà phê bình lại đưa ra nhận xét: “Đề tài trung tâm trong các truyện của ông là nỗi buồn, tình yêu và cái chết”.
Bản thân Edgar Poe cũng từ giã cuộc đời vào năm 1849, tại Baltimore, trong một bối cảnh rất đỗi bí ẩn. Theo hồ sơ bệnh án, Edgar Poe được đưa vào bệnh viện trong trạng thái bất tỉnh. Sau đó, ông có hồi tỉnh, người ra nhiều mồ hôi, bị chứng ảo giác và thường cãi nhau với một người tưởng tượng. Tiếp đến là giai đoạn ông bị mất trí nhớ, cấm khẩu rồi tắt thở.
Theo giả thiết của một nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Y tế Trường đại học Maryland (Mỹ) thì nhiều khả năng Edgar Poe đã bị một con vật điên (chó hoặc mèo) cắn, dẫn đến tử vong.
Một kiệt tác làm tác giả bị nghi oan
Những ai đã đọc Edgar Poe hẳn đều không thể không nhớ tới một tác phẩm hết sức độc đáo (có thể xem là độc đáo nhất) của ông, đó là truyện Bí mật của Marie Roger. Truyện dựa trên một vụ án có thật xảy ra vào mùa hè năm 1841 ở, bang New Jersey (Mỹ). Trên con sông Hudson, người ta vớt được thi thể một phụ nữ trẻ. Cơ quan điều tra đã xác định nạn nhân chính là cô gái 21 tuổi Mary Roger, cư dân thành phố New York, vốn là nhân viên của một cửa hiệu thuốc lá.
Thời gian xảy ra vụ án, Edgar Poe đang là biên tập viên văn học của tờ tạp chí Grew của bang Philadelphia, và trong con mắt độc giả, ông đã là một cây bút khá nổi tiếng với một bộ hợp tuyển thơ - truyện gồm 6 tập. Ông đang có ý định thu thập tư liệu để hoàn tất tác phẩm trinh thám Vụ giết người ở phố Morgue, cho nên nhân cái chết của Mary Roger, ông lập tức vào cuộc.
Truyện ngắn Bí mật của Marie Roger xuất hiện liên tiếp trên 3 số tạp chí dành cho phụ nữ từ cuối năm 1842 đến đầu 1843. Trong truyện Mary Roger được gọi chệch đi là Marie Roger. Thành phố New York được chuyển thành Paris, và con sông Hudson hung dữ thì được biến thành dòng sông Seine thơ mộng. Tác giả chỉ ra cho độc giả thấy hung thủ là một sĩ quan hải quân có nước da bánh mật. Trước khi bị sát hại ba năm, chính Mary đã theo người đàn ông này vắng nhà tới cả tháng. Và truyện dừng ở đây. Tác giả không hề cho biết tên của đối tượng nói trên.
Truyện ngắn Bí mật của Marie Roger đã khiến dư luận rất quan tâm. Nhiều ý kiến còn “đồng nhất” tác giả truyện ngắn với hung thủ. Theo ý những người này thì Poe tuy sống ở Philadelphia nhưng vẫn thường xuyên có mặt ở New York nên không loại trừ khả năng ông từng nhiều lần đến mua thuốc lá ở cửa hiệu mà Mary Roger đang làm thuê và đã buông lời tán tỉnh cô, nhưng không được đền đáp.
Một yếu tố mà dư luận tìm cớ vin vào, ấy là việc trong truyện, Edgar Poe mập mờ cho biết ông đã lần ra manh mối hung thủ. Không những vậy, nhà văn còn viết rõ rằng “hung thủ có nước da bánh mật”, mà đấy lại là một đặc điểm dễ nhận thấy của ông (Edgar Poe cũng có nước da ngăm đen).
Rất may tất cả những điều trên chỉ là những phỏng đoán cực đoan. Thực tế, căn cứ vào những lá thư Edgar Poe gửi cho một người bạn ngày 4/6/1842, ta có thể thấy ông kỳ công như thế nào trong việc thu thập tài liệu phục vụ cho việc khám phá cái chết của cô gái. Và ở khía cạnh này, ông chẳng khác gì một thám tử tư.
Xứng danh bậc thày
Sinh thời, Edgar Poe luôn bộc lộ là một người mơ mộng và đa tài. Ông viết nhiều thể loại, từ phê bình, lý luận đến thơ, truyện... Tác phẩm của ông thể hiện vốn học vấn uyên bác trên nhiều lĩnh vực như tâm lý học, tội phạm học, kiến trúc, hội họa, âm nhạc, y học, sinh học, hóa học...
Ngay truyện của ông cũng có thể phân thành nhiều loại: Truyện rùng rợn (Con mèo đen, Vở vũ kịch tử thần đỏ), truyện hoang đường viễn tưởng (Chuyện kể trên những vách núi lởm chởm), truyện trinh thám (Vụ giết người ở phố Morgue, Mi cũng là một con người?), truyện đả kích hài hước (Con quỷ trên gác chuông, Cặp kính). Không dưng mà các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất trong việc khẳng định Edgar Poe không chỉ là “ông tổ” của thể loại văn học trinh thám mà còn là người khai mở cho thể loại truyện kinh dị và truyện khoa học viễn tưởng.
Trong mảng truyện trinh thám, đóng góp lớn nhất của Edgar Poe là ông đã sáng tạo ra nhân vật Dupin, một người lập dị, sống đơn độc, mặc dù chẳng phải là cảnh sát hay thám tử tư, song bằng phương pháp phân tích, suy luận rất độc đáo ông đã phanh phui được nhiều hành động tội ác.
Trở lại với bộ ba truyện ngắn Vụ giết người ở phố Morgue, Bí mật của Marie Roger và Bức thư bị đánh cắp, tác giả đã cho Dupin kết hợp lời khai của các nhân chứng với các thông tin ông ta thu lượm được trên báo chí, từ đó dựng lên các giả thuyết về tội phạm, khiến người đọc bị chinh phục.
Có thể nói, chính phương pháp phân tích, diễn giải kết hợp với óc quan sát nhạy bén, rồi cách xây dựng nhân vật phá án là mẫu người lập dị, có cách suy luận về nhân tình thế thái sắc sảo... sau này đã trở thành một môtíp quen thuộc của các bậc kỳ tài tên tuổi lừng lẫy như Conan Doyle (với nhân vật thám tử Sherlock Holmes), Agatha Christie (với nhân vật Hercule Poirot)...
Chính Conan Doyle, trong tập sách Hồi tưởng về những cuộc phiêu lưu đã thổ lộ: "Gaboriau (tên một nhà văn Pháp nổi tiếng thế kỷ XIX, cha đẻ của nhân vật cảnh sát lừng danh Lecoq) đã thu hút tôi bằng nét tinh tế của những âm mưu được ông khéo léo đan kết, còn vị thám tử tuyệt vời Dupin của Edgar Poe đã từng là một trong những nhân vật tôi yêu quý nhất thời niên thiếu”.
Ở Việt Nam, cách đây hơn bảy chục năm, Edgar Poe đã được biết đến (chủ yếu qua bản Pháp văn) và ít nhiều có ảnh hưởng tới sáng tác của một số cây bút thành danh thời ấy. Năm 1989, NXB Lao Động cũng đã cho in tập truyện dịch của ông, lấy tên là Truyện kinh dị, tất cả gồm 5 truyện, 134 trang in. Và năm 1997, NXB Công an nhân dân cũng đã cho in tập truyện Bức chân dung hình ô van dày trên 200 trang của Edgar Poe.
Cũng cần nói thêm là, tuy tài năng kiệt xuất vậy, song sinh thời Edgar Poe không được hưởng niềm vinh quang trọn vẹn. Nếu như cả châu Âu với những bậc cự phách nhất từng nghiêng mình chào đón ông thì nghịch lý thay, hầu như nước Mỹ lại ngoảnh mặt với ông - khi ông còn sống. Thật đúng như Pautovski đã nhận định một cách chua chát: “Đời ông lúc sống cũng như lúc chết, không lúc nào không chứng thực cái sự thật là xã hội cũ bao giờ cũng tàn nhẫn và bất công đối với những người có tài năng lớn và những tâm hồn lớn”.
Nguồn: Văn nghệ công an
Edgar Poe - ông tổ của nền văn học trinh thám
Theo đánh giá của giới phê bình văn học, thế kỷ XIX là thế kỷ mở đầu của thể loại văn học trinh thám và nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe được coi là ông tổ khai sáng cho dòng văn học kỳ vĩ này.
Quốc Anh -
Edgar Allan Poe sinh năm 1809 tại Boston, trong một gia đình diễn viên. Suốt bốn mươi năm ngắn ngủi của cuộc đời mình, Poe đã nhiều lần phải đối mặt với những cái chết bi thảm xảy đến với người thân. Bố mẹ, rồi người vợ thân yêu của ông lần lượt chết bởi bệnh lao phổi. Điều này lý giải tại sao ông thường bị ám ảnh và nói nhiều về cái chết như một nhà phê bình lại đưa ra nhận xét: “Đề tài trung tâm trong các truyện của ông là nỗi buồn, tình yêu và cái chết”.
Bản thân Edgar Poe cũng từ giã cuộc đời vào năm 1849, tại Baltimore, trong một bối cảnh rất đỗi bí ẩn. Theo hồ sơ bệnh án, Edgar Poe được đưa vào bệnh viện trong trạng thái bất tỉnh. Sau đó, ông có hồi tỉnh, người ra nhiều mồ hôi, bị chứng ảo giác và thường cãi nhau với một người tưởng tượng. Tiếp đến là giai đoạn ông bị mất trí nhớ, cấm khẩu rồi tắt thở.
Theo giả thiết của một nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Y tế Trường đại học Maryland (Mỹ) thì nhiều khả năng Edgar Poe đã bị một con vật điên (chó hoặc mèo) cắn, dẫn đến tử vong.
Một kiệt tác làm tác giả bị nghi oan
Những ai đã đọc Edgar Poe hẳn đều không thể không nhớ tới một tác phẩm hết sức độc đáo (có thể xem là độc đáo nhất) của ông, đó là truyện Bí mật của Marie Roger. Truyện dựa trên một vụ án có thật xảy ra vào mùa hè năm 1841 ở, bang New Jersey (Mỹ). Trên con sông Hudson, người ta vớt được thi thể một phụ nữ trẻ. Cơ quan điều tra đã xác định nạn nhân chính là cô gái 21 tuổi Mary Roger, cư dân thành phố New York, vốn là nhân viên của một cửa hiệu thuốc lá.
Thời gian xảy ra vụ án, Edgar Poe đang là biên tập viên văn học của tờ tạp chí Grew của bang Philadelphia, và trong con mắt độc giả, ông đã là một cây bút khá nổi tiếng với một bộ hợp tuyển thơ - truyện gồm 6 tập. Ông đang có ý định thu thập tư liệu để hoàn tất tác phẩm trinh thám Vụ giết người ở phố Morgue, cho nên nhân cái chết của Mary Roger, ông lập tức vào cuộc.
Truyện ngắn Bí mật của Marie Roger xuất hiện liên tiếp trên 3 số tạp chí dành cho phụ nữ từ cuối năm 1842 đến đầu 1843. Trong truyện Mary Roger được gọi chệch đi là Marie Roger. Thành phố New York được chuyển thành Paris, và con sông Hudson hung dữ thì được biến thành dòng sông Seine thơ mộng. Tác giả chỉ ra cho độc giả thấy hung thủ là một sĩ quan hải quân có nước da bánh mật. Trước khi bị sát hại ba năm, chính Mary đã theo người đàn ông này vắng nhà tới cả tháng. Và truyện dừng ở đây. Tác giả không hề cho biết tên của đối tượng nói trên.
Truyện ngắn Bí mật của Marie Roger đã khiến dư luận rất quan tâm. Nhiều ý kiến còn “đồng nhất” tác giả truyện ngắn với hung thủ. Theo ý những người này thì Poe tuy sống ở Philadelphia nhưng vẫn thường xuyên có mặt ở New York nên không loại trừ khả năng ông từng nhiều lần đến mua thuốc lá ở cửa hiệu mà Mary Roger đang làm thuê và đã buông lời tán tỉnh cô, nhưng không được đền đáp.
Một yếu tố mà dư luận tìm cớ vin vào, ấy là việc trong truyện, Edgar Poe mập mờ cho biết ông đã lần ra manh mối hung thủ. Không những vậy, nhà văn còn viết rõ rằng “hung thủ có nước da bánh mật”, mà đấy lại là một đặc điểm dễ nhận thấy của ông (Edgar Poe cũng có nước da ngăm đen).
Rất may tất cả những điều trên chỉ là những phỏng đoán cực đoan. Thực tế, căn cứ vào những lá thư Edgar Poe gửi cho một người bạn ngày 4/6/1842, ta có thể thấy ông kỳ công như thế nào trong việc thu thập tài liệu phục vụ cho việc khám phá cái chết của cô gái. Và ở khía cạnh này, ông chẳng khác gì một thám tử tư.
Xứng danh bậc thày
Sinh thời, Edgar Poe luôn bộc lộ là một người mơ mộng và đa tài. Ông viết nhiều thể loại, từ phê bình, lý luận đến thơ, truyện... Tác phẩm của ông thể hiện vốn học vấn uyên bác trên nhiều lĩnh vực như tâm lý học, tội phạm học, kiến trúc, hội họa, âm nhạc, y học, sinh học, hóa học...
Ngay truyện của ông cũng có thể phân thành nhiều loại: Truyện rùng rợn (Con mèo đen, Vở vũ kịch tử thần đỏ), truyện hoang đường viễn tưởng (Chuyện kể trên những vách núi lởm chởm), truyện trinh thám (Vụ giết người ở phố Morgue, Mi cũng là một con người?), truyện đả kích hài hước (Con quỷ trên gác chuông, Cặp kính). Không dưng mà các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất trong việc khẳng định Edgar Poe không chỉ là “ông tổ” của thể loại văn học trinh thám mà còn là người khai mở cho thể loại truyện kinh dị và truyện khoa học viễn tưởng.
Trong mảng truyện trinh thám, đóng góp lớn nhất của Edgar Poe là ông đã sáng tạo ra nhân vật Dupin, một người lập dị, sống đơn độc, mặc dù chẳng phải là cảnh sát hay thám tử tư, song bằng phương pháp phân tích, suy luận rất độc đáo ông đã phanh phui được nhiều hành động tội ác.
Trở lại với bộ ba truyện ngắn Vụ giết người ở phố Morgue, Bí mật của Marie Roger và Bức thư bị đánh cắp, tác giả đã cho Dupin kết hợp lời khai của các nhân chứng với các thông tin ông ta thu lượm được trên báo chí, từ đó dựng lên các giả thuyết về tội phạm, khiến người đọc bị chinh phục.
Có thể nói, chính phương pháp phân tích, diễn giải kết hợp với óc quan sát nhạy bén, rồi cách xây dựng nhân vật phá án là mẫu người lập dị, có cách suy luận về nhân tình thế thái sắc sảo... sau này đã trở thành một môtíp quen thuộc của các bậc kỳ tài tên tuổi lừng lẫy như Conan Doyle (với nhân vật thám tử Sherlock Holmes), Agatha Christie (với nhân vật Hercule Poirot)...
Chính Conan Doyle, trong tập sách Hồi tưởng về những cuộc phiêu lưu đã thổ lộ: "Gaboriau (tên một nhà văn Pháp nổi tiếng thế kỷ XIX, cha đẻ của nhân vật cảnh sát lừng danh Lecoq) đã thu hút tôi bằng nét tinh tế của những âm mưu được ông khéo léo đan kết, còn vị thám tử tuyệt vời Dupin của Edgar Poe đã từng là một trong những nhân vật tôi yêu quý nhất thời niên thiếu”.
Ở Việt Nam, cách đây hơn bảy chục năm, Edgar Poe đã được biết đến (chủ yếu qua bản Pháp văn) và ít nhiều có ảnh hưởng tới sáng tác của một số cây bút thành danh thời ấy. Năm 1989, NXB Lao Động cũng đã cho in tập truyện dịch của ông, lấy tên là Truyện kinh dị, tất cả gồm 5 truyện, 134 trang in. Và năm 1997, NXB Công an nhân dân cũng đã cho in tập truyện Bức chân dung hình ô van dày trên 200 trang của Edgar Poe.
Cũng cần nói thêm là, tuy tài năng kiệt xuất vậy, song sinh thời Edgar Poe không được hưởng niềm vinh quang trọn vẹn. Nếu như cả châu Âu với những bậc cự phách nhất từng nghiêng mình chào đón ông thì nghịch lý thay, hầu như nước Mỹ lại ngoảnh mặt với ông - khi ông còn sống. Thật đúng như Pautovski đã nhận định một cách chua chát: “Đời ông lúc sống cũng như lúc chết, không lúc nào không chứng thực cái sự thật là xã hội cũ bao giờ cũng tàn nhẫn và bất công đối với những người có tài năng lớn và những tâm hồn lớn”.
Nguồn: Văn nghệ công an
Last edited by LDN on Wed Jan 25, 2023 9:53 pm; edited 2 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Người tiên phong của văn học Mỹ
Vannghequandoi
Edgar Allan Poe được coi như một trong những nhà văn đã đặt nền móng cho văn chương Mĩ, có nhiều ảnh hưởng đến các tác giả cùng thời cũng như sau này. Trong di sản của ông, nổi bật nhất là các mảng truyện ngắn kinh dị, phê bình văn học cũng như thơ ca. Nhưng ít ai biết ông cũng là một nhà viết truyện trinh thám “thật sự”, và một trong những nhân vật thám tử của ông đã “mở đường” cho các tiểu thuyết trinh thám-phá án sau này.
Mới đây, tuyển tập truyện kinh dị - siêu nhiên Con mèo đen cũng như bộ triology tác phẩm về viên thám tử Dupin: Vụ án mạng đường Morgue đã ra mắt bạn đọc Việt Nam. Cùng với tác phẩm phê bình đã được chuyển ngữ trước đó, lần ra mắt này đã làm trọn vẹn hơn di sản của một nhà văn lớn, người có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong văn chương châu Âu thế kỉ 19 mà còn rộng khắp sau này.
NGƯỜI THỔI HỒN VÀO TÍNH SIÊU NHIÊN
Cho đến ngày nay, nhắc đến E.A.Poe. người ta vẫn hay gắn ông với hình tượng chú mèo đen như một truyện ngắn cùng tên. Là người thổi hồn vào tính siêu nhiên, các nhân vật của Poe dường như vẫn luôn thường trực một nỗi ám ảnh, từ đó nảy sinh ra những ảo giác cũng như nỗi sợ dần biến đổi họ. Những truyện ngắn siêu nhiên của ông phần nào chất chứa cảm quan cá nhân, và vẫn có thể giải đáp một cách logic. Từ đó nâng thể loại này lên một tầm cao mới, khác xa với truyện kinh dị - dân gian thông thường.
Lúc còn sinh thời, Poe nghiện rượu cũng như ma túy. Sau cái chết vì bệnh của người vợ, cộng với đói nghèo và chứng rối loạn lo âu, tất cả đã biến ông thành một người trầm cảm, điên loạn trầm trọng. Không ít lần ông đã cố tự sát, và vào năm 1849, ông đã mất tích 5 ngày bí ẩn, để rồi cuối cùng không may như Agatha Christine, ông đã qua đời vài ngày sau đó, với nguyên nhân cái chết là “viêm não” – từ chỉ cái chết không rõ nguyên nhân vào lúc đương thời.
Có lẽ cũng vì lẽ đó nên những tác phẩm kinh dị - siêu thực của ông thiên về tinh thần hơn là hành động về mặt thể xác. Xuyên suốt những truyện ngắn này là những cá thể bị ám ảnh bởi nỗi sợ cũng như hoài nghi một điều gì đó, để cuối cùng khép lại vẫn là cái chết luôn chờ đón họ. Có những tác phẩm hiện thực như Sự sụp đổ của nhà Usher, Bức chân dung hình bầu dục hay Chôn sống... Ngược lại cũng có những sáng tác thiên về tâm lí, đậm đặc màu sắc siêu thực, như Mặt nạ của Tử thần đỏ, Thùng rượu Amontillado hay Sự thật về vụ Valdermar…
Các nhân vật này vẫn thường mấp mé tình trạng tinh thần sa sút và đầy sầu muộn mà không điều gì có thể giảm bớt. Trong truyện về nhà Usher, người hậu duệ duy nhất của dòng họ này đã thành nô lệ của nỗi sợ bất thường, vì tính di truyền của chứng bắt thế cũng như bối cảnh dinh thự mà anh ta sống. Trong khi đó với truyện ngắn nổi tiếng Con mèo đen hay Trái tim kể tội, cả hai nhân vật chính chỉ vì một nỗi ám ảnh không thể lí giải, đã bị phá hủy từ trong tâm tính đến tận gốc rễ, từ đó hình thành nên một sự tha hóa như là tất yếu không thể giải thích.
Không khí các tác phẩm của Poe có thể gây sợ về các mô tả gothic như trong Sự sụp đổ của nhà Usher, Mặt nạ của Tử thần Đỏ… với những tòa nhà mục ruỗng, những hầm rượu ẩm ướt, chốn lâu đài xa hoa… hoặc là e sợ từ trong hành động và những tội ác không hề ghê tay. Poe tiến sau vào địa hạt tâm lý bằng thứ văn miêu tả một cách sâu sắc hiện tồn giữa nỗi sợ và các yếu tố logic, khoa học có thể lý giải.
Như thể câu chuyện về chứng bắt thế hay giữ nguyên tư thế có thể giải thích cho câu chuyện ma kinh khủng ở nhà Usher, hay việc thôi miên ở dạng tiềm thức có thể lý giải cho truyện Sự thật về vụ việc Valdermar. Poe đem đến một sự tiến bộ trong cấu trúc truyện, phản ánh một cách chân thật việc thương tổn tinh thần có thể hủy hoại con người đến như thế nào, khi đưa họ đến những hành động tha hóa và không nhân tính tưởng như chỉ có ma quỷ làm được, từ đó cảnh báo một cách rõ ràng những bất ổn tâm trí.
Cũng như Le Fanu, Poe có sự tìm tỏi về những biện giải tri giác, mộng ảo, hệ thần kinh cũng như nỗi sợ nguyên thủy để làm giàu thêm cho các tác phẩm của mình. Từ đó làm nên một nét nổi bật trong các truyện ngắn kinh dị của ông. Thông qua đó, ảnh hưởng của sức khỏe tinh thần cùng những nguyên nhân và hậu quả được đưa ra ánh sáng một cách rõ ràng, trong một cõi tâm lý phức tạp có phần tiến bộ ở thời điểm này.
Tính nghịch dị cũng là đặc trưng rất đáng chú ý trong những tác phẩm siêu nhiên của ông. Thể hiện ở một cốt truyện bình lặng với nhịp diễn tiến từ từ, càng cuối tác phẩm, mọi chuyện dâng lên cao trào và rồi xuất hiện chi tiết “bản lề” vô cùng ớn lạnh và đầy độc đáo. Độc giả thấy được điều này ở Con mèo đen, Trái tim thú tội… Và cũng có thể chính từ nơi đây, những điểm độc đáo trong văn chương của Yoko Ogawa, Flanner O’Connor… đã được xác lập.
TRUYỆN TRINH THÁM “THẬT SỰ” ĐẦU TIÊN
Arthur Conan Doyle, cha đẻ của Sherlock Holmes đã từng nói rằng: “Truyện trinh thám đã ở đâu, cho tới khi được Poe thổi vào đó hơi thở của sự sống?”. Và cho đến hiện tại, Poe vẫn được coi như một trong những tác giả đầu tiên viết truyện “trinh thám” thật sự, mở đường cho thể loại này cũng như ảnh hưởng đến những tác phẩm vô cùng giá trị qua bao thời đại.
Hai tác phẩm kinh dị và trinh thám - phá án của Edgar Allan Poe.
Có lẽ học từ những nét đặc trưng của Poe, mà những nhân vật thám tử trong các series phá án nổi tiếng thế giới đều có một điểm gì đó lập dị và khá khác thường. Trong tác phẩm của Poe, đó là Dupin – một người ham thích thiền định cũng như “Nàng đêm” - bóng tối. Y chuyên sáng tạo cũng như phân tính, với một tính khí có phần thất thường với đủ thứ suy luận được rút ra từ các nền tảng mang tính triết lý.
Khác với những “thám tử” sau này, Sherlock Holmes có lẽ là nhân vật chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ Dupin, khi cũng là người suy luận chứ không trực tiếp có những mối liên hệ với các vụ án như trong các nhân vật của trinh thám hiện đại sau này. Ở Dupin, những đặc trưng về óc quan sát đã được xây dựng như điểm độc đáo ở nhân vật này. Rất nhiều nguyên lí phá án đã được Poe gán cho nhân vật, từ đó hình thành nên một mẫu hình nhân vật độc đáo và không giống ai.
Rằng hắn, khác với giới chuyên nghiệp, vẫn thường chú trọng đến những sự kiện phụ trội chứ không tập trong vào những gì được cho là trọng tâm. Hắn coi trọng những điểm dị biệt, khác thường, và thường trực trả lời câu hỏi là “Chuyện gì chưa từng xảy ra mà giờ đã xảy ra? chứ không phải Chuyện gì đã xảy ra?”. Sự ngẫu nhiên, tính thứ yếu cũng như tình cơ có phần phi logic đôi khi là điểm yếu của các truyện này, tuy thế nó cũng được giảm nhẹ phần nào bằng các phân tích đã được sắp xếp và thống nhất của Poe.
Cũng như Holmes, Dupin phá án bằng suy luận, và tôn thờ nền tảng của Chamfort: “Bất kì ý tưởng và quy ước nào được chấp nhận rộng rãi đều sai lầm hết, vì nó chỉ đơn giản là điều số đông thấy thuận tiện”. Cũng như trong các mảng đề tài khác, Poe cũng gạt bỏ những truyền thống cũ, để tiến sâu hơn vào những khía cạnh không được nhiều người quan tâm, từ đó làm nên dấu ấn của mình.
Như vậy qua sự tiên phong ở hai thể loại kinh dị - siêu nhiên – tâm lý và truyện trinh thám – phá án với những sáng tạo vô cùng mới mẻ, Poe đã mang đến một nhãn quan vô cùng độc đáo từ những sự vật, sự việc tồn tại từ lâu. Từ đó làm trọn vẹn thêm cách nhìn, mang đến một khía cạnh khác vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.
NGÔ THUẬN PHÁT
Vannghequandoi
Edgar Allan Poe được coi như một trong những nhà văn đã đặt nền móng cho văn chương Mĩ, có nhiều ảnh hưởng đến các tác giả cùng thời cũng như sau này. Trong di sản của ông, nổi bật nhất là các mảng truyện ngắn kinh dị, phê bình văn học cũng như thơ ca. Nhưng ít ai biết ông cũng là một nhà viết truyện trinh thám “thật sự”, và một trong những nhân vật thám tử của ông đã “mở đường” cho các tiểu thuyết trinh thám-phá án sau này.
Mới đây, tuyển tập truyện kinh dị - siêu nhiên Con mèo đen cũng như bộ triology tác phẩm về viên thám tử Dupin: Vụ án mạng đường Morgue đã ra mắt bạn đọc Việt Nam. Cùng với tác phẩm phê bình đã được chuyển ngữ trước đó, lần ra mắt này đã làm trọn vẹn hơn di sản của một nhà văn lớn, người có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong văn chương châu Âu thế kỉ 19 mà còn rộng khắp sau này.
NGƯỜI THỔI HỒN VÀO TÍNH SIÊU NHIÊN
Cho đến ngày nay, nhắc đến E.A.Poe. người ta vẫn hay gắn ông với hình tượng chú mèo đen như một truyện ngắn cùng tên. Là người thổi hồn vào tính siêu nhiên, các nhân vật của Poe dường như vẫn luôn thường trực một nỗi ám ảnh, từ đó nảy sinh ra những ảo giác cũng như nỗi sợ dần biến đổi họ. Những truyện ngắn siêu nhiên của ông phần nào chất chứa cảm quan cá nhân, và vẫn có thể giải đáp một cách logic. Từ đó nâng thể loại này lên một tầm cao mới, khác xa với truyện kinh dị - dân gian thông thường.
Lúc còn sinh thời, Poe nghiện rượu cũng như ma túy. Sau cái chết vì bệnh của người vợ, cộng với đói nghèo và chứng rối loạn lo âu, tất cả đã biến ông thành một người trầm cảm, điên loạn trầm trọng. Không ít lần ông đã cố tự sát, và vào năm 1849, ông đã mất tích 5 ngày bí ẩn, để rồi cuối cùng không may như Agatha Christine, ông đã qua đời vài ngày sau đó, với nguyên nhân cái chết là “viêm não” – từ chỉ cái chết không rõ nguyên nhân vào lúc đương thời.
Có lẽ cũng vì lẽ đó nên những tác phẩm kinh dị - siêu thực của ông thiên về tinh thần hơn là hành động về mặt thể xác. Xuyên suốt những truyện ngắn này là những cá thể bị ám ảnh bởi nỗi sợ cũng như hoài nghi một điều gì đó, để cuối cùng khép lại vẫn là cái chết luôn chờ đón họ. Có những tác phẩm hiện thực như Sự sụp đổ của nhà Usher, Bức chân dung hình bầu dục hay Chôn sống... Ngược lại cũng có những sáng tác thiên về tâm lí, đậm đặc màu sắc siêu thực, như Mặt nạ của Tử thần đỏ, Thùng rượu Amontillado hay Sự thật về vụ Valdermar…
Các nhân vật này vẫn thường mấp mé tình trạng tinh thần sa sút và đầy sầu muộn mà không điều gì có thể giảm bớt. Trong truyện về nhà Usher, người hậu duệ duy nhất của dòng họ này đã thành nô lệ của nỗi sợ bất thường, vì tính di truyền của chứng bắt thế cũng như bối cảnh dinh thự mà anh ta sống. Trong khi đó với truyện ngắn nổi tiếng Con mèo đen hay Trái tim kể tội, cả hai nhân vật chính chỉ vì một nỗi ám ảnh không thể lí giải, đã bị phá hủy từ trong tâm tính đến tận gốc rễ, từ đó hình thành nên một sự tha hóa như là tất yếu không thể giải thích.
Không khí các tác phẩm của Poe có thể gây sợ về các mô tả gothic như trong Sự sụp đổ của nhà Usher, Mặt nạ của Tử thần Đỏ… với những tòa nhà mục ruỗng, những hầm rượu ẩm ướt, chốn lâu đài xa hoa… hoặc là e sợ từ trong hành động và những tội ác không hề ghê tay. Poe tiến sau vào địa hạt tâm lý bằng thứ văn miêu tả một cách sâu sắc hiện tồn giữa nỗi sợ và các yếu tố logic, khoa học có thể lý giải.
Như thể câu chuyện về chứng bắt thế hay giữ nguyên tư thế có thể giải thích cho câu chuyện ma kinh khủng ở nhà Usher, hay việc thôi miên ở dạng tiềm thức có thể lý giải cho truyện Sự thật về vụ việc Valdermar. Poe đem đến một sự tiến bộ trong cấu trúc truyện, phản ánh một cách chân thật việc thương tổn tinh thần có thể hủy hoại con người đến như thế nào, khi đưa họ đến những hành động tha hóa và không nhân tính tưởng như chỉ có ma quỷ làm được, từ đó cảnh báo một cách rõ ràng những bất ổn tâm trí.
Cũng như Le Fanu, Poe có sự tìm tỏi về những biện giải tri giác, mộng ảo, hệ thần kinh cũng như nỗi sợ nguyên thủy để làm giàu thêm cho các tác phẩm của mình. Từ đó làm nên một nét nổi bật trong các truyện ngắn kinh dị của ông. Thông qua đó, ảnh hưởng của sức khỏe tinh thần cùng những nguyên nhân và hậu quả được đưa ra ánh sáng một cách rõ ràng, trong một cõi tâm lý phức tạp có phần tiến bộ ở thời điểm này.
Tính nghịch dị cũng là đặc trưng rất đáng chú ý trong những tác phẩm siêu nhiên của ông. Thể hiện ở một cốt truyện bình lặng với nhịp diễn tiến từ từ, càng cuối tác phẩm, mọi chuyện dâng lên cao trào và rồi xuất hiện chi tiết “bản lề” vô cùng ớn lạnh và đầy độc đáo. Độc giả thấy được điều này ở Con mèo đen, Trái tim thú tội… Và cũng có thể chính từ nơi đây, những điểm độc đáo trong văn chương của Yoko Ogawa, Flanner O’Connor… đã được xác lập.
TRUYỆN TRINH THÁM “THẬT SỰ” ĐẦU TIÊN
Arthur Conan Doyle, cha đẻ của Sherlock Holmes đã từng nói rằng: “Truyện trinh thám đã ở đâu, cho tới khi được Poe thổi vào đó hơi thở của sự sống?”. Và cho đến hiện tại, Poe vẫn được coi như một trong những tác giả đầu tiên viết truyện “trinh thám” thật sự, mở đường cho thể loại này cũng như ảnh hưởng đến những tác phẩm vô cùng giá trị qua bao thời đại.
Hai tác phẩm kinh dị và trinh thám - phá án của Edgar Allan Poe.
Có lẽ học từ những nét đặc trưng của Poe, mà những nhân vật thám tử trong các series phá án nổi tiếng thế giới đều có một điểm gì đó lập dị và khá khác thường. Trong tác phẩm của Poe, đó là Dupin – một người ham thích thiền định cũng như “Nàng đêm” - bóng tối. Y chuyên sáng tạo cũng như phân tính, với một tính khí có phần thất thường với đủ thứ suy luận được rút ra từ các nền tảng mang tính triết lý.
Khác với những “thám tử” sau này, Sherlock Holmes có lẽ là nhân vật chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ Dupin, khi cũng là người suy luận chứ không trực tiếp có những mối liên hệ với các vụ án như trong các nhân vật của trinh thám hiện đại sau này. Ở Dupin, những đặc trưng về óc quan sát đã được xây dựng như điểm độc đáo ở nhân vật này. Rất nhiều nguyên lí phá án đã được Poe gán cho nhân vật, từ đó hình thành nên một mẫu hình nhân vật độc đáo và không giống ai.
Rằng hắn, khác với giới chuyên nghiệp, vẫn thường chú trọng đến những sự kiện phụ trội chứ không tập trong vào những gì được cho là trọng tâm. Hắn coi trọng những điểm dị biệt, khác thường, và thường trực trả lời câu hỏi là “Chuyện gì chưa từng xảy ra mà giờ đã xảy ra? chứ không phải Chuyện gì đã xảy ra?”. Sự ngẫu nhiên, tính thứ yếu cũng như tình cơ có phần phi logic đôi khi là điểm yếu của các truyện này, tuy thế nó cũng được giảm nhẹ phần nào bằng các phân tích đã được sắp xếp và thống nhất của Poe.
Cũng như Holmes, Dupin phá án bằng suy luận, và tôn thờ nền tảng của Chamfort: “Bất kì ý tưởng và quy ước nào được chấp nhận rộng rãi đều sai lầm hết, vì nó chỉ đơn giản là điều số đông thấy thuận tiện”. Cũng như trong các mảng đề tài khác, Poe cũng gạt bỏ những truyền thống cũ, để tiến sâu hơn vào những khía cạnh không được nhiều người quan tâm, từ đó làm nên dấu ấn của mình.
Như vậy qua sự tiên phong ở hai thể loại kinh dị - siêu nhiên – tâm lý và truyện trinh thám – phá án với những sáng tạo vô cùng mới mẻ, Poe đã mang đến một nhãn quan vô cùng độc đáo từ những sự vật, sự việc tồn tại từ lâu. Từ đó làm trọn vẹn thêm cách nhìn, mang đến một khía cạnh khác vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.
NGÔ THUẬN PHÁT
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
review sách
Con hủi: Kết cục nào cho tranh đấu giữa tình yêu & định kiến?
Là tác phẩm đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của nữ nhà văn người Ba Lan Helena Mniszek, Con hủi được xem như một thiên Romeo và Juliet mới, nơi cũng vẫn là kiêu hãnh và định kiến, nhưng dư vị lại hoàn toàn khác.
Đây đáng lẽ đã là một câu chuyện tình đẹp…
Tác phẩm là một câu chuyện tình thơ mộng, lãng mạn và có phần vi diệu của cặp đôi trai tài gái sắc. Chàng, đại công tước Waldemar Michorowski, là thanh niên được xem như “quý tộc của quý tộc” với dòng họ quyền quý nhất nước. Nàng, Stefcia Rudecka, chỉ là đứa con gái một điền chủ nhỏ. Đây sẽ là một câu chuyện tình thơ mộng, đắm say và trong sáng biết bao nếu như chuyện tình ấy không phải mãnh liệt có nhưng lại cũng bi đát đến nao lòng…
Không có căn bệnh đáng sợ nào của nhân loại xuất hiện trong câu chuyện, cũng không có người nào mắc phải căn bệnh đó, Con hủi không phải là điểm khởi đầu của câu chuyện, nhưng nó chính là điểm khép lại câu chuyện, giết chết niềm hạnh phúc cuối cùng…
…nếu như mọi thứ không phải quá hoàn hảo
Nếu như chàng là một thanh niên giàu có, tri thức, can trường và mới mẻ trong tư duy nhưng cũng không kém phần say sưa và nồng nhiệt trong tình yêu thì nàng cũng được xem như con người vẹn toàn với tài sắc và học thức sâu rộng (trừ cái xuất thân không thuộc dòng dõi quý tộc của nàng).
Có lẽ đây là điểm sai, là điều hoang đường nhất trong tác phẩm khi cả hai con người đều quá hoàn hảo, đều toàn vẹn quá mức để rồi cuối cùng nhận lại cái kết đắng nhưng thực tế thay vì một cái kết viên mãn cho cả hai. Ở khía cạnh nào đó, số phận của họ như hai viên nam châm cùng cực, hai thái cực cứ mãi quay vòng mà mãi mãi không thể đến được với nhau.
Hai con người có duyên mà chẳng có phận, gắn kết với nhau như định mệnh đã an bài, hay nói đúng hơn là như lời nguyền để lại từ sự bất hạnh trong cuộc tình truyền kiếp từ đời trước.
Nếu như chàng là một đại công tước danh giá…
Waldemar, một con người mạnh mẽ và có chính kiến, dám dùng sự trưởng thành của mình để đấu tranh với định kiến, dám dùng lý lẽ của bản thân để thuyết phục toàn bộ dòng họ. Ở chàng có được nhận thức, nói một cách chính xác thì là những thực tế, mà cả một tầng lớp người không dám thừa nhận. Đối với tầng lớp quý tộc, chàng như người đi tiên phong mở lối, phá tan bức tường thành bao bọc cả tầng lớp bấy lâu nay, đập tan bức tượng đẳng cấp chứa đầy định kiến được nuôi nấng hàng bao thế kỷ. Điều này cũng dễ hiểu thôi, vì chàng từng phá lệ, dám thách thức bản thân và được trải nghiệm thực tế nên việc chàng nhận ra sự dối trá và nhìn thấy bức tường bao kia chỉ là trong một sớm một chiều.
Ấy thế nhưng, trong tình yêu, chàng lại là một con người hoàn toàn khác. Chàng yêu bằng cả trái tim, bằng nhiệt thành của tuổi trẻ, yêu bằng tất cả những gì chàng có. Cái cách chàng yêu thực sự mãnh liệt dưới ngòi bút của Helena với những ngọn lửa bùng cháy, những ánh mắt, những nỗi nhớ nhung và cả những khao khát trong những cuộc độc thoại nội tâm. Một hình mẫu lý tưởng cho mọi chàng trai đã, đang và sẽ rơi vào lưới tình! Chàng yêu và toàn tâm muốn bảo vệ cho người mình yêu, sẵn sàng chống lại mọi thế lực để thực hiện điều ấy, nhưng dường như chàng đã quên mất một điều, rằng chỉ bảo vệ những nguy hại từ bên ngoài là chưa đủ…
…thì nàng cũng là một con người tài sắc vẹn toàn
Stefcia, một cô gái gần như hoàn hảo với tài sắc và học thức, trái với vị đại công tử chưa từng nếm mùi thất bại và luôn có được những thứ mình muốn trong tay, thì trước khi đến với chàng, nàng đã từng hứng chịu đổ vỡ và mất niềm tin vào tình yêu. Đến với chàng, nàng đã vượt qua chính kiêu hãnh của bản thân để thừa nhận và chấp nhận. Cũng như chàng, một khi đã yêu, nàng yêu sâu đậm. Nếu như tình yêu của đôi trẻ được tái hiện là sự đắm say mãnh liệt của chàng trai thì tác giả lại dành ngòi bút nhẹ nhàng mà tinh tế về phía người nữ. Từng nhịp điệu thổn thức, từng trăn trở nhớ nhung, dữ dội mà vẫn dịu êm, cũng không hề kém cạnh gì so với tình cảm của chàng.
Thế nhưng, đến phút cuối cùng, nàng lại gục ngã trước niềm kiêu hãnh mà nàng đã gây dựng bấy lâu. Nhiều người cho rằng Stefcia yếu đuối, nhu nhược không dám đấu tranh, nhưng mấy ai hiểu được cái bóng đen vô hình bao trùm lên toàn xã hội khi ấy.
Cái kết đắng và bức tranh giai cấp trong xã hội đương thời
Cuộc tình của Waldemar và Stefcia có thể khiến độc giả phần nào liên tưởng đến mối tình của Darcy và Elizabeth trong Kiêu hãnh và định kiến của nữ văn sĩ người Anh Jane Austen. Cũng vẫn là cuộc tình “đũa lệch” về gia thế và đẳng cấp, cũng có đấu tranh, nhưng thay vì xoáy sâu vào đau thương thì Jane Austen chọn nhìn những cái xấu của giai cấp quý tộc dưới góc nhìn châm biếm. Có lẽ cái kết có hậu cùng với bầu không khí bớt phần u ám của tác phẩm này chiều lòng độc giả hơn nên xuyên suốt năm tháng, Kiêu hãnh và định kiến vẫn giữ được tiếng vang và vị thế trong giới văn học kinh điển.
Tuy nhiên, nhìn ở góc độ nào đó, Con hủi vẫn có thể được đánh giá cao hơn vì cái cách tác giả tái hiện lại tư tưởng xã hội, mặc dù u ám, dữ dội và bi đát nhưng nó là thực tế, thay vì một câu chuyện tình chỉ toàn màu hồng.
Cái kết khiến con người ta đau lòng nhưng nó là thực tế, rằng tình yêu sẽ không hoàn toàn là tất cả, rằng nó sẽ khó vượt qua được cái hệ tư tưởng đã hằn vào xương vào máu của xã hội thời bấy giờ. Có thể họ dám đứng lên nhưng không có gì đảm bảo cho tương lai của họ, tất cả vẫn còn hoài nghi, vẫn chỉ là dấu chấm hỏi.
Con hủi giống như một vở kịch thay vì một thiên tiểu thuyết
Có một điểm khiến Con hủi khác biệt so với những trang tiểu thuyết khác cùng thời hay cùng đề tài đó là nghệ thuật miêu tả của Helena, mà cụ thể là việc khắc họa cảnh vật. Đẹp! Đúng vậy! Các chi tiết miêu tả xuất hiện với cường độ dày đặc xuyên suốt tác phẩm có thể khiến người ta liên tưởng tới một vở kịch hơn thay vì một cuốn tiểu thuyết. Những ngọn lửa bùng lên của cảm xúc, những thổn thức giấu kín của nỗi nhớ nhung, …tất cả những yếu tố này được tác giả khắc họa không gì chi tiết hơn với những lối ví von so sánh mà khó có văn phong nào có thể đạt được. Có những đoạn có thể khiến cho độc giả như hoàn toàn đắm chìm trong chính những cảm xúc niềm si mê mãnh liệt ấy, như đang yêu và đang được yêu vậy.
Hình ảnh trích từ bộ phim cùng tên do Ba Lan sản xuất năm 1976
Tài năng của Helena Mniszek phải gọi là thực sự đỉnh cao khi miêu tả nội tâm và diễn biến tâm lý của nhân vật. Từ cái cách bà miêu tả cử chỉ, lời nói hay ý nghĩ nội tâm cho đến những lối so sánh vừa lãng mạn mà vẫn chân thực, không khiến mạch truyện trở nên quá hão huyền mà vẫn có thể khiến độc giả cảm nhận được một cách trọn vẹn những niềm đắm say và hạnh phúc, như chính họ đang yêu và được yêu. Có thể nói, hiếm có cuốn sách nào có được những ngôn từ đẹp đến thế!
Bên cạnh miêu tả nội tâm thì trải dài khắp tác phẩm luôn luôn có sự xuất hiện của thiên nhiên với những đoạn được bà khắc họa rất đẹp và mĩ miều, đặc biệt là ở những chương gần cuối, khi Stefcia đang gần như ở bờ bên kia của sự sống. Sự đối lập hoàn hảo giữa một con người đang dần héo úa là sức sống mãnh liệt của thiên nhiên như đạt tới cảnh giới của cái đẹp. Những khung cảnh thiên nhiên xuyên suốt tác phẩm được phác họa dưới ngòi bút của bà có thể không kém gì tài năng của các họa sĩ nổi tiếng khi vẽ nên những bức tranh thiên nhiên ngoài đời thực.
Nhưng không phải lúc nào độc giả cũng đón nhận và thích lối hành văn ấy. Ở đầu mỗi chương có thể sẽ có những đoạn sẽ khiến cho những ai đang chờ đón diễn biến tiếp theo từ phía nhân vật phải hụt hẫng và nhàm chán vì tác giả hơi “sa đà” vào những khung cảnh muôn hình vạn trạng của mây trời và cảnh sắc. Vì thế, có thể coi đây là một điểm trừ đối với tác phẩm, và có thể là một trong những lý do khiến tác phẩm chưa thực sự được nổi bật lắm. Tuy nhiên, đối với những người ưa nghệ thuật thì đây cũng có thể là một điểm cộng. Xét cho cùng thì dù coi đây là điểm sáng hay điểm trừ của tác phẩm thì mặt nào cũng có yếu tố đúng.
Con hủi là một áng văn đặc sắc với câu chuyện tình như hồng nhan vốn bạc phận, dù đẹp nhưng vẫn bi đát. Vẫn là tình yêu, là đẳng cấp quý tộc như một số trang sách khác nhưng ở Con hủi sẽ còn đánh thức bao khát khao và hoài vọng cao quý, muốn được sống hết mình, được yêu hết mình và khi cần, được hi sinh cho tình yêu ấy. Đây sẽ là một câu chuyện lý tưởng dành cho các cặp đôi, các bạn trẻ dù đã yêu và đang yêu, hay kể cả những con người chưa một lần được chìm đắm trong tình yêu.
Bà Gấu
Gấu Mèo
Con hủi: Kết cục nào cho tranh đấu giữa tình yêu & định kiến?
Là tác phẩm đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của nữ nhà văn người Ba Lan Helena Mniszek, Con hủi được xem như một thiên Romeo và Juliet mới, nơi cũng vẫn là kiêu hãnh và định kiến, nhưng dư vị lại hoàn toàn khác.
Đây đáng lẽ đã là một câu chuyện tình đẹp…
Tác phẩm là một câu chuyện tình thơ mộng, lãng mạn và có phần vi diệu của cặp đôi trai tài gái sắc. Chàng, đại công tước Waldemar Michorowski, là thanh niên được xem như “quý tộc của quý tộc” với dòng họ quyền quý nhất nước. Nàng, Stefcia Rudecka, chỉ là đứa con gái một điền chủ nhỏ. Đây sẽ là một câu chuyện tình thơ mộng, đắm say và trong sáng biết bao nếu như chuyện tình ấy không phải mãnh liệt có nhưng lại cũng bi đát đến nao lòng…
Không có căn bệnh đáng sợ nào của nhân loại xuất hiện trong câu chuyện, cũng không có người nào mắc phải căn bệnh đó, Con hủi không phải là điểm khởi đầu của câu chuyện, nhưng nó chính là điểm khép lại câu chuyện, giết chết niềm hạnh phúc cuối cùng…
…nếu như mọi thứ không phải quá hoàn hảo
Nếu như chàng là một thanh niên giàu có, tri thức, can trường và mới mẻ trong tư duy nhưng cũng không kém phần say sưa và nồng nhiệt trong tình yêu thì nàng cũng được xem như con người vẹn toàn với tài sắc và học thức sâu rộng (trừ cái xuất thân không thuộc dòng dõi quý tộc của nàng).
Có lẽ đây là điểm sai, là điều hoang đường nhất trong tác phẩm khi cả hai con người đều quá hoàn hảo, đều toàn vẹn quá mức để rồi cuối cùng nhận lại cái kết đắng nhưng thực tế thay vì một cái kết viên mãn cho cả hai. Ở khía cạnh nào đó, số phận của họ như hai viên nam châm cùng cực, hai thái cực cứ mãi quay vòng mà mãi mãi không thể đến được với nhau.
Hai con người có duyên mà chẳng có phận, gắn kết với nhau như định mệnh đã an bài, hay nói đúng hơn là như lời nguyền để lại từ sự bất hạnh trong cuộc tình truyền kiếp từ đời trước.
Nếu như chàng là một đại công tước danh giá…
Waldemar, một con người mạnh mẽ và có chính kiến, dám dùng sự trưởng thành của mình để đấu tranh với định kiến, dám dùng lý lẽ của bản thân để thuyết phục toàn bộ dòng họ. Ở chàng có được nhận thức, nói một cách chính xác thì là những thực tế, mà cả một tầng lớp người không dám thừa nhận. Đối với tầng lớp quý tộc, chàng như người đi tiên phong mở lối, phá tan bức tường thành bao bọc cả tầng lớp bấy lâu nay, đập tan bức tượng đẳng cấp chứa đầy định kiến được nuôi nấng hàng bao thế kỷ. Điều này cũng dễ hiểu thôi, vì chàng từng phá lệ, dám thách thức bản thân và được trải nghiệm thực tế nên việc chàng nhận ra sự dối trá và nhìn thấy bức tường bao kia chỉ là trong một sớm một chiều.
Ấy thế nhưng, trong tình yêu, chàng lại là một con người hoàn toàn khác. Chàng yêu bằng cả trái tim, bằng nhiệt thành của tuổi trẻ, yêu bằng tất cả những gì chàng có. Cái cách chàng yêu thực sự mãnh liệt dưới ngòi bút của Helena với những ngọn lửa bùng cháy, những ánh mắt, những nỗi nhớ nhung và cả những khao khát trong những cuộc độc thoại nội tâm. Một hình mẫu lý tưởng cho mọi chàng trai đã, đang và sẽ rơi vào lưới tình! Chàng yêu và toàn tâm muốn bảo vệ cho người mình yêu, sẵn sàng chống lại mọi thế lực để thực hiện điều ấy, nhưng dường như chàng đã quên mất một điều, rằng chỉ bảo vệ những nguy hại từ bên ngoài là chưa đủ…
…thì nàng cũng là một con người tài sắc vẹn toàn
Stefcia, một cô gái gần như hoàn hảo với tài sắc và học thức, trái với vị đại công tử chưa từng nếm mùi thất bại và luôn có được những thứ mình muốn trong tay, thì trước khi đến với chàng, nàng đã từng hứng chịu đổ vỡ và mất niềm tin vào tình yêu. Đến với chàng, nàng đã vượt qua chính kiêu hãnh của bản thân để thừa nhận và chấp nhận. Cũng như chàng, một khi đã yêu, nàng yêu sâu đậm. Nếu như tình yêu của đôi trẻ được tái hiện là sự đắm say mãnh liệt của chàng trai thì tác giả lại dành ngòi bút nhẹ nhàng mà tinh tế về phía người nữ. Từng nhịp điệu thổn thức, từng trăn trở nhớ nhung, dữ dội mà vẫn dịu êm, cũng không hề kém cạnh gì so với tình cảm của chàng.
Thế nhưng, đến phút cuối cùng, nàng lại gục ngã trước niềm kiêu hãnh mà nàng đã gây dựng bấy lâu. Nhiều người cho rằng Stefcia yếu đuối, nhu nhược không dám đấu tranh, nhưng mấy ai hiểu được cái bóng đen vô hình bao trùm lên toàn xã hội khi ấy.
Cái kết đắng và bức tranh giai cấp trong xã hội đương thời
Cuộc tình của Waldemar và Stefcia có thể khiến độc giả phần nào liên tưởng đến mối tình của Darcy và Elizabeth trong Kiêu hãnh và định kiến của nữ văn sĩ người Anh Jane Austen. Cũng vẫn là cuộc tình “đũa lệch” về gia thế và đẳng cấp, cũng có đấu tranh, nhưng thay vì xoáy sâu vào đau thương thì Jane Austen chọn nhìn những cái xấu của giai cấp quý tộc dưới góc nhìn châm biếm. Có lẽ cái kết có hậu cùng với bầu không khí bớt phần u ám của tác phẩm này chiều lòng độc giả hơn nên xuyên suốt năm tháng, Kiêu hãnh và định kiến vẫn giữ được tiếng vang và vị thế trong giới văn học kinh điển.
Tuy nhiên, nhìn ở góc độ nào đó, Con hủi vẫn có thể được đánh giá cao hơn vì cái cách tác giả tái hiện lại tư tưởng xã hội, mặc dù u ám, dữ dội và bi đát nhưng nó là thực tế, thay vì một câu chuyện tình chỉ toàn màu hồng.
Cái kết khiến con người ta đau lòng nhưng nó là thực tế, rằng tình yêu sẽ không hoàn toàn là tất cả, rằng nó sẽ khó vượt qua được cái hệ tư tưởng đã hằn vào xương vào máu của xã hội thời bấy giờ. Có thể họ dám đứng lên nhưng không có gì đảm bảo cho tương lai của họ, tất cả vẫn còn hoài nghi, vẫn chỉ là dấu chấm hỏi.
Con hủi giống như một vở kịch thay vì một thiên tiểu thuyết
Có một điểm khiến Con hủi khác biệt so với những trang tiểu thuyết khác cùng thời hay cùng đề tài đó là nghệ thuật miêu tả của Helena, mà cụ thể là việc khắc họa cảnh vật. Đẹp! Đúng vậy! Các chi tiết miêu tả xuất hiện với cường độ dày đặc xuyên suốt tác phẩm có thể khiến người ta liên tưởng tới một vở kịch hơn thay vì một cuốn tiểu thuyết. Những ngọn lửa bùng lên của cảm xúc, những thổn thức giấu kín của nỗi nhớ nhung, …tất cả những yếu tố này được tác giả khắc họa không gì chi tiết hơn với những lối ví von so sánh mà khó có văn phong nào có thể đạt được. Có những đoạn có thể khiến cho độc giả như hoàn toàn đắm chìm trong chính những cảm xúc niềm si mê mãnh liệt ấy, như đang yêu và đang được yêu vậy.
Hình ảnh trích từ bộ phim cùng tên do Ba Lan sản xuất năm 1976
Tài năng của Helena Mniszek phải gọi là thực sự đỉnh cao khi miêu tả nội tâm và diễn biến tâm lý của nhân vật. Từ cái cách bà miêu tả cử chỉ, lời nói hay ý nghĩ nội tâm cho đến những lối so sánh vừa lãng mạn mà vẫn chân thực, không khiến mạch truyện trở nên quá hão huyền mà vẫn có thể khiến độc giả cảm nhận được một cách trọn vẹn những niềm đắm say và hạnh phúc, như chính họ đang yêu và được yêu. Có thể nói, hiếm có cuốn sách nào có được những ngôn từ đẹp đến thế!
Bên cạnh miêu tả nội tâm thì trải dài khắp tác phẩm luôn luôn có sự xuất hiện của thiên nhiên với những đoạn được bà khắc họa rất đẹp và mĩ miều, đặc biệt là ở những chương gần cuối, khi Stefcia đang gần như ở bờ bên kia của sự sống. Sự đối lập hoàn hảo giữa một con người đang dần héo úa là sức sống mãnh liệt của thiên nhiên như đạt tới cảnh giới của cái đẹp. Những khung cảnh thiên nhiên xuyên suốt tác phẩm được phác họa dưới ngòi bút của bà có thể không kém gì tài năng của các họa sĩ nổi tiếng khi vẽ nên những bức tranh thiên nhiên ngoài đời thực.
Nhưng không phải lúc nào độc giả cũng đón nhận và thích lối hành văn ấy. Ở đầu mỗi chương có thể sẽ có những đoạn sẽ khiến cho những ai đang chờ đón diễn biến tiếp theo từ phía nhân vật phải hụt hẫng và nhàm chán vì tác giả hơi “sa đà” vào những khung cảnh muôn hình vạn trạng của mây trời và cảnh sắc. Vì thế, có thể coi đây là một điểm trừ đối với tác phẩm, và có thể là một trong những lý do khiến tác phẩm chưa thực sự được nổi bật lắm. Tuy nhiên, đối với những người ưa nghệ thuật thì đây cũng có thể là một điểm cộng. Xét cho cùng thì dù coi đây là điểm sáng hay điểm trừ của tác phẩm thì mặt nào cũng có yếu tố đúng.
Con hủi là một áng văn đặc sắc với câu chuyện tình như hồng nhan vốn bạc phận, dù đẹp nhưng vẫn bi đát. Vẫn là tình yêu, là đẳng cấp quý tộc như một số trang sách khác nhưng ở Con hủi sẽ còn đánh thức bao khát khao và hoài vọng cao quý, muốn được sống hết mình, được yêu hết mình và khi cần, được hi sinh cho tình yêu ấy. Đây sẽ là một câu chuyện lý tưởng dành cho các cặp đôi, các bạn trẻ dù đã yêu và đang yêu, hay kể cả những con người chưa một lần được chìm đắm trong tình yêu.
Bà Gấu
Gấu Mèo
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Review tiểu thuyết Con hủi: Muốn hạnh phúc thì phải đấu tranh
Bởi nguyetlinh - 12/06/2022
Tiểu thuyết Con hủi kể về chuyện tình lãng mạng, nồng cháy nhưng hết sức chông gai thử thách của đôi nam nữ Waldemar Michorowski và Stefcia Rudecka. Với ngòi bút kiêu hãnh và ngôn từ hoa mỹ, độc giả sẽ được tác giả dẫn dắt đến từng cung bậc cảm xúc của đôi trai tài gái sắc, cảm nhận sự đau khổ, khó khăn của họ khi phải chóng lại định kiến xã hội.
Tiểu thuyết Con hủi: Muốn hạnh phúc thì phải đấu tranh
Dù trong xã hội thời xưa hay hiện đại, tình yêu – thứ cảm xúc thiêng liêng đáng ra phải được nâng niu bảo vệ thì lại bị định kiến của xã hội hẹp hòi ngăn cấm, chà đạp. Tiểu thuyết Con hủi dưới ngòi văn hoa mỹ của tác giả đem đến cho chúng ta cái nhìn không chỉ về định kiến của xã hồi ngày xưa mà đâu đó còn phần nào phản ánh lên được sự hẹp hòi của xã hội hiện nay.
Vài nét về tác giả Helena Mniszek
Helena Mniszek (1879- 1943) là một nữ văn sĩ người Balan, bà được coi là nghệ sĩ đam mê nghệ thuật khi đi đến đâu bà cũng có thể tạo nên tuyệt tác. Các tác phẩm của bà viết về cuộc tình của giới lớp thượng lưu và bóc trần sự thật về những định kiến cổ hủ và lối sống ăn chơi hào nhoáng của giới thượng lưu thời đó.
Tiểu thuyết Con hủi là tiểu thuyết đầu tay của bà cũng như là tác phẩm nổi tiếng nhất của bà. Sau khi được xuất bản, tiểu thuyết Con hủi đã làm náo loạn thị trường văn học thời đó, cuốn sách được công nhân bởi cả độc giả thượng lưu và trung lưu. Tác phẩm được tái bản liên tục cùng 3 lần chuyển thể thành phim điện ảnh.
Sự nghiệp văn học của bà có hơn 22 tác phẩm, nhưng không tác phẩm nào vượt qua được thành công của tiểu thuyết Con hủi.
Nội dung tiểu thuyết Con hủi
Con hủi kể về chuyện tình giữa đại công tước Valdemar Mikhôrôvxki – một chàng công tử của dòng dõi quý tộc bậc nhất cả nước với Xtet’chia Rudexka – nàng chỉ là con gái của một điền chủ vì thất vọng với mối tình đầu đã đến làm gia sư cho cô ruột của chàng. Hai con người như ở hai thế giới khác nhau, từ hiểu nhầm đến thành sa vào lưới tình. Nếu chàng có học thức, cao sang, giàu có thì nàng cũng rất thông minh, xinh đẹp lại mang một cá tính riêng.
Đôi trẻ mang trong mình một tình yêu mãnh liệt, rực lửa, nhiệt huyết, quyết tâm không lặp lại sai lầm của tiền bối (ông nội chàng và bà ngoại nàng cũng từng yêu nhau nhưng không thành), họ quyết tâm cùng nhau vượt lên những rào cản định kiến. Chàng bảo vệ nàng khỏi những lời khó nghe, nàng cũng không e ngại cùng chàng đấu tranh cho tình yêu của họ. Trải qua bao đấu tranh gay go, với gia đình, xã hội và chính bản thân họ, tình yêu của đôi trẻ đã chiến thắng với một lễ đính ước và chuẩn bị cho ngày cưới.
Thế nhưng liệu miệng đời có dễ dàng buông tha một ai thế không? Liệu giới quý tộc có cam chịu sự thất bại này không? Và rồi cuộc tình của họ liệu có thể viên mãn được không? Các bạn hãy tìm đọc để biết được cái kết của chuyện tình này nhé!
Những điều tâm đắc sau khi đọc tiểu thuyết Con hủi
Tác giả dẫn dắt câu chuyện rất khéo léo, mạch cảm xúc của hai nhân vật chính từ ghét đến yêu rất hợp lý, không bị trạng thái nhân vật từ ghét chuyển sang yêu một cách đột ngột, đây là điểm mình rất thích. Câu từ hoa mỹ cùng lối dẫn chuyện tài tình khiến cho dù đề tài không phải quá mới mẻ nhưng lại tạo nên được một câu chuyện tình yêu đẹp, đáng trân trọng và ngưỡng mộ. Câu chuyện mang lại nhiều bài học về tình yêu và sự dũng cảm đứng lên chống lại định kiến xã hội.
TỔNG KẾT
Dù trong xã hội thời xưa hay hiện đại, tình yêu - thứ cảm xúc thiêng liêng đáng ra phải được nâng niu bảo vệ thì lại bị định kiến của xã hội hẹp hòi ngăn cấm, chà đạp. Tiểu thuyết Con hủi dưới ngòi văn hoa mỹ của tác giả đem đến cho chúng ta cái nhìn không chỉ về định kiến của xã hồi ngày xưa mà đâu đó còn phần nào phản ánh lên được sự hẹp hòi của xã hội hiện nay.
Bởi nguyetlinh - 12/06/2022
Tiểu thuyết Con hủi kể về chuyện tình lãng mạng, nồng cháy nhưng hết sức chông gai thử thách của đôi nam nữ Waldemar Michorowski và Stefcia Rudecka. Với ngòi bút kiêu hãnh và ngôn từ hoa mỹ, độc giả sẽ được tác giả dẫn dắt đến từng cung bậc cảm xúc của đôi trai tài gái sắc, cảm nhận sự đau khổ, khó khăn của họ khi phải chóng lại định kiến xã hội.
Tiểu thuyết Con hủi: Muốn hạnh phúc thì phải đấu tranh
Dù trong xã hội thời xưa hay hiện đại, tình yêu – thứ cảm xúc thiêng liêng đáng ra phải được nâng niu bảo vệ thì lại bị định kiến của xã hội hẹp hòi ngăn cấm, chà đạp. Tiểu thuyết Con hủi dưới ngòi văn hoa mỹ của tác giả đem đến cho chúng ta cái nhìn không chỉ về định kiến của xã hồi ngày xưa mà đâu đó còn phần nào phản ánh lên được sự hẹp hòi của xã hội hiện nay.
Vài nét về tác giả Helena Mniszek
Helena Mniszek (1879- 1943) là một nữ văn sĩ người Balan, bà được coi là nghệ sĩ đam mê nghệ thuật khi đi đến đâu bà cũng có thể tạo nên tuyệt tác. Các tác phẩm của bà viết về cuộc tình của giới lớp thượng lưu và bóc trần sự thật về những định kiến cổ hủ và lối sống ăn chơi hào nhoáng của giới thượng lưu thời đó.
Tiểu thuyết Con hủi là tiểu thuyết đầu tay của bà cũng như là tác phẩm nổi tiếng nhất của bà. Sau khi được xuất bản, tiểu thuyết Con hủi đã làm náo loạn thị trường văn học thời đó, cuốn sách được công nhân bởi cả độc giả thượng lưu và trung lưu. Tác phẩm được tái bản liên tục cùng 3 lần chuyển thể thành phim điện ảnh.
Sự nghiệp văn học của bà có hơn 22 tác phẩm, nhưng không tác phẩm nào vượt qua được thành công của tiểu thuyết Con hủi.
Nội dung tiểu thuyết Con hủi
Con hủi kể về chuyện tình giữa đại công tước Valdemar Mikhôrôvxki – một chàng công tử của dòng dõi quý tộc bậc nhất cả nước với Xtet’chia Rudexka – nàng chỉ là con gái của một điền chủ vì thất vọng với mối tình đầu đã đến làm gia sư cho cô ruột của chàng. Hai con người như ở hai thế giới khác nhau, từ hiểu nhầm đến thành sa vào lưới tình. Nếu chàng có học thức, cao sang, giàu có thì nàng cũng rất thông minh, xinh đẹp lại mang một cá tính riêng.
Đôi trẻ mang trong mình một tình yêu mãnh liệt, rực lửa, nhiệt huyết, quyết tâm không lặp lại sai lầm của tiền bối (ông nội chàng và bà ngoại nàng cũng từng yêu nhau nhưng không thành), họ quyết tâm cùng nhau vượt lên những rào cản định kiến. Chàng bảo vệ nàng khỏi những lời khó nghe, nàng cũng không e ngại cùng chàng đấu tranh cho tình yêu của họ. Trải qua bao đấu tranh gay go, với gia đình, xã hội và chính bản thân họ, tình yêu của đôi trẻ đã chiến thắng với một lễ đính ước và chuẩn bị cho ngày cưới.
Thế nhưng liệu miệng đời có dễ dàng buông tha một ai thế không? Liệu giới quý tộc có cam chịu sự thất bại này không? Và rồi cuộc tình của họ liệu có thể viên mãn được không? Các bạn hãy tìm đọc để biết được cái kết của chuyện tình này nhé!
Những điều tâm đắc sau khi đọc tiểu thuyết Con hủi
Tác giả dẫn dắt câu chuyện rất khéo léo, mạch cảm xúc của hai nhân vật chính từ ghét đến yêu rất hợp lý, không bị trạng thái nhân vật từ ghét chuyển sang yêu một cách đột ngột, đây là điểm mình rất thích. Câu từ hoa mỹ cùng lối dẫn chuyện tài tình khiến cho dù đề tài không phải quá mới mẻ nhưng lại tạo nên được một câu chuyện tình yêu đẹp, đáng trân trọng và ngưỡng mộ. Câu chuyện mang lại nhiều bài học về tình yêu và sự dũng cảm đứng lên chống lại định kiến xã hội.
TỔNG KẾT
Dù trong xã hội thời xưa hay hiện đại, tình yêu - thứ cảm xúc thiêng liêng đáng ra phải được nâng niu bảo vệ thì lại bị định kiến của xã hội hẹp hòi ngăn cấm, chà đạp. Tiểu thuyết Con hủi dưới ngòi văn hoa mỹ của tác giả đem đến cho chúng ta cái nhìn không chỉ về định kiến của xã hồi ngày xưa mà đâu đó còn phần nào phản ánh lên được sự hẹp hòi của xã hội hiện nay.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Mynt (E)
Mynt (E)@Gia Vị - ybox
[Review Sách] Con Hủi, Helena Mniszek – Tiếng Răn Ám Ảnh Dành Cho Những Kẻ Lên Đường Truy Cầu Hạnh Phúc
“Những nẻo đường nào sẽ dệt thành mạng đường đời cho mình lần bước, những dây đàn nào sẽ rung ngân thanh âm về sự tồn tại của chính mình; điều gì sẽ dành cho mình đây – những ban mai trong lành e ấp hạnh phúc và hương thơm tháng năm hay những hoàng hôn u ám với vầng trăng ủ ê nhợt nhạt? Những ngày hạ nóng nung tranh đấu hay những cơn bão tuyết băng giá nghiệt ngã của số phận?”
Có lẽ những dòng văn chất chứa đầy nỗi suy tư kia cũng đủ để diễn đạt tinh thần lớn nhất của tác phẩm kinh điển Con hủi của nữ văn sĩ Ba Lan Helena Mniszek, đó là sự hoang mang của kiếp con người khi không thể biết trước được tương lai và cuộc chiến khốc liệt của họ trong việc giành lấy hạnh phúc của cuộc đời mình giữa muôn vàn những trái ngang khổ cực.
Tàn nhẫn – đó là tất cả những gì cuộc đời đã dành cho cặp trai tài gái sắc là đại công tử Waldermart Michorowski thuộc dòng dõi quyền quý nhất cả nước và con gái một điền chủ quý tộc nhỏ – nàng Stefcia Rudecka. Tàn nhẫn cũng chính là những gì tác giả dành cho người đọc trong việc dẫn họ vào những cơn bão lòng rung cảm dữ dội cùng với hai số phận trớ trêu trong sự chênh lệch đẳng cấp xã hội.
Nghe tên Con hủi ta có thể hình dung ra một kẻ nào đó xấu xí, bệnh hoạn với hình thù gớm ghiếc sẽ xuất hiện trong cuốn sách. Nhưng không, biệt hiệu này lại dành cho cô gái tài sắc vẹn toàn Stefcia Rudecka ấy. Chính sự khác biệt đẳng cấp của nàng đã khiến nàng trở thành một sinh vật bị ruồng rẫy, đay nghiến, dày xéo và khinh miệt đến tận cùng. Sự dung hòa, chấp nhận là thứ không thể xảy ra khi những độc tố kia đã ken dày thành trùng trùng lớp lớp bởi biết bao nhiêu thế hệ con người. Chỉ những cá nhân thực sự dũng cảm và can trường mới có thể vượt lên được những rào cản đau đớn ấy.
Những khó khăn trong tình yêu bởi sự thiếu môn đăng hộ đối trong truyện Con hủi được khắc họa một cách rất khắc nghiệt và dữ dội, đến mức dường như không thể tưởng tượng nổi rằng trên đời này lại tồn tại những sự hà khắc đến bạo tàn như vậy. Có thể, đây là một cách thể hiện nội dung của tác giả, tương tự như một vở bi kịch mang màu sắc thậm xưng và cường điệu.
“Nhưng cô ta là một phần tử không thích hợp trong giới chúng ta, cô ấy không phải dành cho chúng ta! Không nên gần gũi và thân mật với cô ta. Cô Rudecka, đối với chúng ta – là một con hủi!” – Barxki
Tiểu thuyết này đã làm dậy lên khát khao chinh phục những điều chân thiện mĩ bằng cách phá tung mọi xích xiềng định kiến, các quan niệm và phong tục cổ hủ của xã hội cũ. Sự đau đớn được thể hiện đậm đặc trong cuốn sách làm dấy lên trong tâm linh người đọc một thông điệp rằng nếu ta không dũng cảm vượt qua những điều trái ngang khắc nghiệt, ta cũng sẽ vĩnh viễn nằm lại trong nấm mồ bi thảm và hối tiếc cho tới hết cuộc đời. Con hủi đã đánh động sự thức tỉnh của người đọc bằng nỗi đau và cái chết. Tôi cho rằng đây là sự khôn ngoan và tinh tế của tác giả. Vì theo bản năng sinh tồn, con người luôn sợ hãi bản án tử thần và luôn tìm cách tránh xa những tác nhân dày xéo sự hiện diện của họ.
Tác giả kể câu chuyện về nghịch cảnh trong tình yêu lứa đôi nhưng khi nhìn rộng hơn ta có thể nhận ra nàng Stefcia Rudecka hoàn mĩ kia như một biểu tượng cho sự thật, chàng Waldermart oai hùng là hình ảnh cho khát khao của con người trong việc nhận ra và nắm giữ những sự thật ấy, còn toàn bộ giới quý tộc chống lại hạnh phúc của đôi thanh niên đại diện cho những sự yếu đuối, giả dối và u mê của con người trong cuộc hành trình hướng tới mặt trời chân lý. Câu chuyện này cũng tương tự như chuyện chàng hiệp sĩ mang thanh gươm trắng cưỡi ngựa lên đường băng qua những gai rào đen tối của mụ phù thủy để giải cứu nàng công chúa xinh đẹp đang ngủ mê trong tòa tháp lạnh lùng.
Nội dung cuốn sách được thể hiện giống một vở kịch hơn là một câu chuyện thực tế thường ngày bởi sự dày đặc những chi tiết miêu tả hoa mĩ đậm chất văn chương vừa mơ màng vừa rực lửa, không chỉ cảnh vật mà cả tâm lý con người – lúc hoang mang nghi ngờ, lúc đắm say hoan lạc, lúc đớn đau vật vã và lúc tuyệt vọng thê lương. Có thể nói, Con hủi là một sản phẩm nghệ thuật kiều diễm, được thể hiện rõ ràng trong việc miêu tả ngoại hình, tâm tư, xúc cảm con người và những đường nét của tự nhiên hết sức công phu và tỉ mỉ. Sự tận tâm ấy của tác giả khiến người đọc có được sự đồng cảm lớn lao với nhân vật và có khả năng hình dung bối cảnh câu chuyện đến từng đường nét như thể họ đang được sống ở trong chính thế giới ấy.
Tác phẩm này mang tới một sự kích động vì tò mò khi rất nhiều những dự cảm về nội dung được hé lộ tinh tế trong việc miêu tả thế giới xung quanh, giống như câu thơ của cụ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Càng đọc kỹ cuốn sách, ta càng thấy được tài nghệ và sự uyên thâm của tác giả trong việc cân đối giữa thế giới bên ngoài và bên trong của con người. Điều này làm sống dậy khả năng linh cảm tương lai của bạn đọc, như thể có một tiếng nói khẽ khàng len lỏi vào trong tâm khảm nhắc ta rằng điều gì đó sẽ xảy ra ở những trang tiếp theo. Và thế là, ta liên tục ở trong trạng thái nôn nao bồn chồn vì không biết rằng những gì ta đang lắng nghe có thật sự đúng đắn. Phải chăng tác phẩm Con hủi là một sự trêu ngươi dành cho con mắt hữu hạn của loài người.
“Con người muốn sống cuộc đời vĩnh hằng trường sinh bất tử, nhưng thế giới lại dựa trên sự sinh và diệt. Đóa hoa nào cũng phải héo tàn biết phải làm sao! Miễn là khi sống hoa khiến cho một giây phút của cuộc đời ta được thêm phần tươi đẹp – song con người bây giờ lại không chịu thỏa mãn với điều đó, họ muốn phân tích, muốn lý giải ngay chính niềm hạnh phúc kia. Nhưng cũng như đóa hoa kia, nếu bị phân nhỏ ra thành muôn mảnh, sẽ chir là một búi rác mà thôi. Khi hiểu ra điều đó, thất vọng, họ muốn ghép lại hoa như cũ như cũ, nhưng kết quả thảm thương thay, và thường họ đành vứt hoa đi… Với mọi chuyện trên đời cũng thế.” – Cụ Maciej
Cảm giác của tôi khi đọc cuốn sách biến đổi từ sự lơ đễnh, mơ màng chuyển sang sự bồn chồn, náo nức, tiếp đến là sự căng thẳng, kích động đến nghẹt thở, để rồi cuối cùng, tất cả vỡ òa trong nước mắt thổn thức. Chưa từng có tác phẩm văn học nào khiến tôi khóc nhiều như vậy cho tới thời điểm hiện tại. Cho đến tận cùng, tôi mới hiểu ra, tất cả những gì tác giả đặt bút trước đó là để chuẩn bị cho khoảnh khắc bùng nổ sau cùng chấn động hơn tất thảy.
Quả thực, nếu nhìn cuốn sách này chỉ đơn thuần là tác phẩm tình yêu lãng mạn, thậm chí mang chất ngôn tình phảng phất thì quả là một điều đáng tiếc cho người đọc. Bên cạnh nội dung to lớn nhất về sự phá vỡ xích xiềng định kiến trong tư duy để vươn tới hạnh phúc chân thực, tác phẩm Con hủi còn đề cập đến những đề tài quan trọng khác về sức mạnh ngôn từ, sự bình đẳng giữa người nam và người nữ trong tình yêu, sự tiến hóa của con người qua các vòng lặp định mệnh và xu hướng tìm kiếm tâm linh khi họ ở trong sự bất lực trước cái chết.
Con hủi có thể trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi về hậu quả có thể xảy ra cho một người khi họ rơi vào đoạn đường thử thách tương tự, đặc biệt trong tình yêu. Nó như một tiếng răn, một lời cảnh báo và cũng là lời động viên thuyết phục người đó vượt lên trên những yếu hèn và run rẩy của chính mình để chạm tay tới niềm hạnh phúc vẫn hằng khao khát. 9/10 là điểm tôi dành cho tác phẩm kinh điển này.
“Người ta không xét ngọc qua cái khung mà qua giá trị bản thân của viên ngọc. Trong một cái khung bằng vàng vẫn có thể đặt những viên ngọc giả.” – Waldermar
Tác giả: Vũ Thanh Hòa (triethocduongpho.net)
Mynt (E)@Gia Vị - ybox
[Review Sách] Con Hủi, Helena Mniszek – Tiếng Răn Ám Ảnh Dành Cho Những Kẻ Lên Đường Truy Cầu Hạnh Phúc
“Những nẻo đường nào sẽ dệt thành mạng đường đời cho mình lần bước, những dây đàn nào sẽ rung ngân thanh âm về sự tồn tại của chính mình; điều gì sẽ dành cho mình đây – những ban mai trong lành e ấp hạnh phúc và hương thơm tháng năm hay những hoàng hôn u ám với vầng trăng ủ ê nhợt nhạt? Những ngày hạ nóng nung tranh đấu hay những cơn bão tuyết băng giá nghiệt ngã của số phận?”
Có lẽ những dòng văn chất chứa đầy nỗi suy tư kia cũng đủ để diễn đạt tinh thần lớn nhất của tác phẩm kinh điển Con hủi của nữ văn sĩ Ba Lan Helena Mniszek, đó là sự hoang mang của kiếp con người khi không thể biết trước được tương lai và cuộc chiến khốc liệt của họ trong việc giành lấy hạnh phúc của cuộc đời mình giữa muôn vàn những trái ngang khổ cực.
Tàn nhẫn – đó là tất cả những gì cuộc đời đã dành cho cặp trai tài gái sắc là đại công tử Waldermart Michorowski thuộc dòng dõi quyền quý nhất cả nước và con gái một điền chủ quý tộc nhỏ – nàng Stefcia Rudecka. Tàn nhẫn cũng chính là những gì tác giả dành cho người đọc trong việc dẫn họ vào những cơn bão lòng rung cảm dữ dội cùng với hai số phận trớ trêu trong sự chênh lệch đẳng cấp xã hội.
Nghe tên Con hủi ta có thể hình dung ra một kẻ nào đó xấu xí, bệnh hoạn với hình thù gớm ghiếc sẽ xuất hiện trong cuốn sách. Nhưng không, biệt hiệu này lại dành cho cô gái tài sắc vẹn toàn Stefcia Rudecka ấy. Chính sự khác biệt đẳng cấp của nàng đã khiến nàng trở thành một sinh vật bị ruồng rẫy, đay nghiến, dày xéo và khinh miệt đến tận cùng. Sự dung hòa, chấp nhận là thứ không thể xảy ra khi những độc tố kia đã ken dày thành trùng trùng lớp lớp bởi biết bao nhiêu thế hệ con người. Chỉ những cá nhân thực sự dũng cảm và can trường mới có thể vượt lên được những rào cản đau đớn ấy.
Những khó khăn trong tình yêu bởi sự thiếu môn đăng hộ đối trong truyện Con hủi được khắc họa một cách rất khắc nghiệt và dữ dội, đến mức dường như không thể tưởng tượng nổi rằng trên đời này lại tồn tại những sự hà khắc đến bạo tàn như vậy. Có thể, đây là một cách thể hiện nội dung của tác giả, tương tự như một vở bi kịch mang màu sắc thậm xưng và cường điệu.
“Nhưng cô ta là một phần tử không thích hợp trong giới chúng ta, cô ấy không phải dành cho chúng ta! Không nên gần gũi và thân mật với cô ta. Cô Rudecka, đối với chúng ta – là một con hủi!” – Barxki
Tiểu thuyết này đã làm dậy lên khát khao chinh phục những điều chân thiện mĩ bằng cách phá tung mọi xích xiềng định kiến, các quan niệm và phong tục cổ hủ của xã hội cũ. Sự đau đớn được thể hiện đậm đặc trong cuốn sách làm dấy lên trong tâm linh người đọc một thông điệp rằng nếu ta không dũng cảm vượt qua những điều trái ngang khắc nghiệt, ta cũng sẽ vĩnh viễn nằm lại trong nấm mồ bi thảm và hối tiếc cho tới hết cuộc đời. Con hủi đã đánh động sự thức tỉnh của người đọc bằng nỗi đau và cái chết. Tôi cho rằng đây là sự khôn ngoan và tinh tế của tác giả. Vì theo bản năng sinh tồn, con người luôn sợ hãi bản án tử thần và luôn tìm cách tránh xa những tác nhân dày xéo sự hiện diện của họ.
Tác giả kể câu chuyện về nghịch cảnh trong tình yêu lứa đôi nhưng khi nhìn rộng hơn ta có thể nhận ra nàng Stefcia Rudecka hoàn mĩ kia như một biểu tượng cho sự thật, chàng Waldermart oai hùng là hình ảnh cho khát khao của con người trong việc nhận ra và nắm giữ những sự thật ấy, còn toàn bộ giới quý tộc chống lại hạnh phúc của đôi thanh niên đại diện cho những sự yếu đuối, giả dối và u mê của con người trong cuộc hành trình hướng tới mặt trời chân lý. Câu chuyện này cũng tương tự như chuyện chàng hiệp sĩ mang thanh gươm trắng cưỡi ngựa lên đường băng qua những gai rào đen tối của mụ phù thủy để giải cứu nàng công chúa xinh đẹp đang ngủ mê trong tòa tháp lạnh lùng.
Nội dung cuốn sách được thể hiện giống một vở kịch hơn là một câu chuyện thực tế thường ngày bởi sự dày đặc những chi tiết miêu tả hoa mĩ đậm chất văn chương vừa mơ màng vừa rực lửa, không chỉ cảnh vật mà cả tâm lý con người – lúc hoang mang nghi ngờ, lúc đắm say hoan lạc, lúc đớn đau vật vã và lúc tuyệt vọng thê lương. Có thể nói, Con hủi là một sản phẩm nghệ thuật kiều diễm, được thể hiện rõ ràng trong việc miêu tả ngoại hình, tâm tư, xúc cảm con người và những đường nét của tự nhiên hết sức công phu và tỉ mỉ. Sự tận tâm ấy của tác giả khiến người đọc có được sự đồng cảm lớn lao với nhân vật và có khả năng hình dung bối cảnh câu chuyện đến từng đường nét như thể họ đang được sống ở trong chính thế giới ấy.
Tác phẩm này mang tới một sự kích động vì tò mò khi rất nhiều những dự cảm về nội dung được hé lộ tinh tế trong việc miêu tả thế giới xung quanh, giống như câu thơ của cụ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Càng đọc kỹ cuốn sách, ta càng thấy được tài nghệ và sự uyên thâm của tác giả trong việc cân đối giữa thế giới bên ngoài và bên trong của con người. Điều này làm sống dậy khả năng linh cảm tương lai của bạn đọc, như thể có một tiếng nói khẽ khàng len lỏi vào trong tâm khảm nhắc ta rằng điều gì đó sẽ xảy ra ở những trang tiếp theo. Và thế là, ta liên tục ở trong trạng thái nôn nao bồn chồn vì không biết rằng những gì ta đang lắng nghe có thật sự đúng đắn. Phải chăng tác phẩm Con hủi là một sự trêu ngươi dành cho con mắt hữu hạn của loài người.
“Con người muốn sống cuộc đời vĩnh hằng trường sinh bất tử, nhưng thế giới lại dựa trên sự sinh và diệt. Đóa hoa nào cũng phải héo tàn biết phải làm sao! Miễn là khi sống hoa khiến cho một giây phút của cuộc đời ta được thêm phần tươi đẹp – song con người bây giờ lại không chịu thỏa mãn với điều đó, họ muốn phân tích, muốn lý giải ngay chính niềm hạnh phúc kia. Nhưng cũng như đóa hoa kia, nếu bị phân nhỏ ra thành muôn mảnh, sẽ chir là một búi rác mà thôi. Khi hiểu ra điều đó, thất vọng, họ muốn ghép lại hoa như cũ như cũ, nhưng kết quả thảm thương thay, và thường họ đành vứt hoa đi… Với mọi chuyện trên đời cũng thế.” – Cụ Maciej
Cảm giác của tôi khi đọc cuốn sách biến đổi từ sự lơ đễnh, mơ màng chuyển sang sự bồn chồn, náo nức, tiếp đến là sự căng thẳng, kích động đến nghẹt thở, để rồi cuối cùng, tất cả vỡ òa trong nước mắt thổn thức. Chưa từng có tác phẩm văn học nào khiến tôi khóc nhiều như vậy cho tới thời điểm hiện tại. Cho đến tận cùng, tôi mới hiểu ra, tất cả những gì tác giả đặt bút trước đó là để chuẩn bị cho khoảnh khắc bùng nổ sau cùng chấn động hơn tất thảy.
Quả thực, nếu nhìn cuốn sách này chỉ đơn thuần là tác phẩm tình yêu lãng mạn, thậm chí mang chất ngôn tình phảng phất thì quả là một điều đáng tiếc cho người đọc. Bên cạnh nội dung to lớn nhất về sự phá vỡ xích xiềng định kiến trong tư duy để vươn tới hạnh phúc chân thực, tác phẩm Con hủi còn đề cập đến những đề tài quan trọng khác về sức mạnh ngôn từ, sự bình đẳng giữa người nam và người nữ trong tình yêu, sự tiến hóa của con người qua các vòng lặp định mệnh và xu hướng tìm kiếm tâm linh khi họ ở trong sự bất lực trước cái chết.
Con hủi có thể trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi về hậu quả có thể xảy ra cho một người khi họ rơi vào đoạn đường thử thách tương tự, đặc biệt trong tình yêu. Nó như một tiếng răn, một lời cảnh báo và cũng là lời động viên thuyết phục người đó vượt lên trên những yếu hèn và run rẩy của chính mình để chạm tay tới niềm hạnh phúc vẫn hằng khao khát. 9/10 là điểm tôi dành cho tác phẩm kinh điển này.
“Người ta không xét ngọc qua cái khung mà qua giá trị bản thân của viên ngọc. Trong một cái khung bằng vàng vẫn có thể đặt những viên ngọc giả.” – Waldermar
Tác giả: Vũ Thanh Hòa (triethocduongpho.net)
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
...còn lại giữa giới anh...là khỉ khô gì sao 0 viết còn lại trong lòng anh, còn lại trong thế giới của anh, còn lại trong tâm trí anh...tiếng việt trong xã hội việt cộng đọc nghe khủng khiếp thiệt
SachHay24H.com
Review Con hủi - Tiếng nói đấu tranh đầy mạnh mẽ
Tình yêu luôn là một chủ đề đẹp được nhiều tác gia khai thác, xây dựng câu chuyện và tạo hình nhân vật của mình. Tình yêu thật khó để hình dung hình dạng như thế nào, mùi vị hay âm thanh làm sao, nhưng cái cách mà nó vận hành lại cuốn hút người đọc một cách ma mị. Có hoa thơm, có trái ngọt, có bão giông, có bi thương. Nhưng cay đắng nhất của tình yêu lại là sự chia lìa khi cả hai vẫn đậm sâu tình cảm cho nhau. “Con hủi” là một tiểu thuyết như vậy, khắc họa một tình yêu đầy thử thách, chông gai của đôi nam nữ Waldemar Michorowski và Stefcia Rudecka dưới ngòi bút đầy kiêu hãnh, và cũng nhiều khao khát.
Một mở đầu đẹp
“Con hủi” là tác phẩm đầu tay của nữ nhà văn Helena Mniszek ra mắt bạn đọc năm 1909. Tác phẩm nhanh chóng gây được tiếng vang, nhưng cũng nhận lại không ít ý kiến trái chiều. Tuy nhiên vượt qua định kiến một tác phẩm của nữ giới có kiếp sống ngắn ngủi, thầm lặng, sớm rơi vào lãng quên “Con hủi” gây náo động thị trường, được tái bản với số lượng kỷ lục và trở thành cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều người.
Tác phẩm mở đầu cho sự nghiệp của Helena mniszek - một nữ nhà văn người Ba Lan. Bà sinh năm 1878 mất năm 1943. Cuộc đời bà cũng trải qua nhiều thăng trầm khi chồng bà mất sớm, dù tái giá nhưng hạnh phúc ngắn ngủi, người chồng tiếp theo cũng qua đời, bà còn phỉa trải qua cuộc sống thời chiến nhiều khó khăn, vất vả. Tuy nhiên, bà vẫn hoạt động văn học sôi nổi, để lại nhiều tiểu thuyết như Cậu chủ (1912), Ẩn sĩ (1919), Từ mảnh đất của nước mắt và máu (1927) …
“Con hủi” xoay quanh nhân vật Waldemar Michorowski và Stefcia Rudecka. Waldemar Michorowski là ột thanh niên quý tộc thuộc dòng dõi quyền quý, có học thức, giàu có, nhiệt thành, can trường, có cương vị cao, được nhiều người nể trọng. Trong tình yêu Waldemar yêu nồng nhiệt, say sưa và hành động cho tình yêu của mình. Ngược lại, Stefcia chỉ là một cô con gái của gia đình điền chủ nhỏ. Vì thất vọng cho mối tình đầu của mình, cố đã rời gia đình đến làm gia sư cho gia đình cô ruột của Waldemar. Cô là một cô gái mỏng manh, hiền lành, dịu dàng và khao khát tình yêu cháy bỏng.
Một tình yêu đáng ngưỡng mộ
Đôi trẻ cảm mến và đến với nhau sau khi đã vượt qua những hiểu lầm, thấu hiểu và cảm thông cho nhau. Trải qua bao đấu tranh gay go với gia đình, xã hội và chính mình để bảo vệ tình yêu, cuối cùng họ cũng chiến thắng, làm lễ đính ước và chuẩn bị cho đám cưới.
Nhưng nếu câu chuyện dừng ở đâu, nó sẽ là một tình yêu đẹp và trọn vẹn. “Nàng cảm thấy hạnh phúc như đang lạc trong một thảo nguyên hoa, nức hương, chan hòa nắng và bát ngát trời xanh. Biết là lạc lối nhưng nàng không muốn tìm những con đường khác”. Tình yêu nãy nở khi cả hai chênh lệch về đẳng cấp, địa vị. Tự Stefcia biết mình đang sai đường, nhưng chìm đắm trong tình yêu quá đỗi mãnh liệt thì một người khao khát tình yêu như cô hẵn không muốn bước ra khỏi con đường đó. Dù gì Waldemar cũng yêu cô và bảo vệ cô hết mực mà!
Và những bi thương....
“Nhưng cô ta là một phần tử không thích hợp trong giới chúng ta, cô ấy không phải dành cho chúng ta! Không nên gần gũi và thân mật với cô ta. Cô Rudecka, đối với chúng ta – là một con hủi!” – Barxki
Trong giới thượng lưu Ba Lan bấy giờ, đẳng cấp và địa vị là một thứ quý giá hơn tất thảy. Sự hòa hợp giữa các tầng lớp là thứ xa xỉ tựa như cái cách Baxki cay nghiệt nói về Stefcia Rudecka- con hủi. Sự kiêu hãnh về tình yêu của Stefcia bị đánh gục bởi bao trò hèn hạ mà giới quý tộc đầy thâm hiểm bày ra nhằm chia tách đôi uyên ương. Trước ngưỡng cửa của hạnh phúc, người phụ nữ mỏng manh ấy đã gục ngã. Nàng gục ngã trong tấm áo tráng tinh như tâm hồn trinh bạch và cao quý của nàng. Stefcia đã chết cho tình yêu còn mãu, chết cho bao đấu tranh chống lại định kiến nghiệt ngã của xã hội bấy giờ.
Để rồi Valderma cũng bi thương mà thốt lên rằng: “Em sẽ vĩnh viễn còn lại giữa giới anh”.
Khai thác vào nghịch cảnh của tình yêu, nhưng sâu xa đó Helena như ngằm thẳng tiếng nói của mình vào bao định kiến xấu xa của xã hội, các quan niệm và phong tục cổ hủ lạc hậu. Sự bất bình đẳng, chênh lệch giai cấp chỉ là cái cớ để người ta chia tách tình yêu của nam nữ, nhưng sẽ còn đày đọa bao nhiêu tình yêu tự do và nồng cháy khác nếu không một ai lên tiếng. Helena đã lên tiếng, đã vạch trần sự xấu xa, đe hèn của xã hội nhem nhuốc này và hối thúc sự đấu tranh của người đọc. Cái chết của Stefcia đã đánh động sự thức tỉnh của con người. Và tác phẩm đã thật sự thành công khi đông đảo đọc giả đón nhận, đặc biệt là những độc giả nữ- những người hâm mộ cuồng nhiệt coi “Con Hủi” là đỉnh cao của hi vọng và mơ ước.
“Con hủi” giàu chất kịch hơn là tiểu thuyết. tác giả mô tả nhiều vào sự phồn hoa, sang trọng, quyền quý của giới thượng lưu. Vừa hoa mỹ nhưng cũng vừa tả thực. Cảnh vật cũng được nhà văn chau chuốt, gọt giũa sao cho toát ra hết sự sang giả của giới quý tộc nhưng hóa kệch cỡm trước bi thương của đôi trẻ. Và tâm lý nhân vật chuyển biến liên tục, dồn dập vào những trường đoạn đấu tranh mạnh mẹ rồi như một nốt trầm, rơi tự do cuối câu chuyện trước cái chết của Stefcia.
Stefcia ra đi nhưng tình yêu còn mãi như Waldemar đã nói “Em sẽ vĩnh viễn còn lại giữa giới anh”. Dù bi thương nhưng Con hủi xứng đáng ở vị trí của một tiểu thuyết tuyệt vời chủ đề tình yêu, sống mãi trong tim người đọc dù đã hơn một thế kỷ trôi qua nhưng tiếng vang và bài học của tác phẩm còn nguyên giá trị. Tác phẩm vẫn đánh thức bao hoài vọng, khoa khát cao quý muốn sống và yêu hết mình, và kho cần- được hi sinh cho tình yêu đấy.
SachHay24H.com
Review Con hủi - Tiếng nói đấu tranh đầy mạnh mẽ
Tình yêu luôn là một chủ đề đẹp được nhiều tác gia khai thác, xây dựng câu chuyện và tạo hình nhân vật của mình. Tình yêu thật khó để hình dung hình dạng như thế nào, mùi vị hay âm thanh làm sao, nhưng cái cách mà nó vận hành lại cuốn hút người đọc một cách ma mị. Có hoa thơm, có trái ngọt, có bão giông, có bi thương. Nhưng cay đắng nhất của tình yêu lại là sự chia lìa khi cả hai vẫn đậm sâu tình cảm cho nhau. “Con hủi” là một tiểu thuyết như vậy, khắc họa một tình yêu đầy thử thách, chông gai của đôi nam nữ Waldemar Michorowski và Stefcia Rudecka dưới ngòi bút đầy kiêu hãnh, và cũng nhiều khao khát.
Một mở đầu đẹp
“Con hủi” là tác phẩm đầu tay của nữ nhà văn Helena Mniszek ra mắt bạn đọc năm 1909. Tác phẩm nhanh chóng gây được tiếng vang, nhưng cũng nhận lại không ít ý kiến trái chiều. Tuy nhiên vượt qua định kiến một tác phẩm của nữ giới có kiếp sống ngắn ngủi, thầm lặng, sớm rơi vào lãng quên “Con hủi” gây náo động thị trường, được tái bản với số lượng kỷ lục và trở thành cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều người.
Tác phẩm mở đầu cho sự nghiệp của Helena mniszek - một nữ nhà văn người Ba Lan. Bà sinh năm 1878 mất năm 1943. Cuộc đời bà cũng trải qua nhiều thăng trầm khi chồng bà mất sớm, dù tái giá nhưng hạnh phúc ngắn ngủi, người chồng tiếp theo cũng qua đời, bà còn phỉa trải qua cuộc sống thời chiến nhiều khó khăn, vất vả. Tuy nhiên, bà vẫn hoạt động văn học sôi nổi, để lại nhiều tiểu thuyết như Cậu chủ (1912), Ẩn sĩ (1919), Từ mảnh đất của nước mắt và máu (1927) …
“Con hủi” xoay quanh nhân vật Waldemar Michorowski và Stefcia Rudecka. Waldemar Michorowski là ột thanh niên quý tộc thuộc dòng dõi quyền quý, có học thức, giàu có, nhiệt thành, can trường, có cương vị cao, được nhiều người nể trọng. Trong tình yêu Waldemar yêu nồng nhiệt, say sưa và hành động cho tình yêu của mình. Ngược lại, Stefcia chỉ là một cô con gái của gia đình điền chủ nhỏ. Vì thất vọng cho mối tình đầu của mình, cố đã rời gia đình đến làm gia sư cho gia đình cô ruột của Waldemar. Cô là một cô gái mỏng manh, hiền lành, dịu dàng và khao khát tình yêu cháy bỏng.
Một tình yêu đáng ngưỡng mộ
Đôi trẻ cảm mến và đến với nhau sau khi đã vượt qua những hiểu lầm, thấu hiểu và cảm thông cho nhau. Trải qua bao đấu tranh gay go với gia đình, xã hội và chính mình để bảo vệ tình yêu, cuối cùng họ cũng chiến thắng, làm lễ đính ước và chuẩn bị cho đám cưới.
Nhưng nếu câu chuyện dừng ở đâu, nó sẽ là một tình yêu đẹp và trọn vẹn. “Nàng cảm thấy hạnh phúc như đang lạc trong một thảo nguyên hoa, nức hương, chan hòa nắng và bát ngát trời xanh. Biết là lạc lối nhưng nàng không muốn tìm những con đường khác”. Tình yêu nãy nở khi cả hai chênh lệch về đẳng cấp, địa vị. Tự Stefcia biết mình đang sai đường, nhưng chìm đắm trong tình yêu quá đỗi mãnh liệt thì một người khao khát tình yêu như cô hẵn không muốn bước ra khỏi con đường đó. Dù gì Waldemar cũng yêu cô và bảo vệ cô hết mực mà!
Và những bi thương....
“Nhưng cô ta là một phần tử không thích hợp trong giới chúng ta, cô ấy không phải dành cho chúng ta! Không nên gần gũi và thân mật với cô ta. Cô Rudecka, đối với chúng ta – là một con hủi!” – Barxki
Trong giới thượng lưu Ba Lan bấy giờ, đẳng cấp và địa vị là một thứ quý giá hơn tất thảy. Sự hòa hợp giữa các tầng lớp là thứ xa xỉ tựa như cái cách Baxki cay nghiệt nói về Stefcia Rudecka- con hủi. Sự kiêu hãnh về tình yêu của Stefcia bị đánh gục bởi bao trò hèn hạ mà giới quý tộc đầy thâm hiểm bày ra nhằm chia tách đôi uyên ương. Trước ngưỡng cửa của hạnh phúc, người phụ nữ mỏng manh ấy đã gục ngã. Nàng gục ngã trong tấm áo tráng tinh như tâm hồn trinh bạch và cao quý của nàng. Stefcia đã chết cho tình yêu còn mãu, chết cho bao đấu tranh chống lại định kiến nghiệt ngã của xã hội bấy giờ.
Để rồi Valderma cũng bi thương mà thốt lên rằng: “Em sẽ vĩnh viễn còn lại giữa giới anh”.
Khai thác vào nghịch cảnh của tình yêu, nhưng sâu xa đó Helena như ngằm thẳng tiếng nói của mình vào bao định kiến xấu xa của xã hội, các quan niệm và phong tục cổ hủ lạc hậu. Sự bất bình đẳng, chênh lệch giai cấp chỉ là cái cớ để người ta chia tách tình yêu của nam nữ, nhưng sẽ còn đày đọa bao nhiêu tình yêu tự do và nồng cháy khác nếu không một ai lên tiếng. Helena đã lên tiếng, đã vạch trần sự xấu xa, đe hèn của xã hội nhem nhuốc này và hối thúc sự đấu tranh của người đọc. Cái chết của Stefcia đã đánh động sự thức tỉnh của con người. Và tác phẩm đã thật sự thành công khi đông đảo đọc giả đón nhận, đặc biệt là những độc giả nữ- những người hâm mộ cuồng nhiệt coi “Con Hủi” là đỉnh cao của hi vọng và mơ ước.
“Con hủi” giàu chất kịch hơn là tiểu thuyết. tác giả mô tả nhiều vào sự phồn hoa, sang trọng, quyền quý của giới thượng lưu. Vừa hoa mỹ nhưng cũng vừa tả thực. Cảnh vật cũng được nhà văn chau chuốt, gọt giũa sao cho toát ra hết sự sang giả của giới quý tộc nhưng hóa kệch cỡm trước bi thương của đôi trẻ. Và tâm lý nhân vật chuyển biến liên tục, dồn dập vào những trường đoạn đấu tranh mạnh mẹ rồi như một nốt trầm, rơi tự do cuối câu chuyện trước cái chết của Stefcia.
Stefcia ra đi nhưng tình yêu còn mãi như Waldemar đã nói “Em sẽ vĩnh viễn còn lại giữa giới anh”. Dù bi thương nhưng Con hủi xứng đáng ở vị trí của một tiểu thuyết tuyệt vời chủ đề tình yêu, sống mãi trong tim người đọc dù đã hơn một thế kỷ trôi qua nhưng tiếng vang và bài học của tác phẩm còn nguyên giá trị. Tác phẩm vẫn đánh thức bao hoài vọng, khoa khát cao quý muốn sống và yêu hết mình, và kho cần- được hi sinh cho tình yêu đấy.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Con hủi – Helena Mniszek
By admin
Trước khi đọc “Con hủi”, tôi được nhồi sọ bởi khá nhiều chỉ trích có phần không tích cực hướng vào tác phẩm: Nào là tình tiết diễn biến chậm, lê thê; Nào là nội dung bi kịch, cái kết gây ức chế; Nào là đến tận bây giờ tác phẩm mới chỉ có các bản tiếng Ba Lan, tiếng Nga và tiếng Việt, với hàm ý nó không hề nổi tiếng ở phương Tây.
Ấy vậy mà chả hiểu vì sao, ngay khi cầm cuốn sách đỏ chót này trên tay, tôi lập tức bị thu hút và rung động nhẹ. Nói về tình tiết diễn biến chậm, tôi từng cùng mẹ mình theo dõi các bộ phim truyền hình Ấn Độ, nơi mà một cú quay đầu cũng diễn ra trong vài phút thì tôi thầm nghĩ chẳng còn diễn biến chậm nào có thể gây khó mình nữa.
Vấn đề rõ ràng không phải là xem cái gì, vấn đề là xem cùng ai mà. Đọc sách cũng vậy, với những tác phẩm tiết tấu chậm và cực chậm, vấn đề vốn không phải là đuổi theo các tình tiết nữa, vấn đề là thong dong thưởng thức câu từ.
Nói về cái kết gây ức chế thì quả thực, từ sau khi biết tới “Cuộc hành trình lên phương bắc” và CỰC KỲ, CỰC CỰC KỲ ỨC CHẾ với kết cuộc của nó, tôi đã quen với những kết cuộc gây ức chế cao.
Nói vậy thôi, kết cuộc ức chế có cái hay của nó. Nó không lấp đầy tâm hồn người đọc bằng sự thỏa mãn dễ dãi, mà nó khoét sâu vào đó một khoảng trống, đâm vào đó một cú trích nhẹ gây đau tê, và khiến người đọc không thể không tiếp tục suy ngẫm về tác phẩm ngay cả khi tác phẩm đã hoàn toàn đóng lại.
Kết cuộc gây ức chế giống như cuộc đời vậy. Với một số người cái chết là một dấu chấm hết phi lý và CỰC KỲ, CỰC CỰC KỲ ỨC CHẾ bởi nó dường như biến tất cả mọi ý nghĩa thành hư không. Có thực là như vậy? Trong tác phẩm “Bieguni, những người không ngừng chuyển động” có một câu tôi rất thích: “Mục tiêu của một cuộc hành trình là một cuộc hành trình khác”.
Nếu coi cuộc sống là một cuộc hành trình thì sau dấu chấm hết kia sẽ là một cuộc hành trình kỳ bí khác đang đợi. Hay như tác giả Nguyên Phong từng viết trong “Trở về từ cõi sáng” rằng: “Sau tất cả, với những kẻ có tâm linh sâu sắc, cái chết chỉ là một cuộc phiêu lưu vĩ đại khác mà thôi.”
Kết cuộc gây ức chế của “Con hủi” bởi vậy khiến tác phẩm được sống một cuộc đời mới, ở sâu trong tâm hồn bạn đọc vậy.
Đọc “Con hủi”, thưởng thức những câu văn đẹp long lanh, những rung cảm phập phồng dịu dàng như nắng hồng điểm tô cầu vồng lên giọt sương nhỏ đọng trên chiếc lá non trong buổi bình minh vàng cam vừa xua tan tan sương giá, tôi quên sạch mọi nhận xét, đánh giá từng được nghe về tác phẩm.
Tôi nhẩn nha bước nhẹ qua từng dòng văn, thưởng thức cái hạnh phúc được đắm mình trong hiện tại và quên hẳn dấu chấm hết phi lý có thể sẽ đợi mình ở trang cuối cùng.
Rốt cuộc thì khi bạn toàn tâm toàn ý hạnh phúc trong từng giây phút của thực tại thì sau dấu chấm hết cũng vẫn còn một cuộc phiêu lưu thú vị khác mà thôi.
Con hủi (tiếng Ba Lan: Trędowata) được viết năm 1909, là tác phẩm tiêu biểu và nổi tiếng nhất của nữ văn sĩ người Ba Lan Helena Mniszek (1878–1943). Trái với thái độ lạnh nhạt và hờ hững của các nhà phê bình, tiểu thuyết Con hủi lập tức trở thành một hiện tượng văn học làm náo động thị trường xuất bản, được tái bản liên tục hàng chục lần với số lượng kỉ lục thời gian đó, là tác phẩm văn học bán chạy nhất trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Sau đó tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và được chuyển thể thành 3 phim điện ảnh (các năm 1926, 1936, 1976) và một bộ phim truyền hình (năm 2000).
By admin
Trước khi đọc “Con hủi”, tôi được nhồi sọ bởi khá nhiều chỉ trích có phần không tích cực hướng vào tác phẩm: Nào là tình tiết diễn biến chậm, lê thê; Nào là nội dung bi kịch, cái kết gây ức chế; Nào là đến tận bây giờ tác phẩm mới chỉ có các bản tiếng Ba Lan, tiếng Nga và tiếng Việt, với hàm ý nó không hề nổi tiếng ở phương Tây.
Ấy vậy mà chả hiểu vì sao, ngay khi cầm cuốn sách đỏ chót này trên tay, tôi lập tức bị thu hút và rung động nhẹ. Nói về tình tiết diễn biến chậm, tôi từng cùng mẹ mình theo dõi các bộ phim truyền hình Ấn Độ, nơi mà một cú quay đầu cũng diễn ra trong vài phút thì tôi thầm nghĩ chẳng còn diễn biến chậm nào có thể gây khó mình nữa.
Vấn đề rõ ràng không phải là xem cái gì, vấn đề là xem cùng ai mà. Đọc sách cũng vậy, với những tác phẩm tiết tấu chậm và cực chậm, vấn đề vốn không phải là đuổi theo các tình tiết nữa, vấn đề là thong dong thưởng thức câu từ.
Nói về cái kết gây ức chế thì quả thực, từ sau khi biết tới “Cuộc hành trình lên phương bắc” và CỰC KỲ, CỰC CỰC KỲ ỨC CHẾ với kết cuộc của nó, tôi đã quen với những kết cuộc gây ức chế cao.
Nói vậy thôi, kết cuộc ức chế có cái hay của nó. Nó không lấp đầy tâm hồn người đọc bằng sự thỏa mãn dễ dãi, mà nó khoét sâu vào đó một khoảng trống, đâm vào đó một cú trích nhẹ gây đau tê, và khiến người đọc không thể không tiếp tục suy ngẫm về tác phẩm ngay cả khi tác phẩm đã hoàn toàn đóng lại.
Kết cuộc gây ức chế giống như cuộc đời vậy. Với một số người cái chết là một dấu chấm hết phi lý và CỰC KỲ, CỰC CỰC KỲ ỨC CHẾ bởi nó dường như biến tất cả mọi ý nghĩa thành hư không. Có thực là như vậy? Trong tác phẩm “Bieguni, những người không ngừng chuyển động” có một câu tôi rất thích: “Mục tiêu của một cuộc hành trình là một cuộc hành trình khác”.
Nếu coi cuộc sống là một cuộc hành trình thì sau dấu chấm hết kia sẽ là một cuộc hành trình kỳ bí khác đang đợi. Hay như tác giả Nguyên Phong từng viết trong “Trở về từ cõi sáng” rằng: “Sau tất cả, với những kẻ có tâm linh sâu sắc, cái chết chỉ là một cuộc phiêu lưu vĩ đại khác mà thôi.”
Kết cuộc gây ức chế của “Con hủi” bởi vậy khiến tác phẩm được sống một cuộc đời mới, ở sâu trong tâm hồn bạn đọc vậy.
Đọc “Con hủi”, thưởng thức những câu văn đẹp long lanh, những rung cảm phập phồng dịu dàng như nắng hồng điểm tô cầu vồng lên giọt sương nhỏ đọng trên chiếc lá non trong buổi bình minh vàng cam vừa xua tan tan sương giá, tôi quên sạch mọi nhận xét, đánh giá từng được nghe về tác phẩm.
Tôi nhẩn nha bước nhẹ qua từng dòng văn, thưởng thức cái hạnh phúc được đắm mình trong hiện tại và quên hẳn dấu chấm hết phi lý có thể sẽ đợi mình ở trang cuối cùng.
Rốt cuộc thì khi bạn toàn tâm toàn ý hạnh phúc trong từng giây phút của thực tại thì sau dấu chấm hết cũng vẫn còn một cuộc phiêu lưu thú vị khác mà thôi.
Con hủi (tiếng Ba Lan: Trędowata) được viết năm 1909, là tác phẩm tiêu biểu và nổi tiếng nhất của nữ văn sĩ người Ba Lan Helena Mniszek (1878–1943). Trái với thái độ lạnh nhạt và hờ hững của các nhà phê bình, tiểu thuyết Con hủi lập tức trở thành một hiện tượng văn học làm náo động thị trường xuất bản, được tái bản liên tục hàng chục lần với số lượng kỉ lục thời gian đó, là tác phẩm văn học bán chạy nhất trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Sau đó tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và được chuyển thể thành 3 phim điện ảnh (các năm 1926, 1936, 1976) và một bộ phim truyền hình (năm 2000).
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Siêu thị sách 86
Giới thiệu sách Con Hủi – Tác giả Helena Mniszek
Không có căn bệnh nào đáng sợ của nhân loại xuất hiện trong câu chuyện, cũng không có người nào mắc phải căn bệnh đó, Con Hủi là cái tên mà trong giới quý tộc gọi nàng, người con gái xinh đẹp, trong trắng như đóa huệ mang tên Stefcia.
Nàng có một chuyện tình thơ mộng, đắm say, trong sáng và vô cùng mãnh liệt nhưng lại bi thương đế nao lòng. Bởi người nàng yêu không ai khác chính là đại công tử của dòng họ quyền quý nhất cả nước – Waldemar Michorowski. Họ chống lại những ràng buộc của đẳng cấp quý tộc để đến được với nhau và bảo vệ hạnh phúc đã lựa chọn. Nhưng liệu họ có vượt qua những ra cản khó khăn và hà khắc của giới quý tộc?
1 Nếu nhìn cuốn sách này chỉ đơn thuần là tác phẩm tình yêu lãng mạn, thậm chí mang chất ngôn tình phảng phất thì quả thật là một điều đáng tiếc cho người đọc, bởi vì xưa nay, chẳng có một tác phẩm lớn nào mà không nói tới tình yêu, nhưng ngược lại, cũng chẳng có tác phẩm nào chỉ nói về tình yêu lại lớn được. Bên cạnh nội dung to lớn nhất về sự phá vỡ xích xiềng định kiến trong tư duy để vươn tới hạnh phúc chân thực, tác phẩm Con Hủi còn đề cập đến những đề tài quan trọng khác về sức mạnh ngôn từ, sự bình đẳng giữa người nam và người nữ trong tình yêu, sự tiến hóa của con người qua các vòng lặp định mệnh và xu hướng tìm kiếm tâm linh khi họ ở trong sự bất lực trước cái chết. Con Hủi có thể trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi về hậu quả có thể xảy ra cho một người khi họ rơi vào đoạn đường thử thách tương tự, đặc biệt trong tình yêu. Nó như một lời răn đe, một lời cảnh báo và cũng là lời động viên thuyết phục người đó vượt lên trên những yếu hèn và run rẩy của chính mình để chạm tay tới niềm hạnh phúc vẫn hằng khao khát. Tôi thử làm một phép so sánh nhỏ, khi đặt Con Hủi chung với những tác phẩm của Jane Austen hay Tiếng chim hót trong bụi mận gai, hay những tác phẩm của chị em nhà Bronte, thì phải nói rằng, Con Hủi mang một vẻ bình dân dễ chịu, và sự dễ chịu đó dễ đưa đến cảm thông hơn, dễ đi vào lòng người hơn. Câu chuyện tình đẹp này sẽ là kim chỉ nam với bất cứ ai muốn hiểu về tình yêu.
~
2 Mình đọc quyển này từ lâu lắm rồi và đã đọc rất nhiều lần. Thật sự lần nào đọc cũng thấy xúc động lắm, cảm giác mới mẻ như đọc lần đâu vậy. Có lẽ với nhiều bạn trẻ, nội dung chuyện cũ rích, mô típ cũ, sến xẩm… nhưng với mình thì đây là một cuốn sách thật sự rất hay, từ cách dẫn truyện đến cách miêu tả tâm lý nhân vật, tả cảnh, mọi thứ như hiện ra trước mặt mình, sống động như thật vậy.
~
3 Đây là câu chuyện tình yêu giữa chàng đại quý tộc và nàng tiểu thơ con điền chủ nhỏ. Nhưng tình yêu của họ không được sự chấp nhận cũng như ủng hộ từ phía giới quý tộc vì họ cho rằng đây là một cuộc hôn nhân không cùng đẳng cấp. Họ cho rằng chàng đại quý tộc Valdemar nên cưới những cô tiểu thư bá tước, công tước hay những nàng công chúa thì mới phù hợp với tước vị của mình và truyền thống gia đình, chứ không phải là Xtefchia-một tiểu thư điền chủ mới nổi. Hai người đấu tranh cho tình yêu của mình và kết quả ra sao, các bạn sẽ biết khi đọc đến chương cuối. Bài học từ truyện này là phê phán những cổ tục lạc hậu, lỗ thời, phân biệt giai cấp trong xã hội phong kiến Ba Lan xưa. Vì những điều đó mà rất nhiều người đã không thể sống trong hạnh phúc, họ chỉ chôn giấu cuộc đời vào niềm đau khổ vì không được sống với nửa kia của mình. Câu chuyện còn khuyến khích ta chiến đấu đến cùng cho tình yêu chính nghĩa của mình.
~
4 Một câu chuyện tình kết thúc bằng cái chết là bài ca muôn thuở trong văn chương. Nhưng để biến nó trở thành 1 kiệt tác đứng vững từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, hẳn chỉ có thể là “Con hủi”. Người ta thường ví “Con hủi” là “Romeo và Juliet” mới, nhưng tôi thì không cho là vậy. Bởi một bên tìm đến cái chết khi không đến được với nhau, còn một bên, Stefcia vẫn đấu tranh đến cùng và chỉ chết vì sự đầu độc, toan tính của lớp người hèn hạ đội lốt cao nhân. “Con hủi” là bi kịch, nhưng cái kết với hình ảnh bức tượng Stefcia đứng hiên ngang giữa giới quý tộc có lẽ lại là ẩn ý về chiến thắng mà Waldemar đã đấu tranh vì người con gái mà anh gọi là… “Em duy nhất của anh”.
~
5 Đến tận cuối cùng của cuốn sách, mọi thứ đều trở nên lặng lẽ. Thứ tình yêu của đại công tử mãnh liệt như vậy, lại kết thúc quá lặng lẽ. Đọc rồi, lại man mác cảm giác tiếc thương day dứt kì lạ. Mình không thực sự thích cách hành văn của tác giả, nên lúc đầu đọc có hơi nản nhưng càng về sau đọc càng lôi cuốn vì muốn biết kết thúc ra sao. Những câu văn tả cảnh đến nuột nà, đúng giọng điệu của cô gái Ba Lan. Cả tác phẩm mình ám ảnh nhất cách mà Đại công tử mỗi lần gọi Xtefchia “em duy nhất của anh”, từ “duy nhất” ấy cứ lặp đi lặp lại mãi, khiến người đọc cũng có thể thấm nhuần được tình yêu của ngài sâu sắc thế nào. Chàng muốn khẳng định rằng, trong xã hội ấy, trong giai cấp ấy, tình yêu của chàng vẫn sẽ kiên định như thế, chỉ có duy nhất một người trong trái tim. Chỉ tiếc rằng, không thể vượt qua nghịch cảnh, cô gái ấy không đủ dũng khi để đối mặt với chế độ to lớn ngoài kia. Một chuyện tình đẹp, một kết thúc buồn.
Giới thiệu sách Con Hủi – Tác giả Helena Mniszek
Không có căn bệnh nào đáng sợ của nhân loại xuất hiện trong câu chuyện, cũng không có người nào mắc phải căn bệnh đó, Con Hủi là cái tên mà trong giới quý tộc gọi nàng, người con gái xinh đẹp, trong trắng như đóa huệ mang tên Stefcia.
Nàng có một chuyện tình thơ mộng, đắm say, trong sáng và vô cùng mãnh liệt nhưng lại bi thương đế nao lòng. Bởi người nàng yêu không ai khác chính là đại công tử của dòng họ quyền quý nhất cả nước – Waldemar Michorowski. Họ chống lại những ràng buộc của đẳng cấp quý tộc để đến được với nhau và bảo vệ hạnh phúc đã lựa chọn. Nhưng liệu họ có vượt qua những ra cản khó khăn và hà khắc của giới quý tộc?
1 Nếu nhìn cuốn sách này chỉ đơn thuần là tác phẩm tình yêu lãng mạn, thậm chí mang chất ngôn tình phảng phất thì quả thật là một điều đáng tiếc cho người đọc, bởi vì xưa nay, chẳng có một tác phẩm lớn nào mà không nói tới tình yêu, nhưng ngược lại, cũng chẳng có tác phẩm nào chỉ nói về tình yêu lại lớn được. Bên cạnh nội dung to lớn nhất về sự phá vỡ xích xiềng định kiến trong tư duy để vươn tới hạnh phúc chân thực, tác phẩm Con Hủi còn đề cập đến những đề tài quan trọng khác về sức mạnh ngôn từ, sự bình đẳng giữa người nam và người nữ trong tình yêu, sự tiến hóa của con người qua các vòng lặp định mệnh và xu hướng tìm kiếm tâm linh khi họ ở trong sự bất lực trước cái chết. Con Hủi có thể trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi về hậu quả có thể xảy ra cho một người khi họ rơi vào đoạn đường thử thách tương tự, đặc biệt trong tình yêu. Nó như một lời răn đe, một lời cảnh báo và cũng là lời động viên thuyết phục người đó vượt lên trên những yếu hèn và run rẩy của chính mình để chạm tay tới niềm hạnh phúc vẫn hằng khao khát. Tôi thử làm một phép so sánh nhỏ, khi đặt Con Hủi chung với những tác phẩm của Jane Austen hay Tiếng chim hót trong bụi mận gai, hay những tác phẩm của chị em nhà Bronte, thì phải nói rằng, Con Hủi mang một vẻ bình dân dễ chịu, và sự dễ chịu đó dễ đưa đến cảm thông hơn, dễ đi vào lòng người hơn. Câu chuyện tình đẹp này sẽ là kim chỉ nam với bất cứ ai muốn hiểu về tình yêu.
~
2 Mình đọc quyển này từ lâu lắm rồi và đã đọc rất nhiều lần. Thật sự lần nào đọc cũng thấy xúc động lắm, cảm giác mới mẻ như đọc lần đâu vậy. Có lẽ với nhiều bạn trẻ, nội dung chuyện cũ rích, mô típ cũ, sến xẩm… nhưng với mình thì đây là một cuốn sách thật sự rất hay, từ cách dẫn truyện đến cách miêu tả tâm lý nhân vật, tả cảnh, mọi thứ như hiện ra trước mặt mình, sống động như thật vậy.
~
3 Đây là câu chuyện tình yêu giữa chàng đại quý tộc và nàng tiểu thơ con điền chủ nhỏ. Nhưng tình yêu của họ không được sự chấp nhận cũng như ủng hộ từ phía giới quý tộc vì họ cho rằng đây là một cuộc hôn nhân không cùng đẳng cấp. Họ cho rằng chàng đại quý tộc Valdemar nên cưới những cô tiểu thư bá tước, công tước hay những nàng công chúa thì mới phù hợp với tước vị của mình và truyền thống gia đình, chứ không phải là Xtefchia-một tiểu thư điền chủ mới nổi. Hai người đấu tranh cho tình yêu của mình và kết quả ra sao, các bạn sẽ biết khi đọc đến chương cuối. Bài học từ truyện này là phê phán những cổ tục lạc hậu, lỗ thời, phân biệt giai cấp trong xã hội phong kiến Ba Lan xưa. Vì những điều đó mà rất nhiều người đã không thể sống trong hạnh phúc, họ chỉ chôn giấu cuộc đời vào niềm đau khổ vì không được sống với nửa kia của mình. Câu chuyện còn khuyến khích ta chiến đấu đến cùng cho tình yêu chính nghĩa của mình.
~
4 Một câu chuyện tình kết thúc bằng cái chết là bài ca muôn thuở trong văn chương. Nhưng để biến nó trở thành 1 kiệt tác đứng vững từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, hẳn chỉ có thể là “Con hủi”. Người ta thường ví “Con hủi” là “Romeo và Juliet” mới, nhưng tôi thì không cho là vậy. Bởi một bên tìm đến cái chết khi không đến được với nhau, còn một bên, Stefcia vẫn đấu tranh đến cùng và chỉ chết vì sự đầu độc, toan tính của lớp người hèn hạ đội lốt cao nhân. “Con hủi” là bi kịch, nhưng cái kết với hình ảnh bức tượng Stefcia đứng hiên ngang giữa giới quý tộc có lẽ lại là ẩn ý về chiến thắng mà Waldemar đã đấu tranh vì người con gái mà anh gọi là… “Em duy nhất của anh”.
~
5 Đến tận cuối cùng của cuốn sách, mọi thứ đều trở nên lặng lẽ. Thứ tình yêu của đại công tử mãnh liệt như vậy, lại kết thúc quá lặng lẽ. Đọc rồi, lại man mác cảm giác tiếc thương day dứt kì lạ. Mình không thực sự thích cách hành văn của tác giả, nên lúc đầu đọc có hơi nản nhưng càng về sau đọc càng lôi cuốn vì muốn biết kết thúc ra sao. Những câu văn tả cảnh đến nuột nà, đúng giọng điệu của cô gái Ba Lan. Cả tác phẩm mình ám ảnh nhất cách mà Đại công tử mỗi lần gọi Xtefchia “em duy nhất của anh”, từ “duy nhất” ấy cứ lặp đi lặp lại mãi, khiến người đọc cũng có thể thấm nhuần được tình yêu của ngài sâu sắc thế nào. Chàng muốn khẳng định rằng, trong xã hội ấy, trong giai cấp ấy, tình yêu của chàng vẫn sẽ kiên định như thế, chỉ có duy nhất một người trong trái tim. Chỉ tiếc rằng, không thể vượt qua nghịch cảnh, cô gái ấy không đủ dũng khi để đối mặt với chế độ to lớn ngoài kia. Một chuyện tình đẹp, một kết thúc buồn.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
CON HỦI - Helena Mniszek
thuhiennguyen @ Ngáo @ - spiderum
Tình yêu đích thực là thứ không bao giờ có sự khác biệt. Dù là tuổi tác, nhan sắc, địa vị hay là đẳng cấp cũng chẳng thể ngăn cấm thứ tình cảm đẹp đẽ và mãnh liệt xuất phát từ trái tim của mỗi con người. Nhưng không phải cuộc đấu tranh chân chính nào cũng sẽ mang lại chiến thắng. Ngay cả những người trong cuộc cũng thật hiếm ai đủ dũng khí đấu tranh cho hạnh phúc của bản thân. Và khi ấy tình yêu trở thành thứ yếu, trở thành thứ bị từ bỏ để đánh đổi những sự yên bình cho bản thân. Nhưng có thực sự ai cũng có được yên bình?
Tình yêu luôn đến một cách tình cờ và bất ngờ. Khi con tim rạo rực ta biết đã tìm được nửa kia của mình. Đó không phải là những chớm nở của tình cảm mới lớn, càng không phải những sự bồng bột của tuổi trẻ. Nó là thứ tình cảm lớn lao và đẹp đẽ gắn liền với hành động và trách nhiệm. Tình cảm ấy đòi hỏi sự hi sinh, sê chia và đồng hành. Đấy là lúc ta thấy bản thân đã trưởng thành muốn bảo vệ cho người kia và muốn chăm sóc cho họ. Sự thay đổi ấy không nằm ở sự trưởng thành sinh lí bình thường mà là sự phát triển đặc biệt của tư tưởng và cảm xúc. Lúc này mọi sự cám dỗ, mọi thú vui đã không còn là gì so với thứ tình cảm đẹp đẽ ấy.
Chàng là đại công tử của một dòng dõi quý tộc bậc nhất cả nước. Chàng đã trải qua biết bao mối tình, biết bao sự vui thú của tuổi trẻ. Thế nhưng người con trai ấy lại đổ gục trước nàng. Nàng xinh đẹp và khác biệt. Nàng khéo léo, tinh tế và là con người giàu học thức. Nhưng nàng không thuộc giới của chàng – giới quý tộc. Nàng xuất thân từ một gia đình quý tộc nhỏ của một dòng họ ít ai biết đến. Chàng biết rõ khoảng cách giữa mình và nàng, nhưng có sao chứ vì với chàng, chàng biết mình yêu nàng và nàng cũng thế. Vậy là đủ!
Stefcia lại không kiên cường như thế. Nàng yêu chàng, nhưng vì thế nên nàng muốn chạy trốn. Nàng biết thân phận của mình sẽ khiến chàng phải phiền lòng. Nàng không muốn chẳng phải khó xử, phải đối đầu với những người thân yêu. Nàng không dám mơ đến hạnh phúc được bên cạnh chàng, sánh bước cùng chàng. Nàng biết cái xã hội thượng lưu ấy nghiệt ngã và khắc nghiệt biết bao. Nhưng lúc nàng muốn từ bỏ và chạy trốn chàng lại xuất hiện và khuấy động tâm hồn nàng. Nàng yêu chàng trai ấy và bị chinh phục bởi thứ tình cảm mãnh liệt của chàng. Tình cảm ấy hóa thành sự tin tưởng, dũng khí cho cô gái. Nàng tin chàng.
Waldemar biết hạnh phúc của chàng nằm ở đâu. Nó thuộc về người con gái trinh nguyên và đẹp đẽ ấy. Với chàng địa vị và tước hiệu chẳng có nghĩa lí gì với cuộc đời khao khát được hạnh phúc. Dòng họ của chàng chẳng tồn tại thứ gọi là tình yêu. Đó là bi kịch của ông bà nội của chàng, của cha mẹ chàng. Ông nội chàng đã phải sống quãng đời còn lại trong dằn vặt và đau khổ khi từ bỏ người ông yêu ngày xưa. Ông đã thất hứa, đã phản bội thứ tình cảm của chính mình để đầu hang trước sự đe dọa tước bỏ quyền thừa kế. Là tình yêu ông không đủ lớn hay vì quyền lực quá hấp dẫn khiến con người phải e sợ và khuất phục. Trớ trêu người phụ nữ năm ấy ông yêu lại chính là bà ngoại của nàng. Và bây giờ điều đó đã xảy ra một lần nữa!
Không yếu đuối và hèn nhát như ông nội mình, Waldemar biết chàng đang đấu tranh vì điều gì. Sẽ chẳng có nghĩa lí gì khi sống trong sự giàu sang và quyền lực mà không có hạnh phúc. Cũng bị đe dọa tước đi quyền thừa kế, chàng không hề run sợ mà còn đập tan những sức ép vớ vẩn ấy. Cụ Macieji- ông nội chàng- tự thấy thật xấu hổ trước đứa cháu của mình. Bây giờ cụ lại trở thành người có ảnh hưởng đến tình yêu của chàng. Lúc trước cụ là người chịu lấy những phán quyết của dòng tộc thì nay cụ lại thuộc dòng tộc phán quyết tình yêu của cháu mình. Cụ đớn đau như thấy mình của thời trai trẻ. Cụ chúc phúc cho tình yêu ấy là vì đó là một tình cảm đẹp nhưng cũng là vì điều bản thân ngày xưa chưa làm được. Vậy là Waldemar đã chiến thắng.
Chàng nắm tay nàng đi qua đường hầm đen tối của định kiến và những phong tục lỗi thời. Họ đã đấu tranh thành công cho tình yêu của họ. Họ sẽ kết hôn, sẽ là vợ chồng và sẽ có được hạnh phúc. Nhưng đau đớn thay chiến thắng vinh quang ấy đã khiến mũi giáo công kích chĩa vào Stefcia nặng nề hơn. Nàng nhận được những lá thư nặc danh với những sự khuyên giải đạo đức giả, những lời xúc phạm và những sự đe dọa. Nàng yếu ớt trước những sự tấn công ấy. Nàng chịu đựng mọi thứ một mình và ngày càng héo hon. Những đớn đau ấy quá lớn và chúng đã đánh gục được nàng. Stefcia bị bạo bệnh. Nàng ám ảnh cái tên người ta gọi nàng “Con hủi”! Nàng phát sốt và mê sảng. Những giây phút tỉnh táo ngắn ngủi chỉ là mấy câu nói ngắt quãng. Nàng biết Waldemar yêu nàng lắm, nhưng nàng sợ mình làm hại chàng. Waldemar cũng như bị đánh gục trước hoàn cảnh đau đớn này. Chàng sợ mình vuột mất nàng, vuột mất người chàng yêu, vuột mất hạnh phúc. Chàng rền rỉ cầu xin nàng “Em ơi thương anh với” và bất lực đứng nhìn nàng vật vã với bạo bệnh. Nhưng rồi nàng vẫn ra đi, vẫn để chàng ở lại. Nàng ra đi đúng ngày cưới của hai người. Chàng như người mất trí, chàng muốn tìm đến bên nàng. Chàng đã định tự sát. Nhưng rồi cụ Macieji đã ngăn được chàng. Cụ biết đây là quả báo cho lỗi lầm của cụ ngày xưa. Bi kịch vẫn xảy ra.
Chàng đã vượt qua được những trói buộc của gia tộc, nhưng đi ra khỏi đường hầm tăm tối ấy chàng nhận ra mình mất nàng rồi. Những con rắn độc kia vẫn tác động đến nàng, chúng làm nàng vỡ vụn dần và biến mất. Chàng thấy mình bất lực. Dù có thông thái và quyền lực đến đâu chàng cũng không thể bảo vệ nàng. Giờ thì nàng ở đâu, có bình yên không chàng cũng không thể biết. Ở đâu cũng tràn ngập hình bóng nàng. Hạnh phúc tưởng chừng đã rất gần lại biến mất trong phút giây. Cuộc đời giờ chẳng còn nghĩa lí trong đôi mắt của kẻ mất đi hạnh phúc, mất đi lí tưởng sống. Chàng đã đấu tranh đúng, đã chiến thắng rồi nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Vì sao? Vì chàng là đại quý tộc nên không có quyền yêu và hạnh phúc sao? Giới thượng lưu ấy không buông tha chàng. Cái tôi vô lí cùng những quy tắc ngớ ngẩn đã xích chàng lại, cách li chàng với hạnh phúc. Trong xã hội ấy tước hiệu và địa vị là tất cả, họ tự hào cho rằng mình có tất cả và đứng trên người khác. Cái suy nghĩ ấy đã đeo bám và ru ngủ biết bao con người, li tán họ với hạnh phúc. Chàng Waldemar là số ít những người dám vượt qua bức tường rào cản ấy, chàng đã có thành công, đã rất gần với đích đến. Tình yêu của chàng sẽ tồn tại mãi, được người ta ca ngợi và nhắc đến. Chàng đã đưa người con gái chàng yêu, vợ chưa cưới của chàng, hôn thê của chàng đến với thế giới thượng lưu của chàng. Đứng trước chân dung nàng, chàng thốt to lên thành tiếng: “Em sẽ vĩnh viễn còn lại giữa giới anh”. Tình yêu ấy thật vĩ đại và lớn lao.
Khép lại “Con hủi” có người cảm thấy đó chỉ là một tác phẩm buồn, nhưng với rất nhiều người thì tác phẩm đã nêu lên được rất đúng, rất sát vấn đề đẳng cấp và ràng buộc hạnh phúc con người. Nó không còn là một câu chuyện mà là sự thật ở đời và có rất nhiều mối tình cay đắng đã chứng minh. Thái tử Nepal đã bắn chết cả gia đình mình vì sự ngăn cấm và đe dọa tước quyền thừa kế của vua cha. Người chàng yêu là một cô gái có học thức, cũng là con gái của một gia đình danh giá ở Nepal. Hai người họ là một đôi trai tài gái sắc và có một câu chuyện tình lãng mạn. Thế nhưng tình yêu ấy không thể đưa họ đến cuối cùng hạnh phúc. Và kết thúc mối tình ấy là vụ thảm sát kinh hoàng. Thái tử không lâu sau cũng đã qua đời.
Mỗi người có một cách đấu tranh riêng cho tình yêu chân chính của mình. Sự đau khổ không bao giờ là sự chúc phúc tốt đẹp cho tình yêu. Chúng ta đứng ngoài cuộc nhưng cũng bị chính tình yêu của họ chinh phục và tác động. Chỉ có sinh tử mới có thể chia cắt được tình yêu, chia lìa được hạnh phúc. Không một ai có quyền tước đoạt hạnh phúc của người khác, không có thể lực nào cản bước được tình yêu nếu nó đủ vững mạnh.
thuhiennguyen @ Ngáo @ - spiderum
Tình yêu đích thực là thứ không bao giờ có sự khác biệt. Dù là tuổi tác, nhan sắc, địa vị hay là đẳng cấp cũng chẳng thể ngăn cấm thứ tình cảm đẹp đẽ và mãnh liệt xuất phát từ trái tim của mỗi con người. Nhưng không phải cuộc đấu tranh chân chính nào cũng sẽ mang lại chiến thắng. Ngay cả những người trong cuộc cũng thật hiếm ai đủ dũng khí đấu tranh cho hạnh phúc của bản thân. Và khi ấy tình yêu trở thành thứ yếu, trở thành thứ bị từ bỏ để đánh đổi những sự yên bình cho bản thân. Nhưng có thực sự ai cũng có được yên bình?
Tình yêu luôn đến một cách tình cờ và bất ngờ. Khi con tim rạo rực ta biết đã tìm được nửa kia của mình. Đó không phải là những chớm nở của tình cảm mới lớn, càng không phải những sự bồng bột của tuổi trẻ. Nó là thứ tình cảm lớn lao và đẹp đẽ gắn liền với hành động và trách nhiệm. Tình cảm ấy đòi hỏi sự hi sinh, sê chia và đồng hành. Đấy là lúc ta thấy bản thân đã trưởng thành muốn bảo vệ cho người kia và muốn chăm sóc cho họ. Sự thay đổi ấy không nằm ở sự trưởng thành sinh lí bình thường mà là sự phát triển đặc biệt của tư tưởng và cảm xúc. Lúc này mọi sự cám dỗ, mọi thú vui đã không còn là gì so với thứ tình cảm đẹp đẽ ấy.
Chàng là đại công tử của một dòng dõi quý tộc bậc nhất cả nước. Chàng đã trải qua biết bao mối tình, biết bao sự vui thú của tuổi trẻ. Thế nhưng người con trai ấy lại đổ gục trước nàng. Nàng xinh đẹp và khác biệt. Nàng khéo léo, tinh tế và là con người giàu học thức. Nhưng nàng không thuộc giới của chàng – giới quý tộc. Nàng xuất thân từ một gia đình quý tộc nhỏ của một dòng họ ít ai biết đến. Chàng biết rõ khoảng cách giữa mình và nàng, nhưng có sao chứ vì với chàng, chàng biết mình yêu nàng và nàng cũng thế. Vậy là đủ!
Stefcia lại không kiên cường như thế. Nàng yêu chàng, nhưng vì thế nên nàng muốn chạy trốn. Nàng biết thân phận của mình sẽ khiến chàng phải phiền lòng. Nàng không muốn chẳng phải khó xử, phải đối đầu với những người thân yêu. Nàng không dám mơ đến hạnh phúc được bên cạnh chàng, sánh bước cùng chàng. Nàng biết cái xã hội thượng lưu ấy nghiệt ngã và khắc nghiệt biết bao. Nhưng lúc nàng muốn từ bỏ và chạy trốn chàng lại xuất hiện và khuấy động tâm hồn nàng. Nàng yêu chàng trai ấy và bị chinh phục bởi thứ tình cảm mãnh liệt của chàng. Tình cảm ấy hóa thành sự tin tưởng, dũng khí cho cô gái. Nàng tin chàng.
Waldemar biết hạnh phúc của chàng nằm ở đâu. Nó thuộc về người con gái trinh nguyên và đẹp đẽ ấy. Với chàng địa vị và tước hiệu chẳng có nghĩa lí gì với cuộc đời khao khát được hạnh phúc. Dòng họ của chàng chẳng tồn tại thứ gọi là tình yêu. Đó là bi kịch của ông bà nội của chàng, của cha mẹ chàng. Ông nội chàng đã phải sống quãng đời còn lại trong dằn vặt và đau khổ khi từ bỏ người ông yêu ngày xưa. Ông đã thất hứa, đã phản bội thứ tình cảm của chính mình để đầu hang trước sự đe dọa tước bỏ quyền thừa kế. Là tình yêu ông không đủ lớn hay vì quyền lực quá hấp dẫn khiến con người phải e sợ và khuất phục. Trớ trêu người phụ nữ năm ấy ông yêu lại chính là bà ngoại của nàng. Và bây giờ điều đó đã xảy ra một lần nữa!
Không yếu đuối và hèn nhát như ông nội mình, Waldemar biết chàng đang đấu tranh vì điều gì. Sẽ chẳng có nghĩa lí gì khi sống trong sự giàu sang và quyền lực mà không có hạnh phúc. Cũng bị đe dọa tước đi quyền thừa kế, chàng không hề run sợ mà còn đập tan những sức ép vớ vẩn ấy. Cụ Macieji- ông nội chàng- tự thấy thật xấu hổ trước đứa cháu của mình. Bây giờ cụ lại trở thành người có ảnh hưởng đến tình yêu của chàng. Lúc trước cụ là người chịu lấy những phán quyết của dòng tộc thì nay cụ lại thuộc dòng tộc phán quyết tình yêu của cháu mình. Cụ đớn đau như thấy mình của thời trai trẻ. Cụ chúc phúc cho tình yêu ấy là vì đó là một tình cảm đẹp nhưng cũng là vì điều bản thân ngày xưa chưa làm được. Vậy là Waldemar đã chiến thắng.
Chàng nắm tay nàng đi qua đường hầm đen tối của định kiến và những phong tục lỗi thời. Họ đã đấu tranh thành công cho tình yêu của họ. Họ sẽ kết hôn, sẽ là vợ chồng và sẽ có được hạnh phúc. Nhưng đau đớn thay chiến thắng vinh quang ấy đã khiến mũi giáo công kích chĩa vào Stefcia nặng nề hơn. Nàng nhận được những lá thư nặc danh với những sự khuyên giải đạo đức giả, những lời xúc phạm và những sự đe dọa. Nàng yếu ớt trước những sự tấn công ấy. Nàng chịu đựng mọi thứ một mình và ngày càng héo hon. Những đớn đau ấy quá lớn và chúng đã đánh gục được nàng. Stefcia bị bạo bệnh. Nàng ám ảnh cái tên người ta gọi nàng “Con hủi”! Nàng phát sốt và mê sảng. Những giây phút tỉnh táo ngắn ngủi chỉ là mấy câu nói ngắt quãng. Nàng biết Waldemar yêu nàng lắm, nhưng nàng sợ mình làm hại chàng. Waldemar cũng như bị đánh gục trước hoàn cảnh đau đớn này. Chàng sợ mình vuột mất nàng, vuột mất người chàng yêu, vuột mất hạnh phúc. Chàng rền rỉ cầu xin nàng “Em ơi thương anh với” và bất lực đứng nhìn nàng vật vã với bạo bệnh. Nhưng rồi nàng vẫn ra đi, vẫn để chàng ở lại. Nàng ra đi đúng ngày cưới của hai người. Chàng như người mất trí, chàng muốn tìm đến bên nàng. Chàng đã định tự sát. Nhưng rồi cụ Macieji đã ngăn được chàng. Cụ biết đây là quả báo cho lỗi lầm của cụ ngày xưa. Bi kịch vẫn xảy ra.
Chàng đã vượt qua được những trói buộc của gia tộc, nhưng đi ra khỏi đường hầm tăm tối ấy chàng nhận ra mình mất nàng rồi. Những con rắn độc kia vẫn tác động đến nàng, chúng làm nàng vỡ vụn dần và biến mất. Chàng thấy mình bất lực. Dù có thông thái và quyền lực đến đâu chàng cũng không thể bảo vệ nàng. Giờ thì nàng ở đâu, có bình yên không chàng cũng không thể biết. Ở đâu cũng tràn ngập hình bóng nàng. Hạnh phúc tưởng chừng đã rất gần lại biến mất trong phút giây. Cuộc đời giờ chẳng còn nghĩa lí trong đôi mắt của kẻ mất đi hạnh phúc, mất đi lí tưởng sống. Chàng đã đấu tranh đúng, đã chiến thắng rồi nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Vì sao? Vì chàng là đại quý tộc nên không có quyền yêu và hạnh phúc sao? Giới thượng lưu ấy không buông tha chàng. Cái tôi vô lí cùng những quy tắc ngớ ngẩn đã xích chàng lại, cách li chàng với hạnh phúc. Trong xã hội ấy tước hiệu và địa vị là tất cả, họ tự hào cho rằng mình có tất cả và đứng trên người khác. Cái suy nghĩ ấy đã đeo bám và ru ngủ biết bao con người, li tán họ với hạnh phúc. Chàng Waldemar là số ít những người dám vượt qua bức tường rào cản ấy, chàng đã có thành công, đã rất gần với đích đến. Tình yêu của chàng sẽ tồn tại mãi, được người ta ca ngợi và nhắc đến. Chàng đã đưa người con gái chàng yêu, vợ chưa cưới của chàng, hôn thê của chàng đến với thế giới thượng lưu của chàng. Đứng trước chân dung nàng, chàng thốt to lên thành tiếng: “Em sẽ vĩnh viễn còn lại giữa giới anh”. Tình yêu ấy thật vĩ đại và lớn lao.
Khép lại “Con hủi” có người cảm thấy đó chỉ là một tác phẩm buồn, nhưng với rất nhiều người thì tác phẩm đã nêu lên được rất đúng, rất sát vấn đề đẳng cấp và ràng buộc hạnh phúc con người. Nó không còn là một câu chuyện mà là sự thật ở đời và có rất nhiều mối tình cay đắng đã chứng minh. Thái tử Nepal đã bắn chết cả gia đình mình vì sự ngăn cấm và đe dọa tước quyền thừa kế của vua cha. Người chàng yêu là một cô gái có học thức, cũng là con gái của một gia đình danh giá ở Nepal. Hai người họ là một đôi trai tài gái sắc và có một câu chuyện tình lãng mạn. Thế nhưng tình yêu ấy không thể đưa họ đến cuối cùng hạnh phúc. Và kết thúc mối tình ấy là vụ thảm sát kinh hoàng. Thái tử không lâu sau cũng đã qua đời.
Mỗi người có một cách đấu tranh riêng cho tình yêu chân chính của mình. Sự đau khổ không bao giờ là sự chúc phúc tốt đẹp cho tình yêu. Chúng ta đứng ngoài cuộc nhưng cũng bị chính tình yêu của họ chinh phục và tác động. Chỉ có sinh tử mới có thể chia cắt được tình yêu, chia lìa được hạnh phúc. Không một ai có quyền tước đoạt hạnh phúc của người khác, không có thể lực nào cản bước được tình yêu nếu nó đủ vững mạnh.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Review văn học kinh điển: Rebecca – Daphne du Maurier
Gặm Sách
_Câu chuyện về hai người phụ nữ, một đã chết và có tên, một còn sống nhưng lại không có được tên riêng của mình_
Sau Chị họ Rachel, đây là một tác phẩm miêu tả tâm lý cực kỳ xuất sắc của tác giả Daphne du Maurier. Cũng như Chị họ Rachel, tác phẩm này kể theo ngôi thứ nhất, lần này là dưới góc nhìn của một phụ nữ. Một cô gái đối với tôi là nhạt nhòa, và không thể có được cái tên riêng cho mình suốt hơn năm trăm trang tiểu thuyết.
Nữ chính, 21 tuổi, không nghề nghiệp, và vì thế đang làm công việc "bạn tâm giao" có nhận lương, hay nói dễ hiểu theo ngôn ngữ hiện đại, là một dạng "trợ lý" đi theo một phụ nữ già giàu có, tính tình cũng không dễ ưa. Trong một lần tình cờ, cô và bà chủ của mình ở cùng một khách sạn với nam chính – quý ông Maxim de Winter, người nổi danh chủ yếu vì dinh thự Manderley của mình. Nhờ cơ may bà chủ bị ốm liệt giường, cô có thời gian đi thăm thú khắp nơi cùng ngài de Winter, và trái tim non nớt của cô thiếu nữ đã rung động trước người đàn ông gấp đôi tuổi cô. Khi sắp phải cùng chủ rời đi, cô đau khổ nói lời chia tay với ông ta, và điều đó đã khiến ông ta đột ngột đưa ra quyết định sẽ cưới cô về làm vợ. Rành mạch, đơn giản, không một lời cầu hôn hay một đám cưới mỹ miều, chỉ ngắn gọn là, em muốn theo bà ta sang Mỹ hay theo anh về Manderley. Có lẽ, đây chính là dự cảm cho một tương lai không mấy sáng sủa của cô gái. Về đến Manderley, cô như lọt thỏm trong dinh thự, trong một thế giới khác, nơi cô cảm thấy mình quê mùa và không có học thức. Cô sợ sệt cả đám người hầu, sợ bọn họ đánh giá quần áo trên người cô, cách cư xử của cô, và sợ nhất chính là Rebecca. Rebecca, Rebecca, lúc nào cũng là Rebecca. Rebecca là người vợ trước đã qua đời của ngài de Winter. Rebecca ám ảnh cả dinh thự, ám ảnh cả cô. Cô nghĩ mọi người ngầm so sánh cô với Rebecca, và tự cô cũng làm điều đó. Rebecca xinh đẹp, giỏi thể thao, giỏi quản lý dinh thự, giỏi tổ chức tiệc tùng, lại quảng giao và được mọi người yêu quý. Cô chẳng có điều nào trong những điều đó. Càng ở tại Manderley lâu, cô càng khám phá ra những điều kỳ lạ ở đây, và đi đến tận cùng của sự thật chính là bí ẩn về cái chết của Rebecca một năm về trước.
So với Chị họ Rachel, tác phẩm này dài dòng hơn và vì thế cũng khó đọc hơn. Trong chị họ Rachel, tôi đồng cảm được với anh nam chính, và rất thích anh ta, còn quyển này, tôi chẳng yêu thích được ai trong dàn nhân vật chính. Cô nữ chính từ đầu chí cuối luôn mang thái độ tự ti, đến cuối cùng chỉ thoát ra được không phải vì chính cô mà bởi vì biết rằng "anh ấy không yêu Rebecca". Đến thế là cùng, giá trị của con người cô không lẽ chỉ phụ thuộc vào yếu tố là chồng mình có yêu mình hay không? Rebecca là người phụ nữ thông minh, giỏi giang, tự tin nhưng lại tàn nhẫn, ích kỷ và quỷ quyệt. Còn ngài de Winter kia, cũng tự mình gây ra bi kịch cho bản thân và cho cả hai người phụ nữ bên cạnh mình. Vì cái gọi là thanh danh, vì cái gọi là bảo vệ Manderley, ông ta chẳng thể quyết định dứt khoát, chìm sâu vào cuộc hôn nhân không tình yêu, và để tất cả kết thúc trong bi kịch. Điểm sáng nhất trong tác phẩm này có lẽ là anh chàng quản lý Frank kiêm bạn thân của ngài de Winter. Tôi thật sự thích anh nhân vật phụ này. Anh hết lòng vì bạn, vì dinh thự, đặt lợi ích của mình dưới lợi ích của ngài de Winter (không hiểu ngài đã làm gì mà xứng đáng có người bạn tốt đến thế này), lại còn hay khéo léo giúp đỡ cô nữ chính.
Đây là một tác phẩm mô tả tâm lý quá xuất sắc và đáng đọc. Tâm lý của nữ chính được khắc họa rõ nét, nỗi ám ảnh về Rebecca của cô có thể ngấm qua đến cả người đọc. Nói chung, trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, khi phụ thuộc vào đàn ông và biết nghe lời là phẩm chất tốt của một người vợ, thì mẫu người nổi loạn như Rebecca tất nhiên trở thành phản diện. Nhưng sâu xa trong đó, phải chăng mỗi người phụ nữ ở thời ấy, khi đọc cuốn tiểu thuyết này, lại thầm ủng hộ, và ngấm ngầm ước mong mình có phần nào đó như cô nàng Rebecca?
Gặm Sách
_Câu chuyện về hai người phụ nữ, một đã chết và có tên, một còn sống nhưng lại không có được tên riêng của mình_
Sau Chị họ Rachel, đây là một tác phẩm miêu tả tâm lý cực kỳ xuất sắc của tác giả Daphne du Maurier. Cũng như Chị họ Rachel, tác phẩm này kể theo ngôi thứ nhất, lần này là dưới góc nhìn của một phụ nữ. Một cô gái đối với tôi là nhạt nhòa, và không thể có được cái tên riêng cho mình suốt hơn năm trăm trang tiểu thuyết.
Nữ chính, 21 tuổi, không nghề nghiệp, và vì thế đang làm công việc "bạn tâm giao" có nhận lương, hay nói dễ hiểu theo ngôn ngữ hiện đại, là một dạng "trợ lý" đi theo một phụ nữ già giàu có, tính tình cũng không dễ ưa. Trong một lần tình cờ, cô và bà chủ của mình ở cùng một khách sạn với nam chính – quý ông Maxim de Winter, người nổi danh chủ yếu vì dinh thự Manderley của mình. Nhờ cơ may bà chủ bị ốm liệt giường, cô có thời gian đi thăm thú khắp nơi cùng ngài de Winter, và trái tim non nớt của cô thiếu nữ đã rung động trước người đàn ông gấp đôi tuổi cô. Khi sắp phải cùng chủ rời đi, cô đau khổ nói lời chia tay với ông ta, và điều đó đã khiến ông ta đột ngột đưa ra quyết định sẽ cưới cô về làm vợ. Rành mạch, đơn giản, không một lời cầu hôn hay một đám cưới mỹ miều, chỉ ngắn gọn là, em muốn theo bà ta sang Mỹ hay theo anh về Manderley. Có lẽ, đây chính là dự cảm cho một tương lai không mấy sáng sủa của cô gái. Về đến Manderley, cô như lọt thỏm trong dinh thự, trong một thế giới khác, nơi cô cảm thấy mình quê mùa và không có học thức. Cô sợ sệt cả đám người hầu, sợ bọn họ đánh giá quần áo trên người cô, cách cư xử của cô, và sợ nhất chính là Rebecca. Rebecca, Rebecca, lúc nào cũng là Rebecca. Rebecca là người vợ trước đã qua đời của ngài de Winter. Rebecca ám ảnh cả dinh thự, ám ảnh cả cô. Cô nghĩ mọi người ngầm so sánh cô với Rebecca, và tự cô cũng làm điều đó. Rebecca xinh đẹp, giỏi thể thao, giỏi quản lý dinh thự, giỏi tổ chức tiệc tùng, lại quảng giao và được mọi người yêu quý. Cô chẳng có điều nào trong những điều đó. Càng ở tại Manderley lâu, cô càng khám phá ra những điều kỳ lạ ở đây, và đi đến tận cùng của sự thật chính là bí ẩn về cái chết của Rebecca một năm về trước.
So với Chị họ Rachel, tác phẩm này dài dòng hơn và vì thế cũng khó đọc hơn. Trong chị họ Rachel, tôi đồng cảm được với anh nam chính, và rất thích anh ta, còn quyển này, tôi chẳng yêu thích được ai trong dàn nhân vật chính. Cô nữ chính từ đầu chí cuối luôn mang thái độ tự ti, đến cuối cùng chỉ thoát ra được không phải vì chính cô mà bởi vì biết rằng "anh ấy không yêu Rebecca". Đến thế là cùng, giá trị của con người cô không lẽ chỉ phụ thuộc vào yếu tố là chồng mình có yêu mình hay không? Rebecca là người phụ nữ thông minh, giỏi giang, tự tin nhưng lại tàn nhẫn, ích kỷ và quỷ quyệt. Còn ngài de Winter kia, cũng tự mình gây ra bi kịch cho bản thân và cho cả hai người phụ nữ bên cạnh mình. Vì cái gọi là thanh danh, vì cái gọi là bảo vệ Manderley, ông ta chẳng thể quyết định dứt khoát, chìm sâu vào cuộc hôn nhân không tình yêu, và để tất cả kết thúc trong bi kịch. Điểm sáng nhất trong tác phẩm này có lẽ là anh chàng quản lý Frank kiêm bạn thân của ngài de Winter. Tôi thật sự thích anh nhân vật phụ này. Anh hết lòng vì bạn, vì dinh thự, đặt lợi ích của mình dưới lợi ích của ngài de Winter (không hiểu ngài đã làm gì mà xứng đáng có người bạn tốt đến thế này), lại còn hay khéo léo giúp đỡ cô nữ chính.
Đây là một tác phẩm mô tả tâm lý quá xuất sắc và đáng đọc. Tâm lý của nữ chính được khắc họa rõ nét, nỗi ám ảnh về Rebecca của cô có thể ngấm qua đến cả người đọc. Nói chung, trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, khi phụ thuộc vào đàn ông và biết nghe lời là phẩm chất tốt của một người vợ, thì mẫu người nổi loạn như Rebecca tất nhiên trở thành phản diện. Nhưng sâu xa trong đó, phải chăng mỗi người phụ nữ ở thời ấy, khi đọc cuốn tiểu thuyết này, lại thầm ủng hộ, và ngấm ngầm ước mong mình có phần nào đó như cô nàng Rebecca?
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Chị họ Rachel – Daphne du Maurier
nptnha Nhã Nguyễn - spiderum
_"Không phải tôi tốt với chị". Tôi đáp. "Tôi chỉ muốn chị hạnh phúc thôi."_
Chị họ Rachel không phải một tiểu thuyết trinh thám, cũng không phải tiểu thuyết tình cảm li kỳ. Tiểu thuyết này là tổng hòa của cả hay thể loại đó, một thứ tổng hòa đã tạo nên một bi kịch tuyệt vời mà tôi không thể buông tay đến phút cuối cùng.
Anh chàng Philip mồ côi từ nhỏ, được nuôi dưỡng bởi người anh họ Ambrose trong điền trang rộng lớn, và vắng bóng phụ nữ. Ambrose không có ý định kết hôn, và dồn hết tình cảm của mình vào cậu bé Philip. Để đáp lại, Philip cũng xem Ambrose là cả thế giới, cậu yêu thương anh họ mình bằng thứ tình cảm của em đối với anh trai, của con đối với cha, một thứ tình cảm có vẻ hơi trẻ con và ích kỷ. Mọi chuyện tưởng chừng cứ thế êm đềm trôi qua, cho đến một ngày Ambrose sang Ý du lịch dưỡng bệnh, và gặp gỡ người chị họ xa của cả hai – Rachel. Ambrose yêu Rachel, và quyết định kết hôn với nàng, trong khi Philip, đáng lý ra phải vui với hạnh phúc của anh mình, thì trong lòng lại cảm thấy mâu thuẫn, như một đứa trẻ phải chia sẻ món đồ chơi yêu thích của nó với người khác. Hạnh phúc của Ambrose chẳng tày gang, từ những bức thư kể về cuộc sống hạnh phúc bên người vợ mới nay đã trở thành những bức thư thật đáng ngờ, Philip nhận ra sự thay đổi dần dần của anh mình. Dự cảm được sự chẳng lành, Philip quyết định sang Ý tìm anh, và chẳng kịp gặp được anh vì Ambrose đã đột ngột qua đời. Đau khổ như một con thú bị thương, như một đứa trẻ mất hết tất cả lẽ sống, Philip trở về điền trang, và thề sẽ trả thù cho Ambrose. Trong bức thư cuối cùng, Ambrose nói Rachel đã ra tay với anh. Vậy, Philip phải làm thế nào đây, khi Rachel quyết định sang Anh và đến cư ngụ tại điền trang của họ?
24 tuổi và chưa hề rung động trước phụ nữ, quyết định sẽ sống một cuộc đời chỉ chăm lo cho điền trang, Philip ban đầu chẳng hiểu nổi thứ tình cảm của mình dành cho Rachel là gì. Anh chỉ biết chị ta không như anh nghĩ. Anh chỉ biết con người anh tưởng tượng, căm ghét bấy lâu nay không hề tồn tại. Vẻ đẹp, sự nữ tính, những hành vi tưởng chừng nhỏ nhặt của Rachel dành cho Philip, tất cả đều mới mẻ, đều làm cho anh dần dần bị chinh phục. Anh phải làm sao đây, khi anh thích chị ở lại đây, thích làm chị vui, làm chị hạnh phúc, trong khi anh dần dần từng chút nhặt nhạnh được những lá thư, khám phá ra thứ gọi là "sự thật" ẩn sau cái chết của anh họ mình?
Mặc dù lối viết văn hơi dông dài, nhưng mình tuyệt nhiên không nhảy một đoạn nào, vì lời văn quá đẹp. Qua mô tả của tác giả, vùng nông thôn nước Anh hiện lên rõ nét như xem một cuốn phim. Và phải nói thêm, tác giả mô tả tâm lý nhân vật Philip quá tuyệt vời, và nhiều lúc cũng "ngôn tình" quá đỗi. Philip 24 tuổi như một đứa trẻ to xác hay ghen tị, trước tiên là ghen với Rachel, sau đó là ghen với Ambrose. Philip bỡ ngỡ trong tình yêu, với rung động đầu đời mà anh thậm chí còn không hiểu đó là gì, anh đối xử với Rachel bằng tất cả chân thành, sẵn sàng làm mọi thứ để làm hài lòng người mình yêu thích mà chẳng màng bản chất thứ tình cảm đó. Yêu thích Philip bao nhiêu, tôi căm ghét Rachel bấy nhiêu. Nói một cách dễ hiểu, từng hành động của cô ta đều có tính toán, những cái hôn phớt, những hành động nữ tính, giận dỗi dành cho Philip, vừa ngây thơ vừa quyến rũ, cô ta làm tất cả những điều tưởng như vô tình ấy để xoay anh chàng Philip như xoay dế. Nói như ngôn ngữ hiện đại, có vẻ cô ta hơi "trà xanh". Rốt cuộc, gấp sách lại rồi, Rachel có tội hay vô tội, điều đó là tùy độc giả quyết định. Đối với tôi, tôi sẽ phán Rachel có tội, không phải tội giết Ambrose, mà là tội giết chết trái tim Philip. Nói gì thì nói, bạn có thể thích Rachel hoặc không, còn tôi thì ghét cô ta vô cùng.
Ngoài ra, trong sách có một điểm nhỏ mà tôi hơi thắc mắc, không biết tác giả có nhầm lẫn hay không. Đó là đoạn Rachel nói Philip chiếm được ba phần tư trái tim Ambrose, còn cô ta chỉ chiếm được một phần ba tăm tối nhất. Đoạn này hơi sai về mặt toán học, nhưng với một tiểu thuyết đẹp đẽ thế này, có lẽ bỏ qua được.
nptnha Nhã Nguyễn - spiderum
_"Không phải tôi tốt với chị". Tôi đáp. "Tôi chỉ muốn chị hạnh phúc thôi."_
Chị họ Rachel không phải một tiểu thuyết trinh thám, cũng không phải tiểu thuyết tình cảm li kỳ. Tiểu thuyết này là tổng hòa của cả hay thể loại đó, một thứ tổng hòa đã tạo nên một bi kịch tuyệt vời mà tôi không thể buông tay đến phút cuối cùng.
Anh chàng Philip mồ côi từ nhỏ, được nuôi dưỡng bởi người anh họ Ambrose trong điền trang rộng lớn, và vắng bóng phụ nữ. Ambrose không có ý định kết hôn, và dồn hết tình cảm của mình vào cậu bé Philip. Để đáp lại, Philip cũng xem Ambrose là cả thế giới, cậu yêu thương anh họ mình bằng thứ tình cảm của em đối với anh trai, của con đối với cha, một thứ tình cảm có vẻ hơi trẻ con và ích kỷ. Mọi chuyện tưởng chừng cứ thế êm đềm trôi qua, cho đến một ngày Ambrose sang Ý du lịch dưỡng bệnh, và gặp gỡ người chị họ xa của cả hai – Rachel. Ambrose yêu Rachel, và quyết định kết hôn với nàng, trong khi Philip, đáng lý ra phải vui với hạnh phúc của anh mình, thì trong lòng lại cảm thấy mâu thuẫn, như một đứa trẻ phải chia sẻ món đồ chơi yêu thích của nó với người khác. Hạnh phúc của Ambrose chẳng tày gang, từ những bức thư kể về cuộc sống hạnh phúc bên người vợ mới nay đã trở thành những bức thư thật đáng ngờ, Philip nhận ra sự thay đổi dần dần của anh mình. Dự cảm được sự chẳng lành, Philip quyết định sang Ý tìm anh, và chẳng kịp gặp được anh vì Ambrose đã đột ngột qua đời. Đau khổ như một con thú bị thương, như một đứa trẻ mất hết tất cả lẽ sống, Philip trở về điền trang, và thề sẽ trả thù cho Ambrose. Trong bức thư cuối cùng, Ambrose nói Rachel đã ra tay với anh. Vậy, Philip phải làm thế nào đây, khi Rachel quyết định sang Anh và đến cư ngụ tại điền trang của họ?
24 tuổi và chưa hề rung động trước phụ nữ, quyết định sẽ sống một cuộc đời chỉ chăm lo cho điền trang, Philip ban đầu chẳng hiểu nổi thứ tình cảm của mình dành cho Rachel là gì. Anh chỉ biết chị ta không như anh nghĩ. Anh chỉ biết con người anh tưởng tượng, căm ghét bấy lâu nay không hề tồn tại. Vẻ đẹp, sự nữ tính, những hành vi tưởng chừng nhỏ nhặt của Rachel dành cho Philip, tất cả đều mới mẻ, đều làm cho anh dần dần bị chinh phục. Anh phải làm sao đây, khi anh thích chị ở lại đây, thích làm chị vui, làm chị hạnh phúc, trong khi anh dần dần từng chút nhặt nhạnh được những lá thư, khám phá ra thứ gọi là "sự thật" ẩn sau cái chết của anh họ mình?
Mặc dù lối viết văn hơi dông dài, nhưng mình tuyệt nhiên không nhảy một đoạn nào, vì lời văn quá đẹp. Qua mô tả của tác giả, vùng nông thôn nước Anh hiện lên rõ nét như xem một cuốn phim. Và phải nói thêm, tác giả mô tả tâm lý nhân vật Philip quá tuyệt vời, và nhiều lúc cũng "ngôn tình" quá đỗi. Philip 24 tuổi như một đứa trẻ to xác hay ghen tị, trước tiên là ghen với Rachel, sau đó là ghen với Ambrose. Philip bỡ ngỡ trong tình yêu, với rung động đầu đời mà anh thậm chí còn không hiểu đó là gì, anh đối xử với Rachel bằng tất cả chân thành, sẵn sàng làm mọi thứ để làm hài lòng người mình yêu thích mà chẳng màng bản chất thứ tình cảm đó. Yêu thích Philip bao nhiêu, tôi căm ghét Rachel bấy nhiêu. Nói một cách dễ hiểu, từng hành động của cô ta đều có tính toán, những cái hôn phớt, những hành động nữ tính, giận dỗi dành cho Philip, vừa ngây thơ vừa quyến rũ, cô ta làm tất cả những điều tưởng như vô tình ấy để xoay anh chàng Philip như xoay dế. Nói như ngôn ngữ hiện đại, có vẻ cô ta hơi "trà xanh". Rốt cuộc, gấp sách lại rồi, Rachel có tội hay vô tội, điều đó là tùy độc giả quyết định. Đối với tôi, tôi sẽ phán Rachel có tội, không phải tội giết Ambrose, mà là tội giết chết trái tim Philip. Nói gì thì nói, bạn có thể thích Rachel hoặc không, còn tôi thì ghét cô ta vô cùng.
Ngoài ra, trong sách có một điểm nhỏ mà tôi hơi thắc mắc, không biết tác giả có nhầm lẫn hay không. Đó là đoạn Rachel nói Philip chiếm được ba phần tư trái tim Ambrose, còn cô ta chỉ chiếm được một phần ba tăm tối nhất. Đoạn này hơi sai về mặt toán học, nhưng với một tiểu thuyết đẹp đẽ thế này, có lẽ bỏ qua được.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
hải ngọc's Weblog
Hieu...
Nhật ký đọc sách: “Một chỗ trong đời” và “Hồi ức thiếu nữ” (Annie Ernaux)
Những bóng ma mải miết tìm kiếm sự tồn tại - Sách hay
Phải thú nhận tôi đọc Annie Ernaux theo trào lưu. Chỉ khi bà được đồn đoán như một ứng cử viên tiềm năng nhất của giải Nobel văn chương năm nay, tôi mới chạm vào hai cuốn sách mỏng của bà đã được dịch sang tiếng Việt – “Một chỗ trong đời” (La Place) và “Hồi ức thiếu nữ” (Mémoire de Fille). Trong đó, cuốn đầu tiên – tác phẩm được giải Renaudot năm 1984 – đã nằm im trên kệ sách của tôi 5 năm rồi.
Annie Ernaux có phải là nhà văn làm tôi kinh ngạc, sững sờ về tầm vóc tư tưởng hay sự khai phá một thẩm mỹ mới, một lối viết tiểu thuyết như một lễ hội ngôn từ? Không. Nếu chiều mai, bà không phải là nhân vật thu hút sự chú ý của toàn bộ những người quan tâm đến văn chương trên thế giới, tôi không lấy làm thất vọng. Và nếu bà có được trao giải thưởng danh giá này, đối với tôi, đó trước hết là sự tôn vinh một giá trị mà tưởng như nếu nhắc đến thì dễ bị xem là sến súa: sự thành thực.
Đọc Ernaux, tôi có cảm giác văn chương là một cái gì đó rất gần gũi, viết là một hành động rất giản dị và thiết thân. Nhưng cũng là một việc đòi hỏi sự can đảm lớn khi người ta không được phép tự đánh lừa mình ở khoảnh khắc soi vào ký ức. “Một chỗ trong đời” là cuốn sách Ernaux dựng lại chân dung người cha của bà, mà qua đó, bà đối diện với quá khứ xuất thân, với những gì đã làm mối quan hệ của bà với gia đình mình có một khoảng cách mà bà cần thiết phải miêu tả (chứ không phải để biện minh, phân trần). Động cơ khiến bà cần phải viết một cuốn sách mà cha mình – một người đàn ông xuất thân từ tầng lớp lao động, cố gắng làm mọi việc để con gái mình được học hành tử tế, được vươn lên địa vị cao hơn, nhưng đồng thời ông lại luôn thấy cái thế giới, nơi con gái của ông thuộc về, là thế giới từng khinh miệt ông. Người cha ấy, trong cuốn “Hồi ức thiếu nữ”, có thể giữ tờ báo thông báo con ông thi đỗ thứ hai trong kỳ thi đại học nhưng rồi lại vẫn cứ có cảm giác giữa mình giữa mình và con gái là một hai mặt phẳng không có nhiều điểm giao cắt. Một lão Goriot ít ảo tưởng và nhiều mặc cảm, vừa cả đời làm lụng vì con gái, vừa muốn đẩy nó khỏi cuộc đời mình, vừa gia trưởng và vừa tự ti cùng lúc. Chẳng phải vô cớ đây lại là nhân vật trong một tác phẩm văn học được nhắc đến đầu tiên ở “Một chỗ trong đời”.
Động cơ để Ernaux viết “Một chỗ trong đời” chính là khoảnh khắc bà nhìn thấy cha mình lần cuối, lúc ông qua đời, trong hình hài trần trụi, cảm thấy mùi thối từ thi thể của ông vương vất trong tâm trí. Ở những trang cuối cuốn sách, Ernaux miêu tả những ngày cuối cùng của cha mình khi ông lâm bệnh nặng, toàn bộ trạng thái cơ thể không kiểm soát nổi nhưng vẫn người cha vẫn khăng khăng tự mình làm được mọi việc, không phiền đến con gái. Văn của Ernaux vốn rất lạnh, tiết chế cảm xúc y như Nguyễn Huy Thiệp trong “Tướng về hưu” nhưng khi bà viết: “Tôi đã dám thực sự nhìn ông”, tôi đã gai người. Bởi đấy là lúc tôi đã nghĩ mình cũng cần phải viết một cuốn sách nào đó về mình, về mối quan hệ giữa mình với người thân, của một đứa con gần như đã thuộc về một tầng lớp khác, không có nhiều chuyện để nói với những người trong gia đình mình vốn là những người xuất thân trong tầng lớp lao động. Đã bao lâu rồi, tôi đã không còn biết nói chuyện gì với cha mình và nhiều khi tự biện minh: bố mình giờ nghe khó rồi, có nói bố mình cũng không hiểu gì. Mà mình thì có gì để nói, chẳng nhẽ nói con vừa đọc một cuốn sách hay?
Ernaux là kiểu nhà văn lớn mà tôi thấy gần gũi với những trải nghiệm của mình, là nhà văn phát lộ cái khó của việc làm người hóa ra lại nằm trong những chuyện thường nhật nhỏ nhặt, dù người ta có đọc bao sách vở rồi cũng vô hiệu khi phải loay hoay, xoay sở để làm sao có thể hiểu được nhau. Nhưng bà cũng là một nhà văn không dễ đọc – tôi tin vậy, nhất là với những độc giả nam giới. Ernaux có thể không phải là nhà văn cho họ. Trong “Hồi ức thiếu nữ”, một tác phẩm mà Ernaux tự phân hóa mình ra để quan sát và phân tích chính mình, bà một lần nữa lại thắng nỗi sợ hãi khi đối diện với sự thật của bản thân, một người phụ nữ cận kể tuổi 80 sẽ nhìn lại và nghĩ gì về chính mình lúc còn là một cô gái 18 tuổi. Khoảng cách giữa “Một chỗ trong đời” và “Hồi ức thiếu nữ” là 32 năm và cuốn sách thứ hai này sẽ bổ sung nhiều bí mật mà “Một chỗ trong đời” bỏ ngỏ. Bởi đây là cuốn sách Ernaux lấy bà làm nhân vật trung tâm.
Một cô gái 18 tuổi, ý thức được hoàn cảnh xuất thân của mình, muốn nổi loạn để định vị chính mình bằng những trải nghiệm đầu tiên về tình dục, nơi cô gái rơi vào những trạng thái đầy băn khoăn về chính cơ thể của mình. Một cô gái đôi khi muốn làm phép thử đối với các khuôn phép xã hội bằng cách đồng lõa với bạn mình để ăn cắp. Một cô gái sẽ làm thế nào để thích ứng với một cái nghề nhiều tính khuôn mẫu bậc nhất – giáo viên? Câu chuyện về một người đàn bà một ngày muốn tìm lại tung tích người đàn ông đầu tiên mình có quan hệ tình dục… có thể sẽ không phải là một cốt truyện gợi nhiều hứng thú với nam giới (cũng như tôi chẳng thể nào nhớ có tác phẩm nào của nam giới mà nhân vật nam nhớ lại trải nghiệm tình dục đầu tiên của đời mình). Đó cũng không phải là một cốt truyện dễ được diễn giải ra thành những thông điệp nữ quyền lồ lộ. Đọc Ernaux, hay trước đó đọc Alice Munro, tôi tin rằng các nhà văn nữ thường không triết lý về nữ quyền để từ đó những nhà hoạt động, nhà tư tưởng nữ quyền vin vào đó biến thành các khẩu hiệu hành động. Họ, bằng khả năng ngôn ngữ của mình, làm người đọc cảm được những gì mà nếu thiếu văn chương, cùng lắm, người ta chỉ có thể biết. Họ cho thấy những ngóc ngách nội tâm sâu thẳm của người phụ nữ, những cảm giác tinh vi của cơ thể, những ám ảnh của ký ức có thể bị điều kiện hóa bởi xã hội, bởi văn hóa như thế nào. Những gì nằm ở sâu nhất là những gì quẫy đạp dữ dội nhất đối với xã hội.
Ernaux bảo bà biết ơn Simone de Beauvoir, cái tên được nhắc đến trong cả hai tiểu thuyết của bà được dịch sang tiếng Việt. Beauvoir là người làm cho phụ nữ nhận thấy người ta không sinh là đàn bà, người ta trở thành đàn bà và con đường trở thành ấy, mỗi cá nhân vừa chịu sự chi phối của những nhân tố văn hóa chính trị nhất định, lại vừa có thể hoàn toàn có thể giải cấu trúc những nhân tố ấy để tạo ra những khả thể đa dạng của việc trở thành đàn bà. Đọc Ernaux, các vấn đề về căn tính giới không trỗi lên thành một luận đề dễ nắm bắt nhưng sự tra vấn chính mình bằng một giọng điệu lạnh, nghiêm (nhưng không khắc nghiệt) khiến bà không rơi vào một thứ chủ nghĩa ái kỷ tự luyến (dù điều này cũng có sức hấp dẫn, như trường hợp Marguerite Duras).
Annie Ernaux – tôi không đặt cược bà cho giải Nobel Văn học ngày mai sẽ được trao. Nhưng cuộc gặp gỡ với bà làm tôi thật sự tin mình cũng có thể có một cuốn sách của mình. Có dám can đảm để thành thực không thôi?
Hieu...
Nhật ký đọc sách: “Một chỗ trong đời” và “Hồi ức thiếu nữ” (Annie Ernaux)
Những bóng ma mải miết tìm kiếm sự tồn tại - Sách hay
Phải thú nhận tôi đọc Annie Ernaux theo trào lưu. Chỉ khi bà được đồn đoán như một ứng cử viên tiềm năng nhất của giải Nobel văn chương năm nay, tôi mới chạm vào hai cuốn sách mỏng của bà đã được dịch sang tiếng Việt – “Một chỗ trong đời” (La Place) và “Hồi ức thiếu nữ” (Mémoire de Fille). Trong đó, cuốn đầu tiên – tác phẩm được giải Renaudot năm 1984 – đã nằm im trên kệ sách của tôi 5 năm rồi.
Annie Ernaux có phải là nhà văn làm tôi kinh ngạc, sững sờ về tầm vóc tư tưởng hay sự khai phá một thẩm mỹ mới, một lối viết tiểu thuyết như một lễ hội ngôn từ? Không. Nếu chiều mai, bà không phải là nhân vật thu hút sự chú ý của toàn bộ những người quan tâm đến văn chương trên thế giới, tôi không lấy làm thất vọng. Và nếu bà có được trao giải thưởng danh giá này, đối với tôi, đó trước hết là sự tôn vinh một giá trị mà tưởng như nếu nhắc đến thì dễ bị xem là sến súa: sự thành thực.
Đọc Ernaux, tôi có cảm giác văn chương là một cái gì đó rất gần gũi, viết là một hành động rất giản dị và thiết thân. Nhưng cũng là một việc đòi hỏi sự can đảm lớn khi người ta không được phép tự đánh lừa mình ở khoảnh khắc soi vào ký ức. “Một chỗ trong đời” là cuốn sách Ernaux dựng lại chân dung người cha của bà, mà qua đó, bà đối diện với quá khứ xuất thân, với những gì đã làm mối quan hệ của bà với gia đình mình có một khoảng cách mà bà cần thiết phải miêu tả (chứ không phải để biện minh, phân trần). Động cơ khiến bà cần phải viết một cuốn sách mà cha mình – một người đàn ông xuất thân từ tầng lớp lao động, cố gắng làm mọi việc để con gái mình được học hành tử tế, được vươn lên địa vị cao hơn, nhưng đồng thời ông lại luôn thấy cái thế giới, nơi con gái của ông thuộc về, là thế giới từng khinh miệt ông. Người cha ấy, trong cuốn “Hồi ức thiếu nữ”, có thể giữ tờ báo thông báo con ông thi đỗ thứ hai trong kỳ thi đại học nhưng rồi lại vẫn cứ có cảm giác giữa mình giữa mình và con gái là một hai mặt phẳng không có nhiều điểm giao cắt. Một lão Goriot ít ảo tưởng và nhiều mặc cảm, vừa cả đời làm lụng vì con gái, vừa muốn đẩy nó khỏi cuộc đời mình, vừa gia trưởng và vừa tự ti cùng lúc. Chẳng phải vô cớ đây lại là nhân vật trong một tác phẩm văn học được nhắc đến đầu tiên ở “Một chỗ trong đời”.
Động cơ để Ernaux viết “Một chỗ trong đời” chính là khoảnh khắc bà nhìn thấy cha mình lần cuối, lúc ông qua đời, trong hình hài trần trụi, cảm thấy mùi thối từ thi thể của ông vương vất trong tâm trí. Ở những trang cuối cuốn sách, Ernaux miêu tả những ngày cuối cùng của cha mình khi ông lâm bệnh nặng, toàn bộ trạng thái cơ thể không kiểm soát nổi nhưng vẫn người cha vẫn khăng khăng tự mình làm được mọi việc, không phiền đến con gái. Văn của Ernaux vốn rất lạnh, tiết chế cảm xúc y như Nguyễn Huy Thiệp trong “Tướng về hưu” nhưng khi bà viết: “Tôi đã dám thực sự nhìn ông”, tôi đã gai người. Bởi đấy là lúc tôi đã nghĩ mình cũng cần phải viết một cuốn sách nào đó về mình, về mối quan hệ giữa mình với người thân, của một đứa con gần như đã thuộc về một tầng lớp khác, không có nhiều chuyện để nói với những người trong gia đình mình vốn là những người xuất thân trong tầng lớp lao động. Đã bao lâu rồi, tôi đã không còn biết nói chuyện gì với cha mình và nhiều khi tự biện minh: bố mình giờ nghe khó rồi, có nói bố mình cũng không hiểu gì. Mà mình thì có gì để nói, chẳng nhẽ nói con vừa đọc một cuốn sách hay?
Ernaux là kiểu nhà văn lớn mà tôi thấy gần gũi với những trải nghiệm của mình, là nhà văn phát lộ cái khó của việc làm người hóa ra lại nằm trong những chuyện thường nhật nhỏ nhặt, dù người ta có đọc bao sách vở rồi cũng vô hiệu khi phải loay hoay, xoay sở để làm sao có thể hiểu được nhau. Nhưng bà cũng là một nhà văn không dễ đọc – tôi tin vậy, nhất là với những độc giả nam giới. Ernaux có thể không phải là nhà văn cho họ. Trong “Hồi ức thiếu nữ”, một tác phẩm mà Ernaux tự phân hóa mình ra để quan sát và phân tích chính mình, bà một lần nữa lại thắng nỗi sợ hãi khi đối diện với sự thật của bản thân, một người phụ nữ cận kể tuổi 80 sẽ nhìn lại và nghĩ gì về chính mình lúc còn là một cô gái 18 tuổi. Khoảng cách giữa “Một chỗ trong đời” và “Hồi ức thiếu nữ” là 32 năm và cuốn sách thứ hai này sẽ bổ sung nhiều bí mật mà “Một chỗ trong đời” bỏ ngỏ. Bởi đây là cuốn sách Ernaux lấy bà làm nhân vật trung tâm.
Một cô gái 18 tuổi, ý thức được hoàn cảnh xuất thân của mình, muốn nổi loạn để định vị chính mình bằng những trải nghiệm đầu tiên về tình dục, nơi cô gái rơi vào những trạng thái đầy băn khoăn về chính cơ thể của mình. Một cô gái đôi khi muốn làm phép thử đối với các khuôn phép xã hội bằng cách đồng lõa với bạn mình để ăn cắp. Một cô gái sẽ làm thế nào để thích ứng với một cái nghề nhiều tính khuôn mẫu bậc nhất – giáo viên? Câu chuyện về một người đàn bà một ngày muốn tìm lại tung tích người đàn ông đầu tiên mình có quan hệ tình dục… có thể sẽ không phải là một cốt truyện gợi nhiều hứng thú với nam giới (cũng như tôi chẳng thể nào nhớ có tác phẩm nào của nam giới mà nhân vật nam nhớ lại trải nghiệm tình dục đầu tiên của đời mình). Đó cũng không phải là một cốt truyện dễ được diễn giải ra thành những thông điệp nữ quyền lồ lộ. Đọc Ernaux, hay trước đó đọc Alice Munro, tôi tin rằng các nhà văn nữ thường không triết lý về nữ quyền để từ đó những nhà hoạt động, nhà tư tưởng nữ quyền vin vào đó biến thành các khẩu hiệu hành động. Họ, bằng khả năng ngôn ngữ của mình, làm người đọc cảm được những gì mà nếu thiếu văn chương, cùng lắm, người ta chỉ có thể biết. Họ cho thấy những ngóc ngách nội tâm sâu thẳm của người phụ nữ, những cảm giác tinh vi của cơ thể, những ám ảnh của ký ức có thể bị điều kiện hóa bởi xã hội, bởi văn hóa như thế nào. Những gì nằm ở sâu nhất là những gì quẫy đạp dữ dội nhất đối với xã hội.
Ernaux bảo bà biết ơn Simone de Beauvoir, cái tên được nhắc đến trong cả hai tiểu thuyết của bà được dịch sang tiếng Việt. Beauvoir là người làm cho phụ nữ nhận thấy người ta không sinh là đàn bà, người ta trở thành đàn bà và con đường trở thành ấy, mỗi cá nhân vừa chịu sự chi phối của những nhân tố văn hóa chính trị nhất định, lại vừa có thể hoàn toàn có thể giải cấu trúc những nhân tố ấy để tạo ra những khả thể đa dạng của việc trở thành đàn bà. Đọc Ernaux, các vấn đề về căn tính giới không trỗi lên thành một luận đề dễ nắm bắt nhưng sự tra vấn chính mình bằng một giọng điệu lạnh, nghiêm (nhưng không khắc nghiệt) khiến bà không rơi vào một thứ chủ nghĩa ái kỷ tự luyến (dù điều này cũng có sức hấp dẫn, như trường hợp Marguerite Duras).
Annie Ernaux – tôi không đặt cược bà cho giải Nobel Văn học ngày mai sẽ được trao. Nhưng cuộc gặp gỡ với bà làm tôi thật sự tin mình cũng có thể có một cuốn sách của mình. Có dám can đảm để thành thực không thôi?
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Hân Bùi
Hân Bùi@Viện Sách - Bookademy - spiderum
[Bookademy] Review Sách “Một Chỗ Trong Đời” - Annie Ernaux
Đó là câu chuyện về một người cha, xuất thân nông dân, từ nhỏ đã phải nghỉ học sớm để làm chân giúp việc cho trang trại trước khi đi nghĩa vụ quân sự. Chiến tranh kết thúc, ông làm công nhân ở nhà máy sợi tổng hợp, sau đó làm thợ lợp sửa mái nhà, tiếp đến chuyển sang làm công nhân ở nhà máy lọc dầu, đi tiếp tế cho làng và thậm chí là nhận lấp hố bom. Cuộc đời làm công của ông chỉ thật sự kết thúc khi hai vợ chồng mua lại được một quán cà phê kiêm cửa hàng tạp phẩm khiêm tốn trong khu phố. Lúc đó, ông không khỏi tự hào vì bấy giờ bản thân đã trở thành “ông chủ” và gây dựng được một địa vị nhất định, cho dù địa vị đó cũng chỉ “trên mức khốn cùng một chút”.
Người cha ấy, cật lực làm việc, điều chỉnh lời ăn tiếng nói của mình trước chốn đông người,.. làm tất cả những gì có thể để rũ bỏ chất nông dân cố hữu của mình, để được công nhận là đã “bước chân ra khỏi cuộc sống bần hàn thô kệch và bước vào thế giới của trí thức, tư sản.”
Tuy nhiên, thế giới trí thức, tư sản của Pháp không đơn giản là có tiền sẽ hòa nhập được. Ông có thể kiếm được nhiều tiền, học hỏi cách cầm dao nĩa tại bàn ăn, học cách phối đồ cho hợp nhãn… ông vẫn không thể hòa nhập được với thế giới ấy nếu ngôn ngữ ông dùng vẫn là của nông dân. Người cha ấy biết rõ điều đó. Bằng chứng là ông luôn từ chối sử dụng những từ ngữ không nằm trong vốn từ vựng của mình, ông tỏ ra cứng nhắc, rụt rè, không bao giờ dám đặt câu hỏi, ông lúc nào cũng ở trong nỗi ám ảnh, hoang mang, lo sợ những người xung quanh nhìn ra mình là kẻ quê mùa.
Nhưng cũng người cha ấy, cố hết sức cho cô con gái được ăn học tử tế để đặt chân được vào giới tiểu tư sản - điều ông luôn muốn mình làm được khi còn trẻ. Khi con ông được thế giới ấy đón chào, thì ngay lập tức một hố sâu “mang tính giai cấp, nhưng kỳ dị, không tên, như tình yêu bị ngăn cách” hình thành giữa hai cha con. Ngôn ngữ của họ dần dần trở nên khác biệt nhau, như thể không hòa nhập được. Nó hiện hữu rõ ràng và ảnh hưởng sâu sắc hơn bất cứ xung đột nào: “Trong các ký ức của tôi, tất cả những gì liên quan đến ngôn ngữ đều là nguyên nhân của sự oán hận, của những cuộc cãi vã đau lòng, còn hơn cả vấn đề tiền bạc.”
Cho đến khi “chúng tôi không còn gì để nói với nhau nữa.”
Tất nhiên, một người cha như thế không thể nào bày tỏ được tình yêu dành cho cô con gái của mình, cho dẫu là bằng lời, bằng ánh mắt trìu mến hay cử chỉ nâng niu, chiều chuộng. Tất cả những gì ông làm, là cho con gái mình mọi thứ tiện nghi mà mọi đứa trẻ bằng tuổi cô đều có; là nghiêm khắc mắng mỏ, bắt cô học hành tới nơi tới chốn; và cố không làm cô mất mặt trước bạn bè bởi xuất thân cơ cực của cha mình.
Đáp lại cách thể hiện tình yêu vụng về của người cha ấy, là một quyển sách mà cô con gái viết dành riêng cho ông, nhưng lại chẳng một lần đề cập đến tên ông, cũng chẳng một lần dùng những từ ngữ dịu dàng để diễn tả cảm xúc mà đáng lẽ ra một cô giáo, một người viết văn cần phải có khi kể về người cha mình hằng yêu kính.
…để thuật lại một cuộc đời chỉ mải lo việc cơm áo, tôi không có quyền vị nghệ thuật trước tiên, cũng không có quyền tìm cách tạo ra thứ gì đó “khiến người ta say mê” hay “gây xúc động”. Tôi sẽ tập hợp lại những lời nói, hành động, sở thích của cha tôi, những sự kiện nổi bật trong đời ông, tất cả các dấu hiệu khách quan về một cuộc đời mà tôi cũng đã từng chia sẻ.
Annie Ernaux truyền tải những mẩu chi tiết vụn vặt ấy một cách trung lập và công tâm nhất. Bà không bộc lộ quá nhiều thái độ cá nhân dành cho nhân vật, càng không cố lái cảm xúc cho người đọc. Họ sẽ chỉ dựa vào những tình tiết được cung cấp để tự đánh giá nhân vật theo trực giác của chính mình.
Không có chút thi vị nào của hồi ký, cũng chẳng có gì là châm biếm hài hước, lối viết nhạt nhẽo đến với tôi một cách tự nhiên, chính là lối viết tôi vẫn dùng ngày trước để biên thư cho bố mẹ, kể những tin tức chính.
Khi dùng giọng văn lạnh lùng như vậy, có lẽ Annie Ernaux đã chuẩn bị trước cho tình huống bản thân sẽ bị đánh giá là “vô tâm”, thậm chí là “bất hiếu”. Tuy nhiên, ngẫm kĩ sẽ thấy, đằng sau mỗi câu chữ tưởng chừng khô cứng kia là tất cả sự kính trọng và thương yêu mà bà biết rằng bao nhiêu bóng bẩy cũng không nói hết được. Hơn ai hết, Annie hiểu cha mình – người đàn ông chưa từng biết đến hai từ “lãng mạn” – sẽ phật ý nếu bà dùng sự hoa mỹ, kiểu cách để viết về ông. Và chính vì thế, bà dùng lối viết giản đơn gần như nhạt nhẽo này, với hi vọng một lần đủ sức dùng ngôn từ xoá bỏ khoảng cách giai cấp tồn tại bất biến giữa hai cha con, dẫu ông không còn trên đời nữa.
Thế mà, chính giọng văn lạnh lùng này khiến tôi không ít lần thấy tim mình nhói đau. Tôi nghĩ về cha mình, về những lần cha con chúng tôi tranh cãi vì bất đồng quan điểm. Không chỉ bởi khoảng cách thế hệ, mà còn là thứ mà Annie Ernaux gọi là “khoảng cách giai cấp”. Suốt phần đời làm lụng của mình, cha tôi chỉ dừng lại ở vị trí của một công nhân, không hơn không kém. Điều đó dẫn đến việc cha tôi luôn luôn nói chuyện bằng ngôn ngữ địa phương, đôi khi có phần thô thiển. Cha tôi không hiểu về những phát triển công nghệ; không nắm bắt được những câu chuyện mà tôi nói với bạn bè xung quanh các vấn đề chính trị, kinh tế hay tình hình xã hội; cha không hiểu sở thích về phim ảnh, âm nhạc, sách báo hay kể cả ăn uống của tôi; cha không hiểu những quyển sách giáo trình toàn tiếng Anh dày cộm mà lúc nào tôi cũng ôm theo bên mình,… Và cũng như người cha trong câu chuyện trên, cha tôi chưa một lần thể hiện tình yêu của mình, ngược lại, thường nổi cáu với tôi, la mắng tôi, nghiêm khắc với tôi.
Vì vậy, tôi chỉ biết cáu giận và ấm ức. Tôi ấu trĩ tự nhủ mình sau này lớn lên nhất định sẽ cao chạy xa bay. Mãi cho đến khi cầm quyển sách Một chỗ trong đời, tôi mới hiểu ra rằng, tất cả những gì cha tôi mong muốn, là đưa con mình thoát ra khỏi số kiếp khó nghèo vất vả mà cha đã phải gánh chịu gần như cả cuộc đời. Kể cả cái mơ ước “cao chạy xa bay” thuở ấy, cũng là do cha lặng thầm đánh đổi mồ hôi, xương máu để giúp tôi biến nó thành hiện thực. “Ông đã nuôi tôi khôn lớn để tôi tận hưởng một thứ xa xỉ mà bản thân ông không hề biết đến”.
Hoá ra, đằng sau sự thô lỗ ấy, đằng sau những dằn vặt, cay nghiệt ấy, vẫn là tình yêu, là niềm tự hào lớn lao mà cha dành cho con – cả cha tôi lẫn người cha trong quyển sách ấy – niềm tự hào rằng bản thân, dù có bần hàn và quê kệch, cũng đã dưỡng dục con gái mình thành công.
Tôi muốn thông qua bài viết này, gửi lời cảm ơn từ tận trái tim đến tất cả những người cha như thế - những người cha đã làm mọi cách, vượt qua nghèo đói, vượt qua bao vất vả, vượt qua mọi khó khăn, để dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con mình.
Nguồn: Trương Lê Thi Thi – nhanam.tumblr
~
Ẩn danh
Cuộc đời của người cha
"Một chỗ trong đời" là câu chuyện kể về một người làm cha có xuất thân là nông dân với một cuộc đời lam lũ đã trải qua nhiều công việc khác nhau trước khi hai vợ chồng ông mua lại được một quán cà phê kiêm một cửa hàng tạp hóa trong khu phố nhỏ. Chỉ riêng điều đó thôi cũng khiến ông không khỏi thổn thức và tự hào vì giờ đây bản thân đã không còn là kẻ làm mà đã trở thành một ông chủ, một người có địa vị trong xã hội thời bấy giờ. Đó cũng chính là tiền đề để ông quyết tâm nỗ lực giúp con gái của mình trở thành một tiểu tư sản - minh chứng cho tình yêu và sự thấu hiểu to lớn của ông.
~
Ẩn danh
Thái độ của người con gái với cha
"...Tôi không có quyền vị nghệ thuật trước tiên, cũng không có quyền tìm cách tạo ra thứ gì đó 'khiến người ta say mê' hay 'gây xúc động'. Tôi sẽ tập hợp lại những lời nói, hành động, sở thích của cha tôi, những sự kiện nổi bật trong đời ông, tất cả các dấu hiệu khách quan về một cuộc đời mà tôi cũng đã từng chia sẻ...". Những lời văn cô con gái viết về người cha của mình mang thái độ dửng dưng và thậm chí là có phần bất kính, bất hiếu đối với đấng sinh thành của mình. Mặc dù vậy, chính điều đó đã khiến người đọc chúng ta thêm xót xa về khoảng cách phân biệt giai cấp, về những lần cãi nhau và mối quan hệ đáng buồn giữa người cha và cô con gái. Nó đã tô đậm cho bức tranh tình cảm giữa cô và người cha của mình - một thành công mà tác giả đã đạt được.
Hân Bùi@Viện Sách - Bookademy - spiderum
[Bookademy] Review Sách “Một Chỗ Trong Đời” - Annie Ernaux
Đó là câu chuyện về một người cha, xuất thân nông dân, từ nhỏ đã phải nghỉ học sớm để làm chân giúp việc cho trang trại trước khi đi nghĩa vụ quân sự. Chiến tranh kết thúc, ông làm công nhân ở nhà máy sợi tổng hợp, sau đó làm thợ lợp sửa mái nhà, tiếp đến chuyển sang làm công nhân ở nhà máy lọc dầu, đi tiếp tế cho làng và thậm chí là nhận lấp hố bom. Cuộc đời làm công của ông chỉ thật sự kết thúc khi hai vợ chồng mua lại được một quán cà phê kiêm cửa hàng tạp phẩm khiêm tốn trong khu phố. Lúc đó, ông không khỏi tự hào vì bấy giờ bản thân đã trở thành “ông chủ” và gây dựng được một địa vị nhất định, cho dù địa vị đó cũng chỉ “trên mức khốn cùng một chút”.
Người cha ấy, cật lực làm việc, điều chỉnh lời ăn tiếng nói của mình trước chốn đông người,.. làm tất cả những gì có thể để rũ bỏ chất nông dân cố hữu của mình, để được công nhận là đã “bước chân ra khỏi cuộc sống bần hàn thô kệch và bước vào thế giới của trí thức, tư sản.”
Tuy nhiên, thế giới trí thức, tư sản của Pháp không đơn giản là có tiền sẽ hòa nhập được. Ông có thể kiếm được nhiều tiền, học hỏi cách cầm dao nĩa tại bàn ăn, học cách phối đồ cho hợp nhãn… ông vẫn không thể hòa nhập được với thế giới ấy nếu ngôn ngữ ông dùng vẫn là của nông dân. Người cha ấy biết rõ điều đó. Bằng chứng là ông luôn từ chối sử dụng những từ ngữ không nằm trong vốn từ vựng của mình, ông tỏ ra cứng nhắc, rụt rè, không bao giờ dám đặt câu hỏi, ông lúc nào cũng ở trong nỗi ám ảnh, hoang mang, lo sợ những người xung quanh nhìn ra mình là kẻ quê mùa.
Nhưng cũng người cha ấy, cố hết sức cho cô con gái được ăn học tử tế để đặt chân được vào giới tiểu tư sản - điều ông luôn muốn mình làm được khi còn trẻ. Khi con ông được thế giới ấy đón chào, thì ngay lập tức một hố sâu “mang tính giai cấp, nhưng kỳ dị, không tên, như tình yêu bị ngăn cách” hình thành giữa hai cha con. Ngôn ngữ của họ dần dần trở nên khác biệt nhau, như thể không hòa nhập được. Nó hiện hữu rõ ràng và ảnh hưởng sâu sắc hơn bất cứ xung đột nào: “Trong các ký ức của tôi, tất cả những gì liên quan đến ngôn ngữ đều là nguyên nhân của sự oán hận, của những cuộc cãi vã đau lòng, còn hơn cả vấn đề tiền bạc.”
Cho đến khi “chúng tôi không còn gì để nói với nhau nữa.”
Tất nhiên, một người cha như thế không thể nào bày tỏ được tình yêu dành cho cô con gái của mình, cho dẫu là bằng lời, bằng ánh mắt trìu mến hay cử chỉ nâng niu, chiều chuộng. Tất cả những gì ông làm, là cho con gái mình mọi thứ tiện nghi mà mọi đứa trẻ bằng tuổi cô đều có; là nghiêm khắc mắng mỏ, bắt cô học hành tới nơi tới chốn; và cố không làm cô mất mặt trước bạn bè bởi xuất thân cơ cực của cha mình.
Đáp lại cách thể hiện tình yêu vụng về của người cha ấy, là một quyển sách mà cô con gái viết dành riêng cho ông, nhưng lại chẳng một lần đề cập đến tên ông, cũng chẳng một lần dùng những từ ngữ dịu dàng để diễn tả cảm xúc mà đáng lẽ ra một cô giáo, một người viết văn cần phải có khi kể về người cha mình hằng yêu kính.
…để thuật lại một cuộc đời chỉ mải lo việc cơm áo, tôi không có quyền vị nghệ thuật trước tiên, cũng không có quyền tìm cách tạo ra thứ gì đó “khiến người ta say mê” hay “gây xúc động”. Tôi sẽ tập hợp lại những lời nói, hành động, sở thích của cha tôi, những sự kiện nổi bật trong đời ông, tất cả các dấu hiệu khách quan về một cuộc đời mà tôi cũng đã từng chia sẻ.
Annie Ernaux truyền tải những mẩu chi tiết vụn vặt ấy một cách trung lập và công tâm nhất. Bà không bộc lộ quá nhiều thái độ cá nhân dành cho nhân vật, càng không cố lái cảm xúc cho người đọc. Họ sẽ chỉ dựa vào những tình tiết được cung cấp để tự đánh giá nhân vật theo trực giác của chính mình.
Không có chút thi vị nào của hồi ký, cũng chẳng có gì là châm biếm hài hước, lối viết nhạt nhẽo đến với tôi một cách tự nhiên, chính là lối viết tôi vẫn dùng ngày trước để biên thư cho bố mẹ, kể những tin tức chính.
Khi dùng giọng văn lạnh lùng như vậy, có lẽ Annie Ernaux đã chuẩn bị trước cho tình huống bản thân sẽ bị đánh giá là “vô tâm”, thậm chí là “bất hiếu”. Tuy nhiên, ngẫm kĩ sẽ thấy, đằng sau mỗi câu chữ tưởng chừng khô cứng kia là tất cả sự kính trọng và thương yêu mà bà biết rằng bao nhiêu bóng bẩy cũng không nói hết được. Hơn ai hết, Annie hiểu cha mình – người đàn ông chưa từng biết đến hai từ “lãng mạn” – sẽ phật ý nếu bà dùng sự hoa mỹ, kiểu cách để viết về ông. Và chính vì thế, bà dùng lối viết giản đơn gần như nhạt nhẽo này, với hi vọng một lần đủ sức dùng ngôn từ xoá bỏ khoảng cách giai cấp tồn tại bất biến giữa hai cha con, dẫu ông không còn trên đời nữa.
Thế mà, chính giọng văn lạnh lùng này khiến tôi không ít lần thấy tim mình nhói đau. Tôi nghĩ về cha mình, về những lần cha con chúng tôi tranh cãi vì bất đồng quan điểm. Không chỉ bởi khoảng cách thế hệ, mà còn là thứ mà Annie Ernaux gọi là “khoảng cách giai cấp”. Suốt phần đời làm lụng của mình, cha tôi chỉ dừng lại ở vị trí của một công nhân, không hơn không kém. Điều đó dẫn đến việc cha tôi luôn luôn nói chuyện bằng ngôn ngữ địa phương, đôi khi có phần thô thiển. Cha tôi không hiểu về những phát triển công nghệ; không nắm bắt được những câu chuyện mà tôi nói với bạn bè xung quanh các vấn đề chính trị, kinh tế hay tình hình xã hội; cha không hiểu sở thích về phim ảnh, âm nhạc, sách báo hay kể cả ăn uống của tôi; cha không hiểu những quyển sách giáo trình toàn tiếng Anh dày cộm mà lúc nào tôi cũng ôm theo bên mình,… Và cũng như người cha trong câu chuyện trên, cha tôi chưa một lần thể hiện tình yêu của mình, ngược lại, thường nổi cáu với tôi, la mắng tôi, nghiêm khắc với tôi.
Vì vậy, tôi chỉ biết cáu giận và ấm ức. Tôi ấu trĩ tự nhủ mình sau này lớn lên nhất định sẽ cao chạy xa bay. Mãi cho đến khi cầm quyển sách Một chỗ trong đời, tôi mới hiểu ra rằng, tất cả những gì cha tôi mong muốn, là đưa con mình thoát ra khỏi số kiếp khó nghèo vất vả mà cha đã phải gánh chịu gần như cả cuộc đời. Kể cả cái mơ ước “cao chạy xa bay” thuở ấy, cũng là do cha lặng thầm đánh đổi mồ hôi, xương máu để giúp tôi biến nó thành hiện thực. “Ông đã nuôi tôi khôn lớn để tôi tận hưởng một thứ xa xỉ mà bản thân ông không hề biết đến”.
Hoá ra, đằng sau sự thô lỗ ấy, đằng sau những dằn vặt, cay nghiệt ấy, vẫn là tình yêu, là niềm tự hào lớn lao mà cha dành cho con – cả cha tôi lẫn người cha trong quyển sách ấy – niềm tự hào rằng bản thân, dù có bần hàn và quê kệch, cũng đã dưỡng dục con gái mình thành công.
Tôi muốn thông qua bài viết này, gửi lời cảm ơn từ tận trái tim đến tất cả những người cha như thế - những người cha đã làm mọi cách, vượt qua nghèo đói, vượt qua bao vất vả, vượt qua mọi khó khăn, để dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con mình.
Nguồn: Trương Lê Thi Thi – nhanam.tumblr
~
Ẩn danh
Cuộc đời của người cha
"Một chỗ trong đời" là câu chuyện kể về một người làm cha có xuất thân là nông dân với một cuộc đời lam lũ đã trải qua nhiều công việc khác nhau trước khi hai vợ chồng ông mua lại được một quán cà phê kiêm một cửa hàng tạp hóa trong khu phố nhỏ. Chỉ riêng điều đó thôi cũng khiến ông không khỏi thổn thức và tự hào vì giờ đây bản thân đã không còn là kẻ làm mà đã trở thành một ông chủ, một người có địa vị trong xã hội thời bấy giờ. Đó cũng chính là tiền đề để ông quyết tâm nỗ lực giúp con gái của mình trở thành một tiểu tư sản - minh chứng cho tình yêu và sự thấu hiểu to lớn của ông.
~
Ẩn danh
Thái độ của người con gái với cha
"...Tôi không có quyền vị nghệ thuật trước tiên, cũng không có quyền tìm cách tạo ra thứ gì đó 'khiến người ta say mê' hay 'gây xúc động'. Tôi sẽ tập hợp lại những lời nói, hành động, sở thích của cha tôi, những sự kiện nổi bật trong đời ông, tất cả các dấu hiệu khách quan về một cuộc đời mà tôi cũng đã từng chia sẻ...". Những lời văn cô con gái viết về người cha của mình mang thái độ dửng dưng và thậm chí là có phần bất kính, bất hiếu đối với đấng sinh thành của mình. Mặc dù vậy, chính điều đó đã khiến người đọc chúng ta thêm xót xa về khoảng cách phân biệt giai cấp, về những lần cãi nhau và mối quan hệ đáng buồn giữa người cha và cô con gái. Nó đã tô đậm cho bức tranh tình cảm giữa cô và người cha của mình - một thành công mà tác giả đã đạt được.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Điểm sách, “Một chỗ trong đời,” Đi tìm một chỗ trong đời
Chó Xám - blog.zzzreview
Của Annie Ernaux. Dịch bởi Nguyễn Thị Thúy An.
Xin chào mọi người, vì là màn trình diễn đầu tiên, cho phép tôi tự giới thiệu chút ít.
Tôi tên là Chó Xám.
Từ nay bài nào tôi viết thì mở ngoặc đóng ngoặc (Chó Xám). Xin hết.
Năm hết Tết đến, tôi quyết định chọn cuốn sách này để điểm. Một cuốn sách cực ít trang, từ ngữ không đánh đố, đọc tới đâu hiểu tới đó. Một cuốn sách từ khi bản dịch ra mắt, dù ít người để ý nhưng đã có rất nhiều lời đập phá, dịch nó để làm gì, có cái gì để đọc cơ chứ? Phần vì tên tác giả lạ hoắc. Phần khác nó lại là tự truyện, cũng lại không phải của một người nổi tiếng, lại được báo hiệu không nhiều bóc mẽ ghê gớm. Và tôi nghĩ rằng, nếu không phải vì bìa sách đèm đẹp ấy, nó cũng sẽ được xếp xó trong ngăn tủ và nhuộm màu thời gian thôi. Vì thế cho nên, sau đây tôi sẽ nói nhiều hơn một lí do tôi điểm cuốn này từa tựa như làm clip quảng cáo có mùi Tết cho Z, như dầu ăn, bánh kẹo nhan nhản trên truyền hình.
Annie Ernaux hiện là một tên tuổi khá nổi bật trên văn đàn đương đại Pháp. Bà thường rút tỉa một giai đoạn biến cố trong cuộc đời và viết thành tự truyện. Cuốn tự truyện đầu tay của bà, chính là cuốn “La Place”, được dịch ra tiếng Việt là “Một chỗ trong đời” (tôi khá thích cách dịch này) đã đạt giải thưởng Renaudot 1984, một giải thưởng lớn tại Pháp, chỉ xếp sau Goncourt. Và đây cũng chính là cuốn sách đầu tiên của bà ra mắt độc giả xứ ta. Bằng lối văn tối giản mọi thủ pháp nghệ thuật, kỹ thuật viết, cách sử dụng từ ngữ hoa hòe hoa sói, bà tự nhận tự truyện này được viết bằng lối viết nhạt nhẽo, cũng là lối viết bà vẫn dùng để biên thư cho bố mẹ. Ngôn ngữ, trong tự truyện này là một cách mau chóng và hữu hiệu để Ernaux xưng tội với chính bà.
Hai tháng sau khi nhận được tin mừng đã đỗ giáo viên biên chế, cô gái đối diện với cái chết của người cha. Khi tắm táp cho thi hài, cô mới hay đây là lần đầu tiên cô nhìn thấy thân thể không gì che đậy của ông. Quá trình quan sát sự biến dạng của xác chết, cộng với việc nhìn ngắm những đồ vật vẫn gắn liền với ông, cô cảm thấy một sự thôi thúc phải viết thứ gì đó về cha, về sự ra đi của ông như cú sút để cô được đặt nốt bàn chân còn lại vào thế giới tư sản. Tự truyện về quan hệ cha-con vốn mang khoảng cách của tính giai cấp, dồn nén rất nhiều mâu thuẫn? Không cần đọc cũng đoán được diễn tiến? Cứ cho là vậy đi. Nhưng tôi vẫn tin có những cuốn sách cần thiết phải xuất hiện ở đấy, như một sự chờ đợi. Ví dụ như, để làm nội dung cho quảng cáo Tết
mot cho trong doi.jpg
Sau Thế chiến thứ hai tại Pháp, hồi ức hiện ra nhang nhác giống cảnh chờ tàu trong “Hai đứa trẻ”: “Để thấy sự thiếu thốn của chúng tôi, đây là một hình ảnh: một hôm, trời đã tối, từ một quầy hàng nơi khung cửa sổ nhỏ, khung cửa sổ duy nhất trên phố được chiếu sáng, những chiếc kẹo màu hồng, hình ôvan, rắc đường trắng lấp lánh trong túi bóng kính. Muốn mua phải có tem phiếu”. Ở một thế giới hằn vện rất rõ sự khác biệt về tầng lớp, tự truyện này là sự mổ xẻ nỗi mặc cảm của một cô gái xuất thân không quá nghèo đói và thấp kém nhưng được nuôi dạy bởi ông bố bà mẹ có hoàn cảnh như thế. Sự lưng chừng giữa hai thế giới khiến cô không đủ tự tin để sống “tự nhiên” như các cô con gái gia đình tư sản. Cuốn tự truyện này là hỗn độn cảm xúc của một người vừa không thể phủ nhận niềm hạnh phúc của những gì trải qua ở tuổi thơ, lại lo âu liệu có phải thế là tha hóa?
“Proust đã say sưa ghi chép lại những lỗi mới sai và các từ cổ của bà hầu Francoise. Chỉ cái đẹp lôi cuốn ông bởi đây là người giúp việc của ông chứ không phải mẹ ông. Bản thân ông không bao giờ cảm nhận những đoản ngữ này có thể thốt ra từ miệng mình một cách bột phát.”
Người ta chỉ có thể khoan nhượng, hoặc thích thú với những thứ tầm thường khi họ ở một ngưỡng cao hơn. Xuyên suốt tự truyện này, Ernaux mô tả người cha của mình, một đời quần quật lao động tử tế để được thăng tiến về vị trí trong xã hội, từ nông dân đến công nhân, đến ông chủ một quán cà phê bán kèm tạp phẩm. Ông hăng hái nuôi lớn, đáp ứng cho con những nhu cầu tối thiếu và “hạnh phúc” theo định nghĩa của riêng ông. Cô con gái bước chân vào cánh cửa tư sản, tốt nghiệp trường Sư phạm, kết hôn với một ông chồng thượng lưu nhưng thờ ơ, rẻ rúng gia đình vợ. Ông vui mừng vì những sự kiện đó, mặc dù, ông thừa hiểu rằng, kể từ đây, ông sẽ vĩnh viễn mất đi “một chỗ” trong đời đứa con. Cũng để thấy rằng, kể cả khi ông nỗ lực rất nhiều để tìm được một vị trí cao hơn, thứ duy nhất ông không thể che giấu được, chính là ngôn ngữ cùng phong thái hằng ngày và nỗi ám ảnh, không biết người ta nghĩ gì về mình nhỉ? Nỗi mặc cảm ấy giày vò ông cả đời, cũng chính là thứ rào cản giữa hai cha con. Đứa con gái đến trường, giao thiệp với bè bạn và bắt đầu thấy lối nói và ứng xử của mình mọi dạo thật quê kệch. Người cha quanh quẩn trong quán xá, giao thiệp với những người ngang ngửa tầng lớp, thấy con mình đọc sách, nghe nhạc là chướng tai gai mắt. Ngay khi đã lớn, cô và cha vẫn chỉ nói với nhau những mẩu chuyện như khi còn bé. Về cơ bản, mối quan hệ không thể lớn dần theo thời gian. Cô thừa nhận cảm giác xa lạ với những gì liên quan, và người cha đã vô ích trong đời mình.
Mặc cảm. Trốn chạy. Sám hối. Còn gì khác không?
Thứ duy nhất cuốn hút tôi trong tự truyện này chính là câu hỏi: Khi một người thân yêu của chúng ta qua đời, ta sẽ nhớ, và đủ khả năng lưu giữ điều ta nhớ về họ đến bao giờ?
Câu trả lời của Ernaux, rất giản dị, điều bà sẽ nhớ là lối sử dụng ngôn ngữ của cha, là giọng nói của ông. Và bà không đủ tin tưởng mình sẽ nhớ được điều này lâu dài. Đó chính là lí do bà viết tự truyện, chọn cách in nghiêng những cụm từ, những câu nói made by ông bố. Đó là lối nói không ẩn dụ, không tí hài hước dí dỏm như kiểu bà chết mê ở bọn tư sản. Bà đã chọn lối viết này để biên thư cho cha mẹ như một cách giữ kết nối. Và chọn lối viết này để viết tự truyện, chứ không phải tiểu thuyết để nhớ về cha bằng sự đảm bảo độ bảo quản của trí nhớ.
Thế nên, giọng nói, vốn là thứ sẽ gây ấn tượng đầu tiên với người sống và cũng là thứ sẽ bám riết kể cả khi đã chết, chính là cách Ernaux giải mã những kiềm chế đau đớn của mình. Nghe quen quen? Tôi còn nhớ khi đọc “Thư chết” của Linda Le có đoạn này: “Trải qua năm tháng, cha tôi không còn hiện hữu bằng xương bằng thịt nữa, tôi không biết miêu tả đôi mắt, cái miệng, mái tóc và dáng đi của người thế nào nữa. Có nhìn những tấm hình, tôi cũng chỉ thấy một con ma khoác lên mình những lời nói. Những lời nói người gửi đến tôi bằng một thứ tiếng mà tôi đã gần quên hết, những lời ấy đang đầu độc đời tôi. Chúng nói lên sự phản bội của tôi, sự đào tẩu của tôi”. Về phần mình, Ernaux đã phải quay đầu để rượt theo lời nói, giọng nói của một người cô đã kiên quyết rũ bỏ để tiến thân vào thế giới mới. Tự truyện này chính là cuộc rượt tìm ấy, bằng sự hồi nhớ lịch sử đời mình, để cảm thông cho người cha, để nhận thấy mình đã tiến rất xa, và bây giờ muốn về ăn Tết với cha thì cũng đã không thể? Tất nhiên là không phải chuyện ăn Tết, cũng không phải chuyện cha ơi con biết con sai rồi. Tự truyện này, là một thử nghiệm bước đầu để Ernaux tiến hành nhiều cuộc viết tự truyện sau đó, bằng việc đối diện với khả năng khai thác sự thật từ độ lưu giữ những lời nói như vết hằn không thể né tránh của đời mình.
Chó Xám - blog.zzzreview
Của Annie Ernaux. Dịch bởi Nguyễn Thị Thúy An.
Xin chào mọi người, vì là màn trình diễn đầu tiên, cho phép tôi tự giới thiệu chút ít.
Tôi tên là Chó Xám.
Từ nay bài nào tôi viết thì mở ngoặc đóng ngoặc (Chó Xám). Xin hết.
Năm hết Tết đến, tôi quyết định chọn cuốn sách này để điểm. Một cuốn sách cực ít trang, từ ngữ không đánh đố, đọc tới đâu hiểu tới đó. Một cuốn sách từ khi bản dịch ra mắt, dù ít người để ý nhưng đã có rất nhiều lời đập phá, dịch nó để làm gì, có cái gì để đọc cơ chứ? Phần vì tên tác giả lạ hoắc. Phần khác nó lại là tự truyện, cũng lại không phải của một người nổi tiếng, lại được báo hiệu không nhiều bóc mẽ ghê gớm. Và tôi nghĩ rằng, nếu không phải vì bìa sách đèm đẹp ấy, nó cũng sẽ được xếp xó trong ngăn tủ và nhuộm màu thời gian thôi. Vì thế cho nên, sau đây tôi sẽ nói nhiều hơn một lí do tôi điểm cuốn này từa tựa như làm clip quảng cáo có mùi Tết cho Z, như dầu ăn, bánh kẹo nhan nhản trên truyền hình.
Annie Ernaux hiện là một tên tuổi khá nổi bật trên văn đàn đương đại Pháp. Bà thường rút tỉa một giai đoạn biến cố trong cuộc đời và viết thành tự truyện. Cuốn tự truyện đầu tay của bà, chính là cuốn “La Place”, được dịch ra tiếng Việt là “Một chỗ trong đời” (tôi khá thích cách dịch này) đã đạt giải thưởng Renaudot 1984, một giải thưởng lớn tại Pháp, chỉ xếp sau Goncourt. Và đây cũng chính là cuốn sách đầu tiên của bà ra mắt độc giả xứ ta. Bằng lối văn tối giản mọi thủ pháp nghệ thuật, kỹ thuật viết, cách sử dụng từ ngữ hoa hòe hoa sói, bà tự nhận tự truyện này được viết bằng lối viết nhạt nhẽo, cũng là lối viết bà vẫn dùng để biên thư cho bố mẹ. Ngôn ngữ, trong tự truyện này là một cách mau chóng và hữu hiệu để Ernaux xưng tội với chính bà.
Hai tháng sau khi nhận được tin mừng đã đỗ giáo viên biên chế, cô gái đối diện với cái chết của người cha. Khi tắm táp cho thi hài, cô mới hay đây là lần đầu tiên cô nhìn thấy thân thể không gì che đậy của ông. Quá trình quan sát sự biến dạng của xác chết, cộng với việc nhìn ngắm những đồ vật vẫn gắn liền với ông, cô cảm thấy một sự thôi thúc phải viết thứ gì đó về cha, về sự ra đi của ông như cú sút để cô được đặt nốt bàn chân còn lại vào thế giới tư sản. Tự truyện về quan hệ cha-con vốn mang khoảng cách của tính giai cấp, dồn nén rất nhiều mâu thuẫn? Không cần đọc cũng đoán được diễn tiến? Cứ cho là vậy đi. Nhưng tôi vẫn tin có những cuốn sách cần thiết phải xuất hiện ở đấy, như một sự chờ đợi. Ví dụ như, để làm nội dung cho quảng cáo Tết
mot cho trong doi.jpg
Sau Thế chiến thứ hai tại Pháp, hồi ức hiện ra nhang nhác giống cảnh chờ tàu trong “Hai đứa trẻ”: “Để thấy sự thiếu thốn của chúng tôi, đây là một hình ảnh: một hôm, trời đã tối, từ một quầy hàng nơi khung cửa sổ nhỏ, khung cửa sổ duy nhất trên phố được chiếu sáng, những chiếc kẹo màu hồng, hình ôvan, rắc đường trắng lấp lánh trong túi bóng kính. Muốn mua phải có tem phiếu”. Ở một thế giới hằn vện rất rõ sự khác biệt về tầng lớp, tự truyện này là sự mổ xẻ nỗi mặc cảm của một cô gái xuất thân không quá nghèo đói và thấp kém nhưng được nuôi dạy bởi ông bố bà mẹ có hoàn cảnh như thế. Sự lưng chừng giữa hai thế giới khiến cô không đủ tự tin để sống “tự nhiên” như các cô con gái gia đình tư sản. Cuốn tự truyện này là hỗn độn cảm xúc của một người vừa không thể phủ nhận niềm hạnh phúc của những gì trải qua ở tuổi thơ, lại lo âu liệu có phải thế là tha hóa?
“Proust đã say sưa ghi chép lại những lỗi mới sai và các từ cổ của bà hầu Francoise. Chỉ cái đẹp lôi cuốn ông bởi đây là người giúp việc của ông chứ không phải mẹ ông. Bản thân ông không bao giờ cảm nhận những đoản ngữ này có thể thốt ra từ miệng mình một cách bột phát.”
Người ta chỉ có thể khoan nhượng, hoặc thích thú với những thứ tầm thường khi họ ở một ngưỡng cao hơn. Xuyên suốt tự truyện này, Ernaux mô tả người cha của mình, một đời quần quật lao động tử tế để được thăng tiến về vị trí trong xã hội, từ nông dân đến công nhân, đến ông chủ một quán cà phê bán kèm tạp phẩm. Ông hăng hái nuôi lớn, đáp ứng cho con những nhu cầu tối thiếu và “hạnh phúc” theo định nghĩa của riêng ông. Cô con gái bước chân vào cánh cửa tư sản, tốt nghiệp trường Sư phạm, kết hôn với một ông chồng thượng lưu nhưng thờ ơ, rẻ rúng gia đình vợ. Ông vui mừng vì những sự kiện đó, mặc dù, ông thừa hiểu rằng, kể từ đây, ông sẽ vĩnh viễn mất đi “một chỗ” trong đời đứa con. Cũng để thấy rằng, kể cả khi ông nỗ lực rất nhiều để tìm được một vị trí cao hơn, thứ duy nhất ông không thể che giấu được, chính là ngôn ngữ cùng phong thái hằng ngày và nỗi ám ảnh, không biết người ta nghĩ gì về mình nhỉ? Nỗi mặc cảm ấy giày vò ông cả đời, cũng chính là thứ rào cản giữa hai cha con. Đứa con gái đến trường, giao thiệp với bè bạn và bắt đầu thấy lối nói và ứng xử của mình mọi dạo thật quê kệch. Người cha quanh quẩn trong quán xá, giao thiệp với những người ngang ngửa tầng lớp, thấy con mình đọc sách, nghe nhạc là chướng tai gai mắt. Ngay khi đã lớn, cô và cha vẫn chỉ nói với nhau những mẩu chuyện như khi còn bé. Về cơ bản, mối quan hệ không thể lớn dần theo thời gian. Cô thừa nhận cảm giác xa lạ với những gì liên quan, và người cha đã vô ích trong đời mình.
Mặc cảm. Trốn chạy. Sám hối. Còn gì khác không?
Thứ duy nhất cuốn hút tôi trong tự truyện này chính là câu hỏi: Khi một người thân yêu của chúng ta qua đời, ta sẽ nhớ, và đủ khả năng lưu giữ điều ta nhớ về họ đến bao giờ?
Câu trả lời của Ernaux, rất giản dị, điều bà sẽ nhớ là lối sử dụng ngôn ngữ của cha, là giọng nói của ông. Và bà không đủ tin tưởng mình sẽ nhớ được điều này lâu dài. Đó chính là lí do bà viết tự truyện, chọn cách in nghiêng những cụm từ, những câu nói made by ông bố. Đó là lối nói không ẩn dụ, không tí hài hước dí dỏm như kiểu bà chết mê ở bọn tư sản. Bà đã chọn lối viết này để biên thư cho cha mẹ như một cách giữ kết nối. Và chọn lối viết này để viết tự truyện, chứ không phải tiểu thuyết để nhớ về cha bằng sự đảm bảo độ bảo quản của trí nhớ.
Thế nên, giọng nói, vốn là thứ sẽ gây ấn tượng đầu tiên với người sống và cũng là thứ sẽ bám riết kể cả khi đã chết, chính là cách Ernaux giải mã những kiềm chế đau đớn của mình. Nghe quen quen? Tôi còn nhớ khi đọc “Thư chết” của Linda Le có đoạn này: “Trải qua năm tháng, cha tôi không còn hiện hữu bằng xương bằng thịt nữa, tôi không biết miêu tả đôi mắt, cái miệng, mái tóc và dáng đi của người thế nào nữa. Có nhìn những tấm hình, tôi cũng chỉ thấy một con ma khoác lên mình những lời nói. Những lời nói người gửi đến tôi bằng một thứ tiếng mà tôi đã gần quên hết, những lời ấy đang đầu độc đời tôi. Chúng nói lên sự phản bội của tôi, sự đào tẩu của tôi”. Về phần mình, Ernaux đã phải quay đầu để rượt theo lời nói, giọng nói của một người cô đã kiên quyết rũ bỏ để tiến thân vào thế giới mới. Tự truyện này chính là cuộc rượt tìm ấy, bằng sự hồi nhớ lịch sử đời mình, để cảm thông cho người cha, để nhận thấy mình đã tiến rất xa, và bây giờ muốn về ăn Tết với cha thì cũng đã không thể? Tất nhiên là không phải chuyện ăn Tết, cũng không phải chuyện cha ơi con biết con sai rồi. Tự truyện này, là một thử nghiệm bước đầu để Ernaux tiến hành nhiều cuộc viết tự truyện sau đó, bằng việc đối diện với khả năng khai thác sự thật từ độ lưu giữ những lời nói như vết hằn không thể né tránh của đời mình.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Sách Nhã Nam
Đọc thử: Hồi ức thiếu nữ (Annie Ernaux)
Như Annie Ernaux từng chia sẻ trong một bài trả lời phỏng vấn với Gallimard, Hồi ức thiếu nữ không phải là tác phẩm mấu chốt trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của bà, mà có lẽ là mấu chốt của những gì khiến người ta phải sợ hãi khi đặt bút viết ra, mà người ta không ngừng thấy rằng thật sự là quá khó và quá nguy hiểm khi đưa chúng lên trang giấy. Bà chủ yếu nhìn nhận những gì mình đã viết như một nỗ lực tìm kiếm và “khai quật” từ quá khứ người thiếu nữ thuở mười tám đôi mươi mà bà từng là, bằng cách tìm lại những niềm tin, việc làm và cử chỉ của cô, “hạnh kiểm” của cô, như cái cách người ta vẫn thường nói vào những năm 50 của thế kỷ 20 ấy để đánh giá và xếp loại các thiếu nữ.
Điều buộc Ernaux phải cầm bút chính là sự bất lực của bà trong việc diễn giải bằng suy nghĩ cảm giác về những gì xảy đến với bản thân, hoặc với thế giới, chính vào thời điểm chúng xảy đến. Hồi ức thiếu nữ, trên tư cách ấy, là một kinh nghiệm viết được đẩy lên đến cực độ, bởi nó buộc bà phải thật sự viết ra cái hiện tại của quá khứ, thuần chất, trần trụi và không hề dễ chịu một chút nào.
TÁC GIẢ:
Annie Ernaux sinh năm 1940 tại Lillebone (Seine-Maritime). Bà có xuất thân khá khiêm tốn, bố mẹ bà ban đầu là công nhân rồi trở thành tiểu thương, điều ấy không ngăn Annie hy vọng đạt được thành công trong xã hội. Tuổi thơ của bà diễn ra ở Normandie, sau đó bà học đại học tại Rouen và trở thành giáo viên dạy văn học. Sau các sáng tác thuần hư cấu, bà dấn thân vào thể loại tự truyện từ những năm 80 của thế kỷ 20. Mỗi giai đoạn của cuộc đời đều được bà chọn kể lại trong một tác phẩm. Các tác phẩm của bà được viết theo phong cách trung tính, khách quan, không phán xét, không ẩn dụ, không so sánh mơ mộng.
Vào bài original để đọc thử vài trang cuốn hồi ức thiếu nữ...
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Page 39 of 50 • 1 ... 21 ... 38, 39, 40 ... 44 ... 50
Page 39 of 50
Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum