Sách
Page 11 of 50 • Share
Page 11 of 50 • 1 ... 7 ... 10, 11, 12 ... 30 ... 50
Re: Sách
Review sách: Rừng Na-Uy (Haruki Murakami) - Những tâm hồn trẻ mông lung đang tìm lối thoát
Blogradio
Tác giả: Mika
blogradio.vn - Không biết những người đã từng đọc qua tiểu thuyết này có thấy Toru là người đa tình hay lăng nhăng hay không nhưng đâu đó vẫn thấy đâu đó sự chân thành của Toru. Và thực sự có lẽ rằng Toru đã yêu Naoko.
***
“Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống mà là một phần của cuộc sống. Nói ra như vậy nghe thật sói mòn, nhưng đã có thời tôi cảm thấy cái hình hài ấy không phải bằng lời mà như một cột khí vón ở lại trong tôi... Cái chết đã ở đây rồi, nó đã luôn luôn ở đây.” (Toru – Nhân vật trong “Rừng Na-uy”)
Cách đây hai năm mình đã đọc đôi dòng review của một bạn độc giả, trong đó có nhắc đến những cái chết trong tiểu thuyết của nhà văn Murakami. Và mình quyết định không đọc cuốn tiểu thuyết này.
Cho đến khi đọc những cuốn sách về tâm lý của các nhà văn khác nhau, trong các cuốn sách đó đều nhắc đến cái tên Haruki Murakami, và mình bắt đầu tò mò về ông.
Quả thực, ông đúng là một nhà văn đại tài, một bậc thầy về ngôn từ và tâm lý con người.
Về tác phẩm “Rừng Na-uy”, mình đã bắt đầu thấy hối tiếc vì sao không đọc nó sớm hơn.
Với giọng văn nhẹ nhàng, ngôn từ giản dị, khiến mình hình dung giống một bản nhạc du dương, không có cao trào rõ rệt, nhưng lại không hề nhàm chán, mà vẫn có những nốt trầm bổng rất khéo léo với những câu văn theo lối hài hước đan xen.
Trong tiểu thuyết có những chi tiết khá lạ, nhẹ nhàng nhưng lại rất có chiều sâu. Mình phải thực sự khâm phục sự tưởng tượng với tư duy của tác giả đi trước thời đại. Làm dâng trào lên những cảm xúc nhạy cảm đi vào chiều sâu tâm hồn mỗi người.
Ngôn từ của tác giả rất chân thực và hài hòa, nếu không nói là quá tuyệt vời. Ông hiểu rất chắc, rất sâu tâm lý của con người. Không chỉ tâm lý của nhân vật mà còn là tâm lý của người đọc. Những câu trả lời của nhân vật giống như câu trả lời trong vô thức của người đọc.
Xen vào cả dòng hồi ký là những chi tiết liên quan tới sex, nhưng lại không hề dung tục. Mô tả rất thật nhưng không ngại ngùng, chỉ như những câu chuyện phiếm, giống như đó là những câu chuyện thường nhật bình thường.
Nội dung của “Rừng Na-Uy” xoay quanh dòng hồi tưởng của Toru về cả quãng thời gian thanh xuân. Và mình cảm thấy có lẽ quãng thời gian ấy của anh đều gắn liền với một người con gái.
Không biết những người đã từng đọc qua tiểu thuyết này có thấy Toru là người đa tình hay lăng nhăng hay không nhưng mình vẫn thấy đâu đó sự chân thành của Toru. Và thực sự mình nhận thấy rằng Toru đã yêu Naoko.
Tuy nhiên với đất nước nhật Bản thời đó đã xuất hiện những câu chuyện tiêu cực. Những cái chết trong truyện thực sự làm mình bị ám ảnh. Sau những câu chuyện về sex như để làm mềm tình hình thực tế những năm tháng ấy, thì những câu chuyện tự sát lại là những góc khuất không thể nào bỏ qua. Khiến mình đặt ra câu hỏi: Tại sao những người xuất chúng, thông minh hiểu biết, độc lập lại nghĩ đến cái chết? Điều này làm mình đã suy nghĩ rất nhiều đến căn bệnh trầm cảm.
Theo mình thì, là một người trưởng thành, câu chuyện theo thể hồi ký này sẽ giúp chúng ta tìm ra những điều trong sâu thẳm lòng mình, soi chiếu những lựa chọn khó khăn trong cuộc đời.
Còn đối với những bạn còn đang ở độ tuổi thanh xuân, có lẽ đây sẽ là cuốn sách khiến bạn muốn tò mò về thế giới xung quanh theo cách chiêm nghiệm chiều sâu chính con người mình. Càng đọc nhiều lần, sẽ càng cảm nhận được nhiều tầng bậc sâu hơn trong tâm hồn. Cũng có thể, cùng với những cuốn sách phát triển bản thân, thì đây là cuốn sách sẽ đi cùng sự trưởng thành (về cảm xúc lẫn tâm hồn) của mỗi người.
Blogradio
Tác giả: Mika
blogradio.vn - Không biết những người đã từng đọc qua tiểu thuyết này có thấy Toru là người đa tình hay lăng nhăng hay không nhưng đâu đó vẫn thấy đâu đó sự chân thành của Toru. Và thực sự có lẽ rằng Toru đã yêu Naoko.
***
“Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống mà là một phần của cuộc sống. Nói ra như vậy nghe thật sói mòn, nhưng đã có thời tôi cảm thấy cái hình hài ấy không phải bằng lời mà như một cột khí vón ở lại trong tôi... Cái chết đã ở đây rồi, nó đã luôn luôn ở đây.” (Toru – Nhân vật trong “Rừng Na-uy”)
Cách đây hai năm mình đã đọc đôi dòng review của một bạn độc giả, trong đó có nhắc đến những cái chết trong tiểu thuyết của nhà văn Murakami. Và mình quyết định không đọc cuốn tiểu thuyết này.
Cho đến khi đọc những cuốn sách về tâm lý của các nhà văn khác nhau, trong các cuốn sách đó đều nhắc đến cái tên Haruki Murakami, và mình bắt đầu tò mò về ông.
Quả thực, ông đúng là một nhà văn đại tài, một bậc thầy về ngôn từ và tâm lý con người.
Về tác phẩm “Rừng Na-uy”, mình đã bắt đầu thấy hối tiếc vì sao không đọc nó sớm hơn.
Với giọng văn nhẹ nhàng, ngôn từ giản dị, khiến mình hình dung giống một bản nhạc du dương, không có cao trào rõ rệt, nhưng lại không hề nhàm chán, mà vẫn có những nốt trầm bổng rất khéo léo với những câu văn theo lối hài hước đan xen.
Trong tiểu thuyết có những chi tiết khá lạ, nhẹ nhàng nhưng lại rất có chiều sâu. Mình phải thực sự khâm phục sự tưởng tượng với tư duy của tác giả đi trước thời đại. Làm dâng trào lên những cảm xúc nhạy cảm đi vào chiều sâu tâm hồn mỗi người.
Ngôn từ của tác giả rất chân thực và hài hòa, nếu không nói là quá tuyệt vời. Ông hiểu rất chắc, rất sâu tâm lý của con người. Không chỉ tâm lý của nhân vật mà còn là tâm lý của người đọc. Những câu trả lời của nhân vật giống như câu trả lời trong vô thức của người đọc.
Xen vào cả dòng hồi ký là những chi tiết liên quan tới sex, nhưng lại không hề dung tục. Mô tả rất thật nhưng không ngại ngùng, chỉ như những câu chuyện phiếm, giống như đó là những câu chuyện thường nhật bình thường.
Nội dung của “Rừng Na-Uy” xoay quanh dòng hồi tưởng của Toru về cả quãng thời gian thanh xuân. Và mình cảm thấy có lẽ quãng thời gian ấy của anh đều gắn liền với một người con gái.
Không biết những người đã từng đọc qua tiểu thuyết này có thấy Toru là người đa tình hay lăng nhăng hay không nhưng mình vẫn thấy đâu đó sự chân thành của Toru. Và thực sự mình nhận thấy rằng Toru đã yêu Naoko.
Tuy nhiên với đất nước nhật Bản thời đó đã xuất hiện những câu chuyện tiêu cực. Những cái chết trong truyện thực sự làm mình bị ám ảnh. Sau những câu chuyện về sex như để làm mềm tình hình thực tế những năm tháng ấy, thì những câu chuyện tự sát lại là những góc khuất không thể nào bỏ qua. Khiến mình đặt ra câu hỏi: Tại sao những người xuất chúng, thông minh hiểu biết, độc lập lại nghĩ đến cái chết? Điều này làm mình đã suy nghĩ rất nhiều đến căn bệnh trầm cảm.
Theo mình thì, là một người trưởng thành, câu chuyện theo thể hồi ký này sẽ giúp chúng ta tìm ra những điều trong sâu thẳm lòng mình, soi chiếu những lựa chọn khó khăn trong cuộc đời.
Còn đối với những bạn còn đang ở độ tuổi thanh xuân, có lẽ đây sẽ là cuốn sách khiến bạn muốn tò mò về thế giới xung quanh theo cách chiêm nghiệm chiều sâu chính con người mình. Càng đọc nhiều lần, sẽ càng cảm nhận được nhiều tầng bậc sâu hơn trong tâm hồn. Cũng có thể, cùng với những cuốn sách phát triển bản thân, thì đây là cuốn sách sẽ đi cùng sự trưởng thành (về cảm xúc lẫn tâm hồn) của mỗi người.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Posted by leowikicom
Tóm tắt và Review Rừng Na Uy ( Noruwei no Mori ) của tác giả Murakami Haruki
1. Giới thiệu tác giả
Murakami Haruki ( sinh năm 1949 ) là một trong những tiểu thuyết gia, dịch giả văn học người Nhật Bản được biết đến nhiều nhất lúc bấy giờ cả trong lẫn ngoài nước Nhật. Từ thời gian nhận phần thưởng Nhà văn mới Gunzo năm 1979 đến nay, hơn một phần tư thế kỷ hoạt động giải trí và viết lách, tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng chừng 38 thứ tiếng trên quốc tế, đồng thời trong nước ông là người luôn sống sót ở tiền cảnh sân khấu văn học Nhật Bản. Murakami đã trở thành hiện tượng kỳ lạ trong văn học Nhật Bản đương đại với những mĩ danh “ nhà văn được yêu dấu ”, “ nhà văn best-seller ”, “ nhà văn của giới trẻ ”.
2. Giới thiệu tác phẩm
Rừng Na-Uy ( Noruwei no mori ) là tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Murakami Haruki, được xuất bản lần đầu năm 1987.
Câu chuyện xảy ra với bối cảnh là nước Nhật những năm 1960, khi mà thanh niên Nhật Bản, như thanh niên nhiều nước khác đương thời, đấu tranh chống lại những định kiến tồn tại trong xã hội. Murakami miêu tả những sinh viên cải cách này như những tên đạo đức giả và thiếu sự kiên định.
Rừng Na Uy đã đưa Murakami lên thành một trong những nhà văn số 1 của Nhật Bản. Tác phẩn có nội dung gồm 11 chương.
3. Tóm tắt nội dung Rừng Na Uy
Watanabe Tōru, một chàng người trẻ tuổi 37 tuổi vừa mới đặt chân tới Hamburg, Đức. Khi bất chợt nghe được bài hát “ Norwegian Wood ” của Beatles, anh bỗng hồi tưởng lại mối tình đầu của mình với Naoko. Ký ức mang anh trở lại với những năm của thập kỷ 1960, khi có quá nhiều vấn đề xảy ra với đời sống của anh khi đó. Tōru cùng với người bạn cùng lớp Kizuki, và bạn gái của Kizuki – Naoko là những người bạn thân thương. Kizuki với Naoko là một đôi với nhau còn Tōru có vẻ như rất niềm hạnh phúc và ủng hộ cho mối tình của họ. Tình bạn này đã bị đứt gãy khi vụ tự tử của Kizuki xảy ra vào ngày sinh nhật lần thứ 17 của anh. Cái chết của Kizuki đã ảnh hưởng tác động thâm thúy tới 2 người bạn còn lại ; Tōru luôn cảm thấy ảnh hưởng tác động của cái chết ở mọi nơi còn Naoko thì thấy có vẻ như mất một phần con người mình. Hai người sau này đã tìm đến nhau và cố gắng nỗ lực an ủi nhau, họ đã ngày càng thân nhau hơn và giữa họ đã phát sinh tình cảm đôi lứa. Trong buổi tối ngày sinh nhật lần thứ 20 của Naoko, Cô đã cảm thấy bị thương tổn ghê gớm và rất cần sự an ủi, san sẻ. Họ đã ngủ với nhau tối hôm đó, và đây cũng là lần đầu của Naoko. Kể từ sau buổi tối đó, Naoko đã để lại cho Tōru một bức thư nói rằng cô cần phải đi xa một thời hạn và cũng nghỉ học ở trường để tới nhà nghỉ Ami – một nơi ở phối hợp điều trị thần kinh. Cô đã có một số ít yếu tố thần kinh không thông thường. Tōru sau này đã kết bạn với Kobayashi Midori, một cô bạn cùng lớp. Cô có mọi thứ mà Naoko không có – sự cởi mở, tự tin, tràn trề sức sống. Mặc dù anh vẫn yêu Naoko, Tōru vẫn bị Midori mê hoặc và ngược lại, Midori cũng rất yêu quý Tōru, và tình bạn của họ ngày càng tăng trưởng trong thời hạn Naoko vắng mặt. Tōru đã đến thăm Naoko tại nơi điều trị gần Kyoto. Ở đó, anh đã gặp Ishida Reiko, một bệnh nhân khác và là người theo dõi, chăm nom Naoko. Trong chuyến thăm này và một vài chuyến thăm khác nữa, Reiko cùng với Naoko đã hé lộ thêm vài việc trong quá khứ của mình : Reiko nói về sự tìm kiếm của cô để xác nhận những yếu tố về giới tính còn Naoko nói về việc tự tử không báo trước của chị gái mình vài năm trước. Tōru, khi quay trở lại Tokyo, vẫn liên tục mối quan hệ với Midori và vẫn không quên Naoko. Anh viết một bức thư cho Reiko, xin lời khuyên của cô về việc lựa chọn nên tăng trưởng quan hệ tình cảm vĩnh viễn với Naoko hay Midori. Anh không muốn làm tổn thương Naoko, nhưng anh cũng không muốn để tuột mất Midori. Reiko khuyên anh rằng, nếu bị Midori lôi cuốn mạnh đến thế thì nên yêu hết mình mặc dầu tình yêu đó hoàn toàn có thể tăng trưởng tốt hoặc không, còn đừng nên chuyện trò đó với Naoko vì Tōru vẫn là nguồn sức mạnh lớn lao cho Naoko để cô yên tâm chữa bệnh. Sau này, Tōru đã nhận được một lá thư báo rằng Naoko đã tự kết liễu cuộc sống mình. Kết cục của điều đó là việc Tōru đi long dong phiêu bạt khắp nước Nhật mà chẳng có mục tiêu nào cả, trong lòng luôn nhớ đến những kỷ niệm xưa giữa hai người, trong khi đó Midori không nhận được liên hệ nào với anh và không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Một thời hạn sau, khi đã nhận ra rằng, cái chết không phải là sự đối nghịch mà nó chính là một phần của sự sống, anh quay trở lại Tokyo, và khi đó Reiko tới thăm anh. Trước đây, sau cái chết của Naoko, Reiko đã viết rất nhiều bức thư nói với anh rằng cái chết đó không phải do lỗi của Tōru, không phải lỗi của ai cả, cũng giống như trời mưa không phải do ai. Với sự ủng hộ của chị, anh đã nhận ra rằng, giờ đây Midori là người quan trọng nhất trong cuộc sống anh. Tōru đã trò chuyện tình cảm của mình với Midori. Chuyện gì đã xảy ra tiếp theo tác phẩm không đề cập tới mà đã để một cái kết mở cho người đọc.
4. Cảm nhận và đánh giá
“ Cuốn tiểu thuyết Rừng Na-uy này là một loại sản phẩm xuất sắc, nơi rất nhiều góc nhìn khác nhau được lồng ghép. Nó không chỉ để cho người ta nghiền ngẫm nhiều ngày về những giá trị của tình yêu, tình dục, bệnh tật, cái chết mà chính là nơi họ nhìn thấy được sự xen kẽ chồng lớp của thực tại sống. Những gì tôi vừa đề cập qua chỉ là một lớp của tác phẩm này, chỉ là một góc của bức tranh mà thôi. Âm hưởng chung của cuốn sách là một sự trầm buồn, lúc tỏ lúc mờ, cảm xúc như khoảng trống và thời hạn đều đang bị kéo giãn ra theo đúng như dòng hồi tưởng của tác giả. Rừng Na-uy mê hoặc người đọc bởi sự bí mật mà đầy sục sôi của sức mạnh và nghị lực sống. Vì đến sau cuối toàn bộ mọi chuyện, tất cả chúng ta đều cần quay về với ý chí của chính mình ở thẳm sâu bên trong. Đó là thứ giúp tất cả chúng ta khuynh hướng và sống sót trong cuộc sống. Khi hai ông Thần kia gõ cửa thì hãy chuẩn bị sẵn sàng vì những lão già tinh quái đó sẽ mở màn lung lay nền tảng của tất cả chúng ta để kiểm tra mức độ bám trụ của mỗi người. Rừng Na-uy đã vẽ nên bức tranh tường tận v ề cuộc sống của vô số con người khi chỉ kể chuyện của một vài cá thể. Tác giả đã khiến người đọc nhìn thấy mình trong mọi nhân vật. Nếu như mất 10 giờ để đọc xong cuốn sách thì 10 giờ đó tất cả chúng ta được đi qua hàng loạt những góc phần của chính mình như một thước phim sôi động. ” “ Mình vẫn tìm thấy trong Rừng Na-uy những hình ảnh quen thuộc mà hầu hết những tác phẩm của ông đều có : những chú mèo, chiếc giếng cạn, rượu whisky, have sex, … Duy chỉ có một điểm độc lạ nhất, không hề có một yếu tố siêu hình, huyễn ảo nào ( như phần nhiều những tác phẩm của ông vẫn có ), hàng loạt câu truyện đều rất chân thực, chân thực đến mức khiến tất cả chúng ta hoàn toàn có thể nhận thấy những con người đó, những tình cách đó, vẫn đang hiện hữu đâu đó quanh ta, hay trong chính con người ta vậy. ” Quyển sách đã cho tôi những bài học kinh nghiệm cực kỳ lớn về cách nhìn nhận đời sống này, về cách tất cả chúng ta yêu thương một ai đó, về những điều ý nghĩa tưởng chừng nhỏ bé nhưng cả đời ta cứ mãi kiếm tìm. Rừng Na Uy day dứt và ám ảnh, nhưng suy cho cùng, tất cả chúng ta vẫn hoàn toàn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của nó theo cách riêng nào đó. Hãy đọc và cảm nhận những vẻ đẹp đó nhé.
Tóm tắt và Review Rừng Na Uy ( Noruwei no Mori ) của tác giả Murakami Haruki
1. Giới thiệu tác giả
Murakami Haruki ( sinh năm 1949 ) là một trong những tiểu thuyết gia, dịch giả văn học người Nhật Bản được biết đến nhiều nhất lúc bấy giờ cả trong lẫn ngoài nước Nhật. Từ thời gian nhận phần thưởng Nhà văn mới Gunzo năm 1979 đến nay, hơn một phần tư thế kỷ hoạt động giải trí và viết lách, tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng chừng 38 thứ tiếng trên quốc tế, đồng thời trong nước ông là người luôn sống sót ở tiền cảnh sân khấu văn học Nhật Bản. Murakami đã trở thành hiện tượng kỳ lạ trong văn học Nhật Bản đương đại với những mĩ danh “ nhà văn được yêu dấu ”, “ nhà văn best-seller ”, “ nhà văn của giới trẻ ”.
2. Giới thiệu tác phẩm
Rừng Na-Uy ( Noruwei no mori ) là tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Murakami Haruki, được xuất bản lần đầu năm 1987.
Câu chuyện xảy ra với bối cảnh là nước Nhật những năm 1960, khi mà thanh niên Nhật Bản, như thanh niên nhiều nước khác đương thời, đấu tranh chống lại những định kiến tồn tại trong xã hội. Murakami miêu tả những sinh viên cải cách này như những tên đạo đức giả và thiếu sự kiên định.
Rừng Na Uy đã đưa Murakami lên thành một trong những nhà văn số 1 của Nhật Bản. Tác phẩn có nội dung gồm 11 chương.
3. Tóm tắt nội dung Rừng Na Uy
Watanabe Tōru, một chàng người trẻ tuổi 37 tuổi vừa mới đặt chân tới Hamburg, Đức. Khi bất chợt nghe được bài hát “ Norwegian Wood ” của Beatles, anh bỗng hồi tưởng lại mối tình đầu của mình với Naoko. Ký ức mang anh trở lại với những năm của thập kỷ 1960, khi có quá nhiều vấn đề xảy ra với đời sống của anh khi đó. Tōru cùng với người bạn cùng lớp Kizuki, và bạn gái của Kizuki – Naoko là những người bạn thân thương. Kizuki với Naoko là một đôi với nhau còn Tōru có vẻ như rất niềm hạnh phúc và ủng hộ cho mối tình của họ. Tình bạn này đã bị đứt gãy khi vụ tự tử của Kizuki xảy ra vào ngày sinh nhật lần thứ 17 của anh. Cái chết của Kizuki đã ảnh hưởng tác động thâm thúy tới 2 người bạn còn lại ; Tōru luôn cảm thấy ảnh hưởng tác động của cái chết ở mọi nơi còn Naoko thì thấy có vẻ như mất một phần con người mình. Hai người sau này đã tìm đến nhau và cố gắng nỗ lực an ủi nhau, họ đã ngày càng thân nhau hơn và giữa họ đã phát sinh tình cảm đôi lứa. Trong buổi tối ngày sinh nhật lần thứ 20 của Naoko, Cô đã cảm thấy bị thương tổn ghê gớm và rất cần sự an ủi, san sẻ. Họ đã ngủ với nhau tối hôm đó, và đây cũng là lần đầu của Naoko. Kể từ sau buổi tối đó, Naoko đã để lại cho Tōru một bức thư nói rằng cô cần phải đi xa một thời hạn và cũng nghỉ học ở trường để tới nhà nghỉ Ami – một nơi ở phối hợp điều trị thần kinh. Cô đã có một số ít yếu tố thần kinh không thông thường. Tōru sau này đã kết bạn với Kobayashi Midori, một cô bạn cùng lớp. Cô có mọi thứ mà Naoko không có – sự cởi mở, tự tin, tràn trề sức sống. Mặc dù anh vẫn yêu Naoko, Tōru vẫn bị Midori mê hoặc và ngược lại, Midori cũng rất yêu quý Tōru, và tình bạn của họ ngày càng tăng trưởng trong thời hạn Naoko vắng mặt. Tōru đã đến thăm Naoko tại nơi điều trị gần Kyoto. Ở đó, anh đã gặp Ishida Reiko, một bệnh nhân khác và là người theo dõi, chăm nom Naoko. Trong chuyến thăm này và một vài chuyến thăm khác nữa, Reiko cùng với Naoko đã hé lộ thêm vài việc trong quá khứ của mình : Reiko nói về sự tìm kiếm của cô để xác nhận những yếu tố về giới tính còn Naoko nói về việc tự tử không báo trước của chị gái mình vài năm trước. Tōru, khi quay trở lại Tokyo, vẫn liên tục mối quan hệ với Midori và vẫn không quên Naoko. Anh viết một bức thư cho Reiko, xin lời khuyên của cô về việc lựa chọn nên tăng trưởng quan hệ tình cảm vĩnh viễn với Naoko hay Midori. Anh không muốn làm tổn thương Naoko, nhưng anh cũng không muốn để tuột mất Midori. Reiko khuyên anh rằng, nếu bị Midori lôi cuốn mạnh đến thế thì nên yêu hết mình mặc dầu tình yêu đó hoàn toàn có thể tăng trưởng tốt hoặc không, còn đừng nên chuyện trò đó với Naoko vì Tōru vẫn là nguồn sức mạnh lớn lao cho Naoko để cô yên tâm chữa bệnh. Sau này, Tōru đã nhận được một lá thư báo rằng Naoko đã tự kết liễu cuộc sống mình. Kết cục của điều đó là việc Tōru đi long dong phiêu bạt khắp nước Nhật mà chẳng có mục tiêu nào cả, trong lòng luôn nhớ đến những kỷ niệm xưa giữa hai người, trong khi đó Midori không nhận được liên hệ nào với anh và không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Một thời hạn sau, khi đã nhận ra rằng, cái chết không phải là sự đối nghịch mà nó chính là một phần của sự sống, anh quay trở lại Tokyo, và khi đó Reiko tới thăm anh. Trước đây, sau cái chết của Naoko, Reiko đã viết rất nhiều bức thư nói với anh rằng cái chết đó không phải do lỗi của Tōru, không phải lỗi của ai cả, cũng giống như trời mưa không phải do ai. Với sự ủng hộ của chị, anh đã nhận ra rằng, giờ đây Midori là người quan trọng nhất trong cuộc sống anh. Tōru đã trò chuyện tình cảm của mình với Midori. Chuyện gì đã xảy ra tiếp theo tác phẩm không đề cập tới mà đã để một cái kết mở cho người đọc.
4. Cảm nhận và đánh giá
“ Cuốn tiểu thuyết Rừng Na-uy này là một loại sản phẩm xuất sắc, nơi rất nhiều góc nhìn khác nhau được lồng ghép. Nó không chỉ để cho người ta nghiền ngẫm nhiều ngày về những giá trị của tình yêu, tình dục, bệnh tật, cái chết mà chính là nơi họ nhìn thấy được sự xen kẽ chồng lớp của thực tại sống. Những gì tôi vừa đề cập qua chỉ là một lớp của tác phẩm này, chỉ là một góc của bức tranh mà thôi. Âm hưởng chung của cuốn sách là một sự trầm buồn, lúc tỏ lúc mờ, cảm xúc như khoảng trống và thời hạn đều đang bị kéo giãn ra theo đúng như dòng hồi tưởng của tác giả. Rừng Na-uy mê hoặc người đọc bởi sự bí mật mà đầy sục sôi của sức mạnh và nghị lực sống. Vì đến sau cuối toàn bộ mọi chuyện, tất cả chúng ta đều cần quay về với ý chí của chính mình ở thẳm sâu bên trong. Đó là thứ giúp tất cả chúng ta khuynh hướng và sống sót trong cuộc sống. Khi hai ông Thần kia gõ cửa thì hãy chuẩn bị sẵn sàng vì những lão già tinh quái đó sẽ mở màn lung lay nền tảng của tất cả chúng ta để kiểm tra mức độ bám trụ của mỗi người. Rừng Na-uy đã vẽ nên bức tranh tường tận v ề cuộc sống của vô số con người khi chỉ kể chuyện của một vài cá thể. Tác giả đã khiến người đọc nhìn thấy mình trong mọi nhân vật. Nếu như mất 10 giờ để đọc xong cuốn sách thì 10 giờ đó tất cả chúng ta được đi qua hàng loạt những góc phần của chính mình như một thước phim sôi động. ” “ Mình vẫn tìm thấy trong Rừng Na-uy những hình ảnh quen thuộc mà hầu hết những tác phẩm của ông đều có : những chú mèo, chiếc giếng cạn, rượu whisky, have sex, … Duy chỉ có một điểm độc lạ nhất, không hề có một yếu tố siêu hình, huyễn ảo nào ( như phần nhiều những tác phẩm của ông vẫn có ), hàng loạt câu truyện đều rất chân thực, chân thực đến mức khiến tất cả chúng ta hoàn toàn có thể nhận thấy những con người đó, những tình cách đó, vẫn đang hiện hữu đâu đó quanh ta, hay trong chính con người ta vậy. ” Quyển sách đã cho tôi những bài học kinh nghiệm cực kỳ lớn về cách nhìn nhận đời sống này, về cách tất cả chúng ta yêu thương một ai đó, về những điều ý nghĩa tưởng chừng nhỏ bé nhưng cả đời ta cứ mãi kiếm tìm. Rừng Na Uy day dứt và ám ảnh, nhưng suy cho cùng, tất cả chúng ta vẫn hoàn toàn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của nó theo cách riêng nào đó. Hãy đọc và cảm nhận những vẻ đẹp đó nhé.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Rừng Na Uy – Những dạng thức cô đơn…
Blog.Komo
Gửi người bạn thân nhất của tôi,
Tiếng guitar nhẹ nhàng chậm rãi vang lên.
Từ một bên này tai.
Rồi đến một bên kia tai.
Cho đến khi cả thế giới giai điệu như bừng sống lên chỉ qua chiếc headphone nho nhỏ…
I once had a girl, or should I say, she once had me.
She showed me her room, isn’t it good, norwegian wood?
haruki-murakami_norwegian-wood
Tôi viết những dòng suy nghĩ này khi trí nhớ của tôi về Rừng Na Uy không còn được rõ như lúc trước nữa. Không hẳn là nó phai nhạt dần. Chỉ là với riêng tôi, hình như việc quá yêu nó khiến tôi không thể nào viết được cảm nhận về nó khi trí nhớ còn quá rõ ràng. Bởi vì như vậy, nó sẽ làm tôi đau… đau lắm…
Giờ đây, khi những câu chữ kia trói buộc tôi đang dần nơi lỏng… khi chính thứ giai điệu bàng bạc nỗi cô đơn của bài hát ấy mới là cái gợi tôi nhớ đến Rừng Na Uy, nó đã cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng…nhẹ nhàng nhưng vẫn cô đơn.
Nỗi cô đơn có nhiều dạng thức của nó.
Có những nỗi cô đơn có thể giao hòa với nhau. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ được cảm thông và chia sẻ…
Có những nỗi cô đơn như hai mặt phẳng trơ trọi trong không gian. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ càng cô đơn hơn…
Những con người trong Rừng Na Uy đã gặp nhau, yêu nhau để rồi bất lực không đến được với nhau vì nỗi cô đơn trong mỗi người khác nhau.
Có thể nói, Rừng Na Uy như cuốn từ điển sống về nỗi cô đơn mà ở đó Murakami Haruki đã giải nghĩa thật tinh tế, ngắn gọn mà đầy đủ…
Câu chuyện bắt đầu được kể lại khi thời gian nó thật sự diễn ra đã cách đó khá lâu. Nó là những mảnh kí ức của Toru qua năm tháng…Vì vậy, nó không chỉ bàng bạc nỗi cô đơn tự thân vốn dĩ của những con người trong thế giới đó, mà còn chất chứa niềm nhớ thương không nguôi cho những gì đã qua đi, không thể trở lại.
…đó là cái chết của người bạn thân nhất và duy nhất
…đó là tình yêu dành cho người yêu của người bạn thân ấy
…đó là sự ra đi của người con gái ấy
Trong mối quan hệ giữa ba người: Toru-Kizuki-Naoko, Kizuki chính là người đóng vai trò trung tâm. Anh luôn biết cách điều khiển câu chuyện nhịp nhàng giữa ba người, không bỏ mặc ai, không để ai cảm thấy cô đơn. Anh luôn tìm được sự thú vị trong những câu chuyện tưởng chừng như nhàm chán nhất khiến cho người kể câu chuyện ấy cũng cảm giác mình thật đặc biệt. Đó là một dạng tài năng mà không phải ai cũng có thể phát hiện. Nhưng Toru đã nhận ra được và cảm thấy thật uổng phí vì Kizuki không giao thiệp rộng. Anh băn khoăn tự hỏi một người bình thưởng chỉ thích đọc sách, nghe nhạc như mình tại sao lại được Kizuki để mắt. Tôi nghĩ, có lẽ đó là lực hút của sự cô đơn. Trong câu chuyện ngày ấy giữa ba người theo cách kể của Toru, có vẻ như Kizuki là người bình ổn nhất, biết cách hòa nhịp với cuộc sống nhất. Điều đó diễn ra tự nhiên đến nỗi không ai lại nghĩ một người như thế có thể tự tử. Cái chết của Kizuki đã khiến Toru suy nghĩ rất nhiều về ngày hôm ấy…
Có lẽ trong ba người chính Kizuki mới là người cô đơn nhất. Cô đơn nhất vì phải che giấu nỗi cô đơn của mình để làm chỗ dựa tinh thần cho người khác. Nhưng điều đó không khiến cho Kizuki mạnh mẽ hơn mà chỉ khiến cho anh yếu đuối hơn. Những người quá cô đơn nhìn vào ai cũng biết được họ đang cô đơn như Toru thật ra vẫn còn một hạnh phúc: đó là họ sống thật với bản thân mình. Vì họ sống thật và cái tôi của họ không được xã hội chấp nhận nên họ mới cô đơn. Nhưng ngay cả khi đã như thế, họ vẫn không thay đổi hay cố làm ra vẻ bề ngoài như đã thay đổi để được xã nhội chấp nhận. Họ vẫn là chính họ. Vậy chẳng phải là mạnh mẽ hay sao? Còn những người cô đơn mà giấu nỗi cô đơn của mình là vì họ sợ bị tổn thương khi cái tôi của mình không được chấp nhận. Khi làm như thế, không hẳn là vì họ muốn hòa nhập với xã hội hơn, chỉ là vì khi phơi bày nỗi cô đơn của mình ra, dù muốn dù không, ai cũng có chút cảm giác hi vọng sẽ tìm được người hiểu mình. Những người này, họ sợ cảm giác thất vọng vì cho đến cuối cùng vẫn chẳng ai hiểu mình. Và có cần nhất thiết phải tìm được người hiểu mình không, khi mình vẫn có thể tìm được niềm vui bên cạnh những người rất yêu thương mình… dù có thể họ không nắm bắt được cái cơ bản nhất trong tâm hồn của mình? Có lẽ đó là cách suy nghĩ của những người mang nỗi cô đơn như thế, là cách suy nghĩ của Kizuki…Nếu quả thật như thế thì đáng buồn thật. Dù cho bên ngoài, anh là một con người như thế nào đi nữa, một khi anh đã không sống thật với chính bản thân mình, sẽ đến lúc nào đó anh cảm thấy như có thứ gì đó đang chết đi trong con người anh mà anh không hay biết. Cứ sống và cho đến một ngày nhận ra mình đã mất đi điều gì đó cốt lõi trong tâm hồn, mình không biết điều gì có ý nghĩa nữa, mình cảm nhận đã đến lúc cuộc đời mình mãn hạn…Kizuki đã sống, tồn tại và biến mất như thế… Cách thức này, khiến tôi có cảm giác tương đồng với chị của Naoko. Chị tài giỏi, được nhiều người yêu mến, là một dạng người mà ai cũng nghĩ không có bất cứ nỗi buồn nào sâu sắc với xã hội, không có nỗi cô đơn… Vậy mà một ngày, tâm hồn vốn đã nhỏ bé của Naoko bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh chị mình treo cổ tự tử chết chính trong căn phòng của chị ấy. Nó đã để lại nhiều ám ảnh trong Naoko sau này…
Nỗi cô đơn của Naoko lại khác với nỗi cô đơn của Kizuki. Naoko không cố che giấu nỗi cô đơn của mình nhưng lại không biết cách để bộc lộ nó. Tôi hiểu được cảm giác này. Cảm giác suy nghĩ nhiều đến nỗi mình không nắm bắt kịp mình đang nghĩ gì. Khi một câu chuyện chưa được hình thành rõ ràng trong tâm trí thì nó đã là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác, những câu chuyện khác lại là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác nữa… Phải chơi trò chơi rượt bắt với chính ý thức của mình thật là mệt mỏi… để rồi đa phần khi “ta” không bắt được “ta”, ta đau khổ. Những lúc đó, đối với tôi và có lẽ là với cả Naoko nữa, chỉ mong sao có được một hạnh phúc nhỏ nhoi: hiểu được chính bản thể của mình. Hạnh phúc theo quan niệm của nhiều người, nếu được chia ra ở dạng cơ bản nhất thì có lẽ nó có hai dạng:
Khi người ta mơ ước, người ta thực hiện được ước mơ của mình, nói một cách khái quát là có được những điều bấy lâu nay mình không có và luôn mong muốn có thì người ta sẽ hạnh phúc.
Khi người ta mơ ước, người ta không thực hiện được ước mơ của mình. Đối với họ, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc không có được hạnh phúc. Vì hạnh phúc không nằm trong những thứ ngoài kia, những thứ họ không nắm bắt được, mà nằm ở đây, ở chính những gì họ có. “Hạnh phúc xuất phát từ những điều đơn giản nhất và bình dị nhất”… có ai đã nói với tôi như thế.
Dù vậy, hạnh phúc mà tôi và Naoko mong muốn có, tôi chẳng biết xếp nó vào dạng nào. Bản thể của mình đương nhiên là thứ thuộc về mình nhưng như vậy cũng không đồng nghĩa với việc mình luôn có nó. Khi không nắm bắt được chính nó, mình chỉ còn nhận biết được nó có tồn tại đâu đó trong mình. Nó chỉ thuộc về mình thôi, không chắc là mình hoàn toàn có được nó. Cảm giác không hiểu được chính mình nghĩ gì, cần gì, muốn gì khiến người ta cảm thấy cô đơn, lạc lõng.
norwegian wood
Sự lạc lõng của tôi xuất phát từ việc tôi yêu quá nhiều thứ nên có quá nhiều con đường để lựa chọn trước mắt mình. Tôi không thể đưa ra được quyết định một cách dứt khoát là mình nên chọn con đường nào, từ bỏ con đường nào.
Sự lạc lõng của Naoko lại xuất phát vì Naoko thực sự không có con đường nào để chọn. Có thể trong một nơi nào đó của tiềm thức, Naoko có một con đường để đi nhưng cô lại không biết được. Mất Kizuki, Naoko không chỉ mất đi người mình vô cùng yêu mến mà còn mất đi khả năng để nhận thức chính bản thân mình. Tựa hồ giống như một người con gái đang bước đi trong bóng tối. Vì không có một chút ánh sáng nào, chung quanh là màu của hư vô, tịch mịch, cô cứ nghĩ mình đang bước đi trên một con đường vô định. Dù mình không muốn đi con đường này nhưng nó chỉ có một, hoàn toàn không có bất kì một ngã rẽ nào khác. Cho đến khi ánh sáng chợt bừng lên, cho dù chỉ là một nguồn sáng nho nhỏ, những con đường từ mọi nơi đang dần hiện ra… Điều đó khiến cô vui, cô đã nhìn thấy những con đường khác. Cô đã có thể chọn lựa. Thế nhưng vì đi một con đường quá lâu, khi chợt có nhiều ngã rẽ như thế, cô không biết phải chọn ngã nào. Bước đầu, có lại được chút ánh sáng trong cuộc sống của mình, cô quyết định chọn con đường của người đã mang lại ánh sáng đó cho cô. Tôi chợt nhớ đến câu hát của Yui:
I feel my soul. Take me your way…
Khi gặp anh, em cảm nhận được tâm hồn của mình. Đó là một tâm hồn quá cô đơn trống trải. Vì vậy, hãy cho em cảm nhận tâm hồn của anh.
Em cảm nhận tâm hồn mình. Hãy dẫn em vào lối đi của anh…
Vậy mà… Kizuki lại rời bỏ Naoko quá sớm, quá sớm để Naoko có thể tập nhận thức một cách rõ ràng hơn về bản thể của mình, tự chọn cho mình một lối đi, tự tạo ra ánh sáng của chính mình… Con đường ấy giờ lại như năm xưa… chìm trong bóng tối. Dù vậy, trong cái bóng tối triền miên không dứt của đời người, Naoko vẫn nhận ra được có những thứ đã mãi mãi mất đi. Nỗi cô đơn một khi đã cố gắng giao hòa với một nỗi cô đơn khác mà không thể được, cuối cùng khi trở về một mình, nó đã lớn hơn trước gấp nhiều lần. Từ người chị gái thân yêu của mình, cho đến người bạn trai mà mình yêu mến… kết quả chỉ có một, không thể nào thay đổi được sự thật đó. Khi không tìm được bản thể của mình, họ đã không thể tiếp tục tồn tại. Giờ đây, Naoko cũng đã bất lực và lựa chọn sự ra đi giống họ…
Trong xã hội Nhật Bản thời kì chuyển đổi quá mạnh mẽ ấy, thanh niên Nhật cô đơn, lạc lõng. Họ không biết phải làm gì với chính cuộc đời mình. Điều đó dễ khiến người ta dễ đi đến tự sát vì cuộc đời quá nhàm chán. Vậy phải làm gì để tồn tại được?
Trong thế giới của Rừng Na Uy, người tôi khâm phục nhất là Toru. Không phải vì anh là một người đặc biệt. Anh thực sự không có gì đặc biệt, anh cũng chỉ là một người bình thường như chính anh thú nhận. Nhưng anh đặc biệt nhất vì anh dám sống với chính bản thể của mình cho dù cái bản thể đó có lẽ không được nhiều người trong xã hội chấp nhận. Anh không hề che giấu việc mình là một người cô đơn, ít bạn, suốt ngày chỉ mải mê đọc sách. Anh cũng không cố giao tiếp với những người mình không hợp, cái mà xã hội gọi đó là xã giao. Anh cô đơn và anh dám sống với chính sự cô đơn của mình, không hề cố gắng để thay đổi vì đó chính là bản thể của anh. Đó có lẽ là điểm mà anh đã thu hút được Kizuki, Nagasawa và cả Naoko nữa. Họ thích anh vì họ không làm được như anh. Khi ở bên anh, họ cảm thấy bình yên vì anh là chính anh. Ở xã hội ngoài kia, có mấy người sống thật sự là chính mình? Không tính đến chuyện lừa dối nhau, vì nhiều lí do, có lẽ chúng ta chỉ đang “hơi” sống thật với chính bản thân mình. Khi ta yêu ai đó… khi ai đó yêu ta… có thật ta đang yêu chính con người đó, có thật ai đó đang yêu chính con người ta? Sự thật một nửa, hay gần sự thật cũng đều không phải là sự thật. Sự thật chỉ là sự thật khi nó trọn vẹn là ...
Toru đã sống thật. Midori đã sống thật. Hai người đã sống thật sự là chính mình nên khi họ yêu nhau, họ yêu chính con người của đối phương và được đối phương yêu lại chính con người của mình. Dù hai người đến với nhau đều riêng mang những nỗi cô đơn trong tâm hồn nhưng với một tình yêu như thế, dù hiện tại có mang một chút sắc u buồn, khi biết cùng nhìn về tương lai chắc chắn nó sẽ ánh lên màu của tươi sáng, màu của hi vọng.
Sau khi trải nghiệm thế giới của Rừng Na Uy, nhìn lại mình, tôi ngạc nhiên khi thấy trong từng giai đoạn biến đổi của cuộc đời mình, tôi nhận ra nỗi cô đơn mà mình đã từng và đang mang có một chút giống Kizuki, một chút giống Naoko, một chút giống Toru…
Tôi là một đứa bé khi mới sinh ra đã không hòa nhập được với xã hội vì nhiều lí do. Suốt những năm mẫu giáo, cấp một, cấp hai, tôi luôn cô đơn, không có một người bạn thật sự nào cả. Nhưng khi còn ở mẫu giáo hay cấp một, tôi chưa bao giờ một lần bất mãn với chính nỗi cô đơn của mình, chính bản thân mình. Vì khi đó, tôi được sống yên bình ngày qua ngày. Tôi biết là mọi người chỉ không quan tâm tôi, tôi không hề có cảm giác là mình đang bị xã hội chối bỏ. Cho đến năm cấp hai, khi tôi không còn được sống yên bình trong thế giới nhỏ bé của mình, tôi bị mọi người cười nhạo, quấy rối, giẫm đạp lên chính bản thể của mình. Khi phải sống một cuộc sống địa ngục trần gian về mặt tinh thần như thế, tôi bắt đầu quay lại tự vấn và bất mãn với chính bản thân mình. Tại sao tôi lại phải mang cái tôi này để đổi lại cuộc sống như thế? Chính vì vậy, khi lên cấp ba, đến với một môi trường mới, có cơ hội để thay đổi mình, tôi đã chọn sự thay đổi. Lúc ấy, tôi đã gặp một người bạn nhìn tôi bằng ánh mắt khác với mọi người: bạn ấy chấp nhận tôi. Đó là người tôi vô cùng yêu mến. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy thực sự muốn bước vào thế giới của một người nào đó. “…I feel my soul. Take me you way…” Cảm giác đó có lẽ như Naoko lúc mới gặp Kizuki. Nhưng nếu như thế giới của Naoko và Kizuki mang nhiều điểm tương đồng, khi ở bên cạnh Kizuki, Naoko cảm nhận được tâm hồn của mình nhiều hơn thì ở đây, thế giới của tôi và người bạn đó khác nhau quá xa. Phần nhiều là tôi học cách để đi vào con đường của bạn ấy nhiều hơn là cảm nhận chính tâm hồn của mình. Để làm được điều đó, tôi phải thay đổi. Lúc trước, tôi cứ nghĩ đơn giản rằng mọi thứ đều có thể thay đổi được chỉ cần có cố gắng. Nhưng giờ đây, tôi mới nhận ra, đúng như Marc Levy đã từng viết: có những thứ có thể thay đổi được nhưng cũng có những thứ không thể thay đổi được, con người đau khổ vì không phân biệt được cái nào có thể thay đổi, cái nào không thể thay đổi. Lúc đó, tôi cứ hăm hở thay đổi tất cả mọi thứ thuộc về bản thân tôi để được sống trong thế giới của người ấy. Tôi thay đổi một cách hoàn hảo đến mức chính bản thân tôi cũng bị lừa gạt bởi cái hình ảnh tôi tự tạo ra lúc đó: một con bé nhiều chuyện, lúc nào cũng cười đùa vui vẻ, muốn kết được càng nhiều bạn càng tốt, yêu những cuộc đi chơi, yêu những thứ đơn giản, tốt đẹp trong cuộc sống… Những thay đổi đó đã giúp tôi tìm được niềm vui trong cuộc sống. Bây giờ, khi nhìn lại, những thay đổi đó không phải là hoàn toàn vô ích với tôi hiện tại, nó vẫn còn để lại những ảnh hưởng tích cực. Tôi quả thật đã thay đổi được những gì tôi có thể thay đổi để giúp cuộc sống của tôi tươi đẹp hơn nhưng đồng thời, tôi đã không nhận ra được rằng tôi cũng thay đổi luôn những thứ vốn không thể thay đổi, những thứ thuộc về chính bản thân tôi. Lúc này, tôi lại đồng cảm với nỗi cô đơn của Kizuki. Nỗi cô đơn khi phải che giấu chính con người thật của mình, sống không được thật sự là chính mình. Dù trong tiềm thức tôi không nhận ra, nhưng đâu đó trong con người tôi, cơ chế hoạt động của não tôi phản kháng lại sự thay đổi cái quan yếu của bản thân tôi. Nó diễn ra chầm chậm, từ từ, tôi không thể nào nhận ra được. Bắt đầu cuối năm cấp ba, tôi mỗi ngày một trầm tính hơn, mỗi ngày trở lại với bản thể ngày xưa của mình một chút.
Bây giờ, khi đã là một sinh viên năm hai, tôi hoàn toàn trở nên trầm lặng, trầm lặng hơn cả trước khi tôi cố gắng thay đổi. Tôi cô đơn, tôi có rất ít bạn, tôi mãi đắm chìm trong thế giới nghệ thuật.
Bây giờ, nhiều lúc tôi không hiểu nổi chính bản thân mình đang nghĩ gì giống như Naoko vậy. Có lẽ đó là cái giá tôi phải trả cho tội lỗi của mình lúc trước: đã sống không thật với chính mình.
Bây giờ, nhiều lúc tôi sống thật với bản thân mình đến mức cực đoan: chỉ làm những điều mình muốn, chỉ nói những điều mình nghĩ… khiến cho không ít những người bạn lúc trước của tôi bất bình bảo rằng tôi chẳng khác gì trẻ con. Vì chỉ có trẻ con mới làm mọi thứ theo bản tính tự nhiên của nó mà không suy nghĩ đến xung quanh…
…và sống như trẻ con thì rất dễ bị đau, bị tổn thương. Dù vậy, tôi sẽ làm tất cả để được sống là chính mình, để nâng niu, yêu thương bản thể của mình-cái mà tôi đã một lần đánh mất, giờ vẫn đang tìm lại dẫu rằng có thể mãi mãi tôi không tìm lại được nó trọn vẹn.
Vì đối với tôi, con người sống không phải là để được hạnh phúc, để tuyệt đối khất trừ mọi khổ đau. Con người sống là để lựa chọn cái thích hợp cho mình. Một hạnh phúc thích hợp… một nỗi đau thích hợp… một bản thể thích hợp… Bây giờ, tôi đau… tôi vẫn đang đau nhưng tôi tin… tôi vẫn đang tin, tôi yêu… tôi vẫn đang yêu cuộc đời này. Vì vậy, tôi hoan nghênh nỗi đau này. Để được sống là chính mình, được thực hiện ước mơ của mình, được yêu nghệ thuật thì nỗi đau này có là gì đâu. Sẽ ổn cả thôi khi tôi vẫn được là chính mình dù có đau như thế nào…
Vì đó là cách duy nhất để tôi có thể tiếp tục tồn tại trong xã hội này, để được sống trong cuộc đời này. Đó cũng là cách mà Toru đã chọn để tồn tại trong thế giới đó. Nếu không làm như thế, có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ không thể tiếp tục tồn tại và rồi sớm biến mất khỏi cuộc đời như Kizuki, Naoko…
Người yếu đuối nhất không phải là người cho người khác thấy sự yếu đuối của mình mà là những người đang cố che giấu đi sự yếu đuối đó. Làm sao có thể gọi những người ta thấy yếu đuối là yếu đuối khi họ đã dám sống thật với chính bản thân mình?
Ít nhất, đó là bài học mà tôi đã học được một cách rõ ràng trong một thế giới có quá nhiều điều mơ hồ, khó có thể dùng lời diễn tả rõ ràng như Rừng Na Uy.
Tôi đã đọc ở đâu đó một bình luận về Rừng Na Uy đại ý như thế này: làm sao có thể gọi Rừng Na Uy là cuốn sách thanh xuân bất diệt được khi có quá nhiều nỗi buồn, nỗi cô đơn đến nỗi con người không thể chịu được và đã có rất nhiều người tự tử trong đó.
Tôi nghĩ ý kiến đó là do người ấy đã nhìn những cái chết trong thế giới đó. Nhưng nếu nghĩ về Rừng Na Uy mà nhìn vào những con người có thể tiếp tục sống được, tồn tại được trong thế giới đó như Toru, như Midori… ta sẽ thấy lời nhận xét của báo Đọc sách Trung Hoa hoàn toàn đúng:
“Rừng Na Uy sẽ là cuốn sách thanh xuân bất diệt, bầu bạn với hết thế hệ này qua thế hệ khác”
Kodaki
Chiều Sài Gòn, 3-10
Blog.Komo
Gửi người bạn thân nhất của tôi,
Tiếng guitar nhẹ nhàng chậm rãi vang lên.
Từ một bên này tai.
Rồi đến một bên kia tai.
Cho đến khi cả thế giới giai điệu như bừng sống lên chỉ qua chiếc headphone nho nhỏ…
I once had a girl, or should I say, she once had me.
She showed me her room, isn’t it good, norwegian wood?
haruki-murakami_norwegian-wood
Tôi viết những dòng suy nghĩ này khi trí nhớ của tôi về Rừng Na Uy không còn được rõ như lúc trước nữa. Không hẳn là nó phai nhạt dần. Chỉ là với riêng tôi, hình như việc quá yêu nó khiến tôi không thể nào viết được cảm nhận về nó khi trí nhớ còn quá rõ ràng. Bởi vì như vậy, nó sẽ làm tôi đau… đau lắm…
Giờ đây, khi những câu chữ kia trói buộc tôi đang dần nơi lỏng… khi chính thứ giai điệu bàng bạc nỗi cô đơn của bài hát ấy mới là cái gợi tôi nhớ đến Rừng Na Uy, nó đã cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng…nhẹ nhàng nhưng vẫn cô đơn.
Nỗi cô đơn có nhiều dạng thức của nó.
Có những nỗi cô đơn có thể giao hòa với nhau. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ được cảm thông và chia sẻ…
Có những nỗi cô đơn như hai mặt phẳng trơ trọi trong không gian. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ càng cô đơn hơn…
Những con người trong Rừng Na Uy đã gặp nhau, yêu nhau để rồi bất lực không đến được với nhau vì nỗi cô đơn trong mỗi người khác nhau.
Có thể nói, Rừng Na Uy như cuốn từ điển sống về nỗi cô đơn mà ở đó Murakami Haruki đã giải nghĩa thật tinh tế, ngắn gọn mà đầy đủ…
Câu chuyện bắt đầu được kể lại khi thời gian nó thật sự diễn ra đã cách đó khá lâu. Nó là những mảnh kí ức của Toru qua năm tháng…Vì vậy, nó không chỉ bàng bạc nỗi cô đơn tự thân vốn dĩ của những con người trong thế giới đó, mà còn chất chứa niềm nhớ thương không nguôi cho những gì đã qua đi, không thể trở lại.
…đó là cái chết của người bạn thân nhất và duy nhất
…đó là tình yêu dành cho người yêu của người bạn thân ấy
…đó là sự ra đi của người con gái ấy
Trong mối quan hệ giữa ba người: Toru-Kizuki-Naoko, Kizuki chính là người đóng vai trò trung tâm. Anh luôn biết cách điều khiển câu chuyện nhịp nhàng giữa ba người, không bỏ mặc ai, không để ai cảm thấy cô đơn. Anh luôn tìm được sự thú vị trong những câu chuyện tưởng chừng như nhàm chán nhất khiến cho người kể câu chuyện ấy cũng cảm giác mình thật đặc biệt. Đó là một dạng tài năng mà không phải ai cũng có thể phát hiện. Nhưng Toru đã nhận ra được và cảm thấy thật uổng phí vì Kizuki không giao thiệp rộng. Anh băn khoăn tự hỏi một người bình thưởng chỉ thích đọc sách, nghe nhạc như mình tại sao lại được Kizuki để mắt. Tôi nghĩ, có lẽ đó là lực hút của sự cô đơn. Trong câu chuyện ngày ấy giữa ba người theo cách kể của Toru, có vẻ như Kizuki là người bình ổn nhất, biết cách hòa nhịp với cuộc sống nhất. Điều đó diễn ra tự nhiên đến nỗi không ai lại nghĩ một người như thế có thể tự tử. Cái chết của Kizuki đã khiến Toru suy nghĩ rất nhiều về ngày hôm ấy…
Có lẽ trong ba người chính Kizuki mới là người cô đơn nhất. Cô đơn nhất vì phải che giấu nỗi cô đơn của mình để làm chỗ dựa tinh thần cho người khác. Nhưng điều đó không khiến cho Kizuki mạnh mẽ hơn mà chỉ khiến cho anh yếu đuối hơn. Những người quá cô đơn nhìn vào ai cũng biết được họ đang cô đơn như Toru thật ra vẫn còn một hạnh phúc: đó là họ sống thật với bản thân mình. Vì họ sống thật và cái tôi của họ không được xã hội chấp nhận nên họ mới cô đơn. Nhưng ngay cả khi đã như thế, họ vẫn không thay đổi hay cố làm ra vẻ bề ngoài như đã thay đổi để được xã nhội chấp nhận. Họ vẫn là chính họ. Vậy chẳng phải là mạnh mẽ hay sao? Còn những người cô đơn mà giấu nỗi cô đơn của mình là vì họ sợ bị tổn thương khi cái tôi của mình không được chấp nhận. Khi làm như thế, không hẳn là vì họ muốn hòa nhập với xã hội hơn, chỉ là vì khi phơi bày nỗi cô đơn của mình ra, dù muốn dù không, ai cũng có chút cảm giác hi vọng sẽ tìm được người hiểu mình. Những người này, họ sợ cảm giác thất vọng vì cho đến cuối cùng vẫn chẳng ai hiểu mình. Và có cần nhất thiết phải tìm được người hiểu mình không, khi mình vẫn có thể tìm được niềm vui bên cạnh những người rất yêu thương mình… dù có thể họ không nắm bắt được cái cơ bản nhất trong tâm hồn của mình? Có lẽ đó là cách suy nghĩ của những người mang nỗi cô đơn như thế, là cách suy nghĩ của Kizuki…Nếu quả thật như thế thì đáng buồn thật. Dù cho bên ngoài, anh là một con người như thế nào đi nữa, một khi anh đã không sống thật với chính bản thân mình, sẽ đến lúc nào đó anh cảm thấy như có thứ gì đó đang chết đi trong con người anh mà anh không hay biết. Cứ sống và cho đến một ngày nhận ra mình đã mất đi điều gì đó cốt lõi trong tâm hồn, mình không biết điều gì có ý nghĩa nữa, mình cảm nhận đã đến lúc cuộc đời mình mãn hạn…Kizuki đã sống, tồn tại và biến mất như thế… Cách thức này, khiến tôi có cảm giác tương đồng với chị của Naoko. Chị tài giỏi, được nhiều người yêu mến, là một dạng người mà ai cũng nghĩ không có bất cứ nỗi buồn nào sâu sắc với xã hội, không có nỗi cô đơn… Vậy mà một ngày, tâm hồn vốn đã nhỏ bé của Naoko bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh chị mình treo cổ tự tử chết chính trong căn phòng của chị ấy. Nó đã để lại nhiều ám ảnh trong Naoko sau này…
Nỗi cô đơn của Naoko lại khác với nỗi cô đơn của Kizuki. Naoko không cố che giấu nỗi cô đơn của mình nhưng lại không biết cách để bộc lộ nó. Tôi hiểu được cảm giác này. Cảm giác suy nghĩ nhiều đến nỗi mình không nắm bắt kịp mình đang nghĩ gì. Khi một câu chuyện chưa được hình thành rõ ràng trong tâm trí thì nó đã là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác, những câu chuyện khác lại là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác nữa… Phải chơi trò chơi rượt bắt với chính ý thức của mình thật là mệt mỏi… để rồi đa phần khi “ta” không bắt được “ta”, ta đau khổ. Những lúc đó, đối với tôi và có lẽ là với cả Naoko nữa, chỉ mong sao có được một hạnh phúc nhỏ nhoi: hiểu được chính bản thể của mình. Hạnh phúc theo quan niệm của nhiều người, nếu được chia ra ở dạng cơ bản nhất thì có lẽ nó có hai dạng:
Khi người ta mơ ước, người ta thực hiện được ước mơ của mình, nói một cách khái quát là có được những điều bấy lâu nay mình không có và luôn mong muốn có thì người ta sẽ hạnh phúc.
Khi người ta mơ ước, người ta không thực hiện được ước mơ của mình. Đối với họ, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc không có được hạnh phúc. Vì hạnh phúc không nằm trong những thứ ngoài kia, những thứ họ không nắm bắt được, mà nằm ở đây, ở chính những gì họ có. “Hạnh phúc xuất phát từ những điều đơn giản nhất và bình dị nhất”… có ai đã nói với tôi như thế.
Dù vậy, hạnh phúc mà tôi và Naoko mong muốn có, tôi chẳng biết xếp nó vào dạng nào. Bản thể của mình đương nhiên là thứ thuộc về mình nhưng như vậy cũng không đồng nghĩa với việc mình luôn có nó. Khi không nắm bắt được chính nó, mình chỉ còn nhận biết được nó có tồn tại đâu đó trong mình. Nó chỉ thuộc về mình thôi, không chắc là mình hoàn toàn có được nó. Cảm giác không hiểu được chính mình nghĩ gì, cần gì, muốn gì khiến người ta cảm thấy cô đơn, lạc lõng.
norwegian wood
Sự lạc lõng của tôi xuất phát từ việc tôi yêu quá nhiều thứ nên có quá nhiều con đường để lựa chọn trước mắt mình. Tôi không thể đưa ra được quyết định một cách dứt khoát là mình nên chọn con đường nào, từ bỏ con đường nào.
Sự lạc lõng của Naoko lại xuất phát vì Naoko thực sự không có con đường nào để chọn. Có thể trong một nơi nào đó của tiềm thức, Naoko có một con đường để đi nhưng cô lại không biết được. Mất Kizuki, Naoko không chỉ mất đi người mình vô cùng yêu mến mà còn mất đi khả năng để nhận thức chính bản thân mình. Tựa hồ giống như một người con gái đang bước đi trong bóng tối. Vì không có một chút ánh sáng nào, chung quanh là màu của hư vô, tịch mịch, cô cứ nghĩ mình đang bước đi trên một con đường vô định. Dù mình không muốn đi con đường này nhưng nó chỉ có một, hoàn toàn không có bất kì một ngã rẽ nào khác. Cho đến khi ánh sáng chợt bừng lên, cho dù chỉ là một nguồn sáng nho nhỏ, những con đường từ mọi nơi đang dần hiện ra… Điều đó khiến cô vui, cô đã nhìn thấy những con đường khác. Cô đã có thể chọn lựa. Thế nhưng vì đi một con đường quá lâu, khi chợt có nhiều ngã rẽ như thế, cô không biết phải chọn ngã nào. Bước đầu, có lại được chút ánh sáng trong cuộc sống của mình, cô quyết định chọn con đường của người đã mang lại ánh sáng đó cho cô. Tôi chợt nhớ đến câu hát của Yui:
I feel my soul. Take me your way…
Khi gặp anh, em cảm nhận được tâm hồn của mình. Đó là một tâm hồn quá cô đơn trống trải. Vì vậy, hãy cho em cảm nhận tâm hồn của anh.
Em cảm nhận tâm hồn mình. Hãy dẫn em vào lối đi của anh…
Vậy mà… Kizuki lại rời bỏ Naoko quá sớm, quá sớm để Naoko có thể tập nhận thức một cách rõ ràng hơn về bản thể của mình, tự chọn cho mình một lối đi, tự tạo ra ánh sáng của chính mình… Con đường ấy giờ lại như năm xưa… chìm trong bóng tối. Dù vậy, trong cái bóng tối triền miên không dứt của đời người, Naoko vẫn nhận ra được có những thứ đã mãi mãi mất đi. Nỗi cô đơn một khi đã cố gắng giao hòa với một nỗi cô đơn khác mà không thể được, cuối cùng khi trở về một mình, nó đã lớn hơn trước gấp nhiều lần. Từ người chị gái thân yêu của mình, cho đến người bạn trai mà mình yêu mến… kết quả chỉ có một, không thể nào thay đổi được sự thật đó. Khi không tìm được bản thể của mình, họ đã không thể tiếp tục tồn tại. Giờ đây, Naoko cũng đã bất lực và lựa chọn sự ra đi giống họ…
Trong xã hội Nhật Bản thời kì chuyển đổi quá mạnh mẽ ấy, thanh niên Nhật cô đơn, lạc lõng. Họ không biết phải làm gì với chính cuộc đời mình. Điều đó dễ khiến người ta dễ đi đến tự sát vì cuộc đời quá nhàm chán. Vậy phải làm gì để tồn tại được?
Trong thế giới của Rừng Na Uy, người tôi khâm phục nhất là Toru. Không phải vì anh là một người đặc biệt. Anh thực sự không có gì đặc biệt, anh cũng chỉ là một người bình thường như chính anh thú nhận. Nhưng anh đặc biệt nhất vì anh dám sống với chính bản thể của mình cho dù cái bản thể đó có lẽ không được nhiều người trong xã hội chấp nhận. Anh không hề che giấu việc mình là một người cô đơn, ít bạn, suốt ngày chỉ mải mê đọc sách. Anh cũng không cố giao tiếp với những người mình không hợp, cái mà xã hội gọi đó là xã giao. Anh cô đơn và anh dám sống với chính sự cô đơn của mình, không hề cố gắng để thay đổi vì đó chính là bản thể của anh. Đó có lẽ là điểm mà anh đã thu hút được Kizuki, Nagasawa và cả Naoko nữa. Họ thích anh vì họ không làm được như anh. Khi ở bên anh, họ cảm thấy bình yên vì anh là chính anh. Ở xã hội ngoài kia, có mấy người sống thật sự là chính mình? Không tính đến chuyện lừa dối nhau, vì nhiều lí do, có lẽ chúng ta chỉ đang “hơi” sống thật với chính bản thân mình. Khi ta yêu ai đó… khi ai đó yêu ta… có thật ta đang yêu chính con người đó, có thật ai đó đang yêu chính con người ta? Sự thật một nửa, hay gần sự thật cũng đều không phải là sự thật. Sự thật chỉ là sự thật khi nó trọn vẹn là ...
Toru đã sống thật. Midori đã sống thật. Hai người đã sống thật sự là chính mình nên khi họ yêu nhau, họ yêu chính con người của đối phương và được đối phương yêu lại chính con người của mình. Dù hai người đến với nhau đều riêng mang những nỗi cô đơn trong tâm hồn nhưng với một tình yêu như thế, dù hiện tại có mang một chút sắc u buồn, khi biết cùng nhìn về tương lai chắc chắn nó sẽ ánh lên màu của tươi sáng, màu của hi vọng.
Sau khi trải nghiệm thế giới của Rừng Na Uy, nhìn lại mình, tôi ngạc nhiên khi thấy trong từng giai đoạn biến đổi của cuộc đời mình, tôi nhận ra nỗi cô đơn mà mình đã từng và đang mang có một chút giống Kizuki, một chút giống Naoko, một chút giống Toru…
Tôi là một đứa bé khi mới sinh ra đã không hòa nhập được với xã hội vì nhiều lí do. Suốt những năm mẫu giáo, cấp một, cấp hai, tôi luôn cô đơn, không có một người bạn thật sự nào cả. Nhưng khi còn ở mẫu giáo hay cấp một, tôi chưa bao giờ một lần bất mãn với chính nỗi cô đơn của mình, chính bản thân mình. Vì khi đó, tôi được sống yên bình ngày qua ngày. Tôi biết là mọi người chỉ không quan tâm tôi, tôi không hề có cảm giác là mình đang bị xã hội chối bỏ. Cho đến năm cấp hai, khi tôi không còn được sống yên bình trong thế giới nhỏ bé của mình, tôi bị mọi người cười nhạo, quấy rối, giẫm đạp lên chính bản thể của mình. Khi phải sống một cuộc sống địa ngục trần gian về mặt tinh thần như thế, tôi bắt đầu quay lại tự vấn và bất mãn với chính bản thân mình. Tại sao tôi lại phải mang cái tôi này để đổi lại cuộc sống như thế? Chính vì vậy, khi lên cấp ba, đến với một môi trường mới, có cơ hội để thay đổi mình, tôi đã chọn sự thay đổi. Lúc ấy, tôi đã gặp một người bạn nhìn tôi bằng ánh mắt khác với mọi người: bạn ấy chấp nhận tôi. Đó là người tôi vô cùng yêu mến. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy thực sự muốn bước vào thế giới của một người nào đó. “…I feel my soul. Take me you way…” Cảm giác đó có lẽ như Naoko lúc mới gặp Kizuki. Nhưng nếu như thế giới của Naoko và Kizuki mang nhiều điểm tương đồng, khi ở bên cạnh Kizuki, Naoko cảm nhận được tâm hồn của mình nhiều hơn thì ở đây, thế giới của tôi và người bạn đó khác nhau quá xa. Phần nhiều là tôi học cách để đi vào con đường của bạn ấy nhiều hơn là cảm nhận chính tâm hồn của mình. Để làm được điều đó, tôi phải thay đổi. Lúc trước, tôi cứ nghĩ đơn giản rằng mọi thứ đều có thể thay đổi được chỉ cần có cố gắng. Nhưng giờ đây, tôi mới nhận ra, đúng như Marc Levy đã từng viết: có những thứ có thể thay đổi được nhưng cũng có những thứ không thể thay đổi được, con người đau khổ vì không phân biệt được cái nào có thể thay đổi, cái nào không thể thay đổi. Lúc đó, tôi cứ hăm hở thay đổi tất cả mọi thứ thuộc về bản thân tôi để được sống trong thế giới của người ấy. Tôi thay đổi một cách hoàn hảo đến mức chính bản thân tôi cũng bị lừa gạt bởi cái hình ảnh tôi tự tạo ra lúc đó: một con bé nhiều chuyện, lúc nào cũng cười đùa vui vẻ, muốn kết được càng nhiều bạn càng tốt, yêu những cuộc đi chơi, yêu những thứ đơn giản, tốt đẹp trong cuộc sống… Những thay đổi đó đã giúp tôi tìm được niềm vui trong cuộc sống. Bây giờ, khi nhìn lại, những thay đổi đó không phải là hoàn toàn vô ích với tôi hiện tại, nó vẫn còn để lại những ảnh hưởng tích cực. Tôi quả thật đã thay đổi được những gì tôi có thể thay đổi để giúp cuộc sống của tôi tươi đẹp hơn nhưng đồng thời, tôi đã không nhận ra được rằng tôi cũng thay đổi luôn những thứ vốn không thể thay đổi, những thứ thuộc về chính bản thân tôi. Lúc này, tôi lại đồng cảm với nỗi cô đơn của Kizuki. Nỗi cô đơn khi phải che giấu chính con người thật của mình, sống không được thật sự là chính mình. Dù trong tiềm thức tôi không nhận ra, nhưng đâu đó trong con người tôi, cơ chế hoạt động của não tôi phản kháng lại sự thay đổi cái quan yếu của bản thân tôi. Nó diễn ra chầm chậm, từ từ, tôi không thể nào nhận ra được. Bắt đầu cuối năm cấp ba, tôi mỗi ngày một trầm tính hơn, mỗi ngày trở lại với bản thể ngày xưa của mình một chút.
Bây giờ, khi đã là một sinh viên năm hai, tôi hoàn toàn trở nên trầm lặng, trầm lặng hơn cả trước khi tôi cố gắng thay đổi. Tôi cô đơn, tôi có rất ít bạn, tôi mãi đắm chìm trong thế giới nghệ thuật.
Bây giờ, nhiều lúc tôi không hiểu nổi chính bản thân mình đang nghĩ gì giống như Naoko vậy. Có lẽ đó là cái giá tôi phải trả cho tội lỗi của mình lúc trước: đã sống không thật với chính mình.
Bây giờ, nhiều lúc tôi sống thật với bản thân mình đến mức cực đoan: chỉ làm những điều mình muốn, chỉ nói những điều mình nghĩ… khiến cho không ít những người bạn lúc trước của tôi bất bình bảo rằng tôi chẳng khác gì trẻ con. Vì chỉ có trẻ con mới làm mọi thứ theo bản tính tự nhiên của nó mà không suy nghĩ đến xung quanh…
…và sống như trẻ con thì rất dễ bị đau, bị tổn thương. Dù vậy, tôi sẽ làm tất cả để được sống là chính mình, để nâng niu, yêu thương bản thể của mình-cái mà tôi đã một lần đánh mất, giờ vẫn đang tìm lại dẫu rằng có thể mãi mãi tôi không tìm lại được nó trọn vẹn.
Vì đối với tôi, con người sống không phải là để được hạnh phúc, để tuyệt đối khất trừ mọi khổ đau. Con người sống là để lựa chọn cái thích hợp cho mình. Một hạnh phúc thích hợp… một nỗi đau thích hợp… một bản thể thích hợp… Bây giờ, tôi đau… tôi vẫn đang đau nhưng tôi tin… tôi vẫn đang tin, tôi yêu… tôi vẫn đang yêu cuộc đời này. Vì vậy, tôi hoan nghênh nỗi đau này. Để được sống là chính mình, được thực hiện ước mơ của mình, được yêu nghệ thuật thì nỗi đau này có là gì đâu. Sẽ ổn cả thôi khi tôi vẫn được là chính mình dù có đau như thế nào…
Vì đó là cách duy nhất để tôi có thể tiếp tục tồn tại trong xã hội này, để được sống trong cuộc đời này. Đó cũng là cách mà Toru đã chọn để tồn tại trong thế giới đó. Nếu không làm như thế, có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ không thể tiếp tục tồn tại và rồi sớm biến mất khỏi cuộc đời như Kizuki, Naoko…
Người yếu đuối nhất không phải là người cho người khác thấy sự yếu đuối của mình mà là những người đang cố che giấu đi sự yếu đuối đó. Làm sao có thể gọi những người ta thấy yếu đuối là yếu đuối khi họ đã dám sống thật với chính bản thân mình?
Ít nhất, đó là bài học mà tôi đã học được một cách rõ ràng trong một thế giới có quá nhiều điều mơ hồ, khó có thể dùng lời diễn tả rõ ràng như Rừng Na Uy.
Tôi đã đọc ở đâu đó một bình luận về Rừng Na Uy đại ý như thế này: làm sao có thể gọi Rừng Na Uy là cuốn sách thanh xuân bất diệt được khi có quá nhiều nỗi buồn, nỗi cô đơn đến nỗi con người không thể chịu được và đã có rất nhiều người tự tử trong đó.
Tôi nghĩ ý kiến đó là do người ấy đã nhìn những cái chết trong thế giới đó. Nhưng nếu nghĩ về Rừng Na Uy mà nhìn vào những con người có thể tiếp tục sống được, tồn tại được trong thế giới đó như Toru, như Midori… ta sẽ thấy lời nhận xét của báo Đọc sách Trung Hoa hoàn toàn đúng:
“Rừng Na Uy sẽ là cuốn sách thanh xuân bất diệt, bầu bạn với hết thế hệ này qua thế hệ khác”
Kodaki
Chiều Sài Gòn, 3-10
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Khung cửa hẹp, mein Lieblingsbuch
VN 0 có mấy người đọc KCH và nếu có thì có lẽ như tôi, nhiều năm 0 hiểu rõ vì sao nàng Alissa lại hành xử như vậy. Có lẽ vì vậy mà chả tìm thấy reviews, phê bình sách dù tìm lâu rồi và tương đối chăm chú khi tìm, so với ~ cuốn sách khác. Khó có thể diễn tả và nói rõ tại sao trong hàng trăm cuốn sách tôi đã đọc, lại thích nhất KCH. Có lẽ vì ~ câu sâu sắc về tình yêu trong cuốn sách. Có lẽ vì ấn tượng và cảm động tình yêu Jerome dành cho Alissa 1 tình yêu mà ngọn gió thời gian 0 bao giờ thổi tắt được. Chương cuối của KCH là chương sách hay nhất, ít cuốn sách nào sánh bằng, theo tôi.
Có một cuộc đời sau "Khung cửa hẹp"
Thảo Phương - m.afamily
"Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến nơi tai họa, đến chỗ trầm luân"…
Khung cửa hẹp
Tác giả: André Gide
Dịch giả: Bùi Giáng
Nxb.Văn nghệ
“Ai đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh? Ai xô Alissa vào khung cửa hẹp? Định mệnh hay nghi ngẫu?... Tự do của con người hay tâm thức của thiên tài sáng tác?... Ta tạm nói theo lối hồ đồ: Chính Nguyễn Du đã đẩy Kiều vào lầu xanh, chính Gide đã xô Alissa vào khung cửa hẹp. Để làm gì?”…
Bùi Giáng đã mở đầu cho cuốn tiểu thuyết ông dịch bằng câu hỏi đau đáu ấy. Dường như số phận, Chúa Trời, thế lực siêu nhiên và chính năng lượng tự tại trong mỗi con người luôn là một cuộc tranh đấu bền bỉ không thôi. Tư tưởng thông tuệ của nhà văn đạt giải Nobel - André Gide cộng với thi pháp dịch tài hoa của thi sĩ Bùi Giáng đã tạo ra một “Khung cửa hẹp” hoàn chỉnh và mang nó đến với bạn đọc, như một lời gửi gắm ý vị, sâu xa…
Tôi thực sự rất ấn tượng với tác phẩm này, tuy cái không khí “ngột ngạt”, lê thê của nó đôi lần làm tôi cảm thấy muốn bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng tôi đã đọc nó đến tận những trang cuối cùng, trong một buổi chiều mưa và lạnh. Hai chị em gái Alissa và Juliette, chàng si tình Jérôme cùng anh bạn Abel đều để lại trong lòng tôi với những kí ức và hình hài khác biệt. Họ, là một mắc xích đan xen vào nhau: Jérôme yêu cô chị Alissa, Abel yêu Juliette, thế nhưng cô em gái lại đem lòng yêu người tình của chị… Rồi cuộc đời của các nhân vật sẽ đi về đâu? Ai sẽ là người bất hạnh, và niềm hạnh phúc thực sự thuộc về ai?
“Khung cửa hẹp” là một cuốn tiểu thuyết không dễ đọc ở nửa phần đầu tiên, hoặc ít ra nó sẽ khiến cho bạn cảm thấy băn khoăn và hoài nghi về nhân vật nữ chính - Alissa. Nếu cô em gái Juliette lộng lẫy, vui tươi và hoạt bát bao nhiêu thì cô chị lại trầm lặng và ít nói bấy nhiêu. Nếu Jérôme hiểu được tiếng nói trái tim mình, biết đâu là người mình sẽ nặng tình và quyết theo đuổi đến suốt đời thì Alissa lại nhập nhằng giữa hư và thực. Nàng yêu, yêu đến tha thiết, tưởng chừng như không thể sống thiếu anh, nhưng rồi cũng chính nàng đẩy Jérôme ra khỏi tầm tay với. Bởi vì Alissa sợ hãi, nỗi sợ hãi mơ hồ mà chính bản thân người trong cuộc cũng không thể chỉ mặt đặt tên. Chính Alissa và những xúc cảm của nàng đã khiến người đọc phải phập phồng và lo lắng…
Nhường tình yêu của mình để đứa em gái tội nghiệp không đau khổ, nhưng nàng lại khiến cho Juliette cưới vội một người đàn ông khác, khiến Abel phải đau khổ ra đi. Alissa nhốt mình vào một thế giới riêng, luôn mặc cảm vì tuổi tác cộng với những cảm xúc mơ hồ ám ảnh hằng đêm khiến hai người cứ song song trên đường đời mà chẳng bao giờ có được một kết thúc viên mãn. Alissa nhốt mình trong khung cửa tưởng như phủ đầy tuyết lạnh, thân xác héo hon, để rồi chết trong nỗi cô đơn, “chết lạnh giữa niềm trinh bạch cóng giá” và gửi lại cuốn nhật ký đau lòng người ở lại… Cuối cùng thì, đằng sau khung cửa ấy, chẳng một ai là người hạnh phúc!
Nhớ lại thuở xưa, gần mười năm về trước, Alissa và Jérôme nguyện cầu trong ngôi nhà thờ nhỏ và nghe vị linh mục giảng lời trong Kinh Thánh: “Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến nơi tai họa, đến chỗ trầm luân… Có biết bao kẻ đã đi qua rồi, nhưng nhỏ hẹp mới là khung cửa, là con đường dẫn tới Đời Sống, và rất ít kẻ tìm ra”. Alissa có lẽ đã khắc cốt ghi tâm lời dạy ấy, có lẽ nàng đã cố gắng lách mình qua khung cửa hẹp “với nỗi đau đớn dị thường, chan hoà một niềm vui vô hạn ở Thiên đường cực lạc mai sau”… Còn đối với Jérôme, mối tình với Alissa là một mối tình ban sơ và kỳ ảo. Những đòi hỏi về xác thân cũng không thể làm thay đổi sự trong sáng ấy. Yêu một người, Jérôme không tìm cách chiếm hữu mà chỉ mong làm mình trở nên xứng đáng - “Làm việc, cố gắng, miệt mài, mọi thứ đều vì Alissa”… Hai con người này không đối lập với nhau, mà họ là sự bổ sung hoàn chỉnh: Người khép mình vào quy phạm, người cố gắng vượt thoát, và dù thế nào đi chăng nữa, họ cũng đều cố gắng tìm thấy "khung cửa hẹp" của mình, sẽ mãi là như thế!
“Khung cửa hẹp” được viết nên bằng dòng hồi tưởng của nhân vật xưng “tôi” (Jérôme). Câu chuyện đơn sơ, giản dị và lỡ chẳng may “có rách nát đôi lần cũng là điều ngoài ý”. Đối với André Gide ,“bịa đặt, thêm thắt để vá víu những kỷ niệm, để nối tiếp kỷ niệm lại với nhau” nào có ích gì? Bởi nó sẽ làm tiêu tan đi nỗi xúc cảm cuối cùng mà nhân vật mong tìm thấy, nó sẽ khiến cho bạn đọc chìm vào thứ ái tình ướt át, phô trương mà quên mất điều nhà văn gửi gắm…
Dù cuốn tiểu thuyết vẫn còn nhiều khía cạnh cần bàn đến, nhưng theo ý kiến cá nhân tôi, thì một phần những ý tứ mà André Gide gửi gắm đã được thông qua nhẹ nhàng bằng lời nhân vật Jérôme: Hạnh phúc không phải là sự hoài vọng ở ngày mai, mà đúng hơn, nó phải là sự cố gắng vô bờ để đạt được. “Chẳng có thành công nào không mua bằng nhiều vất vả kiên tâm”, chẳng có khung cửa thênh thang nào đón đợi và trao sẵn cho ta một điều kỳ diệu may mắn cả cuộc đời… Mỗi con người đều mang trong mình một “khung cửa hẹp”, và đối diện với nó như thế nào lại là sự nhận thức và quyết định của riêng họ mà thôi…
VN 0 có mấy người đọc KCH và nếu có thì có lẽ như tôi, nhiều năm 0 hiểu rõ vì sao nàng Alissa lại hành xử như vậy. Có lẽ vì vậy mà chả tìm thấy reviews, phê bình sách dù tìm lâu rồi và tương đối chăm chú khi tìm, so với ~ cuốn sách khác. Khó có thể diễn tả và nói rõ tại sao trong hàng trăm cuốn sách tôi đã đọc, lại thích nhất KCH. Có lẽ vì ~ câu sâu sắc về tình yêu trong cuốn sách. Có lẽ vì ấn tượng và cảm động tình yêu Jerome dành cho Alissa 1 tình yêu mà ngọn gió thời gian 0 bao giờ thổi tắt được. Chương cuối của KCH là chương sách hay nhất, ít cuốn sách nào sánh bằng, theo tôi.
Có một cuộc đời sau "Khung cửa hẹp"
Thảo Phương - m.afamily
"Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến nơi tai họa, đến chỗ trầm luân"…
Khung cửa hẹp
Tác giả: André Gide
Dịch giả: Bùi Giáng
Nxb.Văn nghệ
“Ai đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh? Ai xô Alissa vào khung cửa hẹp? Định mệnh hay nghi ngẫu?... Tự do của con người hay tâm thức của thiên tài sáng tác?... Ta tạm nói theo lối hồ đồ: Chính Nguyễn Du đã đẩy Kiều vào lầu xanh, chính Gide đã xô Alissa vào khung cửa hẹp. Để làm gì?”…
Bùi Giáng đã mở đầu cho cuốn tiểu thuyết ông dịch bằng câu hỏi đau đáu ấy. Dường như số phận, Chúa Trời, thế lực siêu nhiên và chính năng lượng tự tại trong mỗi con người luôn là một cuộc tranh đấu bền bỉ không thôi. Tư tưởng thông tuệ của nhà văn đạt giải Nobel - André Gide cộng với thi pháp dịch tài hoa của thi sĩ Bùi Giáng đã tạo ra một “Khung cửa hẹp” hoàn chỉnh và mang nó đến với bạn đọc, như một lời gửi gắm ý vị, sâu xa…
Tôi thực sự rất ấn tượng với tác phẩm này, tuy cái không khí “ngột ngạt”, lê thê của nó đôi lần làm tôi cảm thấy muốn bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng tôi đã đọc nó đến tận những trang cuối cùng, trong một buổi chiều mưa và lạnh. Hai chị em gái Alissa và Juliette, chàng si tình Jérôme cùng anh bạn Abel đều để lại trong lòng tôi với những kí ức và hình hài khác biệt. Họ, là một mắc xích đan xen vào nhau: Jérôme yêu cô chị Alissa, Abel yêu Juliette, thế nhưng cô em gái lại đem lòng yêu người tình của chị… Rồi cuộc đời của các nhân vật sẽ đi về đâu? Ai sẽ là người bất hạnh, và niềm hạnh phúc thực sự thuộc về ai?
“Khung cửa hẹp” là một cuốn tiểu thuyết không dễ đọc ở nửa phần đầu tiên, hoặc ít ra nó sẽ khiến cho bạn cảm thấy băn khoăn và hoài nghi về nhân vật nữ chính - Alissa. Nếu cô em gái Juliette lộng lẫy, vui tươi và hoạt bát bao nhiêu thì cô chị lại trầm lặng và ít nói bấy nhiêu. Nếu Jérôme hiểu được tiếng nói trái tim mình, biết đâu là người mình sẽ nặng tình và quyết theo đuổi đến suốt đời thì Alissa lại nhập nhằng giữa hư và thực. Nàng yêu, yêu đến tha thiết, tưởng chừng như không thể sống thiếu anh, nhưng rồi cũng chính nàng đẩy Jérôme ra khỏi tầm tay với. Bởi vì Alissa sợ hãi, nỗi sợ hãi mơ hồ mà chính bản thân người trong cuộc cũng không thể chỉ mặt đặt tên. Chính Alissa và những xúc cảm của nàng đã khiến người đọc phải phập phồng và lo lắng…
Nhường tình yêu của mình để đứa em gái tội nghiệp không đau khổ, nhưng nàng lại khiến cho Juliette cưới vội một người đàn ông khác, khiến Abel phải đau khổ ra đi. Alissa nhốt mình vào một thế giới riêng, luôn mặc cảm vì tuổi tác cộng với những cảm xúc mơ hồ ám ảnh hằng đêm khiến hai người cứ song song trên đường đời mà chẳng bao giờ có được một kết thúc viên mãn. Alissa nhốt mình trong khung cửa tưởng như phủ đầy tuyết lạnh, thân xác héo hon, để rồi chết trong nỗi cô đơn, “chết lạnh giữa niềm trinh bạch cóng giá” và gửi lại cuốn nhật ký đau lòng người ở lại… Cuối cùng thì, đằng sau khung cửa ấy, chẳng một ai là người hạnh phúc!
Nhớ lại thuở xưa, gần mười năm về trước, Alissa và Jérôme nguyện cầu trong ngôi nhà thờ nhỏ và nghe vị linh mục giảng lời trong Kinh Thánh: “Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến nơi tai họa, đến chỗ trầm luân… Có biết bao kẻ đã đi qua rồi, nhưng nhỏ hẹp mới là khung cửa, là con đường dẫn tới Đời Sống, và rất ít kẻ tìm ra”. Alissa có lẽ đã khắc cốt ghi tâm lời dạy ấy, có lẽ nàng đã cố gắng lách mình qua khung cửa hẹp “với nỗi đau đớn dị thường, chan hoà một niềm vui vô hạn ở Thiên đường cực lạc mai sau”… Còn đối với Jérôme, mối tình với Alissa là một mối tình ban sơ và kỳ ảo. Những đòi hỏi về xác thân cũng không thể làm thay đổi sự trong sáng ấy. Yêu một người, Jérôme không tìm cách chiếm hữu mà chỉ mong làm mình trở nên xứng đáng - “Làm việc, cố gắng, miệt mài, mọi thứ đều vì Alissa”… Hai con người này không đối lập với nhau, mà họ là sự bổ sung hoàn chỉnh: Người khép mình vào quy phạm, người cố gắng vượt thoát, và dù thế nào đi chăng nữa, họ cũng đều cố gắng tìm thấy "khung cửa hẹp" của mình, sẽ mãi là như thế!
“Khung cửa hẹp” được viết nên bằng dòng hồi tưởng của nhân vật xưng “tôi” (Jérôme). Câu chuyện đơn sơ, giản dị và lỡ chẳng may “có rách nát đôi lần cũng là điều ngoài ý”. Đối với André Gide ,“bịa đặt, thêm thắt để vá víu những kỷ niệm, để nối tiếp kỷ niệm lại với nhau” nào có ích gì? Bởi nó sẽ làm tiêu tan đi nỗi xúc cảm cuối cùng mà nhân vật mong tìm thấy, nó sẽ khiến cho bạn đọc chìm vào thứ ái tình ướt át, phô trương mà quên mất điều nhà văn gửi gắm…
Dù cuốn tiểu thuyết vẫn còn nhiều khía cạnh cần bàn đến, nhưng theo ý kiến cá nhân tôi, thì một phần những ý tứ mà André Gide gửi gắm đã được thông qua nhẹ nhàng bằng lời nhân vật Jérôme: Hạnh phúc không phải là sự hoài vọng ở ngày mai, mà đúng hơn, nó phải là sự cố gắng vô bờ để đạt được. “Chẳng có thành công nào không mua bằng nhiều vất vả kiên tâm”, chẳng có khung cửa thênh thang nào đón đợi và trao sẵn cho ta một điều kỳ diệu may mắn cả cuộc đời… Mỗi con người đều mang trong mình một “khung cửa hẹp”, và đối diện với nó như thế nào lại là sự nhận thức và quyết định của riêng họ mà thôi…
Last edited by LDN on Thu Oct 13, 2022 6:52 am; edited 4 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
André Gide: Kẻ vô luân trước 'khung cửa hẹp'
TTVH
(Thethaovanhoa.vn) - Sinh thời, bạn bè André Gide thường khuyên ông bớt dung túng trong lối viết, đừng khiến văn chương trở thành thứ cổ vũ cho bản năng và tội phạm. Tuy nhiên, trong lễ trao giải Nobel năm 1947, ông lại được tôn vinh bởi chính sự trung thực và thấu đáo trong các sáng tác của mình.
Bản thân Gide, trong suốt cuộc đời, đã phải đấu tranh giữa một bên là “những gì tồn tại trong mình” với một bên là khung cửa hẹp luân lý dẫn tới đời sống thanh giáo trong sạch.
"Khung cửa hẹp"
André Gide sinh ngày 22/11/1869 tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha ông là giáo sư luật tại Đại học Paris nhưng sớm qua đời năm 1880, khi nhà văn mới 11 tuổi. Từ nhỏ, Gide được mẹ nuôi dạy nghiêm khắc theo giáo lý tôn giáo. Dù vậy, sự hà khắc từ mẹ không dập được bản năng nổi loạn trong Gide.
Từ những ngày còn rất nhỏ, Gide đã bộc lộ là đứa trẻ cứng đầu, nhiều thói hư tật xấu. Nhưng cũng chính sự ngang ngạnh này mang tới cho nhà văn những hoài bão lớn, đưa ông tới con đường chông gai ít người dám mạo hiểm bước vào, để tìm ra chân lý và chính con người mình.
André Gide: "Hãy thành thật với những thứ tồn tại bên trong mình"
Gide tìm thấy con đường này vào một chiều thu Paris, khi đứng trên cao, nhìn nắng chiếu xuống sông Seine và trên nóc nhà thờ Đức Bà. Ông bỗng thấy mình như một nhân vật trong truyện của Balzac và quyết định sẽ dùng ngòi bút để thực hiện cuộc cách mạng trong tâm tưởng của mình. Ít năm sau đó, ở tuổi 21, ông ra mắt Những ghi chép của André Walter, một tiểu thuyết bán tự truyện kể về những khủng hoảng, giằng xé, mong tìm tới sự thần bí và thanh cao trong tình yêu.
Ngay từ tác phẩm đầu tiên này, Gide đã gây chú ý với lối viết phóng túng, phơi bày không chút giấu giếm những ham muốn vô luân, những nhục dục thấp hèn… Càng về sau, cùng với những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn, Gide càng khiến người đọc sửng sốt với những sự thật được đưa ra ánh sáng dưới cái nhìn của một kẻ phi đạo đức.
"Kẻ vô luân"
Những nhân vật của Gide đều mang bóng dáng cuộc đời ông, như ông từng viết: “Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn”. Để hiểu về những tác phẩm gây chấn động của Gide, cần nhìn lại chính đời ông.
Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm, sống bản năng. Về sau, ông lại gặp thêm quá nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện ra mình là người đồng tính.
Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi (ông đã hồi tưởng lại mối tình đầy ngang trái này trong tác phẩm Khung cửa hẹp). Phát hiện này khiến ông bị rối loạn cảm xúc.
Về sau, ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình đồng giới và thật bất ngờ, lại có con với một người phụ nữ khác.
Như con thiêu thân, Gide lao vào những cuộc sa đọa trác táng và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Nhiều người đã lên án Gide kịch liệt, coi những tác phẩm của ông như liều thuốc độc cho người đọc. Bạn bè trong giới văn chương cũng có phần dè chứng ông.
Nhưng Gide không vì thế mà chùn bước. Ông vẫn trung thành với bản chất con người, coi thường những hình thức phù phiếm, giả tạo. Ông nâng tầm quan điểm của mình lên thành triết lý trong Kẻ vô luân, kể về Michel, kẻ vượt qua mọi rào cản đạo đức trong hành trình nổi loạn để khám phá con người thật của mình.
Nhưng trong Gide vẫn văng vẳng tiếng Phúc âm cầu sám hối. Chính vị thế luôn ở giữa các thái cực giúp Gide có cái nhìn chân thật về mọi mặt cuộc sống, bộc lộc rõ trong các tác phẩm của ông, đặc biệt là trong kiệt tác Bọn làm bạc giả.
"Bọn làm bạc giả"
Thomas Mann từng ngợi ca Bọn làm bạc giả của André Gide cùng với Ulyssses của James Joyce và Sói thảo nguyên của Hermann Hesse là những đỉnh cao về nghệ thuật viết.
Bọn làm bạc giả, với cấu trúc lập thể, viết về quan hệ chằng chịt, móc nối giữa các nhân vật tưởng chừng không có liên hệ. Điều đáng nói là các nhân vật này đều hiện lên với hai mặt đối lập, một mặt để trưng với người khác, một mặt là bản chất thật trong mình.
Không có tác phẩm nào mà thói đạo đức giả lại bị vạch trần như trong Bọn làm bạc giả. Đây cũng là tác phẩm tạo nên cả một khuynh hướng hoàn toàn mới trong nghệ thuật viết truyện đương thời.
Nhưng do đó, nó cũng bị những người phản đối Gide đả kích kịch liệt và gọi ông là kẻ phi đạo đức. Trong diễn văn trao giải Nobel Văn học năm 1947, ông Anders Osterling, Thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển cho rằng những người công kích đã nhầm lẫn về khái niệm phi đạo đức. Rằng thực ra, “Thuyết Phi đạo đức chỉ đề cập tới những hành động tự do, là sự giải phóng khỏi những dồn nén lương tâm”, chứ Gide không phải người cổ xúy cho những thói buông tuồng sa đọa.
Giải Nobel năm 1947 đã trả lại cho Gide đúng giá trị là một nhà văn kiệt xuất, với kiến thức uyên bác và nghệ thuật viết vượt bậc, và trên tất cả, là người dám đối đầu với những vấn đề của con người bằng cái nhìn chân thực không sợ hãi và sự thấu đáo về tâm lý nhân vật.
Những nhà hiện sinh Pháp nổi tiếng (và sau đó đều giành giải Nobel) là Albert Camus và Jean-Paul Sartre đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Gide.
André Gide (giải Nobel văn học năm 1947) qua đời ngày 19/2/1951 trong sự ngưỡng mộ của thế giới. Ông đã sống một cuộc đời đầy “dưỡng chất trần gian”.Với sự thức thời của mình, văn chương của Gide tới nay vẫn mang tầm ảnh hưởng sâu sắc và được bạn đọc mọi thế hệ đón nhận.
Thư Vĩ
TTVH
(Thethaovanhoa.vn) - Sinh thời, bạn bè André Gide thường khuyên ông bớt dung túng trong lối viết, đừng khiến văn chương trở thành thứ cổ vũ cho bản năng và tội phạm. Tuy nhiên, trong lễ trao giải Nobel năm 1947, ông lại được tôn vinh bởi chính sự trung thực và thấu đáo trong các sáng tác của mình.
Bản thân Gide, trong suốt cuộc đời, đã phải đấu tranh giữa một bên là “những gì tồn tại trong mình” với một bên là khung cửa hẹp luân lý dẫn tới đời sống thanh giáo trong sạch.
"Khung cửa hẹp"
André Gide sinh ngày 22/11/1869 tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha ông là giáo sư luật tại Đại học Paris nhưng sớm qua đời năm 1880, khi nhà văn mới 11 tuổi. Từ nhỏ, Gide được mẹ nuôi dạy nghiêm khắc theo giáo lý tôn giáo. Dù vậy, sự hà khắc từ mẹ không dập được bản năng nổi loạn trong Gide.
Từ những ngày còn rất nhỏ, Gide đã bộc lộ là đứa trẻ cứng đầu, nhiều thói hư tật xấu. Nhưng cũng chính sự ngang ngạnh này mang tới cho nhà văn những hoài bão lớn, đưa ông tới con đường chông gai ít người dám mạo hiểm bước vào, để tìm ra chân lý và chính con người mình.
André Gide: "Hãy thành thật với những thứ tồn tại bên trong mình"
Gide tìm thấy con đường này vào một chiều thu Paris, khi đứng trên cao, nhìn nắng chiếu xuống sông Seine và trên nóc nhà thờ Đức Bà. Ông bỗng thấy mình như một nhân vật trong truyện của Balzac và quyết định sẽ dùng ngòi bút để thực hiện cuộc cách mạng trong tâm tưởng của mình. Ít năm sau đó, ở tuổi 21, ông ra mắt Những ghi chép của André Walter, một tiểu thuyết bán tự truyện kể về những khủng hoảng, giằng xé, mong tìm tới sự thần bí và thanh cao trong tình yêu.
Ngay từ tác phẩm đầu tiên này, Gide đã gây chú ý với lối viết phóng túng, phơi bày không chút giấu giếm những ham muốn vô luân, những nhục dục thấp hèn… Càng về sau, cùng với những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn, Gide càng khiến người đọc sửng sốt với những sự thật được đưa ra ánh sáng dưới cái nhìn của một kẻ phi đạo đức.
"Kẻ vô luân"
Những nhân vật của Gide đều mang bóng dáng cuộc đời ông, như ông từng viết: “Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn”. Để hiểu về những tác phẩm gây chấn động của Gide, cần nhìn lại chính đời ông.
Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm, sống bản năng. Về sau, ông lại gặp thêm quá nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện ra mình là người đồng tính.
Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi (ông đã hồi tưởng lại mối tình đầy ngang trái này trong tác phẩm Khung cửa hẹp). Phát hiện này khiến ông bị rối loạn cảm xúc.
Về sau, ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình đồng giới và thật bất ngờ, lại có con với một người phụ nữ khác.
Như con thiêu thân, Gide lao vào những cuộc sa đọa trác táng và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Nhiều người đã lên án Gide kịch liệt, coi những tác phẩm của ông như liều thuốc độc cho người đọc. Bạn bè trong giới văn chương cũng có phần dè chứng ông.
Nhưng Gide không vì thế mà chùn bước. Ông vẫn trung thành với bản chất con người, coi thường những hình thức phù phiếm, giả tạo. Ông nâng tầm quan điểm của mình lên thành triết lý trong Kẻ vô luân, kể về Michel, kẻ vượt qua mọi rào cản đạo đức trong hành trình nổi loạn để khám phá con người thật của mình.
Nhưng trong Gide vẫn văng vẳng tiếng Phúc âm cầu sám hối. Chính vị thế luôn ở giữa các thái cực giúp Gide có cái nhìn chân thật về mọi mặt cuộc sống, bộc lộc rõ trong các tác phẩm của ông, đặc biệt là trong kiệt tác Bọn làm bạc giả.
"Bọn làm bạc giả"
Thomas Mann từng ngợi ca Bọn làm bạc giả của André Gide cùng với Ulyssses của James Joyce và Sói thảo nguyên của Hermann Hesse là những đỉnh cao về nghệ thuật viết.
Bọn làm bạc giả, với cấu trúc lập thể, viết về quan hệ chằng chịt, móc nối giữa các nhân vật tưởng chừng không có liên hệ. Điều đáng nói là các nhân vật này đều hiện lên với hai mặt đối lập, một mặt để trưng với người khác, một mặt là bản chất thật trong mình.
Không có tác phẩm nào mà thói đạo đức giả lại bị vạch trần như trong Bọn làm bạc giả. Đây cũng là tác phẩm tạo nên cả một khuynh hướng hoàn toàn mới trong nghệ thuật viết truyện đương thời.
Nhưng do đó, nó cũng bị những người phản đối Gide đả kích kịch liệt và gọi ông là kẻ phi đạo đức. Trong diễn văn trao giải Nobel Văn học năm 1947, ông Anders Osterling, Thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển cho rằng những người công kích đã nhầm lẫn về khái niệm phi đạo đức. Rằng thực ra, “Thuyết Phi đạo đức chỉ đề cập tới những hành động tự do, là sự giải phóng khỏi những dồn nén lương tâm”, chứ Gide không phải người cổ xúy cho những thói buông tuồng sa đọa.
Giải Nobel năm 1947 đã trả lại cho Gide đúng giá trị là một nhà văn kiệt xuất, với kiến thức uyên bác và nghệ thuật viết vượt bậc, và trên tất cả, là người dám đối đầu với những vấn đề của con người bằng cái nhìn chân thực không sợ hãi và sự thấu đáo về tâm lý nhân vật.
Những nhà hiện sinh Pháp nổi tiếng (và sau đó đều giành giải Nobel) là Albert Camus và Jean-Paul Sartre đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Gide.
André Gide (giải Nobel văn học năm 1947) qua đời ngày 19/2/1951 trong sự ngưỡng mộ của thế giới. Ông đã sống một cuộc đời đầy “dưỡng chất trần gian”.Với sự thức thời của mình, văn chương của Gide tới nay vẫn mang tầm ảnh hưởng sâu sắc và được bạn đọc mọi thế hệ đón nhận.
Thư Vĩ
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp …
Posted by nguyenhueporteetroite - khungcuahep
Hôm nay tôi biết mình phải trả lời những câu hỏi xa gần đã hỏi tôi tại sao “Khung Cửa Hẹp”, hẹp quá làm sao lách vào. Tôi không biết nói gì hơn là trích một đoạn trong cuốn La Porte étroite của André Gide, một câu của St Matthieu trong thánh kinh, mà ông đã dùng làm nền tảng cho cuốn sách của mình: “Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến nơi tai họa, trầm luân, có biết bao kẻ đã đi qua, nhưng nhỏ hẹp mới là khung cửa, là con đường dẫn đến Đời Sống, mà rất ít kẻ tìm ra … Efforcez-vous d’entrer par la porte étroite, car la porte large et le chemin spacieux mènent à la perdition, et nombreux sont ceux qui y passent; mais étroite est la porte et resserrée la voie qui conduisent à la Vie, et il en est peu qui les trouvent.”
Tôi dùng tựa sách để đặt tên cho blog của mình, cuốn sách mơ mộng tuổi mười sáu thuở mới lớn đã ảnh hưởng suốt cuộc đời.
Tống Mai
Trong ngôi thánh đường nhỏ sáng hôm ấy, người đi lễ lưa thưa. Mục sư Vautier, như có dụng ý, đem những lời sau của Chúa ra giảng: Con hãy gắng bước vào, qua khung cửa hẹp.
Alissa ngồi trên kia, cách tôi vài hàng ghế. Tôi nhìn nàng đăm đăm. Tôi quên hết trời đất, quên hết bản thân mình, cho đến nỗi những lời mục sư nói, và tôi thiết tha nghe, tưởng chừng như xuyên qua hình hài thịt xương Alissa mà vọng tới. Cậu tôi ngồi bên cạnh mẹ tôi, mắt đẫm lệ.
Mục sư đọc trọn đoạn thánh kinh: “Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến nơi tai họa, đến chỗ trầm luân, có biết bao kẻ đã đi qua rồi, nhưng nhỏ hẹp mới là khung cửa, là con đường dẫn tới Đời Sống, và rất ít kẻ tìm ra”. Rồi xác định những đoạn mục của vấn đề, ban đầu mục sư nói đến con đường thênh thang… Tinh thần như chìm trong một cơn mộng, tôi hình dung căn phòng của mợ tôi; tôi thấy lại trong tâm trí, mợ tôi nằm dài, cười với người sĩ quan điển trai. Chàng ta cũng cười. Và từ đó, ý niệm về tiếng cười, về niềm vui, đã trở thành khó chịu, như có gì xúc phạm tổn thương, như đó là tràn bờ của tội lỗi.
“Có biết bao kẻ đã đi qua”, vị mục sư lặp lại; đoạn ông mô tả, trong khi tôi như thấy số người đông đảo xa hoa, lòe loẹt, kẻ trước người sau dập dìu tiến thành một đoàn dài liên tiếp, và tôi thấy mình không thể, mình không muốn xen vào với họ mà đi, mỗi bước đi cùng họ sẽ làm tôi cách biệt Alissa dần dần. Rồi vị mục sư trở lại câu đầu của đoạn Thánh kinh. Tôi thấy khung cửa hẹp như hiển hiện trước mắt mình. Trong cơn mộng mê man, tôi hình dung nó như một thứ máy dát kim loại, mà tôi phải cố gắng lách mình qua với nỗi đau đớn dị thường, chan hòa một niềm vui vô hạn vì tiên cảm sự toàn phúc ở Thiên đường cực lạc mai sau. Thế rồi cái khung cửa hẹp lại trở thành chính khung cửa phòng Alissa; muốn đi vào, tôi phải thu mình lại, trút bỏ hết mọi vị kỷ, cá nhân… “Bởi vì, nhỏ hẹp mới chính là đường dẫn tới nguồn sống”, vị mục sư vẫn tiếp tục giảng, và tôi thấy ở phía bên kia bao nhiêu khổ hạnh, bao nhiêu đau buồn, còn một niềm vui khác, thuần túy, siêu nhiên, mà cả linh hồn tôi đang bắt đầu chờ mong, khao khát. Niềm vui ấy như một giọng đàn vừa gắt gay vừa êm dịu, như một ngọn lửa thiêu đốt buồng tim của Alissa và của tôi. Chúng tôi tiến lên vận toàn y phục trắng như lời thiên mặc thị trong Thánh kinh, chúng tôi nắm tay nhau cùng đăm đăm một đích… Nếu những mộng tưởng đầu tiên ấy có làm bạn buồn cười thì cũng được. Tôi vẫn xin kể lại, không muốn thêm bớt chút nào. Nghe có lẽ mơ hồ hỗn độn, ấy chỉ bởi ngôn từ và hình ảnh không đủ sức phô diễn một xúc cảm xác thực, thiết tha.
– “Và rất ít kẻ tìm ra”, vị mục sư kết luận. Ông giải thích phải làm sao để tìm ra khung cửa hẹp… Rất ít kẻ. Tôi sẽ là một trong những kẻ ấy…
Sau bài thuyết giáo, tâm hồn tôi bị kích thích đến độ lúc giáo lễ vừa xong tôi chạy biến đi, không muốn gặp Alissa, vì kiêu hãnh, muốn thi hành ngay những điều quyết định (tôi đã quyết định rồi), và nghĩ rằng mình sẽ xứng đáng với nàng hơn nếu biết xa nàng ngay lúc ấy. (Bản dịch Bùi Giáng)
* * *
Dans la petite chapelle, il n’y avait, ce matin-là, pas grand monde. Le pasteur Vautier, sans doute intentionnellement, avait pris pour texte de sa méditation ces paroles du Christ: Efforcez-vous d’entrer par la porte étroite.
Alissa se tenait à quelques places devant moi. Je voyais de profil son visage; je la regardai fixement, avec un tel oubli de moi qu’il me semblait que j’entendais à travers elle ces mots que j’écoutais éperdument. – Mon oncle était assis à côté de ma mère et pleurait.
Le pasteur avait d’abord lu tout le verset: Efforcez-vous d’entrer par la porte étroite, car la porte large et le chemin spacieux mènent à la perdition, et nombreux sont ceux qui y passent mais étroite est la porte et resserrée la voie qui conduisent à la Vie, et il en est peu qui le trouvent. Puis, précisant les divisions du sujet, il parlait d’abord du chemin spacieux… L’esprit perdu, et comme en rêve, je revoyais la chambre de ma tante; je revoyais ma tante étendue, riante; je voyais le brillant officier rire aussi… et l’idée même du rire, de la joie, se faisait blessante, outrageuse, devenait comme l’odieuse exagération du péché!…
Et nombreux sont ceux qui y passent, reprenait le pasteur Vautier; puis il peignait et je voyais une multitude parée, riant et s’avançant folâtrement, formant cortège où je sentais que je ne pouvais, que je ne voulais pas trouver place, parce que chaque pas que j’eusse fait avec eux m’aurait écarté d’Alissa. – Et le pasteur ramenait le début du texte, et je voyais cette porte étroite par laquelle il fallait s’efforcer d’entrer. Je me la représentais, dans le rêve où je plongeais, comme une sorte de laminoir, où je m’introduisais avec effort, avec une douleur extraordinaire où se mêlait pourtant un avant-goût de la félicité du ciel. Et cette porte devenait encore la porte même de la chambre d’Alissa; pour entrer je me réduisais, me vidais de tout ce qui subsistait en moi d’égoïsme… Car étroite est la voie qui conduit à la Vie , continuait le pasteur Vautier – et par-delà toute macération, toute tristesse, j’imaginais, je pressentais une autre joie, pure, mystique, séraphique et dont mon âme déjà s’assoiffait. Je l’imaginais, cette joie, comme un chant de violon à la fois strident et tendre, comme une flamme aiguë où le cœur d’Alissa et le mien s’épuisaient. Tous deux nous avancions, vêtus de ces vêtements blancs dont nous parlait l’Apocalypse, nous tenant par la main et regardant un même but… Que m’importe si ces rêves d’enfant font sourire! je les redis sans y changer. La confusion qui peut-être y paraît n’est que dans les mots et dans les imparfaites images pour rendre un sentiment très précis.
– Il en est peu qui la trouvent, achevait le pasteur Vautier. Il expliquait comment trouver la porte étroite… Il en est peu. – Je serais de ceux-là…
J’étais parvenu vers la fin du sermon à un tel état de tension morale que, sitôt le culte fini, je m’enfuis sans chercher à voir ma cousine – par fierté, voulant déjà mettre mes résolutions (car j’en avais pris) à l’épreuve, et pensant la mieux mériter en m’éloignant d’elle aussitôt.
(La Porte étroite – André Gide)
(Romans et Récits. P. 820)
Posted by nguyenhueporteetroite - khungcuahep
Hôm nay tôi biết mình phải trả lời những câu hỏi xa gần đã hỏi tôi tại sao “Khung Cửa Hẹp”, hẹp quá làm sao lách vào. Tôi không biết nói gì hơn là trích một đoạn trong cuốn La Porte étroite của André Gide, một câu của St Matthieu trong thánh kinh, mà ông đã dùng làm nền tảng cho cuốn sách của mình: “Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến nơi tai họa, trầm luân, có biết bao kẻ đã đi qua, nhưng nhỏ hẹp mới là khung cửa, là con đường dẫn đến Đời Sống, mà rất ít kẻ tìm ra … Efforcez-vous d’entrer par la porte étroite, car la porte large et le chemin spacieux mènent à la perdition, et nombreux sont ceux qui y passent; mais étroite est la porte et resserrée la voie qui conduisent à la Vie, et il en est peu qui les trouvent.”
Tôi dùng tựa sách để đặt tên cho blog của mình, cuốn sách mơ mộng tuổi mười sáu thuở mới lớn đã ảnh hưởng suốt cuộc đời.
Tống Mai
Trong ngôi thánh đường nhỏ sáng hôm ấy, người đi lễ lưa thưa. Mục sư Vautier, như có dụng ý, đem những lời sau của Chúa ra giảng: Con hãy gắng bước vào, qua khung cửa hẹp.
Alissa ngồi trên kia, cách tôi vài hàng ghế. Tôi nhìn nàng đăm đăm. Tôi quên hết trời đất, quên hết bản thân mình, cho đến nỗi những lời mục sư nói, và tôi thiết tha nghe, tưởng chừng như xuyên qua hình hài thịt xương Alissa mà vọng tới. Cậu tôi ngồi bên cạnh mẹ tôi, mắt đẫm lệ.
Mục sư đọc trọn đoạn thánh kinh: “Con hãy gắng tiến vào, qua khung cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến nơi tai họa, đến chỗ trầm luân, có biết bao kẻ đã đi qua rồi, nhưng nhỏ hẹp mới là khung cửa, là con đường dẫn tới Đời Sống, và rất ít kẻ tìm ra”. Rồi xác định những đoạn mục của vấn đề, ban đầu mục sư nói đến con đường thênh thang… Tinh thần như chìm trong một cơn mộng, tôi hình dung căn phòng của mợ tôi; tôi thấy lại trong tâm trí, mợ tôi nằm dài, cười với người sĩ quan điển trai. Chàng ta cũng cười. Và từ đó, ý niệm về tiếng cười, về niềm vui, đã trở thành khó chịu, như có gì xúc phạm tổn thương, như đó là tràn bờ của tội lỗi.
“Có biết bao kẻ đã đi qua”, vị mục sư lặp lại; đoạn ông mô tả, trong khi tôi như thấy số người đông đảo xa hoa, lòe loẹt, kẻ trước người sau dập dìu tiến thành một đoàn dài liên tiếp, và tôi thấy mình không thể, mình không muốn xen vào với họ mà đi, mỗi bước đi cùng họ sẽ làm tôi cách biệt Alissa dần dần. Rồi vị mục sư trở lại câu đầu của đoạn Thánh kinh. Tôi thấy khung cửa hẹp như hiển hiện trước mắt mình. Trong cơn mộng mê man, tôi hình dung nó như một thứ máy dát kim loại, mà tôi phải cố gắng lách mình qua với nỗi đau đớn dị thường, chan hòa một niềm vui vô hạn vì tiên cảm sự toàn phúc ở Thiên đường cực lạc mai sau. Thế rồi cái khung cửa hẹp lại trở thành chính khung cửa phòng Alissa; muốn đi vào, tôi phải thu mình lại, trút bỏ hết mọi vị kỷ, cá nhân… “Bởi vì, nhỏ hẹp mới chính là đường dẫn tới nguồn sống”, vị mục sư vẫn tiếp tục giảng, và tôi thấy ở phía bên kia bao nhiêu khổ hạnh, bao nhiêu đau buồn, còn một niềm vui khác, thuần túy, siêu nhiên, mà cả linh hồn tôi đang bắt đầu chờ mong, khao khát. Niềm vui ấy như một giọng đàn vừa gắt gay vừa êm dịu, như một ngọn lửa thiêu đốt buồng tim của Alissa và của tôi. Chúng tôi tiến lên vận toàn y phục trắng như lời thiên mặc thị trong Thánh kinh, chúng tôi nắm tay nhau cùng đăm đăm một đích… Nếu những mộng tưởng đầu tiên ấy có làm bạn buồn cười thì cũng được. Tôi vẫn xin kể lại, không muốn thêm bớt chút nào. Nghe có lẽ mơ hồ hỗn độn, ấy chỉ bởi ngôn từ và hình ảnh không đủ sức phô diễn một xúc cảm xác thực, thiết tha.
– “Và rất ít kẻ tìm ra”, vị mục sư kết luận. Ông giải thích phải làm sao để tìm ra khung cửa hẹp… Rất ít kẻ. Tôi sẽ là một trong những kẻ ấy…
Sau bài thuyết giáo, tâm hồn tôi bị kích thích đến độ lúc giáo lễ vừa xong tôi chạy biến đi, không muốn gặp Alissa, vì kiêu hãnh, muốn thi hành ngay những điều quyết định (tôi đã quyết định rồi), và nghĩ rằng mình sẽ xứng đáng với nàng hơn nếu biết xa nàng ngay lúc ấy. (Bản dịch Bùi Giáng)
* * *
Dans la petite chapelle, il n’y avait, ce matin-là, pas grand monde. Le pasteur Vautier, sans doute intentionnellement, avait pris pour texte de sa méditation ces paroles du Christ: Efforcez-vous d’entrer par la porte étroite.
Alissa se tenait à quelques places devant moi. Je voyais de profil son visage; je la regardai fixement, avec un tel oubli de moi qu’il me semblait que j’entendais à travers elle ces mots que j’écoutais éperdument. – Mon oncle était assis à côté de ma mère et pleurait.
Le pasteur avait d’abord lu tout le verset: Efforcez-vous d’entrer par la porte étroite, car la porte large et le chemin spacieux mènent à la perdition, et nombreux sont ceux qui y passent mais étroite est la porte et resserrée la voie qui conduisent à la Vie, et il en est peu qui le trouvent. Puis, précisant les divisions du sujet, il parlait d’abord du chemin spacieux… L’esprit perdu, et comme en rêve, je revoyais la chambre de ma tante; je revoyais ma tante étendue, riante; je voyais le brillant officier rire aussi… et l’idée même du rire, de la joie, se faisait blessante, outrageuse, devenait comme l’odieuse exagération du péché!…
Et nombreux sont ceux qui y passent, reprenait le pasteur Vautier; puis il peignait et je voyais une multitude parée, riant et s’avançant folâtrement, formant cortège où je sentais que je ne pouvais, que je ne voulais pas trouver place, parce que chaque pas que j’eusse fait avec eux m’aurait écarté d’Alissa. – Et le pasteur ramenait le début du texte, et je voyais cette porte étroite par laquelle il fallait s’efforcer d’entrer. Je me la représentais, dans le rêve où je plongeais, comme une sorte de laminoir, où je m’introduisais avec effort, avec une douleur extraordinaire où se mêlait pourtant un avant-goût de la félicité du ciel. Et cette porte devenait encore la porte même de la chambre d’Alissa; pour entrer je me réduisais, me vidais de tout ce qui subsistait en moi d’égoïsme… Car étroite est la voie qui conduit à la Vie , continuait le pasteur Vautier – et par-delà toute macération, toute tristesse, j’imaginais, je pressentais une autre joie, pure, mystique, séraphique et dont mon âme déjà s’assoiffait. Je l’imaginais, cette joie, comme un chant de violon à la fois strident et tendre, comme une flamme aiguë où le cœur d’Alissa et le mien s’épuisaient. Tous deux nous avancions, vêtus de ces vêtements blancs dont nous parlait l’Apocalypse, nous tenant par la main et regardant un même but… Que m’importe si ces rêves d’enfant font sourire! je les redis sans y changer. La confusion qui peut-être y paraît n’est que dans les mots et dans les imparfaites images pour rendre un sentiment très précis.
– Il en est peu qui la trouvent, achevait le pasteur Vautier. Il expliquait comment trouver la porte étroite… Il en est peu. – Je serais de ceux-là…
J’étais parvenu vers la fin du sermon à un tel état de tension morale que, sitôt le culte fini, je m’enfuis sans chercher à voir ma cousine – par fierté, voulant déjà mettre mes résolutions (car j’en avais pris) à l’épreuve, et pensant la mieux mériter en m’éloignant d’elle aussitôt.
(La Porte étroite – André Gide)
(Romans et Récits. P. 820)
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Tôi là fan ruột của ông Hồ Biểu Chánh
Top 10 tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nhất định phải đọc
Topshare
Hồ Biểu Chánh là một trong số những thế hệ nhà văn quốc ngữ đầu tiên ở Nam Bộ. Với lối viết văn hết sức dung dị, kể về những chuyện vặt vãnh trong sinh hoạt hằng ngày, ngôn ngữ bình dân, văn chương ông dễ dàng nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt từ độc giả. Hôm nay Top Share sẽ chia sẻ cho bạn top 10 tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nhất định phải đọc nhé!
1
Cay đắng mùi đời
Cay đắng mùi đời là quyển tác phẩm được Hồ Biểu Chánh phóng tác từ tiểu thuyết Không gia đình của Hector Malot. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện của thầy Đàng và cùng hai đứa học trò là thằng Được và bé Liên. Ba thầy trò đã cùng nhau trải qua những tháng ngày mưu sinh nhọc nhằn, cùng nhau chống chọi với các ác để bảo tồn thiên lương. Tác phẩm sau này đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên.
2
Con nhà nghèo
Con nhà nghèo kể về số phận bất hạnh của cô Lựu. Là một nàng xinh đẹp, Lựu bị bọn cường hào ác bá ức hiếp, sống trong cảnh bị dàu vò nhục nhã. Cô Lựu cùng những người dân thấp cổ bé họng khác đã không ít lần đứng lên đấu tranh, song cuối cùng cũng đành bất lực.
3
Chúa tàu Kim Quy
Chúa tàu Kim Quy cũng là một tác phẩm được Hồ Biểu Chánh phỏng theo tiểu thuyết phương Tây Bá tước Monte Cristo. Câu chuyện kể về hành trình đòi lại công lí của chàng trai Lê Thủ Nghĩa, khuyên can con người ở đời phải sống có nghĩa có tình, phản đối cái xấu. Những người đứng đắn, can trường thì sau bao gian truân cũng sẽ có được tương lai sáng ngời.
4
Lòng dạ đàn bà
Lòng dạ đàn bà là quyển tiểu thuyết viết về cuộc đời long đong của người phụ nữ. Nhân vật nữ trong tác phẩm có xuất thân, tính cách khác nhau song họ đều có điểm chung là chịu kiếp “phất phơ giữa chợ”, chịu nhiều thiệt thòi, chèn ép.
5
Ngọn cỏ gió đùa
Ngọn cỏ gió đùa phản ánh hiện thực đời sống nhọc nhằn người dân dưới sự cai trị của bọn cường hào ác bá. Nhưng cuộc đời có nhân có quả, bọn tàn ác cuối cùng sẽ bị trừng trị thích đáng.
6
Hai khối tình
Hai khối tình kể về câu chuyện của cô Cúc, một cô gái ưa độc lập, tính cách mạnh mẽ, yêu thích văn chương. Những sự việc của Cúc xoay quanh mối quan hệ với những người đàn ông như Hoàng và Xương sẽ cho ta biết trân trọng tấm chân tình và biết nhìn nhận vạn vật kĩ lưỡng hơn.
7
Cha con nghĩa nặng
Một quyển tiểu thuyết xúc động về tình cha con qua việc khắc họa hai nhân vật Trần Văn Sửu và Tí. Tác giả đã thể hiện quan niệm đạo lí cá nhân, khuyên con người ta phải sống sao cho trọn vẹn nghĩa tình.
8
Tại tôi
Tại tôi lấy bối cảnh xã hội Nam Bộ dưới thời Pháp thuộc, kể về tấn bi kịch trong gia đình bà cả Kim lắm tiền nhiều của lại có quyền hành trong tay. Quan niệm môn đăng hộ đối trong hôn nhân đã dẫn đến bao nhiêu tình cảnh éo le cho bao cặp đôi, trong đó có con thứ ba của bà Cả là Hữu Thạch.
9
Tình án
Tình án kể về cuộc đời của cô gái Tây học Thanh Túy. Cô phải chịu lắm điều bất hạnh, bị chồng phản bội nhưng rồi lại bị vu oan cho tội giết chồng. Tình án đi vào đào sâu vấn đề công lí, bình đẳng trong xã hội, trong gia đình, trong hôn nhân ở ba mươi năm đầu thế kỉ XX.
10
Chút phận linh đinh
Chút phận linh đinh được Hồ Biểu Chánh phỏng theo tiểu thuyết nổi tiếng Trong gia đình, kể về thân phận long đong của hai mẹ con Thu Vân và Thu Cúc sau khi có tin chiếc tàu chở chồng/cha là Hiển Vinh qua Pháp đã bị bắn chìm. Hai mẹ con đã chịu nhiều vất vả, thiệt thòi để đến cuối cùng được hưởng trái ngọt.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh để lại trong lòng người đọc những dấu ấn khó thể nào phai mờ. Đọc tiểu thuyết của ông, ta thức tỉnh được nhiều điều.
Top 10 tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nhất định phải đọc
Topshare
Hồ Biểu Chánh là một trong số những thế hệ nhà văn quốc ngữ đầu tiên ở Nam Bộ. Với lối viết văn hết sức dung dị, kể về những chuyện vặt vãnh trong sinh hoạt hằng ngày, ngôn ngữ bình dân, văn chương ông dễ dàng nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt từ độc giả. Hôm nay Top Share sẽ chia sẻ cho bạn top 10 tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nhất định phải đọc nhé!
1
Cay đắng mùi đời
Cay đắng mùi đời là quyển tác phẩm được Hồ Biểu Chánh phóng tác từ tiểu thuyết Không gia đình của Hector Malot. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện của thầy Đàng và cùng hai đứa học trò là thằng Được và bé Liên. Ba thầy trò đã cùng nhau trải qua những tháng ngày mưu sinh nhọc nhằn, cùng nhau chống chọi với các ác để bảo tồn thiên lương. Tác phẩm sau này đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên.
2
Con nhà nghèo
Con nhà nghèo kể về số phận bất hạnh của cô Lựu. Là một nàng xinh đẹp, Lựu bị bọn cường hào ác bá ức hiếp, sống trong cảnh bị dàu vò nhục nhã. Cô Lựu cùng những người dân thấp cổ bé họng khác đã không ít lần đứng lên đấu tranh, song cuối cùng cũng đành bất lực.
3
Chúa tàu Kim Quy
Chúa tàu Kim Quy cũng là một tác phẩm được Hồ Biểu Chánh phỏng theo tiểu thuyết phương Tây Bá tước Monte Cristo. Câu chuyện kể về hành trình đòi lại công lí của chàng trai Lê Thủ Nghĩa, khuyên can con người ở đời phải sống có nghĩa có tình, phản đối cái xấu. Những người đứng đắn, can trường thì sau bao gian truân cũng sẽ có được tương lai sáng ngời.
4
Lòng dạ đàn bà
Lòng dạ đàn bà là quyển tiểu thuyết viết về cuộc đời long đong của người phụ nữ. Nhân vật nữ trong tác phẩm có xuất thân, tính cách khác nhau song họ đều có điểm chung là chịu kiếp “phất phơ giữa chợ”, chịu nhiều thiệt thòi, chèn ép.
5
Ngọn cỏ gió đùa
Ngọn cỏ gió đùa phản ánh hiện thực đời sống nhọc nhằn người dân dưới sự cai trị của bọn cường hào ác bá. Nhưng cuộc đời có nhân có quả, bọn tàn ác cuối cùng sẽ bị trừng trị thích đáng.
6
Hai khối tình
Hai khối tình kể về câu chuyện của cô Cúc, một cô gái ưa độc lập, tính cách mạnh mẽ, yêu thích văn chương. Những sự việc của Cúc xoay quanh mối quan hệ với những người đàn ông như Hoàng và Xương sẽ cho ta biết trân trọng tấm chân tình và biết nhìn nhận vạn vật kĩ lưỡng hơn.
7
Cha con nghĩa nặng
Một quyển tiểu thuyết xúc động về tình cha con qua việc khắc họa hai nhân vật Trần Văn Sửu và Tí. Tác giả đã thể hiện quan niệm đạo lí cá nhân, khuyên con người ta phải sống sao cho trọn vẹn nghĩa tình.
8
Tại tôi
Tại tôi lấy bối cảnh xã hội Nam Bộ dưới thời Pháp thuộc, kể về tấn bi kịch trong gia đình bà cả Kim lắm tiền nhiều của lại có quyền hành trong tay. Quan niệm môn đăng hộ đối trong hôn nhân đã dẫn đến bao nhiêu tình cảnh éo le cho bao cặp đôi, trong đó có con thứ ba của bà Cả là Hữu Thạch.
9
Tình án
Tình án kể về cuộc đời của cô gái Tây học Thanh Túy. Cô phải chịu lắm điều bất hạnh, bị chồng phản bội nhưng rồi lại bị vu oan cho tội giết chồng. Tình án đi vào đào sâu vấn đề công lí, bình đẳng trong xã hội, trong gia đình, trong hôn nhân ở ba mươi năm đầu thế kỉ XX.
10
Chút phận linh đinh
Chút phận linh đinh được Hồ Biểu Chánh phỏng theo tiểu thuyết nổi tiếng Trong gia đình, kể về thân phận long đong của hai mẹ con Thu Vân và Thu Cúc sau khi có tin chiếc tàu chở chồng/cha là Hiển Vinh qua Pháp đã bị bắn chìm. Hai mẹ con đã chịu nhiều vất vả, thiệt thòi để đến cuối cùng được hưởng trái ngọt.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh để lại trong lòng người đọc những dấu ấn khó thể nào phai mờ. Đọc tiểu thuyết của ông, ta thức tỉnh được nhiều điều.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Hồ Biểu Chánh- Nhà văn có nhiều tác phẩm nhất Việt Nam
Thtg
Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tự là Thứ Tiên, sinh ngày 01/10/ 1885 tại làng Bình Thành, nay thuộc xã Thành Công, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
1
Chân dung nhà văn Hồ Biểu Chánh . Nguồn Internet
Thuở nhỏ, ông được học chữ Nho tại gia đình rồi chữ Pháp tại trường Collège de Mytho (nay là trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu). Năm 1905, ông thi đỗ Thành chung. Năm sau, ông thi đỗ ngạch Thư ký Hành chính và làm việc tại dinh Hiệp lý.
Từ năm 1910, ông được bổ làm Thông phán tại nhiều nơi ở Nam Kỳ, như Bạc Liêu, Cà Mau, Long Xuyên, Gia Định, v.v…Năm 1920, ông đỗ đầu kì thi Tri huyện, làm Chủ quận Càng Long, Ô Môn, Phụng Hiệp, v.v…Năm 1936, ông được thăng Đốc phủ sứ. Năm 1938, ông xin về hưu. Năm 1941, ông bị chính quyền thực dân Pháp ép ra làm việc trở lại, tham gia Hội đồng Liên bang Đông Dương, Hội đồng thành phố Sài Gòn kiêm chức Phó Đốc lý, phụ trách việc hộ tịch.
Năm 1945, cách mạng Tháng Tám thành công, ông lui về ở ẩn. Đầu năm 1946, sau khi tái chiếm Nam bộ, thực dân Pháp, một lần nữa buộc ông làm cố vấn cho chính phủ bù nhìn thân Pháp Nguyễn Văn Thinh. Vài tháng sau, chính phủ này đổ, ông lại lui về ở ẩn cho đến lúc cuối đời. Về cuộc đời “ông quan” Hồ Văn Trung, người đời sau thống nhất nhau ở một điểm: đây là ông quan thanh liêm, noi theo nếp sống thanh bạch của người xưa và xem đó là chuẩn mực để hun đúc tinh thần đạo nghĩa phương Đông.
6
Cảnh trong phim Ngọn cỏ gió đùa-tác phẩm Hồ Biểu Chánh -Nguồn Internet
Thế nhưng, nhân dân Nam bộ lại biết ông với tư cách là nhà văn hơn là một viên chức của chính quyền Pháp. Với bút danh là Hồ Biểu Chánh, ông đến với văn chương từ rất sớm. Năm 1910, ông viết truyện thơ đầu tay U tình lục, tiếp theo là 5 tác phẩm nữa. Từ năm 1921-1941, ông cho ra đời 44 tác phẩm. Từ năm 1943-1945, ông sáng tác sung mãn nhất: 48 tác phẩm gồm nhiều thể loại. Từ năm 1953-1958, ông cho xuất bản 22 tác phẩm. Trong quãng đời cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm: 64 tiểu thuyết, 3 truyện ngắn, 7 đoản thiên, 2 tập thơ, 5 hài kịch, 4 vở Hát Bội, 3 vở cải lương, 5 tác phẩm tùy bút và phê bình, 6 tập hồi ức, 8 bài diễn thuyết, 23 tác phẩm khảo cứu và văn học.
Có thể kể những tác phẩm chính của ông, như: Ai làm được (1912), Chúa tàu Kim Quy (1922), Cay đắng mùi đời, Tỉnh mộng, Một chữ tình (1923), Nhân tình ấm lạnh, Tiền bạc bạc tiền, Ngọn cỏ gió đùa (1925), Thầy thông ngôn (1926), Cha con nghĩa nặng (1929), Nặng gánh cang thường, Con nhà nghèo (1930), Con nhà giàu (1931), Nợ đời (1936), v.v.. Tác phẩm của ông được nhiều thế hệ độc giả ở Nam bộ mến chuộng. Nhiều quyển được tái bản nhiều lần và được dựng thành phim. Đi sâu phân tích tác phẩm của ông, Tiến sĩ khoa học Lê Ngọc Trà viết:
5
Cảnh trong phim Nợ đời -tác phẩm Hồ Biểu Chánh -Nguồn Internet
“Cái độc đáo nhất và giá trị nhất của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nhằm chủ yếu không phải ở chỗ nó mô tả phong tục hay tuyên truyền đạo lí mà ở chỗ nó thông qua mô tả phong tục kết hợp với tư tưởng là chủ nghĩa hiện thực. Chỉ riêng mô tả phong tục không thôi, văn học dễ biến thành dân tộc học. Còn chỉ tuyên truyền đạo đức không thôi, văn học sẽ thành luân lý. Vả lại, văn học đạo lý trước Hồ Biểu Chánh đã có Nguyễn Đình Chiểu là người thành công trên lĩnh vực này. Cái mới và cái hay của Hồ Biểu Chánh là ông nói đạo lý đi kèm với nói chuyện đời, kể lại những cảnh đời khác nhau có thể là không gắn gì với các biến động chính trị, kinh tế, xã hội; nhưng lại gắn chặt với đời người, lại là nội dung của đời sống hàng ngày”.
Về sự nghiệp văn chương của ông, Giáo sư Trần Văn Giàu đã phát biểu tổng kết tại Hội thảo về cuộc đời và văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh được tổ chức ở Tiền Giang trong hai ngày 17 và 18-11-1988 như sau: “Tôi thấy rằng, việc dạy văn Hồ Biểu Chánh được, từ Đại học, cấp 3, cấp 2, nhất là cấp 1. Sách Hồ Biểu Chánh được nhân dân tán thưởng, có nhiều lý do- không những tại văn ông hay mà còn ở chỗ cái văn không phải là văn. Cái văn không văn đó mới hay. Hay ở chỗ, nói lại tiếng nói của dân, cái tấm lòng của dân, còn hay ở chỗ đạo đức, luân lý. Ở trong sách của Hồ Biểu Chánh có đạo đức luân lý Nho giáo, Phật giáo; mà đó là của dân tộc chúng ta”.
Nhìn chung, ông có những đóng góp quan trọng vào nền văn học nước nhà, nhất là thời kì văn học đầu thế kỉ XX. Tiến sĩ Hồ Sĩ Hiệp nhận định: “Tiếp thu kĩ thuật xây dựng tiểu thuyết phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã góp phần cách tân thể loại tiểu thuyết về các mặt xây dựng cốt truyện, tình tiết, bố cục tác phẩm, tính cách, tâm lý nhân vật cho đến ngôn ngữ văn chương. Cỗ xe chở tư tưởng là chữ quốc ngữ trước đó nặng nề, ì ạch; đến đây đã được đẩy đi một cách nhẹ nhàng, phăng phăng lướt trên những dặm đường văn học mới. Đó là công lao của anh phu xe tiền phong Hồ Biểu Chánh”.
4
Hội thảo khoa học ” Giá trị văn học trong các tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh ” do Tỉnh ủy tỉnh Tiền Giang tổ chức tháng 8/2015. Ảnh : Phi Phụng
Ngoài ra, ông còn làm báo. Từ năm 1910-1941, ông là người sáng lập ra các tờ Đại Việt tạp chí, Tribune Indigène (tạm dịch Diễn đàn Bản xứ), Quốc dân diễn đàn, Nam kỳ tuần báo.
Ông mất năm 1958 tại quận Phú Nhuận, Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), thọ 73 tuổi. Lấy tên những tác phẩm tiêu biểu của ông, hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết đã sáng tác hai câu đối độc đáo đến viếng ông trong lễ tang:
Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được?
Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt gia gia thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn tình còn Ở theo thời.
NGUYỄN PHÚC NGHIỆP
Thtg
Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tự là Thứ Tiên, sinh ngày 01/10/ 1885 tại làng Bình Thành, nay thuộc xã Thành Công, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
1
Chân dung nhà văn Hồ Biểu Chánh . Nguồn Internet
Thuở nhỏ, ông được học chữ Nho tại gia đình rồi chữ Pháp tại trường Collège de Mytho (nay là trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu). Năm 1905, ông thi đỗ Thành chung. Năm sau, ông thi đỗ ngạch Thư ký Hành chính và làm việc tại dinh Hiệp lý.
Từ năm 1910, ông được bổ làm Thông phán tại nhiều nơi ở Nam Kỳ, như Bạc Liêu, Cà Mau, Long Xuyên, Gia Định, v.v…Năm 1920, ông đỗ đầu kì thi Tri huyện, làm Chủ quận Càng Long, Ô Môn, Phụng Hiệp, v.v…Năm 1936, ông được thăng Đốc phủ sứ. Năm 1938, ông xin về hưu. Năm 1941, ông bị chính quyền thực dân Pháp ép ra làm việc trở lại, tham gia Hội đồng Liên bang Đông Dương, Hội đồng thành phố Sài Gòn kiêm chức Phó Đốc lý, phụ trách việc hộ tịch.
Năm 1945, cách mạng Tháng Tám thành công, ông lui về ở ẩn. Đầu năm 1946, sau khi tái chiếm Nam bộ, thực dân Pháp, một lần nữa buộc ông làm cố vấn cho chính phủ bù nhìn thân Pháp Nguyễn Văn Thinh. Vài tháng sau, chính phủ này đổ, ông lại lui về ở ẩn cho đến lúc cuối đời. Về cuộc đời “ông quan” Hồ Văn Trung, người đời sau thống nhất nhau ở một điểm: đây là ông quan thanh liêm, noi theo nếp sống thanh bạch của người xưa và xem đó là chuẩn mực để hun đúc tinh thần đạo nghĩa phương Đông.
6
Cảnh trong phim Ngọn cỏ gió đùa-tác phẩm Hồ Biểu Chánh -Nguồn Internet
Thế nhưng, nhân dân Nam bộ lại biết ông với tư cách là nhà văn hơn là một viên chức của chính quyền Pháp. Với bút danh là Hồ Biểu Chánh, ông đến với văn chương từ rất sớm. Năm 1910, ông viết truyện thơ đầu tay U tình lục, tiếp theo là 5 tác phẩm nữa. Từ năm 1921-1941, ông cho ra đời 44 tác phẩm. Từ năm 1943-1945, ông sáng tác sung mãn nhất: 48 tác phẩm gồm nhiều thể loại. Từ năm 1953-1958, ông cho xuất bản 22 tác phẩm. Trong quãng đời cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm: 64 tiểu thuyết, 3 truyện ngắn, 7 đoản thiên, 2 tập thơ, 5 hài kịch, 4 vở Hát Bội, 3 vở cải lương, 5 tác phẩm tùy bút và phê bình, 6 tập hồi ức, 8 bài diễn thuyết, 23 tác phẩm khảo cứu và văn học.
Có thể kể những tác phẩm chính của ông, như: Ai làm được (1912), Chúa tàu Kim Quy (1922), Cay đắng mùi đời, Tỉnh mộng, Một chữ tình (1923), Nhân tình ấm lạnh, Tiền bạc bạc tiền, Ngọn cỏ gió đùa (1925), Thầy thông ngôn (1926), Cha con nghĩa nặng (1929), Nặng gánh cang thường, Con nhà nghèo (1930), Con nhà giàu (1931), Nợ đời (1936), v.v.. Tác phẩm của ông được nhiều thế hệ độc giả ở Nam bộ mến chuộng. Nhiều quyển được tái bản nhiều lần và được dựng thành phim. Đi sâu phân tích tác phẩm của ông, Tiến sĩ khoa học Lê Ngọc Trà viết:
5
Cảnh trong phim Nợ đời -tác phẩm Hồ Biểu Chánh -Nguồn Internet
“Cái độc đáo nhất và giá trị nhất của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nhằm chủ yếu không phải ở chỗ nó mô tả phong tục hay tuyên truyền đạo lí mà ở chỗ nó thông qua mô tả phong tục kết hợp với tư tưởng là chủ nghĩa hiện thực. Chỉ riêng mô tả phong tục không thôi, văn học dễ biến thành dân tộc học. Còn chỉ tuyên truyền đạo đức không thôi, văn học sẽ thành luân lý. Vả lại, văn học đạo lý trước Hồ Biểu Chánh đã có Nguyễn Đình Chiểu là người thành công trên lĩnh vực này. Cái mới và cái hay của Hồ Biểu Chánh là ông nói đạo lý đi kèm với nói chuyện đời, kể lại những cảnh đời khác nhau có thể là không gắn gì với các biến động chính trị, kinh tế, xã hội; nhưng lại gắn chặt với đời người, lại là nội dung của đời sống hàng ngày”.
Về sự nghiệp văn chương của ông, Giáo sư Trần Văn Giàu đã phát biểu tổng kết tại Hội thảo về cuộc đời và văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh được tổ chức ở Tiền Giang trong hai ngày 17 và 18-11-1988 như sau: “Tôi thấy rằng, việc dạy văn Hồ Biểu Chánh được, từ Đại học, cấp 3, cấp 2, nhất là cấp 1. Sách Hồ Biểu Chánh được nhân dân tán thưởng, có nhiều lý do- không những tại văn ông hay mà còn ở chỗ cái văn không phải là văn. Cái văn không văn đó mới hay. Hay ở chỗ, nói lại tiếng nói của dân, cái tấm lòng của dân, còn hay ở chỗ đạo đức, luân lý. Ở trong sách của Hồ Biểu Chánh có đạo đức luân lý Nho giáo, Phật giáo; mà đó là của dân tộc chúng ta”.
Nhìn chung, ông có những đóng góp quan trọng vào nền văn học nước nhà, nhất là thời kì văn học đầu thế kỉ XX. Tiến sĩ Hồ Sĩ Hiệp nhận định: “Tiếp thu kĩ thuật xây dựng tiểu thuyết phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã góp phần cách tân thể loại tiểu thuyết về các mặt xây dựng cốt truyện, tình tiết, bố cục tác phẩm, tính cách, tâm lý nhân vật cho đến ngôn ngữ văn chương. Cỗ xe chở tư tưởng là chữ quốc ngữ trước đó nặng nề, ì ạch; đến đây đã được đẩy đi một cách nhẹ nhàng, phăng phăng lướt trên những dặm đường văn học mới. Đó là công lao của anh phu xe tiền phong Hồ Biểu Chánh”.
4
Hội thảo khoa học ” Giá trị văn học trong các tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh ” do Tỉnh ủy tỉnh Tiền Giang tổ chức tháng 8/2015. Ảnh : Phi Phụng
Ngoài ra, ông còn làm báo. Từ năm 1910-1941, ông là người sáng lập ra các tờ Đại Việt tạp chí, Tribune Indigène (tạm dịch Diễn đàn Bản xứ), Quốc dân diễn đàn, Nam kỳ tuần báo.
Ông mất năm 1958 tại quận Phú Nhuận, Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), thọ 73 tuổi. Lấy tên những tác phẩm tiêu biểu của ông, hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết đã sáng tác hai câu đối độc đáo đến viếng ông trong lễ tang:
Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được?
Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt gia gia thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn tình còn Ở theo thời.
NGUYỄN PHÚC NGHIỆP
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Hồ Biểu Chánh - Kho tiểu thuyết khổng lồ của đất phương Nam
Vannghetiengiang
Nhà văn Hồ Biểu Chánh
I. SỐ PHẬN PHẢI LÀM QUAN
Ngày 01-10-1885, tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công nay thuộc tỉnh Tiền Giang, cậu bé Hồ Văn Trung (nhà văn Hồ Biểu Chánh) đã cất tiếng khóc chào đời. Dù sinh trưởng trong một gia đình nông dân, nhưng nội tổ của Hồ Biểu Chánh ngày trước từng là người khai ấp lập làng, trong bảng vị Tiên hiền của làng Bình Thành có thờ nội tổ của Hồ Biểu Chánh. Thân phụ của Hồ Biểu Chánh cũng từng tham dự trong ban Hội hương chánh, sau đó lên chức Hương chủ, rồi đến Chánh bái. Với điều kiện gia đình như vậy, Hồ Biểu Chánh được học hành đàng hoàng hơn so với những đứa trẻ cùng làng. Năm lên 8 tuổi, ông theo học chữ nho tại trường làng Bình Thành, được các thầy đồ đánh giá là thông minh sáng dạ hơn người.
Đến năm Hồ Biểu Chánh 12 tuổi, cha mẹ ông rời quê đến chợ Giồng thuộc làng Ông Huê sinh sống. Lúc này, Hồ Biểu Chánh chuyển sang học chữ Quốc ngữ và Pháp văn tại trường Vĩnh Lợi. Sau đó, được cấp học bổng để vào trường trung học Chasseluop-Laubat ở Sài Gòn. Có lẽ từ thời điểm ấy, cuộc đời ông chuyển sang một bước ngoặt lớn. Học giỏi, thông minh, tinh tế và hiếu động, trong học tập cũng như trong cuộc sống, Hồ Biểu Chánh luôn là cậu bé thích khám phá và tìm tòi. Chuyện học hành, thầy giáo truyền đạt một, ông tự tìm hiểu đến mười. Cuối năm 1905, ông thi đậu Thành Chung, còn gọi là Diplôme de fin déludé. Năm 1906, ở tuổi 21, Hồ Biểu Chánh bắt đầu sống cuộc đời công chức.
Từ năm 1906 đến năm 1912, Hồ Biểu Chánh tòng sự tại dinh Hiệp Lý. Tại đây, ông được dân yêu mến bởi có chức sắc nhưng không lấy quyền lực mà hà hiếp người yếu thế. Ông luôn trọng nhân trọng nghĩa, dù phải ngồi trên chiếc ghế của thực dân Pháp. Từ năm 1912 đến năm 1914, chỉ trong vòng 2 năm, Hồ Biểu Chánh phải tòng sự ở nhiều nơi. Các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Long Xuyên là những nơi ông phải trông nom về hành chính. Đến năm 1919, ông được cử về làm việc tại Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Cứ tưởng đã ổn định một nơi, giữ mãi một việc một chức, nào ngờ đến năm 1920, Hồ Biểu Chánh lại chuyển sang làm việc tại văn phòng Thống đốc Nam kỳ. Được một năm, ông đâm đơn thi và vừa bước sang năm 1921, ông đã thi đỗ chức Tri huyện. Nhờ vậy nên từ năm 1921 đến năm 1927, ông đã thăng đến chức Quận trưởng quận Càng Long nay thuộc tỉnh Trà Vinh và giữ mãi chức ấy trong nhiều năm. Đến năm 1932, Hồ Biểu Chánh được điều về Ô Môn (nay thuộc thành phố Cần Thơ) làm Quận trưởng. Được 2 năm, đến năm 1934, Hồ Biểu Chánh lại chuyển sang Phụng Hiệp (Cần Thơ) làm Quận trưởng. Năm 1936, Hồ Biểu Chánh lại được thăng lên chức Đốc phủ sứ.
Hồ Biểu Chánh giữ chức Đốc phủ sứ được một năm. Đầu năm 1937, ông muốn rút lui khỏi “chiếc ghế” quan chức một cách quyết liệt bởi ông thấy mình quá mệt mỏi với cuộc đời công chức. Vì tính đến thời điểm đó, ông đã sống cuộc đời công chức đến 31 năm. Cho nên khi đâm đơn xin nghỉ hưu, ông đã được Chính phủ Pháp chấp thuận ngay. Khổ thân ông Đốc phủ sứ Hồ Biểu Chánh, xin từ chức đã được Chính phủ chấp thuận, nhưng ông vẫn không rời được “chiếc ghế” quan trường. Vì chưa có người thay thế vị trí mình, Hồ Biểu Chánh đành phải tại chức cho đến năm 1941 mới được thôi việc. Xem như phải mất đến 4 năm từ khi đưa đơn đến lúc nghỉ hẳn, Hồ Biểu Chánh mới chính thức được nghỉ hưu. Nhưng chỉ được tự do ít hôm, ngày 4 tháng 8 năm 1941, chính quyền Pháp lại cử Hồ Biểu Chánh làm Nghị viên Hội đồng Liên bang Đông Dương. Rồi, những ngày tháng cuối năm 1941, Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập thành một, Hồ Biểu Chánh lại bị ép buộc và cử làm Nghị viên trong Ban quản trị Sài Gòn - Chợ Lớn cho đến năm 1945.
Xem như từ ngày được Chính phủ Pháp chấp thuận cho nghỉ hưu, phải mất đến 9 năm, Hồ Biểu Chánh mới thoát được cuộc đời công chức. Phải chăng vì vậy nên đến năm 1946, khi vừa rời khỏi chiếc ghế quan chức, Hồ Biểu Chánh đã vội vã quay về cố hương tại Gò Công sống cuộc đời dân dã.
II. CÁI NGHIỆP PHẢI VIẾT VĂN
Thuở thiếu thời, Hồ Biểu Chánh đã tập tành viết văn. Những tác phẩm ông sáng tác xong, thường nằm sâu dưới đáy rương, nhưng ông vẫn thích viết, vẫn thích vẩn vơ với câu chữ. Năm 1906, bỗng dưng nổi lên phong trào công chúng đua nhau đọc sách dịch của Tàu (Trung Quốc). Hồ Biểu Chánh thấy mình cần phải học thêm chữ Nho để đọc trực tiếp sách Tàu. Ông tìm đến một người bạn học am hiểu chữ nghĩa Trung Quốc để nhờ chỉ dạy hàng ngày. Học chẳng bao lâu, trình độ chữ Nho của Hồ Biểu Chánh tiến bộ khá rõ rệt. Ông tìm và chọn đọc những truyện hay trong bộ Tình sử, Kim cổ kỳ quan… một cách say sưa và thích thú. Vừa đọc, Hồ Biểu Chánh vừa nghiền ngẫm, nghiên cứu từng câu chữ, từ cấu trúc đến ý tứ… của từng tác phẩm.
Để sau đó, ông tự dịch những truyện hay khi đọc xong ra chữ Quốc ngữ cho bạn bè cùng đọc. Không chỉ dịch, Hồ Biểu Chánh còn đặt nhan đề hẳn hoi, rất riêng biệt so với những người khác dịch. Dù Hồ Biểu Chánh đã dịch được quyển Tân soạn cổ tích khá nổi tiếng nhưng ham muốn được làm công việc sáng tác luôn thôi thúc ông. Từ sự đam mê ấy, Hồ Biểu Chánh đã bắt tay vào viết truyện dài với tựa đề là U Tình Lục.
Thời điểm đó, Trần Chánh Chiếu lại cho xuất bản cuốn Hoàng Tổ Anh hàm oan gây xôn xao dư luận vì đây là loại tiểu thuyết tình cảm, những nhân vật trong truyện là những con người của lục tỉnh. Họ sống rất Nam bộ, làm việc theo kiểu Nam bộ… đặc biệt yêu cũng rất Nam bộ. Nhưng khi đọc xong tiểu thuyết ấy, Hồ Biểu Chánh lại nghĩ hoàn toàn trái hẳn với cách hành văn của Trần Chánh Chiếu. Nếu đặt bút viết với nội dung như vậy, Hồ Biểu Chánh sẽ viết khác. Vì theo ông, truyện viết bằng văn xuôi bao giờ cũng dễ đọc hơn văn vần. Do trình độ dân trí chưa cao, tác phẩm thể hiện như vậy sẽ kén người đọc, độc giả không có khả năng cảm thụ thì xem như tác phẩm ấy đã thất bại.
Thế là Hồ Biểu Chánh tập tành viết truyện theo dạng văn xuôi. Những đề tài và nội dung trong tác phẩm của ông thường mô phỏng từ những truyện ở tận bên Tây và bên Tàu. Khi viết xong được tác phẩm nào, Hồ Biểu Chánh đều gửi đến báo chí. Ông không thể tin là mình viết truyện nào báo chí đều đăng ngay lấy truyện ấy. Để rồi như một động lực thúc đẩy Hồ Biểu Chánh lao đến nghiệp văn chương, một cách đầy sáng tạo và hăng say. Dù đang trong thời kỳ tập sự, nhưng Hồ Biểu Chánh đã cho ra đời hàng loạt tiểu thuyết được độc giả đón nhận nồng nhiệt: Ai làm được (1922), Chúa tàu Kim Quy (1922), Vì nghĩa vì tình (1929), Cha con nghĩa nặng (1929), Khóc thầm (1930), Con nhà giàu (1931), Chút phận linh đinh (1931).
Ngay cả trong thời kỳ còn tại chức, từ năm 1932 - 1945, Hồ Biểu Chánh đã viết miệt mài với 4 vở hát bội, 3 vở cải lương và 25 cuốn tiểu thuyết. Những ngày về hưu sống ở Gò Công, qua 9 năm, Hồ Biểu Chánh đã viết gần 20 cuốn tiểu thuyết. Bên cạnh viết tiểu thuyết, ông còn nghiên cứu văn học, lý luận, tôn giáo… Đến năm 1954, ông chuyển sang viết những tác phẩm mang tính khảo cứu về lịch sử, về tôn giáo, về văn học. Những quyển sách này không những có giá trị trong thời kỳ ấy mà hiện nay còn được lưu trữ ở một số thư viện trên cả nước. Đó là những quyển sách có giá trị về văn hóa Nam bộ, được ghi chép lại trong thời kỳ vùng đất mới còn hoang sơ. Cái hay của Hồ Biểu Chánh là viết rất thực, thực như người Nam bộ trong thời kỳ đi mở cõi, vẫn một giọng văn chất phác và gần gũi của người Nam bộ trong tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh.
Về đề tài, khác hẳn với tiểu thuyết kinh điển, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không theo lối mòn của những người cầm bút trước đây. Ông không đặt ra những vấn đề như tài và mệnh luôn luôn đối lập nhau, hiếu và tình luôn xung đột nhau. Cốt truyện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cũng rất đời thường. Đường dây dẫn chuyện thường mang tính phiêu lưu, khám phá. Tình tiết của những câu chuyện trong tiểu thuyết của ông tuy đau đớn nhưng rất lãng mạn và trữ tình. Nếu là độc giả thường xuyên của Hồ Biểu Chánh, người ta sẽ dễ dàng nhận ra tác phẩm của ông phải có cảnh chết chóc thương tâm. So với những nhà văn khác cùng thời với Hồ Biểu Chánh, ông luôn có lối đi riêng khác biệt.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không mô tả nhân vật theo lối cũ, những hạng người quý phái trưởng giả, những tầng lớp được xã hội đương thời kính trọng. Ông cũng không thích mượn những hình ảnh về những câu chuyện nơi phồn hoa đô hội để đưa vào tác phẩm. Ông thường đưa người đọc quay về nông thôn như đưa độc giả đi quan sát, ngắm nhìn đồng ruộng, dòng sông, con đò, lũy tre… nơi thôn dã. Những nhân vật trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh thường là những người đang còn sống bên lề của thời đại văn minh, chưa biết đến những phát minh mới lạ của khoa học công nghệ. Phần đông, họ chưa bị cám dỗ, chưa bị lôi cuốn bởi sự xa hoa nơi thành thị. Những nhân vật này lại được Hồ Biểu Chánh khắc họa rất sâu sắc, rất đặc biệt, bởi họ là những người thật thà và chất phác. Cuộc sống tình cảm của họ không rạo rực và mãnh liệt như những tiểu thuyết đương thời khác. Vì vậy, độc giả đọc tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thường như đọc tâm tình của nhân vật trong bối cảnh cuộc sống êm đềm, lặng lẽ ở miền quê.
Trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh, những hình ảnh mới của giai cấp công nhân luôn được khắc họa. So với hình ảnh người nông dân, nhiều khía cạnh của đời sống công nhân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn khá hạn chế. Nhưng ít nhiều, Hồ Biểu Chánh cũng đã gửi đến độc giả bao nỗi trăn trở của người công nhân, một giai cấp luôn bị chủ ngược đãi và sự tiến bộ của khoa học đè nặng. Họ là một giai cấp mới luôn bị phát sinh mâu thuẫn do phải rơi vào đời sống kỹ thuật hiện đại, phải tập trung ở các khu đô thị văn minh nhưng trình độ lại hạn chế.
Về cách viết, Hồ Biểu Chánh luôn tìm cho mình một hướng đi riêng biệt, khác lạ. Văn của Hồ Biểu Chánh thường dùng chữ Nho đan xen vào những từ nói mang tính đài các. Không chỉ có vậy, độc giả còn tìm thấy ở cách viết của Hồ Biểu Chánh theo lối biền ngẫu, dùng nhiều điệp từ, điệp ngữ để đưa vào văn xuôi. Những đoạn văn vần vô lối cũng thường xuất hiện trong tác phẩm của ông. Người đọc lại thấy hay, thấy thích thú theo lối chơi chữ đó của Hồ Biểu Chánh trong tác phẩm. Có lẽ, Hồ Biểu Chánh là người đầu tiên phá vỡ cái khuôn khổ văn chương vốn đài các và sang trọng trước đó để mở lời thoại cho những nhân vật của mình bằng những ngôn ngữ đơn sơ, chất phác. Đôi khi, từ ngữ ông dùng trong tiểu thuyết cũng thô mộc, lần đầu tiên trong tiểu thuyết Việt Nam, độc giả tìm thấy giữa bạn bè, giữa chồng vợ lại có cách xưng hô bình dân đến độ chỉ có “mày” và “tao”.
Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh là một trong những văn sĩ miền Nam dùng tiếng địa phương khá nhiều, giọng văn tự nhiên như nói nên khi đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, người đọc sẽ rất dễ dàng cảm nhận ra từ những quyển tiểu thuyết ấy như một kho sách về ngôn ngữ đời thường, vì những kiểu nói đặc sắc Nam bộ. Một phần do cách dùng từ láy rất riêng và đầy lý thú của người Nam bộ được Hồ Biểu Chánh phát hiện và đưa vào tác phẩm. Một cái riêng khác nữa cũng rất đặc biệt ở Hồ Biểu Chánh đó là về diện mạo khẩu ngữ Nam bộ khi đã đưa vào văn học, để rồi qua những từ láy ấy đã trở thành ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh: Ngồi chồm hổm, nằm dàu dàu, nằm không cục cựa, ngồi ngó cững, đầu chơm bơm, đứng dụ dự, đi lầm lũi, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, ngó chừng xăn văn xéo véo, rục rịch bên chơn, mạch chảy xoi xói, đôi mắt láo liên, trong nhà nhô nháo, lỗ tai lùng bùng…
Điểm qua các đầu sách của Hồ Biểu Chánh, độc giả có thể tính trung bình mỗi năm ông cho ra đời gần 2 cuốn tiểu thuyết. Mặc dù có năm Hồ Biểu Chánh không ấn hành quyển nào, nhưng cũng có khi, một năm ông đã xuất bản đến 5 tác phẩm. Điển hình năm 1935, Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt độc giả đến 6 tiểu thuyết: Ở theo thời, Ông Cử, Một đời tài sắc, Cười gượng, Dây oan, Thiệt giả - giả thiệt. Thế nhưng khoảng thời gian ấy, Hồ Biểu Chánh vẫn chưa viết sung sức bằng những ngày cuối đời. Năm 1957, Hồ Biểu Chánh cho ra đời đến 9 tiểu thuyết: Trong đám cỏ hoang, Vợ già chồng trẻ, Hạnh phúc lối nào, Sống thác với tình, Nợ tình, Đón gió mát nhắc người xưa, Chị Đào chị Lý, Nợ trái oan, Tắt lửa lòng. Đến năm 1958, tiểu thuyết cuối cùng Hi sinh Hồ Biểu Chánh đang viết lỡ dở nửa chừng thì ngày 4-9 ông qua đời.
III. KHO TIỂU THUYẾT CỦA ĐẤT NAM BỘ
Hồ Biểu Chánh sáng tác văn học rất nhiều, ngoài 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 28 tập khảo cứu và phê bình thì ông đã để lại một khối lượng tiểu thuyết đồ sộ mang đậm chất Nam bộ: Ai làm được, Ái tình miếu, Bỏ chồng, Bỏ vợ, Bức thư hối hận, Cay đắng mùi đời, Cha con nghĩa nặng, Chị Đào chị Lý, Chúa tàu Kim Quy, Chút phận linh đinh, Con nhà giàu, Con nhà nghèo, Cư Kỉnh, Cười gượng, Đại nghĩa diệt thân, Dây oan, Đỗ Nương Nương báo oán, Đóa hoa tàn, Đoạn tình, Đón gió mới nhắc chuyện xưa, Hai chồng, Hai khối tình, Hai vợ, Hạnh phúc lối nào, Kẻ làm người chịu, Khóc thầm, Lá rụng hoa rơi, Lạc đường, Lẫy lừng hào khí, Lời thề trước miễu, Mẹ ghẻ con ghẻ, Một chữ tình, Một đời tài sắc, Một duyên hai nợ, Nam cực tinh huy, Nặng bầu ân oán, Nặng gánh cang thường, Ngọn cỏ gió đùa, Người thất chí, Nhơn tình ấm lạnh, Những điều nghe thấy, Nợ đời, Nợ tình, Nợ trái oan, Ở theo thời, Ông Cả Bình Lạc, Ông Cử, Sống thác với tình, Tại tôi, Tân Phong nữ sĩ, Tắt lửa lòng, Thầy thông ngôn, Thiệt giả - giả thiệt, Tiền bạc - bạc tiền, Tìm đường, Tình mộng, Tơ hồng vương vấn, Trả nợ cho cha, Trọn nghĩa vẹn tình, Trong đám cỏ hoang, Từ hôn, Vì nghĩa vì tình, Vợ già chồng trẻ, Ý và tình.
Tất cả những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, đề tài phần lớn là cuộc sống Nam bộ từ thành thị đến nông thôn. Ông đã phản ánh và khắc họa lại bối cảnh xã hội vào những năm đầu thế kỷ XXI. Ngày nay đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, độc giả vẫn còn tìm thấy những câu chuyện rất xúc động, được diễn đạt nôm na, bình dị. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã bước qua chặng đường của thế kỷ XXI, nhưng độc giả đã dễ dàng nhận ra ở ông nhiều điều thú vị. Bởi, những tác phẩm giá trị ấy của Hồ Biểu Chánh vẫn còn góp sức to lớn trong việc hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường hiện đại. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã góp phần cho tiếng Việt thêm phong phú, mang đậm nét đặc trưng của miền Tây Nam bộ. Độc giả ngày nay, họ ít khi tìm thấy ở những tiểu thuyết đương đại như một chuyến đò chở đầy phong tục tập quán Nam bộ bằng chữ, bằng ngôn từ như là độc giả đã tìm thấy ở tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Dưới đây là một số tác phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh đã vượt thời gian và sống mãi với mọi thời đại. Nhưng rất tiếc và trớ trêu, những tiểu thuyết này theo giới chuyên môn thời ấy, họ xếp lại thể loại tiểu thuyết mô phỏng theo các tác phẩm kinh điển của đại văn hào thế giới. Còn đối với nhà văn Hồ Biểu Chánh, các tiểu thuyết này là trong thời kỳ đầu ông sáng tác và bắt tay vào con đường khởi nghiệp văn chương.
Ai làm được (1912) - là tác phẩm đầu tay của Hồ Biểu Chánh đã bị giới nghiên cứu và giới lý luận phê bình văn học thời điểm ấy đánh giá có một vài tình tiết mô phỏng theo tác phẩm Andre Cornelis của tác giả P. Bourget. Cho dù tiểu thuyết này của Hồ Biểu Chánh vừa ra đời đã được đông đảo độc giả khắp nơi đón nhận, vì nội dung câu chuyện và ngôn ngữ rất gần gũi với đời sống người dân Nam bộ. Andre Cornelis là câu chuyện kể về cậu bé Andre Cornelis lên 9 tuổi, phát hiện cha mình bị sát hại và Andre Cornelis luôn nghi ngờ thủ phạm là người cha dượng. Về sau, cậu bé đã nuôi giấc mộng báo thù người cha dượng. Còn ở tiểu thuyết Ai làm được, Hồ Biểu Chánh lại kể về cuộc đời của nhân vật Bạch Tuyết luôn mang tâm trạng đầy trắc ẩn về cái chết của mẹ mình. Bạch Tuyết là con của một vị quan phủ, năm 12 tuổi, cô phát hiện ra mẹ mình chết do dì ghẻ sát hại bằng thuốc độc. Để rồi từ đó, Bạch Tuyết nuôi chí báo thù cho mẹ. Khi đó, dì ghẻ của Bạch Tuyết lại rất mực yêu thương và chiều chuộng cô. Từ những tình tiết éo le và hấp dẫn cứ đan xen giữa mẹ ghẻ và con chồng, Hồ Biểu Chánh cho độc giả nhận ra người dì ghẻ đối xử với Bạch Tuyết như vậy cốt để chiếm đoạt khối tài sản kếch xù của cô thừa kế từ ông ngoại. Cuối cùng nhờ sự tiếp sức của ông ngoại, sự tiếp sức của người chồng, Bạch Tuyết đã đưa mọi chuyện ra ánh sáng để trả thù cho mẹ khi dì ghẻ bị tù đày. Từ hai nội dung câu chuyện như vậy, nếu xét về phóng tác, mô phỏng thì đây là điều cần phải bàn lại và xem xét. Vì ý tưởng của các nhà văn, đôi khi có sự trùng hợp là điều khó tránh khỏi. Nhưng cái hay ở mỗi nhà văn đó là sự thể hiện tác phẩm, cách xây dựng nhân vật, đường dây dẫn truyện, tình tiết câu chuyện…
Khi viết tiểu thuyết này, Hồ Biểu Chánh đang làm việc ở Cà Mau nên tác phẩm của ông, con người và sông nước Cà Mau cứ thấp thoáng khi ẩn khi hiện. Dù như thế nào, độc giả vẫn nhận ra tài nghệ của Hồ Biểu Chánh, bằng chính những gì người khác đã đề cập trước đó, ông đã làm mới lại tác phẩm của mình trong lòng độc giả bằng ngôn ngữ, lối dẫn chuyện, phong cách thể hiện, số phận nhân vật…
Tiểu thuyết Chúa tàu Kim Quy (1913), Hồ Biểu Chánh sáng tác sau quyển đầu tay Ai làm được. Đặc biệt Chúa tàu Kim Quy là một trong những bộ phim hay được chuyển thể từ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh: Ngọn cỏ gió đùa, Con nhà nghèo, Nợ đời… Chúa tàu Kim Quy kể về cuộc đời truân chuyên của Thủ Nghĩa, vì bảo vệ danh tiết cho em gái, anh đã đánh trọng thương một cường hào. Để rồi sau đó, tên cường hào này đã vu cáo Thủ Nghĩa theo đạo Gia Tô nên đã bị kết án chung thân. Trong ngục, Thủ Nghĩa gặp một chính khách và họ đã trở thành đôi bạn thân thiết. Trước khi chết, chính khách ấy đã chỉ cho Thủ Nghĩa tìm ra đảo Kim Quy, nơi cất giấu kho báu. Sau này vượt thoát ngục, Thủ Nghĩa tìm ra đảo Kim Quy và đã tìm được kho châu báu đang cất giấu ở đó. Từ khi làm chủ kho báu ấy, Thủ Nghĩa đã cải trang làm khách buôn bán trên các cửa biển từ Thái Lan qua Hương Cảng - Trung Quốc với tên gọi là Chúa tàu Kim Quy. Có tiền, có quyền lực, Thủ Nghĩa đã báo oán được những kẻ bất nhân bất nghĩa và trả ơn những người từng cưu mang mình.
Thế nhưng theo giới lý luận phê bình văn học thời điểm ấy, Chúa tàu Kim Quy cũng có đôi chút mô phỏng theo tác phẩm Monte-Cristo của Alexandre Dumas. Monte-Cristo kể về Dantes bị vu oan liên quan với Nopoleon Bonapart chống lại triều đình Pháp nên anh ta đã bị bắt và tống giam vào ngục. Trong ngục, Dantes đã gặp vị linh mục. Trước khi chết, vị linh mục này đã chỉ cho Dantes biết kho châu báu trên đảo Monte-Cristo. Dantes đã lập mưu đánh tráo thành xác chết của vị linh mục và đã thoát ngục. Tìm đến núi Monte-Cristo, Dantes đã chiếm và làm chủ kho vàng bạc châu báu. Và cũng từ đó, Dantes đổi thành tên Bá tước Monte-Cristo và trả thù những người từng hãm hại mình.
Tiểu thuyết Chút phận linh đinh (1931) đã được giới lý luận phê bình văn học thời đó đánh giá rất cao. Hồ Biểu Chánh như đã đưa vào nhiều cái mới cho thế hệ đương đại. Ông đã tạo nên sự riêng biệt trong tiểu thuyết của mình so với những thế hệ trước. Cái mới ở đây còn mang một đặc tính chung cho hầu hết các nhà văn thuộc thế hệ cùng với Hồ Biểu Chánh vì sự khác biệt so với đương đại. Có thể nói, từ tiểu thuyết Chút phận linh đinh uy tín và vị trí của Hồ Biểu Chánh như đã vững vàng trong văn đàn. Tác phẩm đã tạo tên tuổi ông trong chốn văn chương thời ấy.
Tiểu thuyết Chút phận đinh linh là câu chuyện kể về Hiển Vinh và Thu Vân là đôi bạn cùng du học, sống xa gia đình. Từ tình bạn khi được nhân đôi đã nảy nở thành tình yêu, cuối cùng, Thu Vân thất thân với Hiển Vinh. Cứu vãn danh dự cho người yêu, Hiển Vinh cưới Thu Vân làm vợ, trái với ý cha. Để chuộc lại lỗi lầm với cha, Thu Vân khuyên chồng sang Pháp du học để tạo dựng sự nghiệp. Chồng đi chưa được bao lâu, Thu Vân nhận hay tin chồng bị tử nạn do tàu đắm. Quá đau buồn, Thu Vân bỏ Hà Nội đưa con vào Nam với ước nguyện trao cháu nội cho nhà chồng, rồi tự tử chết theo chồng. Trên đường về Nam, Thu Vân phải gặp bao trắc trở, gian nan nhưng kiên trì và nhẫn nại, Thu Vân đã tìm đến nhà chồng và đ ược gia đình chồng chấp thuận là dâu. Trong cuộc gặp gỡ đầy nước mắt như thế này, Hiển Vinh đột ngột xuất hiện. Vẫn thế, lối kết thúc tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là luôn tạo sóng gió trong cuộc đời nhân vật, sau ba chìm bảy nổi, nhân vật bao giờ cũng tìm ra một lối đi đầy hào quang rực sáng.
Đọc qua một vài tiểu thuyết đầu tay của Hồ Biểu Chánh, người đọc sẽ thấy hiện tượng đặc sắc ngay cả những tiểu thuyết mà giới chuyên môn cho là “Việt hóa” từ tác phẩm nước ngoài. Dù những tác phẩm ấy ở Pháp, ở Ý hoặc ở phương trời châu Âu xa lạ nào đó trong các tác phẩm của A. Dumas, của P. Bourget, của V. Hugo… nhưng qua sự cảm thụ tinh tế, khả năng phóng tác tài hoa, Hồ Biểu Chánh đã tạo cho các tác phẩm: Ai làm được, Chúa tàu Kim Quy, Ngọn cỏ gió đùa… một sắc thái riêng, một giá trị riêng. Người đọc luôn luôn tìm thấy những tác phẩm này đang xảy ra tại vùng đất Nam bộ, chứ không hề riêng gì ở bên Tây hay bên Tàu. Bởi vì những tác phẩm ấy, những nhân vật ấy đã được ông xây dựng trong một không gian mà từ cảnh vật, hoàn cảnh xã hội, tình tiết, tính cách nhận vật… tất cả đều gần gũi và dễ dàng cảm thụ.
Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, phần nhiều người đọc đều nhận ra ở phần kết thường là “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Nhưng khi xét ở góc độ khác, nhân vật trong mỗi tác phẩm của Hồ Biểu Chánh thành công nhất là đã nói lên thời điểm xã hội, mang tính xã hội đương thời, không rơi vào hiện tượng sáo rỗng, không bị gò theo quan điểm đạo đức. Bề dày số phận của các nhân vật đã làm rõ quan điểm nhân đạo rất đáng được trân trọng của Hồ Biểu Chánh. Mọi điều ác, mọi phi lý vô luân luôn bị khắt khe loại trừ mà người đọc đồng cảm ở người cầm bút một dằn vặt vì nỗi đau của tầng lớp người khốn khổ, bất hạnh.
Hồ Biểu Chánh là một trong những người cầm bút có hướng dùng văn chương cải tạo con người. Ông viết một cách say sưa, cần mẫn. Những ngày cuối đời, dù bệnh tim rất nặng, thầy thuốc cấm viết, con cháu nài nỉ ngưng viết nhưng Hồ Biểu Chánh vẫn sáng tác. Ông viết một cách lén lút, viết trong những lúc cả nhà đi vắng, mọi người đang ngủ say. Cho đến ngày Hồ Biểu Chánh qua đời, người ta không khỏi ngậm ngùi khi thấy những bản thảo tiểu thuyết của ông đang dang dở trên bàn giấy. Chính điều này cho chúng ta thấy, Hồ Biểu Chánh là một người rất đam mê công việc, đặc biệt là sự nghiệp văn chương. Ông đã để lại cho đời một khối tiểu thuyết khổng lồ và giá trị. Cho đến nay khối lượng tiểu thuyết của ông để lại cho đời, vẫn là con số độc nhất vô nhị, chưa có người thay thế.
Hồ Biểu Chánh mất ngày 04-9-1958 tại Phú Nhuận - Gia Định (nay là TP. Hồ Chí Minh), hưởng thọ 74 tuổi. Hiện nay tại quận Phú Nhuận - TP. Hồ Chí Minh có một con đường mang tên Hồ Biểu Chánh.
Tác giả bài viết: Huỳnh Mẫn Chi
Vannghetiengiang
Nhà văn Hồ Biểu Chánh
I. SỐ PHẬN PHẢI LÀM QUAN
Ngày 01-10-1885, tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công nay thuộc tỉnh Tiền Giang, cậu bé Hồ Văn Trung (nhà văn Hồ Biểu Chánh) đã cất tiếng khóc chào đời. Dù sinh trưởng trong một gia đình nông dân, nhưng nội tổ của Hồ Biểu Chánh ngày trước từng là người khai ấp lập làng, trong bảng vị Tiên hiền của làng Bình Thành có thờ nội tổ của Hồ Biểu Chánh. Thân phụ của Hồ Biểu Chánh cũng từng tham dự trong ban Hội hương chánh, sau đó lên chức Hương chủ, rồi đến Chánh bái. Với điều kiện gia đình như vậy, Hồ Biểu Chánh được học hành đàng hoàng hơn so với những đứa trẻ cùng làng. Năm lên 8 tuổi, ông theo học chữ nho tại trường làng Bình Thành, được các thầy đồ đánh giá là thông minh sáng dạ hơn người.
Đến năm Hồ Biểu Chánh 12 tuổi, cha mẹ ông rời quê đến chợ Giồng thuộc làng Ông Huê sinh sống. Lúc này, Hồ Biểu Chánh chuyển sang học chữ Quốc ngữ và Pháp văn tại trường Vĩnh Lợi. Sau đó, được cấp học bổng để vào trường trung học Chasseluop-Laubat ở Sài Gòn. Có lẽ từ thời điểm ấy, cuộc đời ông chuyển sang một bước ngoặt lớn. Học giỏi, thông minh, tinh tế và hiếu động, trong học tập cũng như trong cuộc sống, Hồ Biểu Chánh luôn là cậu bé thích khám phá và tìm tòi. Chuyện học hành, thầy giáo truyền đạt một, ông tự tìm hiểu đến mười. Cuối năm 1905, ông thi đậu Thành Chung, còn gọi là Diplôme de fin déludé. Năm 1906, ở tuổi 21, Hồ Biểu Chánh bắt đầu sống cuộc đời công chức.
Từ năm 1906 đến năm 1912, Hồ Biểu Chánh tòng sự tại dinh Hiệp Lý. Tại đây, ông được dân yêu mến bởi có chức sắc nhưng không lấy quyền lực mà hà hiếp người yếu thế. Ông luôn trọng nhân trọng nghĩa, dù phải ngồi trên chiếc ghế của thực dân Pháp. Từ năm 1912 đến năm 1914, chỉ trong vòng 2 năm, Hồ Biểu Chánh phải tòng sự ở nhiều nơi. Các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Long Xuyên là những nơi ông phải trông nom về hành chính. Đến năm 1919, ông được cử về làm việc tại Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Cứ tưởng đã ổn định một nơi, giữ mãi một việc một chức, nào ngờ đến năm 1920, Hồ Biểu Chánh lại chuyển sang làm việc tại văn phòng Thống đốc Nam kỳ. Được một năm, ông đâm đơn thi và vừa bước sang năm 1921, ông đã thi đỗ chức Tri huyện. Nhờ vậy nên từ năm 1921 đến năm 1927, ông đã thăng đến chức Quận trưởng quận Càng Long nay thuộc tỉnh Trà Vinh và giữ mãi chức ấy trong nhiều năm. Đến năm 1932, Hồ Biểu Chánh được điều về Ô Môn (nay thuộc thành phố Cần Thơ) làm Quận trưởng. Được 2 năm, đến năm 1934, Hồ Biểu Chánh lại chuyển sang Phụng Hiệp (Cần Thơ) làm Quận trưởng. Năm 1936, Hồ Biểu Chánh lại được thăng lên chức Đốc phủ sứ.
Hồ Biểu Chánh giữ chức Đốc phủ sứ được một năm. Đầu năm 1937, ông muốn rút lui khỏi “chiếc ghế” quan chức một cách quyết liệt bởi ông thấy mình quá mệt mỏi với cuộc đời công chức. Vì tính đến thời điểm đó, ông đã sống cuộc đời công chức đến 31 năm. Cho nên khi đâm đơn xin nghỉ hưu, ông đã được Chính phủ Pháp chấp thuận ngay. Khổ thân ông Đốc phủ sứ Hồ Biểu Chánh, xin từ chức đã được Chính phủ chấp thuận, nhưng ông vẫn không rời được “chiếc ghế” quan trường. Vì chưa có người thay thế vị trí mình, Hồ Biểu Chánh đành phải tại chức cho đến năm 1941 mới được thôi việc. Xem như phải mất đến 4 năm từ khi đưa đơn đến lúc nghỉ hẳn, Hồ Biểu Chánh mới chính thức được nghỉ hưu. Nhưng chỉ được tự do ít hôm, ngày 4 tháng 8 năm 1941, chính quyền Pháp lại cử Hồ Biểu Chánh làm Nghị viên Hội đồng Liên bang Đông Dương. Rồi, những ngày tháng cuối năm 1941, Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập thành một, Hồ Biểu Chánh lại bị ép buộc và cử làm Nghị viên trong Ban quản trị Sài Gòn - Chợ Lớn cho đến năm 1945.
Xem như từ ngày được Chính phủ Pháp chấp thuận cho nghỉ hưu, phải mất đến 9 năm, Hồ Biểu Chánh mới thoát được cuộc đời công chức. Phải chăng vì vậy nên đến năm 1946, khi vừa rời khỏi chiếc ghế quan chức, Hồ Biểu Chánh đã vội vã quay về cố hương tại Gò Công sống cuộc đời dân dã.
II. CÁI NGHIỆP PHẢI VIẾT VĂN
Thuở thiếu thời, Hồ Biểu Chánh đã tập tành viết văn. Những tác phẩm ông sáng tác xong, thường nằm sâu dưới đáy rương, nhưng ông vẫn thích viết, vẫn thích vẩn vơ với câu chữ. Năm 1906, bỗng dưng nổi lên phong trào công chúng đua nhau đọc sách dịch của Tàu (Trung Quốc). Hồ Biểu Chánh thấy mình cần phải học thêm chữ Nho để đọc trực tiếp sách Tàu. Ông tìm đến một người bạn học am hiểu chữ nghĩa Trung Quốc để nhờ chỉ dạy hàng ngày. Học chẳng bao lâu, trình độ chữ Nho của Hồ Biểu Chánh tiến bộ khá rõ rệt. Ông tìm và chọn đọc những truyện hay trong bộ Tình sử, Kim cổ kỳ quan… một cách say sưa và thích thú. Vừa đọc, Hồ Biểu Chánh vừa nghiền ngẫm, nghiên cứu từng câu chữ, từ cấu trúc đến ý tứ… của từng tác phẩm.
Để sau đó, ông tự dịch những truyện hay khi đọc xong ra chữ Quốc ngữ cho bạn bè cùng đọc. Không chỉ dịch, Hồ Biểu Chánh còn đặt nhan đề hẳn hoi, rất riêng biệt so với những người khác dịch. Dù Hồ Biểu Chánh đã dịch được quyển Tân soạn cổ tích khá nổi tiếng nhưng ham muốn được làm công việc sáng tác luôn thôi thúc ông. Từ sự đam mê ấy, Hồ Biểu Chánh đã bắt tay vào viết truyện dài với tựa đề là U Tình Lục.
Thời điểm đó, Trần Chánh Chiếu lại cho xuất bản cuốn Hoàng Tổ Anh hàm oan gây xôn xao dư luận vì đây là loại tiểu thuyết tình cảm, những nhân vật trong truyện là những con người của lục tỉnh. Họ sống rất Nam bộ, làm việc theo kiểu Nam bộ… đặc biệt yêu cũng rất Nam bộ. Nhưng khi đọc xong tiểu thuyết ấy, Hồ Biểu Chánh lại nghĩ hoàn toàn trái hẳn với cách hành văn của Trần Chánh Chiếu. Nếu đặt bút viết với nội dung như vậy, Hồ Biểu Chánh sẽ viết khác. Vì theo ông, truyện viết bằng văn xuôi bao giờ cũng dễ đọc hơn văn vần. Do trình độ dân trí chưa cao, tác phẩm thể hiện như vậy sẽ kén người đọc, độc giả không có khả năng cảm thụ thì xem như tác phẩm ấy đã thất bại.
Thế là Hồ Biểu Chánh tập tành viết truyện theo dạng văn xuôi. Những đề tài và nội dung trong tác phẩm của ông thường mô phỏng từ những truyện ở tận bên Tây và bên Tàu. Khi viết xong được tác phẩm nào, Hồ Biểu Chánh đều gửi đến báo chí. Ông không thể tin là mình viết truyện nào báo chí đều đăng ngay lấy truyện ấy. Để rồi như một động lực thúc đẩy Hồ Biểu Chánh lao đến nghiệp văn chương, một cách đầy sáng tạo và hăng say. Dù đang trong thời kỳ tập sự, nhưng Hồ Biểu Chánh đã cho ra đời hàng loạt tiểu thuyết được độc giả đón nhận nồng nhiệt: Ai làm được (1922), Chúa tàu Kim Quy (1922), Vì nghĩa vì tình (1929), Cha con nghĩa nặng (1929), Khóc thầm (1930), Con nhà giàu (1931), Chút phận linh đinh (1931).
Ngay cả trong thời kỳ còn tại chức, từ năm 1932 - 1945, Hồ Biểu Chánh đã viết miệt mài với 4 vở hát bội, 3 vở cải lương và 25 cuốn tiểu thuyết. Những ngày về hưu sống ở Gò Công, qua 9 năm, Hồ Biểu Chánh đã viết gần 20 cuốn tiểu thuyết. Bên cạnh viết tiểu thuyết, ông còn nghiên cứu văn học, lý luận, tôn giáo… Đến năm 1954, ông chuyển sang viết những tác phẩm mang tính khảo cứu về lịch sử, về tôn giáo, về văn học. Những quyển sách này không những có giá trị trong thời kỳ ấy mà hiện nay còn được lưu trữ ở một số thư viện trên cả nước. Đó là những quyển sách có giá trị về văn hóa Nam bộ, được ghi chép lại trong thời kỳ vùng đất mới còn hoang sơ. Cái hay của Hồ Biểu Chánh là viết rất thực, thực như người Nam bộ trong thời kỳ đi mở cõi, vẫn một giọng văn chất phác và gần gũi của người Nam bộ trong tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh.
Về đề tài, khác hẳn với tiểu thuyết kinh điển, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không theo lối mòn của những người cầm bút trước đây. Ông không đặt ra những vấn đề như tài và mệnh luôn luôn đối lập nhau, hiếu và tình luôn xung đột nhau. Cốt truyện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cũng rất đời thường. Đường dây dẫn chuyện thường mang tính phiêu lưu, khám phá. Tình tiết của những câu chuyện trong tiểu thuyết của ông tuy đau đớn nhưng rất lãng mạn và trữ tình. Nếu là độc giả thường xuyên của Hồ Biểu Chánh, người ta sẽ dễ dàng nhận ra tác phẩm của ông phải có cảnh chết chóc thương tâm. So với những nhà văn khác cùng thời với Hồ Biểu Chánh, ông luôn có lối đi riêng khác biệt.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không mô tả nhân vật theo lối cũ, những hạng người quý phái trưởng giả, những tầng lớp được xã hội đương thời kính trọng. Ông cũng không thích mượn những hình ảnh về những câu chuyện nơi phồn hoa đô hội để đưa vào tác phẩm. Ông thường đưa người đọc quay về nông thôn như đưa độc giả đi quan sát, ngắm nhìn đồng ruộng, dòng sông, con đò, lũy tre… nơi thôn dã. Những nhân vật trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh thường là những người đang còn sống bên lề của thời đại văn minh, chưa biết đến những phát minh mới lạ của khoa học công nghệ. Phần đông, họ chưa bị cám dỗ, chưa bị lôi cuốn bởi sự xa hoa nơi thành thị. Những nhân vật này lại được Hồ Biểu Chánh khắc họa rất sâu sắc, rất đặc biệt, bởi họ là những người thật thà và chất phác. Cuộc sống tình cảm của họ không rạo rực và mãnh liệt như những tiểu thuyết đương thời khác. Vì vậy, độc giả đọc tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thường như đọc tâm tình của nhân vật trong bối cảnh cuộc sống êm đềm, lặng lẽ ở miền quê.
Trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh, những hình ảnh mới của giai cấp công nhân luôn được khắc họa. So với hình ảnh người nông dân, nhiều khía cạnh của đời sống công nhân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn khá hạn chế. Nhưng ít nhiều, Hồ Biểu Chánh cũng đã gửi đến độc giả bao nỗi trăn trở của người công nhân, một giai cấp luôn bị chủ ngược đãi và sự tiến bộ của khoa học đè nặng. Họ là một giai cấp mới luôn bị phát sinh mâu thuẫn do phải rơi vào đời sống kỹ thuật hiện đại, phải tập trung ở các khu đô thị văn minh nhưng trình độ lại hạn chế.
Về cách viết, Hồ Biểu Chánh luôn tìm cho mình một hướng đi riêng biệt, khác lạ. Văn của Hồ Biểu Chánh thường dùng chữ Nho đan xen vào những từ nói mang tính đài các. Không chỉ có vậy, độc giả còn tìm thấy ở cách viết của Hồ Biểu Chánh theo lối biền ngẫu, dùng nhiều điệp từ, điệp ngữ để đưa vào văn xuôi. Những đoạn văn vần vô lối cũng thường xuất hiện trong tác phẩm của ông. Người đọc lại thấy hay, thấy thích thú theo lối chơi chữ đó của Hồ Biểu Chánh trong tác phẩm. Có lẽ, Hồ Biểu Chánh là người đầu tiên phá vỡ cái khuôn khổ văn chương vốn đài các và sang trọng trước đó để mở lời thoại cho những nhân vật của mình bằng những ngôn ngữ đơn sơ, chất phác. Đôi khi, từ ngữ ông dùng trong tiểu thuyết cũng thô mộc, lần đầu tiên trong tiểu thuyết Việt Nam, độc giả tìm thấy giữa bạn bè, giữa chồng vợ lại có cách xưng hô bình dân đến độ chỉ có “mày” và “tao”.
Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh là một trong những văn sĩ miền Nam dùng tiếng địa phương khá nhiều, giọng văn tự nhiên như nói nên khi đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, người đọc sẽ rất dễ dàng cảm nhận ra từ những quyển tiểu thuyết ấy như một kho sách về ngôn ngữ đời thường, vì những kiểu nói đặc sắc Nam bộ. Một phần do cách dùng từ láy rất riêng và đầy lý thú của người Nam bộ được Hồ Biểu Chánh phát hiện và đưa vào tác phẩm. Một cái riêng khác nữa cũng rất đặc biệt ở Hồ Biểu Chánh đó là về diện mạo khẩu ngữ Nam bộ khi đã đưa vào văn học, để rồi qua những từ láy ấy đã trở thành ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh: Ngồi chồm hổm, nằm dàu dàu, nằm không cục cựa, ngồi ngó cững, đầu chơm bơm, đứng dụ dự, đi lầm lũi, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, ngó chừng xăn văn xéo véo, rục rịch bên chơn, mạch chảy xoi xói, đôi mắt láo liên, trong nhà nhô nháo, lỗ tai lùng bùng…
Điểm qua các đầu sách của Hồ Biểu Chánh, độc giả có thể tính trung bình mỗi năm ông cho ra đời gần 2 cuốn tiểu thuyết. Mặc dù có năm Hồ Biểu Chánh không ấn hành quyển nào, nhưng cũng có khi, một năm ông đã xuất bản đến 5 tác phẩm. Điển hình năm 1935, Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt độc giả đến 6 tiểu thuyết: Ở theo thời, Ông Cử, Một đời tài sắc, Cười gượng, Dây oan, Thiệt giả - giả thiệt. Thế nhưng khoảng thời gian ấy, Hồ Biểu Chánh vẫn chưa viết sung sức bằng những ngày cuối đời. Năm 1957, Hồ Biểu Chánh cho ra đời đến 9 tiểu thuyết: Trong đám cỏ hoang, Vợ già chồng trẻ, Hạnh phúc lối nào, Sống thác với tình, Nợ tình, Đón gió mát nhắc người xưa, Chị Đào chị Lý, Nợ trái oan, Tắt lửa lòng. Đến năm 1958, tiểu thuyết cuối cùng Hi sinh Hồ Biểu Chánh đang viết lỡ dở nửa chừng thì ngày 4-9 ông qua đời.
III. KHO TIỂU THUYẾT CỦA ĐẤT NAM BỘ
Hồ Biểu Chánh sáng tác văn học rất nhiều, ngoài 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 28 tập khảo cứu và phê bình thì ông đã để lại một khối lượng tiểu thuyết đồ sộ mang đậm chất Nam bộ: Ai làm được, Ái tình miếu, Bỏ chồng, Bỏ vợ, Bức thư hối hận, Cay đắng mùi đời, Cha con nghĩa nặng, Chị Đào chị Lý, Chúa tàu Kim Quy, Chút phận linh đinh, Con nhà giàu, Con nhà nghèo, Cư Kỉnh, Cười gượng, Đại nghĩa diệt thân, Dây oan, Đỗ Nương Nương báo oán, Đóa hoa tàn, Đoạn tình, Đón gió mới nhắc chuyện xưa, Hai chồng, Hai khối tình, Hai vợ, Hạnh phúc lối nào, Kẻ làm người chịu, Khóc thầm, Lá rụng hoa rơi, Lạc đường, Lẫy lừng hào khí, Lời thề trước miễu, Mẹ ghẻ con ghẻ, Một chữ tình, Một đời tài sắc, Một duyên hai nợ, Nam cực tinh huy, Nặng bầu ân oán, Nặng gánh cang thường, Ngọn cỏ gió đùa, Người thất chí, Nhơn tình ấm lạnh, Những điều nghe thấy, Nợ đời, Nợ tình, Nợ trái oan, Ở theo thời, Ông Cả Bình Lạc, Ông Cử, Sống thác với tình, Tại tôi, Tân Phong nữ sĩ, Tắt lửa lòng, Thầy thông ngôn, Thiệt giả - giả thiệt, Tiền bạc - bạc tiền, Tìm đường, Tình mộng, Tơ hồng vương vấn, Trả nợ cho cha, Trọn nghĩa vẹn tình, Trong đám cỏ hoang, Từ hôn, Vì nghĩa vì tình, Vợ già chồng trẻ, Ý và tình.
Tất cả những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, đề tài phần lớn là cuộc sống Nam bộ từ thành thị đến nông thôn. Ông đã phản ánh và khắc họa lại bối cảnh xã hội vào những năm đầu thế kỷ XXI. Ngày nay đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, độc giả vẫn còn tìm thấy những câu chuyện rất xúc động, được diễn đạt nôm na, bình dị. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã bước qua chặng đường của thế kỷ XXI, nhưng độc giả đã dễ dàng nhận ra ở ông nhiều điều thú vị. Bởi, những tác phẩm giá trị ấy của Hồ Biểu Chánh vẫn còn góp sức to lớn trong việc hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường hiện đại. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã góp phần cho tiếng Việt thêm phong phú, mang đậm nét đặc trưng của miền Tây Nam bộ. Độc giả ngày nay, họ ít khi tìm thấy ở những tiểu thuyết đương đại như một chuyến đò chở đầy phong tục tập quán Nam bộ bằng chữ, bằng ngôn từ như là độc giả đã tìm thấy ở tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Dưới đây là một số tác phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh đã vượt thời gian và sống mãi với mọi thời đại. Nhưng rất tiếc và trớ trêu, những tiểu thuyết này theo giới chuyên môn thời ấy, họ xếp lại thể loại tiểu thuyết mô phỏng theo các tác phẩm kinh điển của đại văn hào thế giới. Còn đối với nhà văn Hồ Biểu Chánh, các tiểu thuyết này là trong thời kỳ đầu ông sáng tác và bắt tay vào con đường khởi nghiệp văn chương.
Ai làm được (1912) - là tác phẩm đầu tay của Hồ Biểu Chánh đã bị giới nghiên cứu và giới lý luận phê bình văn học thời điểm ấy đánh giá có một vài tình tiết mô phỏng theo tác phẩm Andre Cornelis của tác giả P. Bourget. Cho dù tiểu thuyết này của Hồ Biểu Chánh vừa ra đời đã được đông đảo độc giả khắp nơi đón nhận, vì nội dung câu chuyện và ngôn ngữ rất gần gũi với đời sống người dân Nam bộ. Andre Cornelis là câu chuyện kể về cậu bé Andre Cornelis lên 9 tuổi, phát hiện cha mình bị sát hại và Andre Cornelis luôn nghi ngờ thủ phạm là người cha dượng. Về sau, cậu bé đã nuôi giấc mộng báo thù người cha dượng. Còn ở tiểu thuyết Ai làm được, Hồ Biểu Chánh lại kể về cuộc đời của nhân vật Bạch Tuyết luôn mang tâm trạng đầy trắc ẩn về cái chết của mẹ mình. Bạch Tuyết là con của một vị quan phủ, năm 12 tuổi, cô phát hiện ra mẹ mình chết do dì ghẻ sát hại bằng thuốc độc. Để rồi từ đó, Bạch Tuyết nuôi chí báo thù cho mẹ. Khi đó, dì ghẻ của Bạch Tuyết lại rất mực yêu thương và chiều chuộng cô. Từ những tình tiết éo le và hấp dẫn cứ đan xen giữa mẹ ghẻ và con chồng, Hồ Biểu Chánh cho độc giả nhận ra người dì ghẻ đối xử với Bạch Tuyết như vậy cốt để chiếm đoạt khối tài sản kếch xù của cô thừa kế từ ông ngoại. Cuối cùng nhờ sự tiếp sức của ông ngoại, sự tiếp sức của người chồng, Bạch Tuyết đã đưa mọi chuyện ra ánh sáng để trả thù cho mẹ khi dì ghẻ bị tù đày. Từ hai nội dung câu chuyện như vậy, nếu xét về phóng tác, mô phỏng thì đây là điều cần phải bàn lại và xem xét. Vì ý tưởng của các nhà văn, đôi khi có sự trùng hợp là điều khó tránh khỏi. Nhưng cái hay ở mỗi nhà văn đó là sự thể hiện tác phẩm, cách xây dựng nhân vật, đường dây dẫn truyện, tình tiết câu chuyện…
Khi viết tiểu thuyết này, Hồ Biểu Chánh đang làm việc ở Cà Mau nên tác phẩm của ông, con người và sông nước Cà Mau cứ thấp thoáng khi ẩn khi hiện. Dù như thế nào, độc giả vẫn nhận ra tài nghệ của Hồ Biểu Chánh, bằng chính những gì người khác đã đề cập trước đó, ông đã làm mới lại tác phẩm của mình trong lòng độc giả bằng ngôn ngữ, lối dẫn chuyện, phong cách thể hiện, số phận nhân vật…
Tiểu thuyết Chúa tàu Kim Quy (1913), Hồ Biểu Chánh sáng tác sau quyển đầu tay Ai làm được. Đặc biệt Chúa tàu Kim Quy là một trong những bộ phim hay được chuyển thể từ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh: Ngọn cỏ gió đùa, Con nhà nghèo, Nợ đời… Chúa tàu Kim Quy kể về cuộc đời truân chuyên của Thủ Nghĩa, vì bảo vệ danh tiết cho em gái, anh đã đánh trọng thương một cường hào. Để rồi sau đó, tên cường hào này đã vu cáo Thủ Nghĩa theo đạo Gia Tô nên đã bị kết án chung thân. Trong ngục, Thủ Nghĩa gặp một chính khách và họ đã trở thành đôi bạn thân thiết. Trước khi chết, chính khách ấy đã chỉ cho Thủ Nghĩa tìm ra đảo Kim Quy, nơi cất giấu kho báu. Sau này vượt thoát ngục, Thủ Nghĩa tìm ra đảo Kim Quy và đã tìm được kho châu báu đang cất giấu ở đó. Từ khi làm chủ kho báu ấy, Thủ Nghĩa đã cải trang làm khách buôn bán trên các cửa biển từ Thái Lan qua Hương Cảng - Trung Quốc với tên gọi là Chúa tàu Kim Quy. Có tiền, có quyền lực, Thủ Nghĩa đã báo oán được những kẻ bất nhân bất nghĩa và trả ơn những người từng cưu mang mình.
Thế nhưng theo giới lý luận phê bình văn học thời điểm ấy, Chúa tàu Kim Quy cũng có đôi chút mô phỏng theo tác phẩm Monte-Cristo của Alexandre Dumas. Monte-Cristo kể về Dantes bị vu oan liên quan với Nopoleon Bonapart chống lại triều đình Pháp nên anh ta đã bị bắt và tống giam vào ngục. Trong ngục, Dantes đã gặp vị linh mục. Trước khi chết, vị linh mục này đã chỉ cho Dantes biết kho châu báu trên đảo Monte-Cristo. Dantes đã lập mưu đánh tráo thành xác chết của vị linh mục và đã thoát ngục. Tìm đến núi Monte-Cristo, Dantes đã chiếm và làm chủ kho vàng bạc châu báu. Và cũng từ đó, Dantes đổi thành tên Bá tước Monte-Cristo và trả thù những người từng hãm hại mình.
Tiểu thuyết Chút phận linh đinh (1931) đã được giới lý luận phê bình văn học thời đó đánh giá rất cao. Hồ Biểu Chánh như đã đưa vào nhiều cái mới cho thế hệ đương đại. Ông đã tạo nên sự riêng biệt trong tiểu thuyết của mình so với những thế hệ trước. Cái mới ở đây còn mang một đặc tính chung cho hầu hết các nhà văn thuộc thế hệ cùng với Hồ Biểu Chánh vì sự khác biệt so với đương đại. Có thể nói, từ tiểu thuyết Chút phận linh đinh uy tín và vị trí của Hồ Biểu Chánh như đã vững vàng trong văn đàn. Tác phẩm đã tạo tên tuổi ông trong chốn văn chương thời ấy.
Tiểu thuyết Chút phận đinh linh là câu chuyện kể về Hiển Vinh và Thu Vân là đôi bạn cùng du học, sống xa gia đình. Từ tình bạn khi được nhân đôi đã nảy nở thành tình yêu, cuối cùng, Thu Vân thất thân với Hiển Vinh. Cứu vãn danh dự cho người yêu, Hiển Vinh cưới Thu Vân làm vợ, trái với ý cha. Để chuộc lại lỗi lầm với cha, Thu Vân khuyên chồng sang Pháp du học để tạo dựng sự nghiệp. Chồng đi chưa được bao lâu, Thu Vân nhận hay tin chồng bị tử nạn do tàu đắm. Quá đau buồn, Thu Vân bỏ Hà Nội đưa con vào Nam với ước nguyện trao cháu nội cho nhà chồng, rồi tự tử chết theo chồng. Trên đường về Nam, Thu Vân phải gặp bao trắc trở, gian nan nhưng kiên trì và nhẫn nại, Thu Vân đã tìm đến nhà chồng và đ ược gia đình chồng chấp thuận là dâu. Trong cuộc gặp gỡ đầy nước mắt như thế này, Hiển Vinh đột ngột xuất hiện. Vẫn thế, lối kết thúc tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là luôn tạo sóng gió trong cuộc đời nhân vật, sau ba chìm bảy nổi, nhân vật bao giờ cũng tìm ra một lối đi đầy hào quang rực sáng.
Đọc qua một vài tiểu thuyết đầu tay của Hồ Biểu Chánh, người đọc sẽ thấy hiện tượng đặc sắc ngay cả những tiểu thuyết mà giới chuyên môn cho là “Việt hóa” từ tác phẩm nước ngoài. Dù những tác phẩm ấy ở Pháp, ở Ý hoặc ở phương trời châu Âu xa lạ nào đó trong các tác phẩm của A. Dumas, của P. Bourget, của V. Hugo… nhưng qua sự cảm thụ tinh tế, khả năng phóng tác tài hoa, Hồ Biểu Chánh đã tạo cho các tác phẩm: Ai làm được, Chúa tàu Kim Quy, Ngọn cỏ gió đùa… một sắc thái riêng, một giá trị riêng. Người đọc luôn luôn tìm thấy những tác phẩm này đang xảy ra tại vùng đất Nam bộ, chứ không hề riêng gì ở bên Tây hay bên Tàu. Bởi vì những tác phẩm ấy, những nhân vật ấy đã được ông xây dựng trong một không gian mà từ cảnh vật, hoàn cảnh xã hội, tình tiết, tính cách nhận vật… tất cả đều gần gũi và dễ dàng cảm thụ.
Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, phần nhiều người đọc đều nhận ra ở phần kết thường là “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Nhưng khi xét ở góc độ khác, nhân vật trong mỗi tác phẩm của Hồ Biểu Chánh thành công nhất là đã nói lên thời điểm xã hội, mang tính xã hội đương thời, không rơi vào hiện tượng sáo rỗng, không bị gò theo quan điểm đạo đức. Bề dày số phận của các nhân vật đã làm rõ quan điểm nhân đạo rất đáng được trân trọng của Hồ Biểu Chánh. Mọi điều ác, mọi phi lý vô luân luôn bị khắt khe loại trừ mà người đọc đồng cảm ở người cầm bút một dằn vặt vì nỗi đau của tầng lớp người khốn khổ, bất hạnh.
Hồ Biểu Chánh là một trong những người cầm bút có hướng dùng văn chương cải tạo con người. Ông viết một cách say sưa, cần mẫn. Những ngày cuối đời, dù bệnh tim rất nặng, thầy thuốc cấm viết, con cháu nài nỉ ngưng viết nhưng Hồ Biểu Chánh vẫn sáng tác. Ông viết một cách lén lút, viết trong những lúc cả nhà đi vắng, mọi người đang ngủ say. Cho đến ngày Hồ Biểu Chánh qua đời, người ta không khỏi ngậm ngùi khi thấy những bản thảo tiểu thuyết của ông đang dang dở trên bàn giấy. Chính điều này cho chúng ta thấy, Hồ Biểu Chánh là một người rất đam mê công việc, đặc biệt là sự nghiệp văn chương. Ông đã để lại cho đời một khối tiểu thuyết khổng lồ và giá trị. Cho đến nay khối lượng tiểu thuyết của ông để lại cho đời, vẫn là con số độc nhất vô nhị, chưa có người thay thế.
Hồ Biểu Chánh mất ngày 04-9-1958 tại Phú Nhuận - Gia Định (nay là TP. Hồ Chí Minh), hưởng thọ 74 tuổi. Hiện nay tại quận Phú Nhuận - TP. Hồ Chí Minh có một con đường mang tên Hồ Biểu Chánh.
Tác giả bài viết: Huỳnh Mẫn Chi
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Revelogue
Hồ Biểu Chánh: Vân chữ dung dị của văn đàn Việt Nam
TÁC GIẢ
Hồ Biểu Chánh: Vân chữ dung dị của văn đàn Việt Nam
Những năm đầu thế kỷ XX là một cột mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển mình vượt bậc của nền văn học nước nhà qua tên tuổi các nhà văn lớn như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Công Hoan, trong đó không thể không nhắc đến Hồ Biểu Chánh, người tiên phong cho nền tiều thuyết hiện đại Việt Nam.
Với vân chữ dung dị đậm chất Nam Kỳ, nhà văn đã kiến tạo cho riêng mình một thế giới mới trong văn học với thể loại văn xuôi tự sự, đơn giản mộc mạc nhưng lại chứa đựng vô vàn cảm xúc sâu lắng.
Mục lục ẩn
1 Tuổi thơ cơ cực là tiền đề mở đầu cho đời văn vĩ đại của Hồ Biểu Chánh
2 Hồ Biểu Chánh và cuộc đời chưa bao giờ ngừng viết
3 Những tác phẩm không bao giờ lùi vào dĩ vãng của nhà văn tài hoa
4 Hồ Biểu Chánh là hạt ngọc của văn học Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX
Tuổi thơ cơ cực là tiền đề mở đầu cho đời văn vĩ đại của Hồ Biểu Chánh
Nhà văn tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, bút danh của ông được ghép lại từ họ và tên tự đã trở thành một cái tên ghi dấu trong lòng độc giá xuyên suốt bao thập kỷ.
Nhà văn là người có nhiều sáng tác nhất trong văn đàn thời bấy giờ
Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà văn tiên phong của văn học chữ Quốc ngữ vào thế kỷ XX ở miền Nam, ông đã để lại cho đời sau một khối lượng tác phẩm khổng lồ và được xem là người có nhiều sáng tác nhất ở văn đàn thời bấy giờ.
Nhà văn xuất thân từ một gia đình làm nông ở làng Bình Thành, tỉnh Gò Công và được cho đi học chữ Nho từ thuở nhỏ, sau này chuyển sang học chữ Quốc Ngữ rồi vào trường trung học Mỹ Tho và Sài Gòn.
Hồ Biểu Chánh là nhân chứng sống cho sự giao thoa của hai thời đại, khi Nho học dần lụi tàn trong sự hội nhập của chữ Quốc ngữ, những tác phẩm đầu tay của ông đã trở thành điểm nổi bật cho nền văn học thời bấy giờ bởi cốt truyện đơn giản nhưng tư tưởng sâu sắc.
Hồ Biểu Chánh là một trong những cây bút tiên phong cho văn học chữ Quốc ngữ Việt Nam
Văn học khởi nguồn từ thực tại cuộc sống, vì vậy trong trang văn của Hồ Biểu Chánh luôn mang đậm hơi thở của những vùng đất ông từng đi qua với chất Nam Kỳ mộc mạc đã chạm đến trái tim của hàng nghìn độc giả, khơi dậy từ tấm lòng họ niềm trắc ẩn về ý chí phản kháng cái ác.
Trải qua tuổi thơ cơ cực trong gia đình nghèo đông con, Hồ Biểu Chánh đã thấu cảm rất nhiều cho nỗi cơ cực của những người thuộc tầng lớp thấp trong xã hội, vì vậy ngòi bút của ông thường hướng về thân phận nghèo khổ của con người.
“Còn hai bữa nữa tới ngày ta phải đi, mẹ ta than hết tiền, cha ta mới đi kiếm người đặng mượn tiền cho ta đi. Ta lo quá, sợ không đi được. Bữa chót, đến tối mà cũng không thấy cha ta về. Ta than nếu có một đồng bạc thì đủ cho ta đi. Mẹ ta khuyên ta đừng lo…Thiệt khuya, mẹ ta gói một cặp áo hàng, đi bộ với ta xuống chợ mà cầm. Chủ tiệm chịu cầm ba đồng. Mẹ ta xếp giấy bỏ vô túi, còn bạc thì đưa hết cho ta. Ta lấy hai đồng mà thôi. Mẹ ta không chịu, ép phải lấy hết, rồi đưa ta xuống tàu. Lúc tàu mở dây mà chạy, ta đứng ngó mẹ ta trên cầu tàu, ta chảy nước mắt…”
– Trích từ Lời di chúc
Những lời tâm tình mộc mạc mạc mà chua xót ấy còn xuất hiện rất nhiều lần nữa trong trang văn của Hồ Biểu Chánh nhưng lại ở một cuộc đời, một thân phận khác.
Hồ Biểu Chánh và cuộc đời chưa bao giờ ngừng viết
Nhà văn được công nhận là người có nhiều sáng tác nhất trong văn đàn thời bấy giờ với hơn một trăm tác phẩm gồm nhiều thể loại từ tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn đến tuồng hát, ông còn phóng tác một số tiểu thuyết của Pháp.
Tuổi thơ cơ cực làm nên một nhà văn vĩ đại
Đời văn Hồ Biểu Chánh là một cuộc chính biến đầy huy hoàng của văn học chữ Quốc ngữ, từ khi các tác phẩm của ông ra đời thì bánh xe của nền văn học mới này không còn giậm chân tại chỗ nữa mà ngày càng tịnh tiến.
Hồ Biểu Chánh trở thành một trong những cây bút tiên phong của văn học hiện đại, làm ngọn đuốc sáng dẫn lối cho hậu thế sau này với các tác phẩm phong phú ở rất nhiều thể loại.
Đến những năm tháng cuối đời, dẫu cho bệnh tật và tuổi già kéo ông đến gần hơn với ranh giới sinh tử thì Hồ Biểu Chánh vẫn không ngừng sáng tác, dường như viết đã trở thành thiên chức vĩ đại trong cuộc đời ông.
“Bịnh đã càng ngày càng thêm mà ba tôi không chịu nghỉ viết. Thầy thuốc cấm. Ba tôi vẫn viết. Con cháu năn nỉ lắm thì ba tôi chỉ nghỉ vài ngày rồi viết nữa và bảo rằng : “Ba còn viết được thì cứ để cho ba viết. Ba không viết được thì lòng thấy bứt rứt, người thấy khó chịu hơn. Có viết được lòng mới thấy yên ổn, người mới thấy thư thả dễ chịu. Viết là một phương thuốc, là một cách trị bịnh cho ba đó ….Cách đó ít bữa thì ba tôi từ trần. Trên bàn viết còn để lại bản thảo một tác phẩm viết dở.”
– Trích lời tâm sự của con trưởng Hồ Biểu Chánh trong Quyển Hy Sinh
Ông đã sống hết mình với thiên chức mà trời ban cho những người mang nghiệp bút nghiêng, tên tuổi Hồ Biểu Chánh tạc vào lòng thế kỷ một trường đoạn bất hủ trong những năm đầu tiên tiểu thuyết hiện đại Việt Nam bắt đầu phát triển.
Khối lượng tác phẩm đồ sộ của nhà văn Hồ Biểu Chánh
Sau này, tên của nhà văn được nhắc đến nhiều trong các buổi thảo luận văn học và những tác phẩm do ông sáng tác đã trở thành đề tài nghiên cứu cho rất nhiều luận án.
Hồ Biểu Chánh là cây cầu nối liền giữa những giá trị của cổ truyền đến con người hiện đại, đó là sự dung hòa tuyệt diệu mà không phải nhà văn nào cũng có khả năng thực hiện.
Những tác phẩm không bao giờ lùi vào dĩ vãng của nhà văn tài hoa
Đến với các tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ của Hồ Biểu Chánh, người đọc đã tìm thấy sự tuyệt diệu mà ngôn ngữ văn học đem đến với thế giới thực tại, tuy mộc mạc nhưng lại chứa đựng vô vàn nét đẹp riêng.
Từ đầu thế kỷ XX, khi cánh đồng văn học chữ Quốc ngữ vẫn còn hoang hóa thì Hồ Biểu Chánh đã trở thành người nông dân đầu tiên cày cuốc trên mảnh đất này và để lại được cho đời sau không ít hoa thơm trái ngọt.
Các tác phẩm do Hồ Biểu Chánh sáng tác vẫn giữ nguyên vẹn giá trị đến tận ngày nay
Người ta nhớ về quan đốc phủ Hồ Văn Trung đã có những bước đi lầm lạc trong chính trị nhưng cũng không bao giờ quên văn sĩ Hồ Biểu Chánh đã có cống hiến lớn thế nào đối với văn học nước nhà, trên tất cả, các tác phẩm của ông vẫn luôn vẹn nguyên giá trị qua bao năm tháng.
Đến thời điểm hiện tại, nội dung và ngôn từ trong những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh vẫn luôn là đề tài mà người ta muốn khai thác và tìm hiểu sâu hơn để thấu rõ nền văn học trong thời cận đại ấy đã phát triển như thế nào.
Tiểu thuyết của nhà văn giống như tấm gương soi lại quá khứ thăng trầm của dân tộc, hướng người đọc đến cái thiện và đi tìm lẽ sống đúng giữa cuộc đời tăm tối.
Tác phẩm Con nhà nghèo của Hồ Biểu Chánh đã được chuyểnc thể thành phim
Dù có nhiều đánh giá cho rằng cốt truyện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh vẫn đi theo lối cũ là “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” song cũng không thể phủ nhận được những giá trị sâu sắc mà tác phẩm của ông mang đến, từ văn phong đến cả ngôn từ đại diện cho một vùng miền của đất nước đã được chắt lọc qua bao năm tháng.
Hồ Biểu Chánh là hạt ngọc của văn học Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX
Đọc hàng vạn trang văn của người nghệ sĩ tài hoa, độc giả sẽ cảm nhận được phong cách viết rất đỗi đặc biệt của ông với việc dùng khẩu ngữ Nam Bộ để biểu đạt ý văn, chính điều này đã làm nên một Hồ Biểu Chánh độc nhất vô nhị, một giọng văn không thể tìm thấy trong cuống họng của người khác.
Ngôn từ là cổ xe chuyên chở điệu hồn của văn phẩm, vì vậy khi đến với những trang văn của Hồ Biểu Chánh, người đọc luôn cảm nhận được hơi thở nồng nàn của miền Nam qua cách dùng từ ngữ địa phương điêu luyện, tuy không hoa mỹ nhưng lại ẩn chứ vô vàn nét đẹp dung dị.
Hồ Biểu Chánh không đi theo lối viết ngôn ngữ bác học như những nhà văn khác cùng thời mà lựa chọn hướng ngòi bút về ngôn ngữ dân chúng, điều này đã gây tranh cãi gay gắt trong các cuộc thảo luận của những nhà phê bình thời bấy giờ bởi nhiều luồng ý kiến trái chiều với giọng văn đặc biệt này.
Các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đã được tái bản nhiều lần
Tuy nhiên, những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh qua bao thập kỷ vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị văn học đối với độc giả đã phần nào khẳng định được tài năng của ông.
Mỗi nhà văn đều có quyền lựa chọn cho riêng mình phong cách sáng tác và cách sử dụng ngôn từ, Hồ Biểu Chánh đã đi ngược lại với sự hoa mỹ chau chuốt của văn chương để tìm về với cách kể mộc mạc dung dị nhất làm khơi dậy được sự đồng điệu từ sâu trong tâm hồn với người dân miền Nam nói riêng và đất nước nói chung.
Hồ Biểu Chánh đã tạc vào thế kỷ một sự nghiệp bút nghiêng lẫy lừng của người mang thiên chức, ông đem tinh hoa cuộc đời xâu thành chuỗi hạt ngọc ngôn từ rồi thả trôi giữa dòng chảy êm dịu của thời gian để hậu thế lần theo nó mà tìm được về với thượng nguồn của dân tộc.
Diệu Uyển
Hồ Biểu Chánh: Vân chữ dung dị của văn đàn Việt Nam
TÁC GIẢ
Hồ Biểu Chánh: Vân chữ dung dị của văn đàn Việt Nam
Những năm đầu thế kỷ XX là một cột mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển mình vượt bậc của nền văn học nước nhà qua tên tuổi các nhà văn lớn như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Công Hoan, trong đó không thể không nhắc đến Hồ Biểu Chánh, người tiên phong cho nền tiều thuyết hiện đại Việt Nam.
Với vân chữ dung dị đậm chất Nam Kỳ, nhà văn đã kiến tạo cho riêng mình một thế giới mới trong văn học với thể loại văn xuôi tự sự, đơn giản mộc mạc nhưng lại chứa đựng vô vàn cảm xúc sâu lắng.
Mục lục ẩn
1 Tuổi thơ cơ cực là tiền đề mở đầu cho đời văn vĩ đại của Hồ Biểu Chánh
2 Hồ Biểu Chánh và cuộc đời chưa bao giờ ngừng viết
3 Những tác phẩm không bao giờ lùi vào dĩ vãng của nhà văn tài hoa
4 Hồ Biểu Chánh là hạt ngọc của văn học Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX
Tuổi thơ cơ cực là tiền đề mở đầu cho đời văn vĩ đại của Hồ Biểu Chánh
Nhà văn tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, bút danh của ông được ghép lại từ họ và tên tự đã trở thành một cái tên ghi dấu trong lòng độc giá xuyên suốt bao thập kỷ.
Nhà văn là người có nhiều sáng tác nhất trong văn đàn thời bấy giờ
Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà văn tiên phong của văn học chữ Quốc ngữ vào thế kỷ XX ở miền Nam, ông đã để lại cho đời sau một khối lượng tác phẩm khổng lồ và được xem là người có nhiều sáng tác nhất ở văn đàn thời bấy giờ.
Nhà văn xuất thân từ một gia đình làm nông ở làng Bình Thành, tỉnh Gò Công và được cho đi học chữ Nho từ thuở nhỏ, sau này chuyển sang học chữ Quốc Ngữ rồi vào trường trung học Mỹ Tho và Sài Gòn.
Hồ Biểu Chánh là nhân chứng sống cho sự giao thoa của hai thời đại, khi Nho học dần lụi tàn trong sự hội nhập của chữ Quốc ngữ, những tác phẩm đầu tay của ông đã trở thành điểm nổi bật cho nền văn học thời bấy giờ bởi cốt truyện đơn giản nhưng tư tưởng sâu sắc.
Hồ Biểu Chánh là một trong những cây bút tiên phong cho văn học chữ Quốc ngữ Việt Nam
Văn học khởi nguồn từ thực tại cuộc sống, vì vậy trong trang văn của Hồ Biểu Chánh luôn mang đậm hơi thở của những vùng đất ông từng đi qua với chất Nam Kỳ mộc mạc đã chạm đến trái tim của hàng nghìn độc giả, khơi dậy từ tấm lòng họ niềm trắc ẩn về ý chí phản kháng cái ác.
Trải qua tuổi thơ cơ cực trong gia đình nghèo đông con, Hồ Biểu Chánh đã thấu cảm rất nhiều cho nỗi cơ cực của những người thuộc tầng lớp thấp trong xã hội, vì vậy ngòi bút của ông thường hướng về thân phận nghèo khổ của con người.
“Còn hai bữa nữa tới ngày ta phải đi, mẹ ta than hết tiền, cha ta mới đi kiếm người đặng mượn tiền cho ta đi. Ta lo quá, sợ không đi được. Bữa chót, đến tối mà cũng không thấy cha ta về. Ta than nếu có một đồng bạc thì đủ cho ta đi. Mẹ ta khuyên ta đừng lo…Thiệt khuya, mẹ ta gói một cặp áo hàng, đi bộ với ta xuống chợ mà cầm. Chủ tiệm chịu cầm ba đồng. Mẹ ta xếp giấy bỏ vô túi, còn bạc thì đưa hết cho ta. Ta lấy hai đồng mà thôi. Mẹ ta không chịu, ép phải lấy hết, rồi đưa ta xuống tàu. Lúc tàu mở dây mà chạy, ta đứng ngó mẹ ta trên cầu tàu, ta chảy nước mắt…”
– Trích từ Lời di chúc
Những lời tâm tình mộc mạc mạc mà chua xót ấy còn xuất hiện rất nhiều lần nữa trong trang văn của Hồ Biểu Chánh nhưng lại ở một cuộc đời, một thân phận khác.
Hồ Biểu Chánh và cuộc đời chưa bao giờ ngừng viết
Nhà văn được công nhận là người có nhiều sáng tác nhất trong văn đàn thời bấy giờ với hơn một trăm tác phẩm gồm nhiều thể loại từ tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn đến tuồng hát, ông còn phóng tác một số tiểu thuyết của Pháp.
Tuổi thơ cơ cực làm nên một nhà văn vĩ đại
Đời văn Hồ Biểu Chánh là một cuộc chính biến đầy huy hoàng của văn học chữ Quốc ngữ, từ khi các tác phẩm của ông ra đời thì bánh xe của nền văn học mới này không còn giậm chân tại chỗ nữa mà ngày càng tịnh tiến.
Hồ Biểu Chánh trở thành một trong những cây bút tiên phong của văn học hiện đại, làm ngọn đuốc sáng dẫn lối cho hậu thế sau này với các tác phẩm phong phú ở rất nhiều thể loại.
Đến những năm tháng cuối đời, dẫu cho bệnh tật và tuổi già kéo ông đến gần hơn với ranh giới sinh tử thì Hồ Biểu Chánh vẫn không ngừng sáng tác, dường như viết đã trở thành thiên chức vĩ đại trong cuộc đời ông.
“Bịnh đã càng ngày càng thêm mà ba tôi không chịu nghỉ viết. Thầy thuốc cấm. Ba tôi vẫn viết. Con cháu năn nỉ lắm thì ba tôi chỉ nghỉ vài ngày rồi viết nữa và bảo rằng : “Ba còn viết được thì cứ để cho ba viết. Ba không viết được thì lòng thấy bứt rứt, người thấy khó chịu hơn. Có viết được lòng mới thấy yên ổn, người mới thấy thư thả dễ chịu. Viết là một phương thuốc, là một cách trị bịnh cho ba đó ….Cách đó ít bữa thì ba tôi từ trần. Trên bàn viết còn để lại bản thảo một tác phẩm viết dở.”
– Trích lời tâm sự của con trưởng Hồ Biểu Chánh trong Quyển Hy Sinh
Ông đã sống hết mình với thiên chức mà trời ban cho những người mang nghiệp bút nghiêng, tên tuổi Hồ Biểu Chánh tạc vào lòng thế kỷ một trường đoạn bất hủ trong những năm đầu tiên tiểu thuyết hiện đại Việt Nam bắt đầu phát triển.
Khối lượng tác phẩm đồ sộ của nhà văn Hồ Biểu Chánh
Sau này, tên của nhà văn được nhắc đến nhiều trong các buổi thảo luận văn học và những tác phẩm do ông sáng tác đã trở thành đề tài nghiên cứu cho rất nhiều luận án.
Hồ Biểu Chánh là cây cầu nối liền giữa những giá trị của cổ truyền đến con người hiện đại, đó là sự dung hòa tuyệt diệu mà không phải nhà văn nào cũng có khả năng thực hiện.
Những tác phẩm không bao giờ lùi vào dĩ vãng của nhà văn tài hoa
Đến với các tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ của Hồ Biểu Chánh, người đọc đã tìm thấy sự tuyệt diệu mà ngôn ngữ văn học đem đến với thế giới thực tại, tuy mộc mạc nhưng lại chứa đựng vô vàn nét đẹp riêng.
Từ đầu thế kỷ XX, khi cánh đồng văn học chữ Quốc ngữ vẫn còn hoang hóa thì Hồ Biểu Chánh đã trở thành người nông dân đầu tiên cày cuốc trên mảnh đất này và để lại được cho đời sau không ít hoa thơm trái ngọt.
Các tác phẩm do Hồ Biểu Chánh sáng tác vẫn giữ nguyên vẹn giá trị đến tận ngày nay
Người ta nhớ về quan đốc phủ Hồ Văn Trung đã có những bước đi lầm lạc trong chính trị nhưng cũng không bao giờ quên văn sĩ Hồ Biểu Chánh đã có cống hiến lớn thế nào đối với văn học nước nhà, trên tất cả, các tác phẩm của ông vẫn luôn vẹn nguyên giá trị qua bao năm tháng.
Đến thời điểm hiện tại, nội dung và ngôn từ trong những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh vẫn luôn là đề tài mà người ta muốn khai thác và tìm hiểu sâu hơn để thấu rõ nền văn học trong thời cận đại ấy đã phát triển như thế nào.
Tiểu thuyết của nhà văn giống như tấm gương soi lại quá khứ thăng trầm của dân tộc, hướng người đọc đến cái thiện và đi tìm lẽ sống đúng giữa cuộc đời tăm tối.
Tác phẩm Con nhà nghèo của Hồ Biểu Chánh đã được chuyểnc thể thành phim
Dù có nhiều đánh giá cho rằng cốt truyện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh vẫn đi theo lối cũ là “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” song cũng không thể phủ nhận được những giá trị sâu sắc mà tác phẩm của ông mang đến, từ văn phong đến cả ngôn từ đại diện cho một vùng miền của đất nước đã được chắt lọc qua bao năm tháng.
Hồ Biểu Chánh là hạt ngọc của văn học Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX
Đọc hàng vạn trang văn của người nghệ sĩ tài hoa, độc giả sẽ cảm nhận được phong cách viết rất đỗi đặc biệt của ông với việc dùng khẩu ngữ Nam Bộ để biểu đạt ý văn, chính điều này đã làm nên một Hồ Biểu Chánh độc nhất vô nhị, một giọng văn không thể tìm thấy trong cuống họng của người khác.
Ngôn từ là cổ xe chuyên chở điệu hồn của văn phẩm, vì vậy khi đến với những trang văn của Hồ Biểu Chánh, người đọc luôn cảm nhận được hơi thở nồng nàn của miền Nam qua cách dùng từ ngữ địa phương điêu luyện, tuy không hoa mỹ nhưng lại ẩn chứ vô vàn nét đẹp dung dị.
Hồ Biểu Chánh không đi theo lối viết ngôn ngữ bác học như những nhà văn khác cùng thời mà lựa chọn hướng ngòi bút về ngôn ngữ dân chúng, điều này đã gây tranh cãi gay gắt trong các cuộc thảo luận của những nhà phê bình thời bấy giờ bởi nhiều luồng ý kiến trái chiều với giọng văn đặc biệt này.
Các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đã được tái bản nhiều lần
Tuy nhiên, những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh qua bao thập kỷ vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị văn học đối với độc giả đã phần nào khẳng định được tài năng của ông.
Mỗi nhà văn đều có quyền lựa chọn cho riêng mình phong cách sáng tác và cách sử dụng ngôn từ, Hồ Biểu Chánh đã đi ngược lại với sự hoa mỹ chau chuốt của văn chương để tìm về với cách kể mộc mạc dung dị nhất làm khơi dậy được sự đồng điệu từ sâu trong tâm hồn với người dân miền Nam nói riêng và đất nước nói chung.
Hồ Biểu Chánh đã tạc vào thế kỷ một sự nghiệp bút nghiêng lẫy lừng của người mang thiên chức, ông đem tinh hoa cuộc đời xâu thành chuỗi hạt ngọc ngôn từ rồi thả trôi giữa dòng chảy êm dịu của thời gian để hậu thế lần theo nó mà tìm được về với thượng nguồn của dân tộc.
Diệu Uyển
Last edited by LDN on Sat Oct 29, 2022 5:09 am; edited 3 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
vawansw.org.au
HỒ BIỂU CHÁNH: NHÀ VĂN LỚN CỦA MIỀN NAM
Một nhà văn hay một nghệ sĩ nói chung, ngoài thiên phú sáng tạo và khả năng tri thức, còn phải nhờ vào kinh nghiệm sống và môi trường sống để hoàn thành một tác phẩm. Trường hợp của Hồ Biểu Chánh là biểu tượng rõ rệt của nhận định nầy bởi lẽ cuộc đời của ông và những vùng đất mà ông đã sống trong thời niên thiếu (Gò Công), thời ông đi học (MỹTho, Saigon) và thời làm việc (các tình miền Hậu Giang, Saigon) là những chất liệu quan trọng cấu thành các tác phẩm của ông. Trong viễn tựợng ấy, trước khi đề cập đến văn nghiệp của HBC, tưởng nên biết qua về thân thế của tác giả.
Thân thế Hồ Biểu Chánh
Ông tên thật là Hồ Văn Trung, tự là Biểu Chánh, bút hiệu là Thứ Tiên (thường ký trong các bài thơ), sinh ngày 1-10-1885 (năm Ất Dậu) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo, đông con ( ông là người con thứ năm trong 12 người).
Trong tập ký ức, viết ngày 24/12/1957, tại Phú Nhuận, bản đánh máy, nhan đề « Đời của tôi về văn nghệ», Hồ Biểu Chánh đã viết về thời niên thiếu của ông như sau: Từ 8 đến 12 tuổi, học nhấp nhem chữ Nho với thầy giáo dạy trong làng. Đến 13 tuổi, nhờ cha mẹ dời về ở chợ Giồng Ông Huê, mới bắt đầu học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi xuống trường tỉnh Gò Công học tiếp 3 năm thi đậu học bổng. Được vào trường trung học Mỹ Tho học 2 năm (1902 và 1903) rồi được lên trường trung học Chasseloup-Laubat ở Sàigòn học thêm 2 năm nữa. Cuối năm 1905 thi đậu bằng Thành Chung .
Cuộc đời cơ cực của ông thời niên thiếu đã khiến ông thấu hiểu nỗi thống khổ của người nghèo, do đó trong tiểu thuyết của ông, ông viết nhiều về giới nông dân, thợ thuyền, nói chung những người cùng cố trong xã hôi. Hãy nghe ông tự thuật đời ông trong Lời di chúc (bản đánh máy do ông Hồ Văn Kỳ Trân, trưởng nam sao lại, Nguyễn Khuê, tr. 20) :
Còn hai bữa nữa tới ngày ta phải đi, mẹ ta than hết tiền, cha ta mới đi kiếm người đặng mượn tiền cho ta đi. Ta lo quá, sợ không đi được. Bữa chót, đến tối mà cũng không thấy cha ta về. Ta than nếu có một đồng bạc thì đủ cho ta đi. Mẹ ta khuyên ta đừng lo…Thiệt khuya, mẹ ta gói một cặp áo hàng, đi bộ với ta xuống chợ mà cầm. Chủ tiệm chịu cầm ba đồng. Mẹ ta xếp giấy bỏ vô túi, còn bạc thì đưa hết cho ta. Ta lấy hai đồng mà thôi. Mẹ ta không chịu, ép phải lấy hết, rồi đưa ta xuống tàu. Lúc tàu mở dây mà chạy, ta đứng ngó mẹ ta trên cầu tàu, ta chảy nước mắt…
Nếu chúng ta xúc động khi đọc những lời tự thuật chân tình nầy thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ không ngăn được giọt lệ thương cảm cho những cảnh đời ngang trái trong nhiều tiểu thuyết của ông.
Sau khi thi đậu Thành Chung, ông định xin làm giáo viên, nhưng theo lời khuyên của một ông thầy cũ, ông đi thi Ký Lục. Năm 1906, ông đậu ký lục và được bổ nhiệm làm việc ở dinh Thượng Thơ Saigon. Cuộc đời hoạn lộ của ông bắt đầu từ đây, nhưng lúc nào ông cũng giữ tư cách thanh cao, chính trực, đời sống thật khiêm túc.
Trong di chúc ông viết :
Tuy là tay sai của quan Pháp, song nếu mình cứ lấy lòng siêng năng ngay thẳng mà làm việc, đừng a dua, đừng bợ đỡ, phải thì ở, không phải thì đi, nói oan dám giận, nói bậy dám cãi, thì phận mình khỏi hổ, mà thiên hạ lại được nhờ nữa (Nguyễn Khuê, t. 22)
Ông Bằng Giang, một văn hữu của Hồ Biểu Chánh đã mô tả ngôi nhà của HBC ở Vĩnh Hội hồi năm 1943 như sau lúc HBC đã là ông Đốc Phủ sứ :
Căn nhà ở góc đường Nguyễn Khoái -Tôn Thất Thuyết (đường Tôn Thất Thuyết chạy dọc theo Kinh Đôi trước năm 1945 là nơi đổ rát của địa phương Saigon-Chợ Lớn) lúc bấy giờ thật hẻo lánh. Ít ai ngờ được rằng đó là một căn nhà nhỏ vách ván, không điện, không nước. Đêm xuống, cả một vùng chìm trong bóng tối như ở giữa thôn quê. Gian nhà phía trước hẹp, có kê một cái bàn, nơi ông làm việc, tiếp khách, không có trang hoàng chi hết… (Hồ Biểu Chánh : người mở đường …., tr.107)
Năm 1911, Thống đốc Nam Kỳ nghi ông có liên lạc với nhóm Gilbert Trần Chánh Chiếu, chống Pháp nên đổi ông xuống Bạc Liêu. Được 9 tháng, ông tình nguyện đi Cà Mau thay cho một đồng liêu có con còn nhỏ, sợ xuống Cà Mau bị muỗi mòng, nước độc, tuy rằng lúc đó ông cũng vừa có đứa con đầu lòng mới 1 tuổi (là Hồ Văn Kỳ Trân, gởi lại cho nhạc mẫu nuôi). Năm sau ông lại đổi đi Long Xuyên (1913) và tại đây ông cùng với một số bạn bè trong hội Khuyến Học thành lập tờ Đại Việt Tạp Chí (tờ báo chỉ phát hành được 13 số thì đình bản). Năm 1918, ông được đổi về Gia định.
Năm 1921, ông thi đậu Tri huyện và năm 1927 được thăng tri phủ. Từ đây, ông được xem như công chức cao cấp, được cử làm chủ quận Càng Long (1927), Ô Môn (1932). Năm 1934, vì bất đồng ý kiến với viên chủ tỉnh, ông bị đổi đi Phụng Hiệp (1934). Năm
1936 ( lúc ông 51 tuổi), ông được thăng Đốc phủ sứ.
Tháng 6 năm nầy (1936), ông đã làm việc được 30 năm nên ông xin hồi hưu, nhưng chính phủ Pháp viện lẽ thiếu người nên lưu dụng ông đến tháng 6 năm 1941. Nhưng chỉ hai tháng sau, ngày 4-8-1941, ông được cử làm nghị viên Hội Đồng Liên Bang Đông Dương, rồi nghị viên Hội đồng thành phố Saigon kiêm Phó Đốc Lý. Trong thời gian nầy, ông còn làm giám đốc cho hai tờ báo là Nam Kỳ Tuần Báo và Đại Việt Tạp Chí (bộ mới). Năm 1946, khi ông Nguyễn Văn Thinh lập chánh phủ «Nam Kỳ tự trị» ông có làm đổng lý văn phòng, nhưng đến cuối năm, khi Nguyễn Văn Thinh tự tử, ông mới thực sự từ giả chính trường để vừa an hưởng tuổi già, vửa viết văn cho đến lúc tạ thế ngày 4-11-1958 tại tư thất ở Phú Nhuận, hưởng thọ 74 tuổi.
Hồ Biểu Chánh có 8 người con trong số có nhiều người tham chánh.
- Hồ Văn Kỳ Trân : sinh năm 1911 ở Chợ Lớn, giáo sư, dân biểu thời Đệ nhất Cộng Hòa, mất năm 1981 ở Austin, Texas.
- Hồ Văn Ngọc Ưỡng (bà) : sinh năm 1912 ở Cà Mau, mất năm 2004 ở VN.
- Hồ Văn Minh Cảnh : sinh năm 1914 ở Long Xuyên , mất ở VN
- Hồ Văn Vân Anh (bà) : sinh năm 1914 ở Long Xuyên, hiện còn sống ở VN.
- Hồ Thị Sương : sinh năm 1922 ở ChợLớn, mất năm 1955 ở VN.
- Hồ văn Di Thuấn, sinh năm 1928 ở Trà Vinh, mất năm 1994 ở Cali.
- Hồ Văn Di Hinh, sinh năm 1928 ở Trà vinh, tổng Trưởng Thanh Niên, Thị Trưởng ĐàLạt, mất năm 2002 tại Pháp.
- Hồ Văn Ứng Kiệt, sinh năm 1934, phi công tử nạn năm 1964.
Nếu phải kể thêm người con thứ 9 là bà Hồ Văn Madeleine (chị của Hồ Văn Ứng Kiệt), chết lúc mới sanh.
Văn nghiệp
Hồ Biểu Chánh bắt đầu viết văn từ năm 1906, cùng lúc với nghề công chức, nhưng ông đã sống với nghiệp văn đến hơi thở cuối cùng. Nếu nghề công chức là một phương tiện sinh sống thì viết văn, đối với Hồ Biểu Chánh là một đam mê và một sứ mạng «văn dĩ tải đạo» . Ông nói : Viết văn để cho người mình đọc chuyện xảy ra ờ nước mình bằng chữ nước mình.
Những năm cuối cùng ông có bịnh đau tim và ông rất yếu.
Ông Hồ Văn Kỳ Trân, người con trưởng của ông kể lại :
«Bệnh đã càng ngày càng thêm mà ba tôi không chịu nghỉ viết. Thầy thuốc cấm. Ba tôi vẫn viết. Con cháu năn nỉ lắm thì ba tôi chỉ nghỉ vài ngày rồi viết nữa và bảo rằng :« Ba còn viết được thì cứ để cho ba viết. Ba không viết được thì lòng thấy bứt rứt, người thấy khó chịu hơn. Có viết được lòng mới thấy yên ổn, người mới thấy thư thả dễ chịu. Viết là một phương thuốc, là một cách trị bịnh cho ba đó» ….Cách đó ít bữa thì ba tôi từ trần. Trên bàn viết còn để lại bản thảo một tác phẩm viết dở» ( Quyển Hy Sinh).(Thụy Khuê RFA)
Sau nửa thế kỷ sáng tác, ông để lại cho hậu thế một văn nghiệp đồ sộ với 131 tác phẩm đủ các thể loại như truyện ngắn, thơ, tuồng cải lương, hát bội, văn tế, dịch thuật…liệt kê như sau :
- 64 tiểu thuyết
- 8 đoản thiên
- 4 truyện ngắn
- 2 truyện dịch (1 dịch sách Tàu :Tân soạn cổ tích và 1 dịch vở kịch Pháp : Lửa ngưng thình lình )
- 12 tuồng hát (5 hài kịch, 4 hát bội, 3 cải lương)
- 5 tập thơ và truyện thơ (truyện U Tình Lục thể lục bát gồm 1790 câu)
- 8 tập ký
- 28 tập khảo cứu và phê bình.
Nhưng những tác phẩm thuộc các thể loại kể trên ít ai biết đến mà người dân cũng ít biết đến tên ông đốc phủ sứ Hồ Văn Trung. Người ta chỉ biết tên nhà văn Hồ Biểu Chánh với một thể loại duy nhất, đó là tiểu thuyết.
Nhiều tiểu thuyết của ông được độc giả yêu mến từ lúc mới xuất bản cho đến ngày nay và đã có ít nhất 10 tiểu thuyết nổi tiếng được dựng thành phim như:
Ngọn cỏ gió đùa, Cay đắng mùi đời, Nợ đời, Con nhà nghèo, Chúa tàu Kim Quy,
Đại nghĩa diệt thân, Tân phong nữ sĩ, Tại tôi, Khóc thầm. Bộ phim mới nhất là Tình Án dựa vào truyện Cư Kỉnh.
Danh sách tiểu thuyết và đoản thiên tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh theo thứ tự thời gian, nơi sáng tác và nhà xuất bản
64 tiểu thuyết, 8 đoản thiên (chữ in nghiêng)
Số Tiểu thuyết / Đoản thiên (nơi viết, năm viết) Nhà xuất bản, năm xuất bản
1
Ai làm được (Cà Mau 1912) - Xưa Nay,1926,1931
- Mai Hương, 1958 (tái bản lần 4)
2
Cay đắng mùi đời (Sài Gòn,1923) - Khời đăng trên Đông Pháp thời báo
từ 4/7/1923 – 21/12/1923
- Xưa Nay, 1923,1928
- Tấn Phát,1952, in lần thứ 9 năm
1961
3
Chúa tàu Kim Quy (Sài Gòn ,1923) -Khởi đăng trên Công Luận báo từ
4/8/1922 – 30/3/1923
- Imprimerie de l’Union,1926
- Lửa Hồng, 1957
4
Một chữ tình (Sài Gòn, 1923)
5
Tình mộng (Sài Gòn , 1923) -Đăng trên Phụ Nữ Tân Văn,1931
-Đức Lưu Phương, 1938
- Phương Nam, 1952
6
Nam cực tinh huy (Sài Gòn , 1924) - Đức Lưu Phương, 1924, 1931
7
Nhơn tình ấm lạnh (Sài Gòn , 1925) - Khởi đăng trên Đông Pháp Thời Báo
từ 3/5/1926 đến 24/11/1926
- Xưa Nay, 1928
- Phan Yên, 1953
8
Tiền bạc, bạc tiền (Sài Gòn , 1925) - Imp. De l’Union, 1926, 1929
9
Ngọn cỏ gió đùa (Sài Gòn , 1926) - Khởi đăng trên Đông Pháp Thời Báo
từ 26/11/1926 – 28/2/1927
- Nguyễn Khắc, 1930
- Tấn Phát, 1953 và tái bản nhiều lần
10
Thầy Thông ngôn (Sài Gòn ,1926) - Imp. De l’Union, 1927
- Bốn Phương, 1953
11
Chút phận linh đinh (Càng Long ,1928) - Nguyễn Khắc, 1928
- Lửa Hồng, 1956
12
Kẻ làm người chịu (Càng Long , 1928) - Đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, 1931
- Tín Đức Thư Xã, 1929
13
Cha con nghĩa nặng (Càng Long, 1929) - Khởi đăng trên Phụ Nữ Tân Văn từ
30/10/1929 -13/2/1930
- Đức Lưu Phương, 1938
- Tấn Phát, 1953 và tái bản nhiều lần
14
Khóc thầm (Càn Long , 1929) - Đăng trên Phụ Nữ Tân Văn từ
3//4/11930 đến 14/8/1930
- Imp. De l’Union, 1935
- Bốn Phương, 1953
15
Người vợ hiền (1929) ?
16
Vì nghĩa vì tình (Càng Long , 1929) -Khởi đăng trên Phụ Nữ Tân Văn só 1 đến số 22(1929)
- Tín Đức Thư Xã, 1929
- Lửa Hồng, 1957
17
Con nhà nghèo (Càng Long -,1930) - Đức Lưu Phương, 1930
- Phan Yên, 1954
18
Nặng gánh cang thường (Càng Long -1930) -Tấn Phát, 1953
19
Con nhà giàu (Càng Long ,1931) -Khởi đăng trên Phụ Nữ Tân Văn từ
số 85 đến số 144 (1931-1932)
20
Cười gượng (Sài Gòn ,1935) - Đức Lưu Phương, 1937
21
Dây oan (Sài Gòn , 1935) - Song Kiên, 1950
22
Lòng dạ đàn bà (1935) * - Song Kiên, 1960
23
Một đời tài sắc (Sài Gòn , 1935) - Lửa Hồng, 1957
24
Ở theo thời (Sài Gòn , 1935) - Đăng trên Tiểu Thuyết Nam Kỳ từ số
2 (1935)
- Đức Lưu Phương 1938
25
Ông Cử (Sài Gòn , 1935) - Đức Lưu Phương, 1939
- Sông Kiên, 1960
26
Thiệt giả, giả thiệt (Sài Gòn ,1935) - Đức Lưu Phương, 1937
27
Đoá hoa tàn (Vinh Hội , 1936) - Đức Lưu Phương, 1937
- Tấn Phát, 1952
28
Nợ đời (Vĩnh Hội , 1936) - Đức Lưu Phương, 1936
- Tấn Phát, 1952
29
Lạc đường ( Vinh Hội ,1937) - Đức Lưu Phương, 1937
- Phương Nam, 1953
30
Tân Phong nữ sĩ (Vinh Hội , 1937) - Đức Lưu Phương, 1938
31
Từ hôn (Vinh Hội – 1937) - Đức Lưu Phương, 1938
32
Bỏ chồng (Vinh Hội , 1938) - Lưu -Đức Phương, 1939
- Mai Hương, 1958
33
Bỏ vợ (Vinh Hội , 1938) - Lửa Hồng, 1957
34
Lời thề trước miễu (Vinh Hội , 1938) - Lửa Hồng, 1961
35
Người thất chí (Vinh Hội ,1938) - Sông Kiên, 1961
36
Tại tôi (Vinh Hội , 1938) - Đức Lưu Phương, 1939
- Phan Yên, 1953
37
Hai khối tình (Vĩnh Hội – 1939) - Tấn Phát, 1956
38
Tìm đường (Vinh Hội – 1939)
39
Đoạn tình ( Vĩnh Hội -1940) - Phương Nam, 1953
40
Ái tình miếu ( Vinh Hội , 1941)
41
Cư Kỉnh (Vĩnh Hội , 1941) - Thạch Thị Mậu, 1942
42
Ý và tình (Vinh Hội , 1938 – 1942) - Lửa Hồng, 1957
43
Mẹ ghẻ con ghẻ (Vinh Hội , 1943) - Sông Kiên, 1960-1961
44
Chị Hai tôi (1944)
45
Hai Thà cưới vợ (1944)
46
Một đóa hoa rừng (1944)
47
Ngập ngừng (1944)
48
Thầy Chung trúng số (1944) - Lửa Hồng, 1961
49
Bức thơ hối hận (Gò Công , 1953) - Lửa Hồng, 1957
50
Trọn nghĩa vẹn tình (Gò Công , 1953)
51
Đỗ Nương Nương báo oán (SG,1954) - Sông Kiên, 1961
52
Nặng bầu ân oán (Gò Công , 1954)
53
Đại nghĩa diệt thân (Sài Gòn , 1955)
54
Hai chồng (Sài Gòn ,1955)
55
Hai vợ (Sài Gòn ,1955)
56
Lá rụng hoa rơi (Sài Gòn , 1955)
57
Tơ hồng vương vấn (1955) - Mai Hương, 1959
58
Một duyên hai nợ (Sài Gòn , 1956)
59
Những điều nghe thấy (Sài Gòn , 1956)
60
Ông Cả Bình Lạc (Sài Gòn , 1956)
61
Trả nợ cho cha (Sài Gòn , 1956)
62
Vợ già chồng trẻ (Phú Nhuận – 1957) - Thùy Dương Trang, 1959
63
Chị Đào, Chị Lý (Càng Long , 1957)
64
Đón gió mới, nhắc chuyện xưa (VH, 1957)
65
Hạnh phúc lối nào (Sài Gòn , 1957)
66
Nợ tình (Vĩnh Hội , 1957)
67
Nợ trái oan (Vĩnh Hội , 1957)
68
Sống thác vì tình (Vĩnh Hội – 1957) - Lạc Hồng, 1968
69
Tắt lửa lòng (Vĩnh Hội – 1957)
70
Trong đám cỏ hoang (Phú Nhuận – 1957)
71
Lẫy lừng hào khí (Vĩnh Hội – 1958)
72
Hy sinh (viết dang dở) 1958
Sau 1975, một số tác phẩm chưa xuất bản hay đã xuất bản được nhà Xuất Bản Tổng
hợp Tiền Giang và nhà xuất bản Trẻ xuất bản hay tái bản nhiều lần.
Ngoài 64 tiểu thuyết và 8 đoản thiên kể trên, nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác như truyện ngắn, thơ, tuồng hát chưa xuất bản (trừ U Tình Lục ,Tân soạn cổ tích, Vậy mới phải )
1- Biểu Chánh thi văn ( 3 quyển) : 1909-1957 . Chưa xuất bản
2- Chuyện lạ trên rừng. Truyện ngắn, viết ở Saigon, 1945.
3- Chuyện trào phúng (2 quyển), Saigon, 1935.
4- Công chúa kén chồng. Hát bội. Saigon, 1945
5- Đón gió mát, nhắc chuyện xưa. Saigon, 1957
6- Đời của tôi (1. Về quan trường; 2. Về văn nghệ; 3. Về phong trào cách mạng). Hồi
Ký. Bến Súc, Saigon, 1945
7- Ký ức cuộc đi Bắc Kỳ. Hồi ký, 1941.
8- Lửa ngưng thình lình. Dịch từ Le Cid. Saigon, 1922.
9- Mấy ngày ở Bến Súc. Hồi ký. Saigon, 1944
10- Một thiên ký ức : Nam Kỳ Cộng Hòa tự trị. Hồi ký. Saigon, 1948
11- Nghĩa vợ chồng. Hài kịch. Saigon, 1957.
12- Nguyệt Nga Cống Hồ. Cải lương. Saigon, 1943.
13- Nhàn trung tạp ký (3 tập). Hồi ký, 1949.
14- Tâm hồn tôi. Hồi ký. Saigon, 1937
15- Tân soạn cổ tích. Dịch 20 truyện Tàu. Saigon : Nhà in F.H. Schneider. 1910.
16- Tình anh em. Hài kịch. Saigon, 1922
17- Thanh Lệ kỳ duyên. Hát bội. Saigon, 1926,1941.
18- Toại chí bình sanh. Hài kịch. Saigon, 1922.
19- Truyện kỳ lục. Truyện ngắn. Saigon, 1948.
20- Trương Công Định quy thần. Hát bội. Saigon, 1945.
21- U tình lục. Truyện thơ . Saigon, 1910. Saigon : Nhà in F.H. Schneider, 1913. Đây là tác phẩm đầu tiên của tác giả.
22- Vậy mới phải. Truyện thơ. Long Xuyên, 1913. Saigon : Imp. de l’Union, 1918.
23- Vì nước vì dân. Tuồng cải lương, 1947.
24- Xã sanh thủ nghĩa. Hát bội. Saigon, 1945.
Về khảo cứu phê bình, một số công trình do ông công bố có đăng trong các tạp chí, phần còn lại cũng chưa xuất bản.
1- Âu Mỹ cách mạng. Khảo cứu. Gò Công, 1948
2- Chánh trị giáo dục. Tùy bút phê bình. 1948
3- Chấn hưng văn học VN. Khảo cứu. Đại Việt Tạp Chí , 1944.
4- Địa dư đại cương. Khảo cứu, 1949.
5- Đông Châu liệt quốc bình nghị. Khảo cứu, 1945.
6- Gia Định tổng trấn. Khảo cứu. Saigon, 1944.
7- Gia Long khai quốc văn thân. Khảo cứu. Đại Việt Tạp Chí, 1944.
8- Gia Long khai quốc võ tướng. Khảo cứu. Saigon, 1942.
9- Hoài Quốc Công Võ Tánh. Tùy bút phê bình. Đại Việt Tạp Chí, số 34-36.
10- Hoàn cầu thông chí.5 quyển. Khảo cứu, 1949.
11- Một lằn chánh khí : Văn Thiên Tường. Khảo cứu, 1945.
12- Nho giáo tinh thần. Khảo cứu, 1951.
13- Nho học danh thơ. Khảo cứu, 1948.
14- Nhơn quần tấn hóa sử lược. Khảo cứu, 1947.
15- Những điều nghe thấy. Saigon, 1955-56.
16- Pháp quốc tiểu thuyết lược khảo. Khảo cứu, 1955.
17- Phật giáo cảm hóa Trung Hoa. Khảo cứu, 1950.
18- Phật giáo vào VN. Khảo cứu, 1950.
19- Phật tử tu trì. Khảo cứu, 1948.
20- Thành ngữ tạp lục. Khảo cứu, 1948.
21- Thiền môn chư Phật. Khảo cứu, 1949.
22- Tiểu sử Trương Công Định. Tùy bút phê bình, 1945. Đã thất lạc.
23- Trung Hoa cao sĩ, ẩn sĩ, xử sĩ. Khảo cứu, 1951.
24- Trung Hoa tiểu thuyết lược khảo. Khảo cứu, 1944.
25- Tu dưỡng chỉ nam. Khảo cứu, 1945.
26- Tùy bút thời đàm. Tùy bút phê bình, 1948.
27- Việt ngữ bổn nguyên. Khảo cứu, 1948.
28- Vườn xưa ghé mắt. Tùy bút phê bình. Đại Việt Tạp Chí, số 39-44. (Nguồn: Tiểu thuyết Nam Bộ. tr. 326- 337)
Điều cần biết về tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là trong số 64 tiểu thuyết, có 12 quyển ông cảm tác hay phóng tác từ tiểu thuyết của Pháp.
Về chuyện phóng tác ông cho biết:
Đọc tiểu thuyết hay tuồng hát Pháp văn, hễ tôi cảm thì tôi lấy chỗ tôi cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít nhiều hoặc tách riêng ra mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn VN…Tuy tôi nói phỏng theo, song kỳ thiệt tôi lấy đại ý mà thôi, mà có khi tôi lật ngược đại ý, làm cho cốt truyện trái hẳn, tâm lý khác xa với truyện Pháp (Hồ Biểu Chánh. Đời của tôi về văn nghệ).
Thực ra, nếu ông không nói ra điều nầy, không ai biết đến tác phẩm mà ông đã cảm tác hay phóng tác. Sự thành thật của ông phải nói là hiếm hoi trong văn giới.
Những tiểu thuyết mà ông cảm tác hay phóng tác do chính ông ghi lại có 12 quyển tựa như sau :
- Chúa tàu Kim Quy : cảm tác từ Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas
- Cay đắng mùi đời : từ Sans famille của Hector Malot
- Chút phận linh đinh : từ En famille của Hector Malot
- Ngọn cỏ gió đùa : từ Les Misérables của Victor Hugo
- Thầy thông ngôn: từ Les amours d’Estève của André Theuriet
- Kẻ làm người chịu : từ Les deux gosses của Pierre Decourselle
- Cha con nghĩa nặng : từ Le calvaire của Pierre Decourselle
- Vì nghĩa vì tình : từ Fanfan et Claudinet của Pierre Decourselle
- Ở theo thời : từ vở kịch Topaze của Marcel Pagnol
- Đóa hoa tàn : Le Rosaire của Octave Mirbeau
- Ông Cử : L’artiste, ông không ghi tên tác giả
- Người thất chí : từ Crimes et châtiment của Fédor Dostoievski
Nhà biên khảo văn học Thanh Lãng cho là quyển tiểu thuyết đầu tiên Ai làm được, viết năm 1912 ở Cà Mau là mô phỏng theo quyển André Cornélis của Paul Bourget, và nếu đúng như thế, có tất cả 13 tác phẩm cảm tác hay phóng tác từ các tác phẩm ngoại quốc.
Tuy ông cảm tác từ tiểu thuyết của Pháp (trừ quyển Crimes et châtiment cảm tác từ Dostoievski, văn hào Nga) nhưng tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chẳng có hơi hám gì với tác phẩm gốc.
Lấy thí dụ quyển Sans Famille (Vô gia đình) của Hector Malot viết năm 1878, được Hồ
Biểu Chánh cảm tác thành Cay đắng mùi đời năm 1923. Đoạn đầu cốt truyện Sans famille như sau :
Rémi là một cậu bé con nhà giàu, bị người chú lập mưu bắt cóc lúc mới năm sáu tháng, đem đi bỏ ở một nơi công cộng để cho người khác bắt được đem về nuôi, hy vọng người
anh bị tuyệt tự thì cả gia tài của người anh sẽ về hết phần mình. Rémi được Barberin, một người thợ đẽo đá đi qua nhặt được đem về nuôi, thầm nghĩ là cha mẹ đứa bé giàu nầy sẽ đem tiền chuộc lại. Nhưng nhiều năm sau Barberin chẳng thấy ai chuộc và vì tai nạn nghề nghiệp, ông rơi vào cảnh khốn cùng, nên phải bán Rémi cho một người hát dạo, mặc cho sự phản đối của người vợ đã gắn bó yêu thương thằng nhỏ như con ruột. Từ đó Rémi sống đời giang hồ lưu lạc, nhiều năm sau mới tìm lại được mẹ ruột.
Hồ Biểu Chánh mượn cốt truyện ấy để viết Cay đắng mùi đời, nhưng ông đem tác phẩm vào xã hội Việt Nam, với nhiều tình tiết ly kỳ hơn và một văn phong hoàn toàn khác với nguyên bản. Đoạn đầu của Cay đắng mùi đời như sau :
Chồng của Lê Thị Thời ( Ba Thời) là Trần Văn Hữu đi làm ăn xa và có vợ bé, ở nhà Ba Thời lượm được một đứa nhỏ năm sáu tháng bỏ trong bụi cây, bèn đem về nuôi đặt tên là Được. Khi Được lên 9 tuổi thì Hữu trở về, anh ta đem Được bán cho thầy thông ngôn Trần Cao Đàng .Vì bị cấp trên chèn ép,Trần cao Đàng từ chức lại bị vợ bạc đãi vì không chịu được cảnh sống khổ sở nên Đàng bỏ nhà đi lang thang khắp miền lục tỉnh, dạy cho thằng Được đàn ca để đi hát dạo kiếm tiền.
Chỉ đoạn đầu thôi, phân tích ra, chúng ta thấy những nét khác biệt giữa tác phẩm gốc và tác phẩm phóng tác. Hãy nghe giọng văn tự sự của Rémi nói về người mẹ nuôi của mình là bà Barberin :
Tôi là một đứa trẻ bỏ rơi. Nhưng cho đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có một người mẹ như những đứa trẻ khác, vì lúc nào tôi khóc thì lại có một bà đến ôm ấp, dỗ dành cho tôi nín. Không bao giờ tôi đi ngủ lại không có bà đến vuốt ve tôi. Về mùa đông, khi gió gieo tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà kéo chân tôi ủ vào hai bàn tay bà và ru tôi. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ giọng hát và câu hát của bà.
Khi tôi chăn bò trên những con đường cỏ xanh hay ở bãi hoang mà chợt gặp mưa to, bà vội vã chạy ra đón, kéo vạt áo che đầu cho tôi và đưa tôi về. Khi tôi cãi nhau với một đứa trẻ khác, bà bảo tôi kể lại cho bà nghe rồi bà tìm lời ngọt dỗ tôi và bao giờ cũng cho tôi là phải. (Vô Gia Đình . Chương 1. Bản dịch của Hà Mai Anh)
Và sau đây là đoạn văn thật ngắn, Hồ Biểu Chánh vừa mô tả vóc dạng của người mẹ nuôi là Ba Thời, tình cảm của thằng Được với bà mẹ nuôi:
« Con chó vàng thình lình trong nhà vụt chạy thẳng ra sân, thằng nhỏ ngó theo thì thấy ngoài bờ có một người đàn bà xăm xăm đi vô, nó liền la lớn «má về» rồi buông gáo chạy ra nắm tay mừng rỡ mà dắt vô. Người đàn bà nầy trạc chừng ba mươi bốn tuổi, áo xăn ngang, ống quần vo tới đầu gối, nước da không đen không trắng, mặt tròn, chơn mày rặm, mình mẩy ướt loi ngoi, sau lưng có giắt một cây nọc cấy, trên đầu bịt trùm khăn vải trắng, ngoài đội thêm một cái nón lá dừa, đi vô vừa tới sân, mắt liếc ngó chuồng vịt rồi hỏi thằng nhỏ:
- Con cho heo ăn rồi hay chưa vậy con ?
- Chưa má à! Tôi mới tắm rồi đuổi vô nhà đó đa.
- Vịt về đủ hay không con?
- Tôi nhốt mà quên đếm
(Cay đắng mùi đời, nxb Văn nghệ TPHCM in lại năm 1997, trang .
So sánh lối viết của Hector Malot và của Hồ Biểu Chánh trong cách giới thiệu nhân vật , chúng ta thấy có hai lối viết hoàn toàn khác nhau: Hector Malot kể. Hồ Biểu Chánh tả. Hector Malot viết ở ngôi thứ nhất theo lối lãng mạn, để tình cảm xen vào ngòi bút, và dùng tình cảm của mình để lôi cuốn người đọc. Hồ Biểu Chánh viết ở ngôi thứ ba theo lối tả chân, ông đứng ngoài, mô tả, không lộ một chút cảm tình riêng tư nào của mình.
Ông để cho độc giả tự tìm niềm cảm xúc khi đọc.
Qua đoạn văn trên, chỉ với đôi dòng, HBC đã giới thiệu người đàn bà với tất cả vóc dáng, y phục, tuổi tác, và lời đối đáp giữa hai mẹ con, nói lên tình mẫu tử giữa thằng Được và Ba Thời. Chỉ với sự diễn đạt súc tích bằng 10 chữ đứa nhỏ la lớn, buông gáo, chạy ra mừng rỡ, HBC để cho người đọc cảm nhận thắm thía tình thương của thằng Được với bà mẹ nuôi.
Đọc thêm một đoạn nữa, đoạn Jérôme Barberin, người chồng, làm thợ ở Paris, tình cờ thấy đứa nhỏ bị bỏ rơi, Hector Malot viết :
Một buổi sáng ở Paris, như thường lệ Jérôme đi làm qua con đường mang tên đại lộ Breteuil, rộng và nhiều cây; anh ta nghe tiếng trẻ khóc, dường như phát ra từ một khung cửa vườn. Trời mới rạng đông, tháng hai. Anh ta lại gần và thấy một đứa bé nằm trên thềm. Jérôme nhìn quanh xem có ai không, bỗng thấy một người núp sau một thân cây lớn vội vàng chạy trốn (Sans Famille, trang 29).
Và cũng đoạn này, Hồ Biểu Chánh viết:
“Ba Thời đương đi, thình lình nghe trong bụi lứt dựa gò mả có tiếng con nít khóc. Ban đầu chị ta tưởng ma nhát nên ngực nhẩy hồi hộp, mặt mày tái xanh, muốn bỏ mà chạy. Song chị ta nghĩ trời mới tối không lẽ có ma, mà dầu có ma thiệt đi nữa, đây cũng đã gần nhà, không đủ lo sợ, nên chị ta đứng lại lóng nghe cho chắc coi thiệt phải con nít khóc hay không.
Ba Thời đứng lóng nghe thì tiếng khóc một hồi rồi nín. Chị ta vừa muốn bỏ đi, lại nghe khóc nữa. Chị ta mới làm gan lần lần đi vô chỗ bụi lứt coi vì cớ nào mà có con nít khóc trong đó. Đi gần tới thì tiếng khóc lại càng lớn hơn nữa” (Cay đắng mùi đời, trang 16).
Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh mô tả cảnh Ba Thời bước vô bụi, thấy đứa nhỏ nằm trên cái mền, bèn vội cuốn nó vào mền, rồi ôm cả bọc tất tả đi vào nhà vợ chồng chú Tích gần đấy. Tới nhà chú Tích, Hồ Biểu Chánh viết tiếp:
“Ba Thời bèn thuật hết đầu đuôi việc mính xí được đứa nhỏ lại cho vợ chồng chú Tích nghe, rồi mới biểu thím Tích đem đèn lại đặng có dở đứa nhỏ ra coi bao lớn, con trai hay là con gái, có đau ốm chi hay không.
Ba Thời thấy nó trắng trẻo ngộ nghĩnh mà chẳng bịnh hoạn thì mừng húm, liền bồng mà hun trơ hun trất rồi nói rằng: “Con ai như vầy mà đem đi bỏ cho đành! Mình xí được, thôi, để mình nuôi chơi” (trang 17-18).
Những đoạn văn trên là biểu tượng những đặc điểm chính yếu khiến tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vẫn được độc giả miền Nam ưa thích từ một thế kỷ nay.
Trước hết, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh người và đất Nam kỳ vào những thập niên của đầu thế kỷ XX. Nhiều nhà phê bình cho là tiểu thuyết của Hồ biểu Chánh là một thứ tự điển bách khoa về xã hội và phong tục Nam Kỳ.
Qua các tiểu thuyết của ông, người đọc nhìn thấy rõ ràng những con kinh, những con sông với tiếng còi tàu súp lê, những cánh đồng, những rừng tràm với chim kêu vượn hú, những phố chợ và các sinh hoạt ở Nam Kỳ với hàng trăm địa danh quen thuộc với người dân Nam kỳ như: Ô Môn, Bình Thủy, Càng Long, Sốc Trăng, Trà vinh, nhà ga Chợ Gạo, và cả những nơi thị tứ như chợ Xã Tài, Khánh Hội. Ai ở Gò Công mà không thấy nao nao khi đọc đến những địa danh quen thuộc : Ai đi đường Chợ Lớn xuống Gò Công hễ qua đò Bao Ngược rồi lên xe chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi tới khúc quanh …
Khi xưa, người viết tiểu thuyết lấy các địa danh bên Trung hoa xa lạ, trái lại HBC xây dựng tiểu thuyết của ông trên những vùng đất quen thuộc của độc giả, đó chính là một trong những yếu tố tại sao tiểu thuyết của HBC gần gũi với độc giả và được độc giả miền Nam ưa thích. (Chỉ trừ quyển tiểu thuyết lịch sử Nặng gánh cang thường, câu chuyện hoàn toàn diễn ra ở miền Bắc). Và để cho hấp dẫn, trong mỗi cuốn tiểu thuyết, ông thường xây dựng câu chuyện cho xảy ra ở nhiều nơi, nếu đoạn đầu xảy ra ở nhà quê thì đoạn cuối xảy ra ở thành phố hay ngược lại.
Tên các nhân vật trong các tiểu thuyết của HBC cũng đặc sệt là cách đặt tên hay cách gọi tên của người Nam Kỳ : thằng Được, thằng Tý, Con Lựu, con Liên, Lê Văn Đó, Lê Văn Đây… hay kêu theo ngôi thứ trong gia đình : Ba Thời, Sáu Lý, hay kêu theo chức phận : Bá hộ Siêu, Còm mi Đảnh, Hương hào Hội…Trong cách xưng hô, Hồ Biểu Chánh phản ảnh trung thực cách xưng hô của người dân Nam Kỳ, đặc biệt ở vùng nhà quê, dưới thời Pháp thuộc . Lần đầu tiên trong tiểu thuyết, HBC đã ghi lại cách xưng hô của bạn bè, vợ chồng ở vùng nhà quê, ruộng rẫy gọi nhau là mầy tao, mình, má sắp nhỏ, má nó, cha thằng Sung, hay cách nói biến chế để gọi người thứ ba vắng mặt : thẩy (thầy ấy), ổng, bả, cỏn (con ấy), thẳng (thằng ấy), ở trển (trên ấy)…
Ngoài những tên đất và tên người, Hồ Biểu Chánh gần gũi với giai cấp trung lưu và bình dân Nam Kỳ vì ông viết theo tiếng nói của giai cấp nầy trong tiểu thuyết của ông. Ông đã tài tình diễn tả tâm lý và mô tả nhân vật, cảnh vật bằng những tiếng địa phương của miền Saigon Lục Tỉnh. Có độ 800 phương ngữ Nam Kỳ trong các tiểu thuyết . Chỉ cần đan kể : nín khe, đi lơn tơn, mặt mày tèm lem,, nhai nhóc nhách, đầu cổ chờm bờm, la bài hãi, đứng ké né, hỏi đon hỏi ren…Nhiều chữ viết theo cách nói «trại» của người bình dân, tưởng như viết sai : xao xiến (xao xuyến), chính chiên (chính chuyên), phiển ba đô hội (phồn hoa đô hội), tấn hóa (tiến hóa) hay do kiêng kỵ : bình yên (bình an), bông hường (hồng), cây đờn (đán)... Có những chữ mà nhiều người dân gốc Nam Kỳ hiện nay có thể đã quên nghĩa vì từ lâu không còn dùng như : ông bác vật (kỹ sư), cô thầy thuốc (vợ bác sĩ), anh bam bù (người mang hành lý), ông mái chính (đại diện hãng buôn), ảnh đụng em (cưới em )…
Và vượt lên trên tất cả những nét độc đáo trên, Hồ biểu Chánh là nhà văn có văn phong mộc mạc, bình dân, tự nhiên, nói sao viết vậy. Về điểm nầy, nhiều nhà phê bình văn học miền Bắc, kể cả Đông Hồ là nhà văn miền Nam, chê là tiểu thuyết của HBC không phải là văn chương, thiếu trau chuốt, (Chính vì quan niệm định giá văn chương như thế nên Dương Quảng Hàm, tác giả quyển Việt Nam văn học sử yếu (1944), quyển sách giáo khoa cho chương trình Việt văn cấp Trung học trước 1975 đã không kể HBC như là một nhà văn . Sau 1975, Hồ Biểu Chánh được đem vào chương trình Việt Văn lớp 11 với vài đoạn văn trích từ Cha con nghĩa nặng.)
Tuy ông có văn phong bình dân, nhưng ông là nhà văn đầu tiên đem yếu tố hư cấu vào tiểu thuyết, xây dựng cốt chuyện như chuyện ngoài đời với những quan sát thật tinh tế. Trong tiểu thuyết của ông có hàng ngàn nhân vật, và ông diễn tả chân dung và tâm lý của mỗi nhân vật điển hình như ngoài đời và đúng với từng hoàn cảnh, từng hạng người.
Hãy nghe tâm trạng của anh nông dân chất phát Trần Văn Sữu trong Cha con nghĩa nặng khi anh ta nghe thiên hạ đồn là vợ mình ngoại tình với Hương hào Hội, qua ngòi bút của Hồ Biểu Chánh :
…Anh ta chống cằm trên đầu gối, lấy ngón tay vẽ hình dưới dưới cát mà suy nghĩ việc
nhà. Mấy năm nay thiệt Hương hào Hội hay ghé nhà mình, mà mình có ý coi, lần nào Hương hào ghé, thì vợ mình lo trầu nước lăng xăng, coi bộ niềm nỡ lắm. Tuy vậy mà mình không thấy Hương hào chọc ghẹo hay là giỡn hớt với vợ mình, mình không gặp hai đàng nói chuyện với nhau, vợ mình cũng không có ý muốn bỏ mình. Tánh vợ mình hỗn ẩu, nó hay mắng nhiếc mình, mà mắng thì mắng chớ vợ chồng cũng ăn ở như thường. Nếu vợ mình nó lấy Hương hào Hội thì chắc nó bỏ mình rồi, chớ có lý nào nó không thương mình nữa mà nó còn ở với mình. Hương tuần Tam nói thiên hạ họ đều biết Hương hào Hội lấy vợ mình. Họ có gặp hay sao mà họ dám chắc ? Hay là họ thấy Hương hào Hội để ruộng cho mình làm, họ ganh ghét nên kiếm chuyện đặt điều mà nói xấu …
Và chuyện anh ta bị vợ là Thị Lựu chửi mắng khi anh ta tra hỏi vợ rồi sau đó là sự hoang mang, bán tín bán nghi của anh ta đã được HBC kết thúc một cách ý nhị vào buổi tối như sau:
Cách một hồi lâu, Thị Lựu ở trong buồng cất tiếng kêu rằng :
- Cha thằng Sung, a
- Giống gì ?
- Vô biểu một chút
Trần Văn Sửu lồm cồm ngồi dậy đi gài cửa, bưng đèn đem để trên bàn thờ mà tắt, rồi men men đi vô buồng, miệng cười ngỏn ngoẻn, vì đã quên hết những điều Hương tuần Tam nói…
Ông diễn đạt một tư tưởng, một quan niệm của ông, không phải bằng lời nói của ông, mà bằng lời nói của những nhân vật mà ông khéo léo sắp xếp theo một bố cục mà ông chuẩn bị nhiều khi lâu hơn khi viết. Thí dụ, bộ tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa, dài hơn 500 trang, ông phải mất 5 năm để làm bố cục, nhưng ông chỉ viết có hai tháng thì xong.
Và tuy văn phong bình dị, bình dân, nhưng tiểu thuyết của HBC hấp dẩn vì câu chuyện có nhiều tình tiết éo le gay cấn, các nhân vật bị xô đẩy vào những biến cố ly kỳ, những tai họa bất ngờ để rồi ông tìm ra một kết cuộc có lý, thông thường là có hậu, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.
Chủ đích tác phẩm của Hồ Biểu Chánh
Tuy tiểu thuyêt của Hồ Biểu Chánh có nhiều thể loại khác nhau, từ ái tình đến phiêu lưu, từ lịch sử đến xã hội, nhưng tất cả các tiểu thuyết trên đều hướng về hai chủ đích chính; phác họa xã hội và quảng bá đạo lý.
Hồ biểu Chánh là nhà văn phong tục
Ðược đi nhiều nơi và có dịp tiếp xúc nhiều với nhiểu hạng người, Hồ Biểu Chánh có một kiến thức phong phú về xã hội miền Nam qua tất cả các hạng người, từ giới giàu có đến giới cùng đinh, từ người lưu manh đến kẻ lương thiện, ở nông thôn cũng như ở thành phố. Ông xây dựng tiểu thuyết của ông với các hạng người trên trong một đất nước Nam Kỳ thuở giao thời giữa hai nền văn hoá cũ và mới . Nói chung, ờ nông thôn cũng như ở thành thị, tiểu thuyết của ông là tiểu thuyết của 2 thế giới quyền thế và bị trị, đối tác nhau trong một xã hội Nho học đang bị dao động dữ dội trong một nền văn hóa Tây phương.
- Ở nông thôn:
- Giới quyền thế ở nông thôn là giới điền chủ độc ác, tham lam, tìm mọi cách để ức hiếp bóc lột dân lành, (Khóc thầm, Con nhà nghèo). Tuy nhiên, không phải tất cả địền chủ đều gian ác, xấu xa, vẫn có những điền chủ tốt bụng, giàu lòng nhân ái, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người nghèo (Hội đồng Chánh trong “Khóc thầm“, Hương quản Tồn trong “Cha con nghĩa nặng“).
Bên cạnh giới địền chủ, là các hương chức trong ban hội tề. Độc giả lần lượt nhận thấy chân dung và hành động của 12 chức sắc trong ban hội tề với tất cả bản chất thiện và ác. (Ban Hội tề theo sắc lệnh năm 1927 có 12 chức vụ là : hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưởng, hương chánh, hương giáo, hương thân, hương hào, hương bộ, hương quản, xã trưởng, chánh lục bộ)
- Về giới nghèo khổ ở nông thôn, HBC đặc biệt chú tâm đến giới tá điền, làm lụng vất vả quanh năm mà luôn bị nợ nần, áp bức bởi giới điền chủ, bọn cường hào ác bá.
Trong, Con nhà nghèo, Cai Tuần Bưởi, sau khi dầm mưa dãi nắng suốt năm, gặt lúa được 320 giạ thị phải nôp lúa ruộng cho chủ điền hết 300 giạ « thế thì cực nhọc trót một năm trường dang nắng cầm cày, dầm mưa nhổ mạ, chỉ còn có 20 giạ mà thôi. Mà trong đó còn phải đong lúa mướn trâu, còn phải trả tiền công cấy, thì còn dư nỗi gì »
Trong Ngọn cỏ gió đùa, Lê Văn Đó vì quá nghèo đói phải liều thân đi ăn trộm nồi cháo heo để cứu đói cho mẹ già và đàn cháu nhỏ để bị bắt và phải nhận hình phạt 5 năm tù. Vượt nguc bị bắt lại, Lê Văn Đó bị kêu án 20 năm chỉ vì nồi cám cho heo ăn.
- Ở thành thị:
Đời sống nghèo khổ của giới lao động , làm thuê làm mướn kiếm cơm từng ngày một, cuộc sống không ngày mai, chui rúc trong các ngôi nhà xiêu vẹo, trong các ngõ hẽm tăm tối, thiếu ăn, đã được HBC đề cập đến trong nhiều tác phẩm, đặc biệt trong Lạc Đường.
Trong Lạc Đường, Hai Cư vác hàng ở bến tàu bì thùng hàng đè, nhưng chỉ được đưa vô nhà thương thí, cặp rằng Mậu vì túng thiếu phải đi ăn cướp để rồi vô tù. Giới gái điếm (gái ăn sương) và bọn trẻ bán báo cũng là hai hạng người được Hồ Biểu Chánh đưa vào tiểu thuyết.
Ngoài ra, ông còn đề cập đến giới thông ngôn ký lục, giới thượng lưu, trưởng giả những kẻ nịnh bợ Tây, sợ sệt quan trên, bắt nạt dân lành, ăn chơi trác táng, trọng tiền tài danh lợi , xem nhẹ nhân nghĩa ( Nợ đời, Cười gượng)
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không chỉ mô tả thực trạng xã hội mà còn đề cập đến những phong tục làm nền cho xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX . Là một trí thức tân học nhưng thấm nhuần Nho giáo, Hồ Biểu Chánh có tư tưởng dung hoà cũ và mới, trái với lập trường của Tự Lực Văn Đoàn là đoạn tuyệt với cái cũ. Theo ông cái cũ và cái mới đều có hay dở riêng, điều cần thiết là phải biết chọn lọc những cái hay, cái đẹp của cũ và mới để áp dụng trong cuộc sống cho hài hòa,
Trong hôn nhân, ông đã đề cập đến những khía cạnh tiêu cực của những hủ tục như cưỡng bách hôn nhân (Ai làm được, Lời thề trước miểu), vụ lợi trong hôn nhân (Nhân tình ấm lạnh, Tỉnh mộng,Thầy thông ngôn), tự do hôn nhân (Cười gượng), tiền dâm hậu thú, (Ai làm được, Chút phận linh đinh) môn đăng hộ đối (Sống thác với tình), tục nôm vợ ( con nhà giàu lỡ chửa hoang thì thuê một chàng trai cưới để bảo vệ danh giá như trong Tỉnh Mộng ), sinh con trai nối dõi (Nợ đời).
Ngoài ra, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn đề cập đến hiện tượng tranh giành gia tài (Nhân tình ấm lạnh), mẹ ghẻ cha ghẻ (Mẹ ghẻ con ghẻ, Ai làm được) mê tín dị đoan, cảnh cưỡng hiếp, ngoại tình (Chúa tàu Kim quy, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng). Ðặc biệt, án mạng thường xuất hiện trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh (Khóc thầm, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng.)
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn đạo lý
Tuy đa số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết xã hội và phong tục, Hồ Biểu Chánh không phải là nhà phong tục học hay xã hội học. Ông viết tiểu thuyết xã hội, phong tục cốt là để quảng bá đạo lý. Quan niệm «văn dĩ tải đạo» đã được ông xác nhận trong tập ký ức « Đời của tôi về văn nghệ» như sau :
Viết tiểu thuyết để cảm hóa đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại quang minh hay như trong tiểu thuyết Bức thơ hối hận với cái tựa « Uống trà ngon nhắc chuyện cũ», ông viết : Phải viết đặng ghi cái hay cái dở của nhơn tình thế thái về khoảng đời trụy lạc mà để lại cho em cháu đời sau được biết chỗ thấp chỗ cao. Phải viết đặng chỉ đường vạch nẻo cho con cháu trong nhà ngó thấy…
Cùng rao giảng đạo lý như cụ Đồ Chiểu, nhưng ông theo một con đường khác với Nguyễn Đình Chiểu. Ông NĐC rao giảng đạo thánh hiền như một ông thầy dạy học trò, như một người cha dạy con, nói khác đi bằng áp đặt với những lý luận cao siêu,hiền triết. Hồ Biểu Chánh quảng bá đạo lý như một người kể chuyện, dùng những hệ lụy của cuộc đời, để người dân tự tìm cho mình một hướng đi, một thái độ. Tác dụng của cảm hóa thâm trầm, sâu sắc hơn và độc giả nhớ rất lâu câu chuyện qua cái ý hướng đạo lý mà Hồ Biểu Chánh muốn chuyên chở trong tác phẩm.
Kết Luận
Qua thân thế và sự nghiệp của nhà văn Hồ Biểu Chánh, đa số các nhà phê bình văn học cận đại đều xác nhận ông là một nhà văn lớn của miển Nam. Lẽ ra, phải nói đúng hơn là nhà văn lớn của Nam Kỳ, tên gọi vùng địa lý của thời Hồ Biểu Chánh, chứ không phải miển Nam của thời kỳ đất nước qua phân, nhưng bởi lẽ người VN đã sống qua những kỷ niệm lịch sử đau buồn, những danh từ như Nam Kỳ,Trung Kỳ, Bắc Kỳ có thể gợi lên những âm hưởng phân chia lạc điệu.
Và trong cái âm hưởng phân chia nầy, chúng tôi muốn nhắc lại đây lời tâm sự của GS
Nguyễn Văn Trung, nguyên Khoa Trưởng Đại học Văn KhoaSaigon.
Ông viết :
«Dạy văn học trên 20 năm ở miền Nam, nhưng mới chỉ đọc Hồ Biểu Chánh gần đây vì trước đây khinh chê, không thèm đọc »
Sau khi đọc xong, nhận thấy tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thật cảm động, thật hay, thật hấp dẫn. Một người bạn lớn tuổi của ông đã thú nhận, với ông : « chả nhẽ tôi trên 60 tuổi rồi mà còn bị xúc động như muốn rơi nước mắt» . GS Trung đặt ra câu hỏi: «Tại sao một cuốn truyện sau hơn nửa thế kỷ, vẫn còn hấp dẫn, gây xúc động với người ở một địa phương khác với địa phương của tác giả. ? (Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, nxb Văn nghệ TPCCM, 1999, tr. 677)
Ông Bùi Xuân Bào, nguyên Khoa Trưởng Trường Đại Học Sư Phạm Saigon, trong luận án tiến sĩ (luận án phụ) của ông tựa là Le roman vietnamien contemporain: tendances et évolution du roman vietnamien contemporain1925-1945 trình ở đại học Sorbonne năm 1961, ông cho rằng một kiệt tác (chef-d’oeuvre) là một tác phẩm hoặc được độc giả ưa thích lúc đương thời và mãi mãi về sau, hoặc được ưa thích tại địa phương của tác giả và cả các địa phương khác. Nói khác đi, một kiệt tác là một tác phẩm vượt thời gian và không gian.
Nhà biên khảo Thụy Khuê thì càng chính xác hơn cho rằng tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có tính hiện đại, nghĩa là không bị lỗi thời vì nó gắn bó với hai yếu tố là đồng đại (synchronique) và lịch đại (diachronique), nói cách khác nó có bản chất vượt thời gian.
Hãy nghe lời ông Huyện hảm Tân nói với ông chủ quận trong tác phẩm Cư Kỉnh:
Hiện nay sự tồi tệ của mình nó tràn lan cùng hết, từ trong gia đình ra tới ngoài xã hội. Trong nhà trường, thì học trò không biết cung kính mang ơn thầy, mà cũng khổ, có nhiều thầy không biết kính trọng cái thiên chức giáo dục, coi môn đệ là kẻ nạp lương cho mình xài mà thôi. Trong gia đình thì vợ không biết kính trọng chồng, mà nhiều ông chồng cũng không biết thương yêu vợ; con không biết ơn sanh thành dưỡng dục, mà nhiều cha mẹ cũng không cần dạy dỗ con; anh không biết thương em, mà em cũng không biết kính trọng anh, còn xã hội thì quá lắm, mọi người đều đuổi theo một chủ nghĩa này: “Kiếm tiền cho nhiều đặng ăn xài cho ngỏa nguê sung sướng” kiếm tiền mà không ưa cần lao, dùng phương chước tốt xấu gì cũng được, miễn là được đồng tiền là thôi, không kể nhơn nghĩa, không kể liêm sỉ, không kể danh dự.
Đọc đoạn văn trên của Hồ Biểu Chánh viết năm 1941 mô tả xã hội VN dưới thời Pháp thuộc vào nửa thế kỷ trước thì chúng ta thấy có khác chi với xã hội VN dưới thời Cộng Sản hôm nay.
Dựa theo nhận định của GS Trung về hiện tượng bỏ quên (không được biết) và bỏ qua (biết nhưng vì đánh giá thấp nên không được xét đến) các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh cũng như quan điểm của GS Bào và nhà biên khảo Thụy Khê về bản chất vượt thời gian của của một tác phẩm, từ các nhận định trên, người viết xin được kết luận: Hồ Biểu Chánh là nhà văn lớn của miền Nam và của Việt Nam.
Lâm Văn Bé
Sách tham khảo chính yếu :
- Nguyễn Khuê. Chân dung Hồ Biểu Chánh. Saigon : Lửa Thiêng, 1974.
- Hồ Biểu Chánh : người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. TPHCM : NXBVăn Nghệ, 2006.
- Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX / Nguyễn Kim Anh chủ biên. TPHCM : NXB Đại Học Quốc Gia TPHCM, 2004.
- Thụy Khuê. Hồ Biểu Chánh (trên RFA)
HỒ BIỂU CHÁNH: NHÀ VĂN LỚN CỦA MIỀN NAM
Một nhà văn hay một nghệ sĩ nói chung, ngoài thiên phú sáng tạo và khả năng tri thức, còn phải nhờ vào kinh nghiệm sống và môi trường sống để hoàn thành một tác phẩm. Trường hợp của Hồ Biểu Chánh là biểu tượng rõ rệt của nhận định nầy bởi lẽ cuộc đời của ông và những vùng đất mà ông đã sống trong thời niên thiếu (Gò Công), thời ông đi học (MỹTho, Saigon) và thời làm việc (các tình miền Hậu Giang, Saigon) là những chất liệu quan trọng cấu thành các tác phẩm của ông. Trong viễn tựợng ấy, trước khi đề cập đến văn nghiệp của HBC, tưởng nên biết qua về thân thế của tác giả.
Thân thế Hồ Biểu Chánh
Ông tên thật là Hồ Văn Trung, tự là Biểu Chánh, bút hiệu là Thứ Tiên (thường ký trong các bài thơ), sinh ngày 1-10-1885 (năm Ất Dậu) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo, đông con ( ông là người con thứ năm trong 12 người).
Trong tập ký ức, viết ngày 24/12/1957, tại Phú Nhuận, bản đánh máy, nhan đề « Đời của tôi về văn nghệ», Hồ Biểu Chánh đã viết về thời niên thiếu của ông như sau: Từ 8 đến 12 tuổi, học nhấp nhem chữ Nho với thầy giáo dạy trong làng. Đến 13 tuổi, nhờ cha mẹ dời về ở chợ Giồng Ông Huê, mới bắt đầu học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi xuống trường tỉnh Gò Công học tiếp 3 năm thi đậu học bổng. Được vào trường trung học Mỹ Tho học 2 năm (1902 và 1903) rồi được lên trường trung học Chasseloup-Laubat ở Sàigòn học thêm 2 năm nữa. Cuối năm 1905 thi đậu bằng Thành Chung .
Cuộc đời cơ cực của ông thời niên thiếu đã khiến ông thấu hiểu nỗi thống khổ của người nghèo, do đó trong tiểu thuyết của ông, ông viết nhiều về giới nông dân, thợ thuyền, nói chung những người cùng cố trong xã hôi. Hãy nghe ông tự thuật đời ông trong Lời di chúc (bản đánh máy do ông Hồ Văn Kỳ Trân, trưởng nam sao lại, Nguyễn Khuê, tr. 20) :
Còn hai bữa nữa tới ngày ta phải đi, mẹ ta than hết tiền, cha ta mới đi kiếm người đặng mượn tiền cho ta đi. Ta lo quá, sợ không đi được. Bữa chót, đến tối mà cũng không thấy cha ta về. Ta than nếu có một đồng bạc thì đủ cho ta đi. Mẹ ta khuyên ta đừng lo…Thiệt khuya, mẹ ta gói một cặp áo hàng, đi bộ với ta xuống chợ mà cầm. Chủ tiệm chịu cầm ba đồng. Mẹ ta xếp giấy bỏ vô túi, còn bạc thì đưa hết cho ta. Ta lấy hai đồng mà thôi. Mẹ ta không chịu, ép phải lấy hết, rồi đưa ta xuống tàu. Lúc tàu mở dây mà chạy, ta đứng ngó mẹ ta trên cầu tàu, ta chảy nước mắt…
Nếu chúng ta xúc động khi đọc những lời tự thuật chân tình nầy thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ không ngăn được giọt lệ thương cảm cho những cảnh đời ngang trái trong nhiều tiểu thuyết của ông.
Sau khi thi đậu Thành Chung, ông định xin làm giáo viên, nhưng theo lời khuyên của một ông thầy cũ, ông đi thi Ký Lục. Năm 1906, ông đậu ký lục và được bổ nhiệm làm việc ở dinh Thượng Thơ Saigon. Cuộc đời hoạn lộ của ông bắt đầu từ đây, nhưng lúc nào ông cũng giữ tư cách thanh cao, chính trực, đời sống thật khiêm túc.
Trong di chúc ông viết :
Tuy là tay sai của quan Pháp, song nếu mình cứ lấy lòng siêng năng ngay thẳng mà làm việc, đừng a dua, đừng bợ đỡ, phải thì ở, không phải thì đi, nói oan dám giận, nói bậy dám cãi, thì phận mình khỏi hổ, mà thiên hạ lại được nhờ nữa (Nguyễn Khuê, t. 22)
Ông Bằng Giang, một văn hữu của Hồ Biểu Chánh đã mô tả ngôi nhà của HBC ở Vĩnh Hội hồi năm 1943 như sau lúc HBC đã là ông Đốc Phủ sứ :
Căn nhà ở góc đường Nguyễn Khoái -Tôn Thất Thuyết (đường Tôn Thất Thuyết chạy dọc theo Kinh Đôi trước năm 1945 là nơi đổ rát của địa phương Saigon-Chợ Lớn) lúc bấy giờ thật hẻo lánh. Ít ai ngờ được rằng đó là một căn nhà nhỏ vách ván, không điện, không nước. Đêm xuống, cả một vùng chìm trong bóng tối như ở giữa thôn quê. Gian nhà phía trước hẹp, có kê một cái bàn, nơi ông làm việc, tiếp khách, không có trang hoàng chi hết… (Hồ Biểu Chánh : người mở đường …., tr.107)
Năm 1911, Thống đốc Nam Kỳ nghi ông có liên lạc với nhóm Gilbert Trần Chánh Chiếu, chống Pháp nên đổi ông xuống Bạc Liêu. Được 9 tháng, ông tình nguyện đi Cà Mau thay cho một đồng liêu có con còn nhỏ, sợ xuống Cà Mau bị muỗi mòng, nước độc, tuy rằng lúc đó ông cũng vừa có đứa con đầu lòng mới 1 tuổi (là Hồ Văn Kỳ Trân, gởi lại cho nhạc mẫu nuôi). Năm sau ông lại đổi đi Long Xuyên (1913) và tại đây ông cùng với một số bạn bè trong hội Khuyến Học thành lập tờ Đại Việt Tạp Chí (tờ báo chỉ phát hành được 13 số thì đình bản). Năm 1918, ông được đổi về Gia định.
Năm 1921, ông thi đậu Tri huyện và năm 1927 được thăng tri phủ. Từ đây, ông được xem như công chức cao cấp, được cử làm chủ quận Càng Long (1927), Ô Môn (1932). Năm 1934, vì bất đồng ý kiến với viên chủ tỉnh, ông bị đổi đi Phụng Hiệp (1934). Năm
1936 ( lúc ông 51 tuổi), ông được thăng Đốc phủ sứ.
Tháng 6 năm nầy (1936), ông đã làm việc được 30 năm nên ông xin hồi hưu, nhưng chính phủ Pháp viện lẽ thiếu người nên lưu dụng ông đến tháng 6 năm 1941. Nhưng chỉ hai tháng sau, ngày 4-8-1941, ông được cử làm nghị viên Hội Đồng Liên Bang Đông Dương, rồi nghị viên Hội đồng thành phố Saigon kiêm Phó Đốc Lý. Trong thời gian nầy, ông còn làm giám đốc cho hai tờ báo là Nam Kỳ Tuần Báo và Đại Việt Tạp Chí (bộ mới). Năm 1946, khi ông Nguyễn Văn Thinh lập chánh phủ «Nam Kỳ tự trị» ông có làm đổng lý văn phòng, nhưng đến cuối năm, khi Nguyễn Văn Thinh tự tử, ông mới thực sự từ giả chính trường để vừa an hưởng tuổi già, vửa viết văn cho đến lúc tạ thế ngày 4-11-1958 tại tư thất ở Phú Nhuận, hưởng thọ 74 tuổi.
Hồ Biểu Chánh có 8 người con trong số có nhiều người tham chánh.
- Hồ Văn Kỳ Trân : sinh năm 1911 ở Chợ Lớn, giáo sư, dân biểu thời Đệ nhất Cộng Hòa, mất năm 1981 ở Austin, Texas.
- Hồ Văn Ngọc Ưỡng (bà) : sinh năm 1912 ở Cà Mau, mất năm 2004 ở VN.
- Hồ Văn Minh Cảnh : sinh năm 1914 ở Long Xuyên , mất ở VN
- Hồ Văn Vân Anh (bà) : sinh năm 1914 ở Long Xuyên, hiện còn sống ở VN.
- Hồ Thị Sương : sinh năm 1922 ở ChợLớn, mất năm 1955 ở VN.
- Hồ văn Di Thuấn, sinh năm 1928 ở Trà Vinh, mất năm 1994 ở Cali.
- Hồ Văn Di Hinh, sinh năm 1928 ở Trà vinh, tổng Trưởng Thanh Niên, Thị Trưởng ĐàLạt, mất năm 2002 tại Pháp.
- Hồ Văn Ứng Kiệt, sinh năm 1934, phi công tử nạn năm 1964.
Nếu phải kể thêm người con thứ 9 là bà Hồ Văn Madeleine (chị của Hồ Văn Ứng Kiệt), chết lúc mới sanh.
Văn nghiệp
Hồ Biểu Chánh bắt đầu viết văn từ năm 1906, cùng lúc với nghề công chức, nhưng ông đã sống với nghiệp văn đến hơi thở cuối cùng. Nếu nghề công chức là một phương tiện sinh sống thì viết văn, đối với Hồ Biểu Chánh là một đam mê và một sứ mạng «văn dĩ tải đạo» . Ông nói : Viết văn để cho người mình đọc chuyện xảy ra ờ nước mình bằng chữ nước mình.
Những năm cuối cùng ông có bịnh đau tim và ông rất yếu.
Ông Hồ Văn Kỳ Trân, người con trưởng của ông kể lại :
«Bệnh đã càng ngày càng thêm mà ba tôi không chịu nghỉ viết. Thầy thuốc cấm. Ba tôi vẫn viết. Con cháu năn nỉ lắm thì ba tôi chỉ nghỉ vài ngày rồi viết nữa và bảo rằng :« Ba còn viết được thì cứ để cho ba viết. Ba không viết được thì lòng thấy bứt rứt, người thấy khó chịu hơn. Có viết được lòng mới thấy yên ổn, người mới thấy thư thả dễ chịu. Viết là một phương thuốc, là một cách trị bịnh cho ba đó» ….Cách đó ít bữa thì ba tôi từ trần. Trên bàn viết còn để lại bản thảo một tác phẩm viết dở» ( Quyển Hy Sinh).(Thụy Khuê RFA)
Sau nửa thế kỷ sáng tác, ông để lại cho hậu thế một văn nghiệp đồ sộ với 131 tác phẩm đủ các thể loại như truyện ngắn, thơ, tuồng cải lương, hát bội, văn tế, dịch thuật…liệt kê như sau :
- 64 tiểu thuyết
- 8 đoản thiên
- 4 truyện ngắn
- 2 truyện dịch (1 dịch sách Tàu :Tân soạn cổ tích và 1 dịch vở kịch Pháp : Lửa ngưng thình lình )
- 12 tuồng hát (5 hài kịch, 4 hát bội, 3 cải lương)
- 5 tập thơ và truyện thơ (truyện U Tình Lục thể lục bát gồm 1790 câu)
- 8 tập ký
- 28 tập khảo cứu và phê bình.
Nhưng những tác phẩm thuộc các thể loại kể trên ít ai biết đến mà người dân cũng ít biết đến tên ông đốc phủ sứ Hồ Văn Trung. Người ta chỉ biết tên nhà văn Hồ Biểu Chánh với một thể loại duy nhất, đó là tiểu thuyết.
Nhiều tiểu thuyết của ông được độc giả yêu mến từ lúc mới xuất bản cho đến ngày nay và đã có ít nhất 10 tiểu thuyết nổi tiếng được dựng thành phim như:
Ngọn cỏ gió đùa, Cay đắng mùi đời, Nợ đời, Con nhà nghèo, Chúa tàu Kim Quy,
Đại nghĩa diệt thân, Tân phong nữ sĩ, Tại tôi, Khóc thầm. Bộ phim mới nhất là Tình Án dựa vào truyện Cư Kỉnh.
Danh sách tiểu thuyết và đoản thiên tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh theo thứ tự thời gian, nơi sáng tác và nhà xuất bản
64 tiểu thuyết, 8 đoản thiên (chữ in nghiêng)
Số Tiểu thuyết / Đoản thiên (nơi viết, năm viết) Nhà xuất bản, năm xuất bản
1
Ai làm được (Cà Mau 1912) - Xưa Nay,1926,1931
- Mai Hương, 1958 (tái bản lần 4)
2
Cay đắng mùi đời (Sài Gòn,1923) - Khời đăng trên Đông Pháp thời báo
từ 4/7/1923 – 21/12/1923
- Xưa Nay, 1923,1928
- Tấn Phát,1952, in lần thứ 9 năm
1961
3
Chúa tàu Kim Quy (Sài Gòn ,1923) -Khởi đăng trên Công Luận báo từ
4/8/1922 – 30/3/1923
- Imprimerie de l’Union,1926
- Lửa Hồng, 1957
4
Một chữ tình (Sài Gòn, 1923)
5
Tình mộng (Sài Gòn , 1923) -Đăng trên Phụ Nữ Tân Văn,1931
-Đức Lưu Phương, 1938
- Phương Nam, 1952
6
Nam cực tinh huy (Sài Gòn , 1924) - Đức Lưu Phương, 1924, 1931
7
Nhơn tình ấm lạnh (Sài Gòn , 1925) - Khởi đăng trên Đông Pháp Thời Báo
từ 3/5/1926 đến 24/11/1926
- Xưa Nay, 1928
- Phan Yên, 1953
8
Tiền bạc, bạc tiền (Sài Gòn , 1925) - Imp. De l’Union, 1926, 1929
9
Ngọn cỏ gió đùa (Sài Gòn , 1926) - Khởi đăng trên Đông Pháp Thời Báo
từ 26/11/1926 – 28/2/1927
- Nguyễn Khắc, 1930
- Tấn Phát, 1953 và tái bản nhiều lần
10
Thầy Thông ngôn (Sài Gòn ,1926) - Imp. De l’Union, 1927
- Bốn Phương, 1953
11
Chút phận linh đinh (Càng Long ,1928) - Nguyễn Khắc, 1928
- Lửa Hồng, 1956
12
Kẻ làm người chịu (Càng Long , 1928) - Đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, 1931
- Tín Đức Thư Xã, 1929
13
Cha con nghĩa nặng (Càng Long, 1929) - Khởi đăng trên Phụ Nữ Tân Văn từ
30/10/1929 -13/2/1930
- Đức Lưu Phương, 1938
- Tấn Phát, 1953 và tái bản nhiều lần
14
Khóc thầm (Càn Long , 1929) - Đăng trên Phụ Nữ Tân Văn từ
3//4/11930 đến 14/8/1930
- Imp. De l’Union, 1935
- Bốn Phương, 1953
15
Người vợ hiền (1929) ?
16
Vì nghĩa vì tình (Càng Long , 1929) -Khởi đăng trên Phụ Nữ Tân Văn só 1 đến số 22(1929)
- Tín Đức Thư Xã, 1929
- Lửa Hồng, 1957
17
Con nhà nghèo (Càng Long -,1930) - Đức Lưu Phương, 1930
- Phan Yên, 1954
18
Nặng gánh cang thường (Càng Long -1930) -Tấn Phát, 1953
19
Con nhà giàu (Càng Long ,1931) -Khởi đăng trên Phụ Nữ Tân Văn từ
số 85 đến số 144 (1931-1932)
20
Cười gượng (Sài Gòn ,1935) - Đức Lưu Phương, 1937
21
Dây oan (Sài Gòn , 1935) - Song Kiên, 1950
22
Lòng dạ đàn bà (1935) * - Song Kiên, 1960
23
Một đời tài sắc (Sài Gòn , 1935) - Lửa Hồng, 1957
24
Ở theo thời (Sài Gòn , 1935) - Đăng trên Tiểu Thuyết Nam Kỳ từ số
2 (1935)
- Đức Lưu Phương 1938
25
Ông Cử (Sài Gòn , 1935) - Đức Lưu Phương, 1939
- Sông Kiên, 1960
26
Thiệt giả, giả thiệt (Sài Gòn ,1935) - Đức Lưu Phương, 1937
27
Đoá hoa tàn (Vinh Hội , 1936) - Đức Lưu Phương, 1937
- Tấn Phát, 1952
28
Nợ đời (Vĩnh Hội , 1936) - Đức Lưu Phương, 1936
- Tấn Phát, 1952
29
Lạc đường ( Vinh Hội ,1937) - Đức Lưu Phương, 1937
- Phương Nam, 1953
30
Tân Phong nữ sĩ (Vinh Hội , 1937) - Đức Lưu Phương, 1938
31
Từ hôn (Vinh Hội – 1937) - Đức Lưu Phương, 1938
32
Bỏ chồng (Vinh Hội , 1938) - Lưu -Đức Phương, 1939
- Mai Hương, 1958
33
Bỏ vợ (Vinh Hội , 1938) - Lửa Hồng, 1957
34
Lời thề trước miễu (Vinh Hội , 1938) - Lửa Hồng, 1961
35
Người thất chí (Vinh Hội ,1938) - Sông Kiên, 1961
36
Tại tôi (Vinh Hội , 1938) - Đức Lưu Phương, 1939
- Phan Yên, 1953
37
Hai khối tình (Vĩnh Hội – 1939) - Tấn Phát, 1956
38
Tìm đường (Vinh Hội – 1939)
39
Đoạn tình ( Vĩnh Hội -1940) - Phương Nam, 1953
40
Ái tình miếu ( Vinh Hội , 1941)
41
Cư Kỉnh (Vĩnh Hội , 1941) - Thạch Thị Mậu, 1942
42
Ý và tình (Vinh Hội , 1938 – 1942) - Lửa Hồng, 1957
43
Mẹ ghẻ con ghẻ (Vinh Hội , 1943) - Sông Kiên, 1960-1961
44
Chị Hai tôi (1944)
45
Hai Thà cưới vợ (1944)
46
Một đóa hoa rừng (1944)
47
Ngập ngừng (1944)
48
Thầy Chung trúng số (1944) - Lửa Hồng, 1961
49
Bức thơ hối hận (Gò Công , 1953) - Lửa Hồng, 1957
50
Trọn nghĩa vẹn tình (Gò Công , 1953)
51
Đỗ Nương Nương báo oán (SG,1954) - Sông Kiên, 1961
52
Nặng bầu ân oán (Gò Công , 1954)
53
Đại nghĩa diệt thân (Sài Gòn , 1955)
54
Hai chồng (Sài Gòn ,1955)
55
Hai vợ (Sài Gòn ,1955)
56
Lá rụng hoa rơi (Sài Gòn , 1955)
57
Tơ hồng vương vấn (1955) - Mai Hương, 1959
58
Một duyên hai nợ (Sài Gòn , 1956)
59
Những điều nghe thấy (Sài Gòn , 1956)
60
Ông Cả Bình Lạc (Sài Gòn , 1956)
61
Trả nợ cho cha (Sài Gòn , 1956)
62
Vợ già chồng trẻ (Phú Nhuận – 1957) - Thùy Dương Trang, 1959
63
Chị Đào, Chị Lý (Càng Long , 1957)
64
Đón gió mới, nhắc chuyện xưa (VH, 1957)
65
Hạnh phúc lối nào (Sài Gòn , 1957)
66
Nợ tình (Vĩnh Hội , 1957)
67
Nợ trái oan (Vĩnh Hội , 1957)
68
Sống thác vì tình (Vĩnh Hội – 1957) - Lạc Hồng, 1968
69
Tắt lửa lòng (Vĩnh Hội – 1957)
70
Trong đám cỏ hoang (Phú Nhuận – 1957)
71
Lẫy lừng hào khí (Vĩnh Hội – 1958)
72
Hy sinh (viết dang dở) 1958
Sau 1975, một số tác phẩm chưa xuất bản hay đã xuất bản được nhà Xuất Bản Tổng
hợp Tiền Giang và nhà xuất bản Trẻ xuất bản hay tái bản nhiều lần.
Ngoài 64 tiểu thuyết và 8 đoản thiên kể trên, nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác như truyện ngắn, thơ, tuồng hát chưa xuất bản (trừ U Tình Lục ,Tân soạn cổ tích, Vậy mới phải )
1- Biểu Chánh thi văn ( 3 quyển) : 1909-1957 . Chưa xuất bản
2- Chuyện lạ trên rừng. Truyện ngắn, viết ở Saigon, 1945.
3- Chuyện trào phúng (2 quyển), Saigon, 1935.
4- Công chúa kén chồng. Hát bội. Saigon, 1945
5- Đón gió mát, nhắc chuyện xưa. Saigon, 1957
6- Đời của tôi (1. Về quan trường; 2. Về văn nghệ; 3. Về phong trào cách mạng). Hồi
Ký. Bến Súc, Saigon, 1945
7- Ký ức cuộc đi Bắc Kỳ. Hồi ký, 1941.
8- Lửa ngưng thình lình. Dịch từ Le Cid. Saigon, 1922.
9- Mấy ngày ở Bến Súc. Hồi ký. Saigon, 1944
10- Một thiên ký ức : Nam Kỳ Cộng Hòa tự trị. Hồi ký. Saigon, 1948
11- Nghĩa vợ chồng. Hài kịch. Saigon, 1957.
12- Nguyệt Nga Cống Hồ. Cải lương. Saigon, 1943.
13- Nhàn trung tạp ký (3 tập). Hồi ký, 1949.
14- Tâm hồn tôi. Hồi ký. Saigon, 1937
15- Tân soạn cổ tích. Dịch 20 truyện Tàu. Saigon : Nhà in F.H. Schneider. 1910.
16- Tình anh em. Hài kịch. Saigon, 1922
17- Thanh Lệ kỳ duyên. Hát bội. Saigon, 1926,1941.
18- Toại chí bình sanh. Hài kịch. Saigon, 1922.
19- Truyện kỳ lục. Truyện ngắn. Saigon, 1948.
20- Trương Công Định quy thần. Hát bội. Saigon, 1945.
21- U tình lục. Truyện thơ . Saigon, 1910. Saigon : Nhà in F.H. Schneider, 1913. Đây là tác phẩm đầu tiên của tác giả.
22- Vậy mới phải. Truyện thơ. Long Xuyên, 1913. Saigon : Imp. de l’Union, 1918.
23- Vì nước vì dân. Tuồng cải lương, 1947.
24- Xã sanh thủ nghĩa. Hát bội. Saigon, 1945.
Về khảo cứu phê bình, một số công trình do ông công bố có đăng trong các tạp chí, phần còn lại cũng chưa xuất bản.
1- Âu Mỹ cách mạng. Khảo cứu. Gò Công, 1948
2- Chánh trị giáo dục. Tùy bút phê bình. 1948
3- Chấn hưng văn học VN. Khảo cứu. Đại Việt Tạp Chí , 1944.
4- Địa dư đại cương. Khảo cứu, 1949.
5- Đông Châu liệt quốc bình nghị. Khảo cứu, 1945.
6- Gia Định tổng trấn. Khảo cứu. Saigon, 1944.
7- Gia Long khai quốc văn thân. Khảo cứu. Đại Việt Tạp Chí, 1944.
8- Gia Long khai quốc võ tướng. Khảo cứu. Saigon, 1942.
9- Hoài Quốc Công Võ Tánh. Tùy bút phê bình. Đại Việt Tạp Chí, số 34-36.
10- Hoàn cầu thông chí.5 quyển. Khảo cứu, 1949.
11- Một lằn chánh khí : Văn Thiên Tường. Khảo cứu, 1945.
12- Nho giáo tinh thần. Khảo cứu, 1951.
13- Nho học danh thơ. Khảo cứu, 1948.
14- Nhơn quần tấn hóa sử lược. Khảo cứu, 1947.
15- Những điều nghe thấy. Saigon, 1955-56.
16- Pháp quốc tiểu thuyết lược khảo. Khảo cứu, 1955.
17- Phật giáo cảm hóa Trung Hoa. Khảo cứu, 1950.
18- Phật giáo vào VN. Khảo cứu, 1950.
19- Phật tử tu trì. Khảo cứu, 1948.
20- Thành ngữ tạp lục. Khảo cứu, 1948.
21- Thiền môn chư Phật. Khảo cứu, 1949.
22- Tiểu sử Trương Công Định. Tùy bút phê bình, 1945. Đã thất lạc.
23- Trung Hoa cao sĩ, ẩn sĩ, xử sĩ. Khảo cứu, 1951.
24- Trung Hoa tiểu thuyết lược khảo. Khảo cứu, 1944.
25- Tu dưỡng chỉ nam. Khảo cứu, 1945.
26- Tùy bút thời đàm. Tùy bút phê bình, 1948.
27- Việt ngữ bổn nguyên. Khảo cứu, 1948.
28- Vườn xưa ghé mắt. Tùy bút phê bình. Đại Việt Tạp Chí, số 39-44. (Nguồn: Tiểu thuyết Nam Bộ. tr. 326- 337)
Điều cần biết về tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là trong số 64 tiểu thuyết, có 12 quyển ông cảm tác hay phóng tác từ tiểu thuyết của Pháp.
Về chuyện phóng tác ông cho biết:
Đọc tiểu thuyết hay tuồng hát Pháp văn, hễ tôi cảm thì tôi lấy chỗ tôi cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít nhiều hoặc tách riêng ra mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn VN…Tuy tôi nói phỏng theo, song kỳ thiệt tôi lấy đại ý mà thôi, mà có khi tôi lật ngược đại ý, làm cho cốt truyện trái hẳn, tâm lý khác xa với truyện Pháp (Hồ Biểu Chánh. Đời của tôi về văn nghệ).
Thực ra, nếu ông không nói ra điều nầy, không ai biết đến tác phẩm mà ông đã cảm tác hay phóng tác. Sự thành thật của ông phải nói là hiếm hoi trong văn giới.
Những tiểu thuyết mà ông cảm tác hay phóng tác do chính ông ghi lại có 12 quyển tựa như sau :
- Chúa tàu Kim Quy : cảm tác từ Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas
- Cay đắng mùi đời : từ Sans famille của Hector Malot
- Chút phận linh đinh : từ En famille của Hector Malot
- Ngọn cỏ gió đùa : từ Les Misérables của Victor Hugo
- Thầy thông ngôn: từ Les amours d’Estève của André Theuriet
- Kẻ làm người chịu : từ Les deux gosses của Pierre Decourselle
- Cha con nghĩa nặng : từ Le calvaire của Pierre Decourselle
- Vì nghĩa vì tình : từ Fanfan et Claudinet của Pierre Decourselle
- Ở theo thời : từ vở kịch Topaze của Marcel Pagnol
- Đóa hoa tàn : Le Rosaire của Octave Mirbeau
- Ông Cử : L’artiste, ông không ghi tên tác giả
- Người thất chí : từ Crimes et châtiment của Fédor Dostoievski
Nhà biên khảo văn học Thanh Lãng cho là quyển tiểu thuyết đầu tiên Ai làm được, viết năm 1912 ở Cà Mau là mô phỏng theo quyển André Cornélis của Paul Bourget, và nếu đúng như thế, có tất cả 13 tác phẩm cảm tác hay phóng tác từ các tác phẩm ngoại quốc.
Tuy ông cảm tác từ tiểu thuyết của Pháp (trừ quyển Crimes et châtiment cảm tác từ Dostoievski, văn hào Nga) nhưng tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chẳng có hơi hám gì với tác phẩm gốc.
Lấy thí dụ quyển Sans Famille (Vô gia đình) của Hector Malot viết năm 1878, được Hồ
Biểu Chánh cảm tác thành Cay đắng mùi đời năm 1923. Đoạn đầu cốt truyện Sans famille như sau :
Rémi là một cậu bé con nhà giàu, bị người chú lập mưu bắt cóc lúc mới năm sáu tháng, đem đi bỏ ở một nơi công cộng để cho người khác bắt được đem về nuôi, hy vọng người
anh bị tuyệt tự thì cả gia tài của người anh sẽ về hết phần mình. Rémi được Barberin, một người thợ đẽo đá đi qua nhặt được đem về nuôi, thầm nghĩ là cha mẹ đứa bé giàu nầy sẽ đem tiền chuộc lại. Nhưng nhiều năm sau Barberin chẳng thấy ai chuộc và vì tai nạn nghề nghiệp, ông rơi vào cảnh khốn cùng, nên phải bán Rémi cho một người hát dạo, mặc cho sự phản đối của người vợ đã gắn bó yêu thương thằng nhỏ như con ruột. Từ đó Rémi sống đời giang hồ lưu lạc, nhiều năm sau mới tìm lại được mẹ ruột.
Hồ Biểu Chánh mượn cốt truyện ấy để viết Cay đắng mùi đời, nhưng ông đem tác phẩm vào xã hội Việt Nam, với nhiều tình tiết ly kỳ hơn và một văn phong hoàn toàn khác với nguyên bản. Đoạn đầu của Cay đắng mùi đời như sau :
Chồng của Lê Thị Thời ( Ba Thời) là Trần Văn Hữu đi làm ăn xa và có vợ bé, ở nhà Ba Thời lượm được một đứa nhỏ năm sáu tháng bỏ trong bụi cây, bèn đem về nuôi đặt tên là Được. Khi Được lên 9 tuổi thì Hữu trở về, anh ta đem Được bán cho thầy thông ngôn Trần Cao Đàng .Vì bị cấp trên chèn ép,Trần cao Đàng từ chức lại bị vợ bạc đãi vì không chịu được cảnh sống khổ sở nên Đàng bỏ nhà đi lang thang khắp miền lục tỉnh, dạy cho thằng Được đàn ca để đi hát dạo kiếm tiền.
Chỉ đoạn đầu thôi, phân tích ra, chúng ta thấy những nét khác biệt giữa tác phẩm gốc và tác phẩm phóng tác. Hãy nghe giọng văn tự sự của Rémi nói về người mẹ nuôi của mình là bà Barberin :
Tôi là một đứa trẻ bỏ rơi. Nhưng cho đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có một người mẹ như những đứa trẻ khác, vì lúc nào tôi khóc thì lại có một bà đến ôm ấp, dỗ dành cho tôi nín. Không bao giờ tôi đi ngủ lại không có bà đến vuốt ve tôi. Về mùa đông, khi gió gieo tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà kéo chân tôi ủ vào hai bàn tay bà và ru tôi. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ giọng hát và câu hát của bà.
Khi tôi chăn bò trên những con đường cỏ xanh hay ở bãi hoang mà chợt gặp mưa to, bà vội vã chạy ra đón, kéo vạt áo che đầu cho tôi và đưa tôi về. Khi tôi cãi nhau với một đứa trẻ khác, bà bảo tôi kể lại cho bà nghe rồi bà tìm lời ngọt dỗ tôi và bao giờ cũng cho tôi là phải. (Vô Gia Đình . Chương 1. Bản dịch của Hà Mai Anh)
Và sau đây là đoạn văn thật ngắn, Hồ Biểu Chánh vừa mô tả vóc dạng của người mẹ nuôi là Ba Thời, tình cảm của thằng Được với bà mẹ nuôi:
« Con chó vàng thình lình trong nhà vụt chạy thẳng ra sân, thằng nhỏ ngó theo thì thấy ngoài bờ có một người đàn bà xăm xăm đi vô, nó liền la lớn «má về» rồi buông gáo chạy ra nắm tay mừng rỡ mà dắt vô. Người đàn bà nầy trạc chừng ba mươi bốn tuổi, áo xăn ngang, ống quần vo tới đầu gối, nước da không đen không trắng, mặt tròn, chơn mày rặm, mình mẩy ướt loi ngoi, sau lưng có giắt một cây nọc cấy, trên đầu bịt trùm khăn vải trắng, ngoài đội thêm một cái nón lá dừa, đi vô vừa tới sân, mắt liếc ngó chuồng vịt rồi hỏi thằng nhỏ:
- Con cho heo ăn rồi hay chưa vậy con ?
- Chưa má à! Tôi mới tắm rồi đuổi vô nhà đó đa.
- Vịt về đủ hay không con?
- Tôi nhốt mà quên đếm
(Cay đắng mùi đời, nxb Văn nghệ TPHCM in lại năm 1997, trang .
So sánh lối viết của Hector Malot và của Hồ Biểu Chánh trong cách giới thiệu nhân vật , chúng ta thấy có hai lối viết hoàn toàn khác nhau: Hector Malot kể. Hồ Biểu Chánh tả. Hector Malot viết ở ngôi thứ nhất theo lối lãng mạn, để tình cảm xen vào ngòi bút, và dùng tình cảm của mình để lôi cuốn người đọc. Hồ Biểu Chánh viết ở ngôi thứ ba theo lối tả chân, ông đứng ngoài, mô tả, không lộ một chút cảm tình riêng tư nào của mình.
Ông để cho độc giả tự tìm niềm cảm xúc khi đọc.
Qua đoạn văn trên, chỉ với đôi dòng, HBC đã giới thiệu người đàn bà với tất cả vóc dáng, y phục, tuổi tác, và lời đối đáp giữa hai mẹ con, nói lên tình mẫu tử giữa thằng Được và Ba Thời. Chỉ với sự diễn đạt súc tích bằng 10 chữ đứa nhỏ la lớn, buông gáo, chạy ra mừng rỡ, HBC để cho người đọc cảm nhận thắm thía tình thương của thằng Được với bà mẹ nuôi.
Đọc thêm một đoạn nữa, đoạn Jérôme Barberin, người chồng, làm thợ ở Paris, tình cờ thấy đứa nhỏ bị bỏ rơi, Hector Malot viết :
Một buổi sáng ở Paris, như thường lệ Jérôme đi làm qua con đường mang tên đại lộ Breteuil, rộng và nhiều cây; anh ta nghe tiếng trẻ khóc, dường như phát ra từ một khung cửa vườn. Trời mới rạng đông, tháng hai. Anh ta lại gần và thấy một đứa bé nằm trên thềm. Jérôme nhìn quanh xem có ai không, bỗng thấy một người núp sau một thân cây lớn vội vàng chạy trốn (Sans Famille, trang 29).
Và cũng đoạn này, Hồ Biểu Chánh viết:
“Ba Thời đương đi, thình lình nghe trong bụi lứt dựa gò mả có tiếng con nít khóc. Ban đầu chị ta tưởng ma nhát nên ngực nhẩy hồi hộp, mặt mày tái xanh, muốn bỏ mà chạy. Song chị ta nghĩ trời mới tối không lẽ có ma, mà dầu có ma thiệt đi nữa, đây cũng đã gần nhà, không đủ lo sợ, nên chị ta đứng lại lóng nghe cho chắc coi thiệt phải con nít khóc hay không.
Ba Thời đứng lóng nghe thì tiếng khóc một hồi rồi nín. Chị ta vừa muốn bỏ đi, lại nghe khóc nữa. Chị ta mới làm gan lần lần đi vô chỗ bụi lứt coi vì cớ nào mà có con nít khóc trong đó. Đi gần tới thì tiếng khóc lại càng lớn hơn nữa” (Cay đắng mùi đời, trang 16).
Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh mô tả cảnh Ba Thời bước vô bụi, thấy đứa nhỏ nằm trên cái mền, bèn vội cuốn nó vào mền, rồi ôm cả bọc tất tả đi vào nhà vợ chồng chú Tích gần đấy. Tới nhà chú Tích, Hồ Biểu Chánh viết tiếp:
“Ba Thời bèn thuật hết đầu đuôi việc mính xí được đứa nhỏ lại cho vợ chồng chú Tích nghe, rồi mới biểu thím Tích đem đèn lại đặng có dở đứa nhỏ ra coi bao lớn, con trai hay là con gái, có đau ốm chi hay không.
Ba Thời thấy nó trắng trẻo ngộ nghĩnh mà chẳng bịnh hoạn thì mừng húm, liền bồng mà hun trơ hun trất rồi nói rằng: “Con ai như vầy mà đem đi bỏ cho đành! Mình xí được, thôi, để mình nuôi chơi” (trang 17-18).
Những đoạn văn trên là biểu tượng những đặc điểm chính yếu khiến tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vẫn được độc giả miền Nam ưa thích từ một thế kỷ nay.
Trước hết, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh người và đất Nam kỳ vào những thập niên của đầu thế kỷ XX. Nhiều nhà phê bình cho là tiểu thuyết của Hồ biểu Chánh là một thứ tự điển bách khoa về xã hội và phong tục Nam Kỳ.
Qua các tiểu thuyết của ông, người đọc nhìn thấy rõ ràng những con kinh, những con sông với tiếng còi tàu súp lê, những cánh đồng, những rừng tràm với chim kêu vượn hú, những phố chợ và các sinh hoạt ở Nam Kỳ với hàng trăm địa danh quen thuộc với người dân Nam kỳ như: Ô Môn, Bình Thủy, Càng Long, Sốc Trăng, Trà vinh, nhà ga Chợ Gạo, và cả những nơi thị tứ như chợ Xã Tài, Khánh Hội. Ai ở Gò Công mà không thấy nao nao khi đọc đến những địa danh quen thuộc : Ai đi đường Chợ Lớn xuống Gò Công hễ qua đò Bao Ngược rồi lên xe chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi tới khúc quanh …
Khi xưa, người viết tiểu thuyết lấy các địa danh bên Trung hoa xa lạ, trái lại HBC xây dựng tiểu thuyết của ông trên những vùng đất quen thuộc của độc giả, đó chính là một trong những yếu tố tại sao tiểu thuyết của HBC gần gũi với độc giả và được độc giả miền Nam ưa thích. (Chỉ trừ quyển tiểu thuyết lịch sử Nặng gánh cang thường, câu chuyện hoàn toàn diễn ra ở miền Bắc). Và để cho hấp dẫn, trong mỗi cuốn tiểu thuyết, ông thường xây dựng câu chuyện cho xảy ra ở nhiều nơi, nếu đoạn đầu xảy ra ở nhà quê thì đoạn cuối xảy ra ở thành phố hay ngược lại.
Tên các nhân vật trong các tiểu thuyết của HBC cũng đặc sệt là cách đặt tên hay cách gọi tên của người Nam Kỳ : thằng Được, thằng Tý, Con Lựu, con Liên, Lê Văn Đó, Lê Văn Đây… hay kêu theo ngôi thứ trong gia đình : Ba Thời, Sáu Lý, hay kêu theo chức phận : Bá hộ Siêu, Còm mi Đảnh, Hương hào Hội…Trong cách xưng hô, Hồ Biểu Chánh phản ảnh trung thực cách xưng hô của người dân Nam Kỳ, đặc biệt ở vùng nhà quê, dưới thời Pháp thuộc . Lần đầu tiên trong tiểu thuyết, HBC đã ghi lại cách xưng hô của bạn bè, vợ chồng ở vùng nhà quê, ruộng rẫy gọi nhau là mầy tao, mình, má sắp nhỏ, má nó, cha thằng Sung, hay cách nói biến chế để gọi người thứ ba vắng mặt : thẩy (thầy ấy), ổng, bả, cỏn (con ấy), thẳng (thằng ấy), ở trển (trên ấy)…
Ngoài những tên đất và tên người, Hồ Biểu Chánh gần gũi với giai cấp trung lưu và bình dân Nam Kỳ vì ông viết theo tiếng nói của giai cấp nầy trong tiểu thuyết của ông. Ông đã tài tình diễn tả tâm lý và mô tả nhân vật, cảnh vật bằng những tiếng địa phương của miền Saigon Lục Tỉnh. Có độ 800 phương ngữ Nam Kỳ trong các tiểu thuyết . Chỉ cần đan kể : nín khe, đi lơn tơn, mặt mày tèm lem,, nhai nhóc nhách, đầu cổ chờm bờm, la bài hãi, đứng ké né, hỏi đon hỏi ren…Nhiều chữ viết theo cách nói «trại» của người bình dân, tưởng như viết sai : xao xiến (xao xuyến), chính chiên (chính chuyên), phiển ba đô hội (phồn hoa đô hội), tấn hóa (tiến hóa) hay do kiêng kỵ : bình yên (bình an), bông hường (hồng), cây đờn (đán)... Có những chữ mà nhiều người dân gốc Nam Kỳ hiện nay có thể đã quên nghĩa vì từ lâu không còn dùng như : ông bác vật (kỹ sư), cô thầy thuốc (vợ bác sĩ), anh bam bù (người mang hành lý), ông mái chính (đại diện hãng buôn), ảnh đụng em (cưới em )…
Và vượt lên trên tất cả những nét độc đáo trên, Hồ biểu Chánh là nhà văn có văn phong mộc mạc, bình dân, tự nhiên, nói sao viết vậy. Về điểm nầy, nhiều nhà phê bình văn học miền Bắc, kể cả Đông Hồ là nhà văn miền Nam, chê là tiểu thuyết của HBC không phải là văn chương, thiếu trau chuốt, (Chính vì quan niệm định giá văn chương như thế nên Dương Quảng Hàm, tác giả quyển Việt Nam văn học sử yếu (1944), quyển sách giáo khoa cho chương trình Việt văn cấp Trung học trước 1975 đã không kể HBC như là một nhà văn . Sau 1975, Hồ Biểu Chánh được đem vào chương trình Việt Văn lớp 11 với vài đoạn văn trích từ Cha con nghĩa nặng.)
Tuy ông có văn phong bình dân, nhưng ông là nhà văn đầu tiên đem yếu tố hư cấu vào tiểu thuyết, xây dựng cốt chuyện như chuyện ngoài đời với những quan sát thật tinh tế. Trong tiểu thuyết của ông có hàng ngàn nhân vật, và ông diễn tả chân dung và tâm lý của mỗi nhân vật điển hình như ngoài đời và đúng với từng hoàn cảnh, từng hạng người.
Hãy nghe tâm trạng của anh nông dân chất phát Trần Văn Sữu trong Cha con nghĩa nặng khi anh ta nghe thiên hạ đồn là vợ mình ngoại tình với Hương hào Hội, qua ngòi bút của Hồ Biểu Chánh :
…Anh ta chống cằm trên đầu gối, lấy ngón tay vẽ hình dưới dưới cát mà suy nghĩ việc
nhà. Mấy năm nay thiệt Hương hào Hội hay ghé nhà mình, mà mình có ý coi, lần nào Hương hào ghé, thì vợ mình lo trầu nước lăng xăng, coi bộ niềm nỡ lắm. Tuy vậy mà mình không thấy Hương hào chọc ghẹo hay là giỡn hớt với vợ mình, mình không gặp hai đàng nói chuyện với nhau, vợ mình cũng không có ý muốn bỏ mình. Tánh vợ mình hỗn ẩu, nó hay mắng nhiếc mình, mà mắng thì mắng chớ vợ chồng cũng ăn ở như thường. Nếu vợ mình nó lấy Hương hào Hội thì chắc nó bỏ mình rồi, chớ có lý nào nó không thương mình nữa mà nó còn ở với mình. Hương tuần Tam nói thiên hạ họ đều biết Hương hào Hội lấy vợ mình. Họ có gặp hay sao mà họ dám chắc ? Hay là họ thấy Hương hào Hội để ruộng cho mình làm, họ ganh ghét nên kiếm chuyện đặt điều mà nói xấu …
Và chuyện anh ta bị vợ là Thị Lựu chửi mắng khi anh ta tra hỏi vợ rồi sau đó là sự hoang mang, bán tín bán nghi của anh ta đã được HBC kết thúc một cách ý nhị vào buổi tối như sau:
Cách một hồi lâu, Thị Lựu ở trong buồng cất tiếng kêu rằng :
- Cha thằng Sung, a
- Giống gì ?
- Vô biểu một chút
Trần Văn Sửu lồm cồm ngồi dậy đi gài cửa, bưng đèn đem để trên bàn thờ mà tắt, rồi men men đi vô buồng, miệng cười ngỏn ngoẻn, vì đã quên hết những điều Hương tuần Tam nói…
Ông diễn đạt một tư tưởng, một quan niệm của ông, không phải bằng lời nói của ông, mà bằng lời nói của những nhân vật mà ông khéo léo sắp xếp theo một bố cục mà ông chuẩn bị nhiều khi lâu hơn khi viết. Thí dụ, bộ tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa, dài hơn 500 trang, ông phải mất 5 năm để làm bố cục, nhưng ông chỉ viết có hai tháng thì xong.
Và tuy văn phong bình dị, bình dân, nhưng tiểu thuyết của HBC hấp dẩn vì câu chuyện có nhiều tình tiết éo le gay cấn, các nhân vật bị xô đẩy vào những biến cố ly kỳ, những tai họa bất ngờ để rồi ông tìm ra một kết cuộc có lý, thông thường là có hậu, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.
Chủ đích tác phẩm của Hồ Biểu Chánh
Tuy tiểu thuyêt của Hồ Biểu Chánh có nhiều thể loại khác nhau, từ ái tình đến phiêu lưu, từ lịch sử đến xã hội, nhưng tất cả các tiểu thuyết trên đều hướng về hai chủ đích chính; phác họa xã hội và quảng bá đạo lý.
Hồ biểu Chánh là nhà văn phong tục
Ðược đi nhiều nơi và có dịp tiếp xúc nhiều với nhiểu hạng người, Hồ Biểu Chánh có một kiến thức phong phú về xã hội miền Nam qua tất cả các hạng người, từ giới giàu có đến giới cùng đinh, từ người lưu manh đến kẻ lương thiện, ở nông thôn cũng như ở thành phố. Ông xây dựng tiểu thuyết của ông với các hạng người trên trong một đất nước Nam Kỳ thuở giao thời giữa hai nền văn hoá cũ và mới . Nói chung, ờ nông thôn cũng như ở thành thị, tiểu thuyết của ông là tiểu thuyết của 2 thế giới quyền thế và bị trị, đối tác nhau trong một xã hội Nho học đang bị dao động dữ dội trong một nền văn hóa Tây phương.
- Ở nông thôn:
- Giới quyền thế ở nông thôn là giới điền chủ độc ác, tham lam, tìm mọi cách để ức hiếp bóc lột dân lành, (Khóc thầm, Con nhà nghèo). Tuy nhiên, không phải tất cả địền chủ đều gian ác, xấu xa, vẫn có những điền chủ tốt bụng, giàu lòng nhân ái, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người nghèo (Hội đồng Chánh trong “Khóc thầm“, Hương quản Tồn trong “Cha con nghĩa nặng“).
Bên cạnh giới địền chủ, là các hương chức trong ban hội tề. Độc giả lần lượt nhận thấy chân dung và hành động của 12 chức sắc trong ban hội tề với tất cả bản chất thiện và ác. (Ban Hội tề theo sắc lệnh năm 1927 có 12 chức vụ là : hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưởng, hương chánh, hương giáo, hương thân, hương hào, hương bộ, hương quản, xã trưởng, chánh lục bộ)
- Về giới nghèo khổ ở nông thôn, HBC đặc biệt chú tâm đến giới tá điền, làm lụng vất vả quanh năm mà luôn bị nợ nần, áp bức bởi giới điền chủ, bọn cường hào ác bá.
Trong, Con nhà nghèo, Cai Tuần Bưởi, sau khi dầm mưa dãi nắng suốt năm, gặt lúa được 320 giạ thị phải nôp lúa ruộng cho chủ điền hết 300 giạ « thế thì cực nhọc trót một năm trường dang nắng cầm cày, dầm mưa nhổ mạ, chỉ còn có 20 giạ mà thôi. Mà trong đó còn phải đong lúa mướn trâu, còn phải trả tiền công cấy, thì còn dư nỗi gì »
Trong Ngọn cỏ gió đùa, Lê Văn Đó vì quá nghèo đói phải liều thân đi ăn trộm nồi cháo heo để cứu đói cho mẹ già và đàn cháu nhỏ để bị bắt và phải nhận hình phạt 5 năm tù. Vượt nguc bị bắt lại, Lê Văn Đó bị kêu án 20 năm chỉ vì nồi cám cho heo ăn.
- Ở thành thị:
Đời sống nghèo khổ của giới lao động , làm thuê làm mướn kiếm cơm từng ngày một, cuộc sống không ngày mai, chui rúc trong các ngôi nhà xiêu vẹo, trong các ngõ hẽm tăm tối, thiếu ăn, đã được HBC đề cập đến trong nhiều tác phẩm, đặc biệt trong Lạc Đường.
Trong Lạc Đường, Hai Cư vác hàng ở bến tàu bì thùng hàng đè, nhưng chỉ được đưa vô nhà thương thí, cặp rằng Mậu vì túng thiếu phải đi ăn cướp để rồi vô tù. Giới gái điếm (gái ăn sương) và bọn trẻ bán báo cũng là hai hạng người được Hồ Biểu Chánh đưa vào tiểu thuyết.
Ngoài ra, ông còn đề cập đến giới thông ngôn ký lục, giới thượng lưu, trưởng giả những kẻ nịnh bợ Tây, sợ sệt quan trên, bắt nạt dân lành, ăn chơi trác táng, trọng tiền tài danh lợi , xem nhẹ nhân nghĩa ( Nợ đời, Cười gượng)
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không chỉ mô tả thực trạng xã hội mà còn đề cập đến những phong tục làm nền cho xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX . Là một trí thức tân học nhưng thấm nhuần Nho giáo, Hồ Biểu Chánh có tư tưởng dung hoà cũ và mới, trái với lập trường của Tự Lực Văn Đoàn là đoạn tuyệt với cái cũ. Theo ông cái cũ và cái mới đều có hay dở riêng, điều cần thiết là phải biết chọn lọc những cái hay, cái đẹp của cũ và mới để áp dụng trong cuộc sống cho hài hòa,
Trong hôn nhân, ông đã đề cập đến những khía cạnh tiêu cực của những hủ tục như cưỡng bách hôn nhân (Ai làm được, Lời thề trước miểu), vụ lợi trong hôn nhân (Nhân tình ấm lạnh, Tỉnh mộng,Thầy thông ngôn), tự do hôn nhân (Cười gượng), tiền dâm hậu thú, (Ai làm được, Chút phận linh đinh) môn đăng hộ đối (Sống thác với tình), tục nôm vợ ( con nhà giàu lỡ chửa hoang thì thuê một chàng trai cưới để bảo vệ danh giá như trong Tỉnh Mộng ), sinh con trai nối dõi (Nợ đời).
Ngoài ra, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn đề cập đến hiện tượng tranh giành gia tài (Nhân tình ấm lạnh), mẹ ghẻ cha ghẻ (Mẹ ghẻ con ghẻ, Ai làm được) mê tín dị đoan, cảnh cưỡng hiếp, ngoại tình (Chúa tàu Kim quy, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng). Ðặc biệt, án mạng thường xuất hiện trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh (Khóc thầm, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng.)
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn đạo lý
Tuy đa số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết xã hội và phong tục, Hồ Biểu Chánh không phải là nhà phong tục học hay xã hội học. Ông viết tiểu thuyết xã hội, phong tục cốt là để quảng bá đạo lý. Quan niệm «văn dĩ tải đạo» đã được ông xác nhận trong tập ký ức « Đời của tôi về văn nghệ» như sau :
Viết tiểu thuyết để cảm hóa đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại quang minh hay như trong tiểu thuyết Bức thơ hối hận với cái tựa « Uống trà ngon nhắc chuyện cũ», ông viết : Phải viết đặng ghi cái hay cái dở của nhơn tình thế thái về khoảng đời trụy lạc mà để lại cho em cháu đời sau được biết chỗ thấp chỗ cao. Phải viết đặng chỉ đường vạch nẻo cho con cháu trong nhà ngó thấy…
Cùng rao giảng đạo lý như cụ Đồ Chiểu, nhưng ông theo một con đường khác với Nguyễn Đình Chiểu. Ông NĐC rao giảng đạo thánh hiền như một ông thầy dạy học trò, như một người cha dạy con, nói khác đi bằng áp đặt với những lý luận cao siêu,hiền triết. Hồ Biểu Chánh quảng bá đạo lý như một người kể chuyện, dùng những hệ lụy của cuộc đời, để người dân tự tìm cho mình một hướng đi, một thái độ. Tác dụng của cảm hóa thâm trầm, sâu sắc hơn và độc giả nhớ rất lâu câu chuyện qua cái ý hướng đạo lý mà Hồ Biểu Chánh muốn chuyên chở trong tác phẩm.
Kết Luận
Qua thân thế và sự nghiệp của nhà văn Hồ Biểu Chánh, đa số các nhà phê bình văn học cận đại đều xác nhận ông là một nhà văn lớn của miển Nam. Lẽ ra, phải nói đúng hơn là nhà văn lớn của Nam Kỳ, tên gọi vùng địa lý của thời Hồ Biểu Chánh, chứ không phải miển Nam của thời kỳ đất nước qua phân, nhưng bởi lẽ người VN đã sống qua những kỷ niệm lịch sử đau buồn, những danh từ như Nam Kỳ,Trung Kỳ, Bắc Kỳ có thể gợi lên những âm hưởng phân chia lạc điệu.
Và trong cái âm hưởng phân chia nầy, chúng tôi muốn nhắc lại đây lời tâm sự của GS
Nguyễn Văn Trung, nguyên Khoa Trưởng Đại học Văn KhoaSaigon.
Ông viết :
«Dạy văn học trên 20 năm ở miền Nam, nhưng mới chỉ đọc Hồ Biểu Chánh gần đây vì trước đây khinh chê, không thèm đọc »
Sau khi đọc xong, nhận thấy tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thật cảm động, thật hay, thật hấp dẫn. Một người bạn lớn tuổi của ông đã thú nhận, với ông : « chả nhẽ tôi trên 60 tuổi rồi mà còn bị xúc động như muốn rơi nước mắt» . GS Trung đặt ra câu hỏi: «Tại sao một cuốn truyện sau hơn nửa thế kỷ, vẫn còn hấp dẫn, gây xúc động với người ở một địa phương khác với địa phương của tác giả. ? (Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, nxb Văn nghệ TPCCM, 1999, tr. 677)
Ông Bùi Xuân Bào, nguyên Khoa Trưởng Trường Đại Học Sư Phạm Saigon, trong luận án tiến sĩ (luận án phụ) của ông tựa là Le roman vietnamien contemporain: tendances et évolution du roman vietnamien contemporain1925-1945 trình ở đại học Sorbonne năm 1961, ông cho rằng một kiệt tác (chef-d’oeuvre) là một tác phẩm hoặc được độc giả ưa thích lúc đương thời và mãi mãi về sau, hoặc được ưa thích tại địa phương của tác giả và cả các địa phương khác. Nói khác đi, một kiệt tác là một tác phẩm vượt thời gian và không gian.
Nhà biên khảo Thụy Khuê thì càng chính xác hơn cho rằng tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có tính hiện đại, nghĩa là không bị lỗi thời vì nó gắn bó với hai yếu tố là đồng đại (synchronique) và lịch đại (diachronique), nói cách khác nó có bản chất vượt thời gian.
Hãy nghe lời ông Huyện hảm Tân nói với ông chủ quận trong tác phẩm Cư Kỉnh:
Hiện nay sự tồi tệ của mình nó tràn lan cùng hết, từ trong gia đình ra tới ngoài xã hội. Trong nhà trường, thì học trò không biết cung kính mang ơn thầy, mà cũng khổ, có nhiều thầy không biết kính trọng cái thiên chức giáo dục, coi môn đệ là kẻ nạp lương cho mình xài mà thôi. Trong gia đình thì vợ không biết kính trọng chồng, mà nhiều ông chồng cũng không biết thương yêu vợ; con không biết ơn sanh thành dưỡng dục, mà nhiều cha mẹ cũng không cần dạy dỗ con; anh không biết thương em, mà em cũng không biết kính trọng anh, còn xã hội thì quá lắm, mọi người đều đuổi theo một chủ nghĩa này: “Kiếm tiền cho nhiều đặng ăn xài cho ngỏa nguê sung sướng” kiếm tiền mà không ưa cần lao, dùng phương chước tốt xấu gì cũng được, miễn là được đồng tiền là thôi, không kể nhơn nghĩa, không kể liêm sỉ, không kể danh dự.
Đọc đoạn văn trên của Hồ Biểu Chánh viết năm 1941 mô tả xã hội VN dưới thời Pháp thuộc vào nửa thế kỷ trước thì chúng ta thấy có khác chi với xã hội VN dưới thời Cộng Sản hôm nay.
Dựa theo nhận định của GS Trung về hiện tượng bỏ quên (không được biết) và bỏ qua (biết nhưng vì đánh giá thấp nên không được xét đến) các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh cũng như quan điểm của GS Bào và nhà biên khảo Thụy Khê về bản chất vượt thời gian của của một tác phẩm, từ các nhận định trên, người viết xin được kết luận: Hồ Biểu Chánh là nhà văn lớn của miền Nam và của Việt Nam.
Lâm Văn Bé
Sách tham khảo chính yếu :
- Nguyễn Khuê. Chân dung Hồ Biểu Chánh. Saigon : Lửa Thiêng, 1974.
- Hồ Biểu Chánh : người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. TPHCM : NXBVăn Nghệ, 2006.
- Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX / Nguyễn Kim Anh chủ biên. TPHCM : NXB Đại Học Quốc Gia TPHCM, 2004.
- Thụy Khuê. Hồ Biểu Chánh (trên RFA)
Last edited by LDN on Sat Oct 29, 2022 5:12 am; edited 4 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Thụy Khuê
Hồ Biểu Chánh (1885-1958)
Thuykhue.free
Nhà văn khai sáng nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam
Tiểu sử
Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, sinh ngày 1/10/1885 tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công và mất ngày 4/9/1958 tại Phú Nhuận (Sài Gòn). Từ 8 đến 12 tuổi học nhữ nho, 13 tuổi học trường tiểu học (Pháp-Việt) tổng Vĩnh Lợi, rồi lên trường tỉnh Gò Công, tiếp đến trường trung học Mỹ Tho (1902-1903), rồi lên Sài Gòn học trường Pháp Chasseloup-Laubat (1904-1905). Năm 1905 đậu bằng thành chung. 1921, đậu Tri huyện. 1927 lên Tri phủ. 1936 thăng Đốc Phủ sứ. 1941 đắc cử Nghị viên thành phố Sàigòn. 1946 làm cố vấn cho bác sĩ Nguyễn Văn Thinh lập chính phủ Nam Kỳ tự trị...
Bắt đầu nghề văn từ 1906, bằng cách học thêm chữ nho để dịch truyện Tầu in báo. Năm 1910, in U tình lục, văn xuôi, phóng tác đầu tiên, từ truyện Tầu. 1912 xuống làm việc ở Cà Mau, viết Ai làm được, tiểu thuyết hư cấu đầu tiên. 1913, đổi lên Long Xuyên, viết cuốn tiểu thuyết thứ nhì Chúa tầu Kim Quy, phỏng theo Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas. Trong thế giới đại chiến thứ nhất (1914-1918) mọi việc đình trệ, hai tác phẩm đều nằm đợi. 1917, ông làm "Đại Việt tạp chí" ở Long Xuyên. Rồi 1918, ông trở lại Gia Định (Sài Gòn) viết cho các báo Quốc Dân Diễn Đàn, Nông Cổ Mín Đàm, Công Luận Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo. Từ 1922, báo chí bị chính quyền thuộc địa kiểm duyệt gắt gao, ông nghỉ làm báo, sửa chữa và cho in hai tập tiểu thuyết viết năm 1912-13 và viết thêm 8 cuốn mới. Tới 1932, Hồ Biểu Chánh đã in được 18 tiểu thuyết.
Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, Hồ Biểu Chánh đã để lại 64 cuốn tiểu thuyết, 23 cuốn nghiên cứu văn học, 13 tuồng hát, 7 đoản thiên, 3 truyện ngắn, 2 truyện dịch, 2 tác phẩm văn vần, 5 tập tuỳ bút phê bình, 6 ký ức và 8 bài diễn văn. Một di sản văn hóa đồ sộ mà cho đến nay, dường như chưa có công trình khoa học nào thực sự nghiên cứu toàn bộ. Chính văn chương Hồ Biểu Chánh cũng còn xa lạ với số đông người đọc, nhất là độc giả miền Bắc.
*
Cho đến gần đây, phần đông giới làm văn học vẫn còn coi Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Sai lầm này phát xuất từ những nhà nghiên cứu văn học thời trước, phần lớn gốc Bắc, từ Dương Quảng Hàm, đến Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh... khi nghiên cứu văn học thế kỷ XX, đã quá nghiêng về miền Bắc, mà không chú trọng đến miền Nam, nơi khởi thủy của nền văn học quốc ngữ.
Nguyễn Văn Trung là người đầu tiên đã nghiên cứu lại một cách hệ thống nền văn học quốc ngữ khởi thuỷ từ Nam Kỳ trong bộ sách đồ sộ Lục châu học, mà bản đánh máy, lưu hành trong giới nghiên cứu trong nước từ 1988, đã được nhiều người sử dụng nhưng không đề rõ xuất xứ. Văn bản này đã được đưa lên mạng nguyenvantrung.free.fr để rộng đường tra cứu.
Nguyễn Văn Trung đặt lại vai trò chủ yếu của vùng Lục Châu, tức Nam Kỳ Lục Tỉnh trong sự khai phá và phát triển nền văn học quốc ngữ.
Thực vậy, miền Nam là nơi phát xuất những cuốn từ điển đầu tiên của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của; miền Nam là nơi phát xuất tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên Thày Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, viết năm 1887; miền Nam cũng là nơi mà những tờ báo quốc ngữ đầu tiên ra đời, như Gia Định Báo, 1882; Nam Kỳ Nhật Trình, 1897; Nông Cổ Mín Đàm, 1901; Lục Tỉnh Tân Văn, 1907.
Và hôm nay, chúng tôi muốn chứng minh rằng cũng tại miền Nam, xuất hiện tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam: nhà văn Hồ Biểu Chánh.
*
Để giới thiệu tác giả, không gì bằng chính lời tác giả. Trong tập ký ức, viết ngày 24/12/1957, tại Phú Nhuận, bản đánh máy, nhan đề « Đời của tôi về văn nghệ», Hồ Biểu Chánh đã viết về «lúc thiếu niên» của mình như sau:
« Sanh ngày 1 tháng 10 dương lịch năm 1885 tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo, nhưng nội tổ hồi trước đứng lập làng nên có bản vị Tiền hiền thờ trong đình Thần và thân phụ được tham dự trong ban Hội Tề Hương Chánh, lần lên tới chức Hương Chủ và Chánh Bái.
Từ 8 đến 12 tuổi, học nhấp nhem chữ Nho với thầy giáo dậy trong làng. Đến 13 tuổi, nhờ cha mẹ dời về ở chợ Giòng Ông Huê, mới bắt đầu học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi xuống trường tỉnh Gò Công học tiếp 3 năm thi đậu học bổng. Được vào trường trung học Mỹ Tho học 2 năm (1902 và 1903) rồi được lên trường trung học Chasseloup-Laubat ở Sàigòn học thêm 2 năm nữa. Cuối năm 1905 thi đậu bằng Thành Chung gọi là Diplome de fin d’Etudes».
Vẫn giọng văn ấy, Hồ Biểu Chánh kể tiếp về cuộc đời công chức, quan trường của mình: cuối năm 1921, thi đậu Tri huyện. 1927 thăng Tri phủ. 1936 làm Đốc Phủ sứ. 1941 làm Nghị viên thành phố Sàigòn. Năm 1946 làm cố vấn cho bác sĩ Nguyễn Văn Thinh lập chính phủ Nam Kỳ tự trị ... Tất cả mọi việc xẩy ra qua giọng tự thuật thung dung và bình thản, về đời quan cũng như đời văn. Nhưng đáng chú ý nhất là đoạn nói đến động cơ thúc đẩy ông bước vào nghiệp cầm bút:
«Năm 1906 ra khỏi nhà trường, nhận thấy các ấn quán ở Sàigòn mướn người dịch truyện Tàu và thơ chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ đặng in mà bán. Từ thành thị ra thôn quê, nhơn dân đua nhau mà đọc. Có vài tờ tuần báo cũng được người ta chú ý.
Thầm nghĩ, người mình mà biết chuyện bên Tàu không bổ ích cho bằng biết truyện trong nước mình. Tính viết chuyện văn vắn cho đăng vào mấy tờ tuần báo để đồng bào đọc thử. Viết khó khăn hết sức, vì thiếu nho học nên không tìm ra lời mà tả trí ý cho người ta thông cảm được. Phải học chữ Nho. Trót ba năm, nhờ vài ông bạn lớn tuổi ban đêm làm ơn dạy giùm cho đọc được sách Tàu.
Năm 1910, lựa những chuyện hay trong Tình Sử và Kim Cổ Kỳ Quan dịch ra Quốc văn nhan đề «Tân soạn cổ tích» đặng tập viết cho suông. Cũng viết theo thể văn «Thượng lục hạ bát» thành một chuyện dài nhan đề «U tình lục», chuyện tình của người trong nước mình. Hai quyển nầy được mấy bạn hùn tiền in thử thì không ai chê.
Lúc đó cụ Trần Chánh Chiếu cho xuất bản quyển «Hoàng Tố Oanh hàm oan» là tiểu thuyết đầu tiên trong Lục tỉnh, truyện tình tả nhơn vật trong xứ và viết theo điệu văn xuôi. Đọc quyển nầy, cảm thấy viết truyện dùng văn xuôi dễ cảm hoá người đọc hơn, bởi vậy năm 1912, đổi xuống làm việc tại Cà Mau mới viết thử quyển «Ai làm được » là quyển thứ nhứt viết văn xuôi tại Cà Mau với nhơn vật cũng ở Cà Mau».
Như vậy, Hồ Biểu Chánh đã tập viết văn từ năm 1906, bước vào nghiệp văn từ năm 1910, và động cơ chính thúc đẩy ông viết là vì ông muốn cho «người mình đọc chuyện xẩy ra ở nước mình bằng chữ nước mình» và chọn văn xuôi vì thấy «văn xuôi dễ cảm hoá người đọc hơn văn vần». Vì thế, dân tộc và bình dân là hai yếu tố cơ bản xây dựng nên tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Và cũng chính với hai yếu tố này, ông đã «đánh đổ» được lối viết tiểu thuyết chương hồi theo lối Tàu đang thịnh hành và «đánh bại» được lối văn biền ngẫu, réo rắt, vế đối vế, vần đối vần, trong những truyện quốc ngữ thời ấy.
Để thấy rõ cái mới trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chỉ cần so sánh văn phong của ông với văn phong những người cùng thời :
Nguyễn Chánh Sắt, trong tiểu thuyết Nghiã hiệp kỳ duyên, tức Chăng Cà Mun, in năm 1919, viết :
«Lần hồi ngày lụn tháng qua, bóng thiều quang đưa rất lẹ; thoắt chút mà Phi Đáng đã 18 tuổi đầu, hình dung yểu điệu, cốt cách phương phi, bá mị thiên kiều, ngư trầm lạc nhạn. Mà ba mươi đời cái kiếp hồng nhan bạc mạng là lẽ tự nhiên ». (Nghiã hiệp kỳ duyên, Long An tái bản, trang 10).
Hoàng Ngọc Phách, trong tiểu thuyết Tố Tâm, viết 1922, in 1925, viết :
« Thôi, hôm nay là ngày từ biệt của ngòi bút chung tình này, từ đây sẽ vắng tanh tin nhạn, bao nhiêu chuyện tình xưa nghiã cũ, sẽ theo mây bay gió thổi mà mơ màng như giấc chiêm bao. Những khi canh tà giăng xế, khi mưa sa trước cửa, khi gió thổi bên màn, khi em soi gương thấy bóng... » (Tố Tâm, Đại Nam in lại ở Mỹ, trang 79).
Nhất Linh, trong tiểu thuyết Nho Phong, in 1926, cũng không thoát được lối văn cổ: “Lê Nương năm ấy tuổi mới trăng tròn” hoặc “Nhưng bóng hoa thấp thoáng, dáng liễu thanh tân, làm cho chàng cũng phải nhiều phen man mác trong lòng” (trích theo Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, Đại Nam in lại, trang 900).
Tân Dân Tử, trong tiểu thuyết Gia Long Tẩu Quốc, in năm 1929, viết :
« Đức Nguyễn Ánh lạc bước phong trần.
Nơi Phật tự gặp người phò tá.
Đất Việt Ba Kỳ, trời Nam một góc, tang thương mấy độ, cuộc hưng vong dường thể chiêm bao; sự tích ngày xưa, gương trị loạn còn ghi lịch sử» (Gia Long tẩu quốc, Bảo Tồn tái bản lần thứ 6, 1950, trang 1).
Văn tiểu thuyết đầu thế kỷ XX của chúng ta phần đông là như thế, trừ một vài trường hợp như Phạm Duy Tốn trong Sống chết mặc bay (1918) và Nguyễn Trọng Thuật trong Quả dưa đỏ (1925, phóng tác theo truyện An Tiêm trong Lĩnh Nam trích quái), tương đối thoát khỏi lối văn biền ngẫu kể trên. Xin nhắc lại, về truyện ngắn thì Trương Vĩnh Ký đi trước Phạm Duy Tốn; còn Nguyễn Trọng Thuật viết truyện thần kỳ, chưa phải là tiểu thuyết hiện đại theo đúng nghĩa hư cấu.
Tóm lại, trong bối cảnh văn tiểu thuyết từ Bắc xuống Nam đều viết một giọng như thế, thì Hồ Biểu Chánh viết như thế nào?
Trong Ai làm được, tác phẩm đầu tiên viết năm 1912, Hồ Biểu Chánh viết:
« Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi, ngó quanh quất không thấy khách ăn uống, duy có một người trai trạc chừng mười bẩy, mười tám tuổi, đương ngồi tại bàn gần cửa mà viết. Ông thấy người miệng rộng, môi dày, vai ngang, trán trợt, tóc hớt cụt, mắt rạng ngời, tư cách nghiêm trang, mặt mày sáng rỡ, tuy y phục tầm thường mà hình dung không phải như người thường, bởi vậy ông cứ ngồi ngó hoài». (Ai làm được, nxb Tổng hợp Tiền Giang, tái bản 1988, trang 3).
Và trong «Cay đắng mùi đời» cảm tác từ cốt truyện Sans Famille (Vô gia đình) của Hector Malot, in tại Sàigòn năm 1923, Hồ Biểu Chánh vào truyện như sau :
«Ai đi đường Chợ Lớn xuống Gò Công, hễ qua đò Bao Ngược rồi lên xe chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi, tới khúc quanh, thì sẽ thấy bên phía tay trái, cách lộ chừng ít trăm thước, có một xóm đông, kêu là Xóm Tre, nhà ở chật, cái trở cửa lên, cái day cửa xuống, tre xanh kịt bao trùm kín mít, ngoài vuông tre thì ruộng bằng trang sấp liền từ giây. Qua mùa mưa cây đượm màu, ruộng nổi nước, thì trông ra chẳng khác nào cù lao nằm giữa sông lớn (...)
Dưới sông Bao Ngược ghe chài chở lúa trương buồm rồi thả trôi theo dòng nước, chiếc nào chở cũng khẳm lừ. Trên lộ Cây Dương xe ngựa đưa người núc ních chạy chậm xì, tiếng lục lạc nhỏ khua xa xa nghe như tiếng nhái.» (Cay đắng mùi đời, nxb Văn nghệ TP HCM 1997, trang 5-6).
Chẳng cần biết khái niệm hiện đại là gì, chỉ đọc văn Hồ Biểu Chánh và so sánh với văn của những người cùng thời, cũng thấy ngay cái mới, cái táo bạo của ông lúc bấy giờ. Và lại càng hiểu rõ tại sao những truyện của Nguyễn Chánh Sắt, Hoàng Ngọc Phách, Tân Dân Tử... dù là những tác phẩm hay, đã từng nổi tiếng một thời, nhưng ngày nay đọc lại, ta thấy chúng cũ đi nhiều, trong khi truyện của Hồ Biểu Chánh, không một vết nhăn. Bởi tác phẩm của Hồ có tính hiện đại : nghiã là không bị lỗi thời, vì nó có đủ hai yếu tố: lịch đại và đồng đại tức là khả năng « vượt thời gian », đọc lúc nào cũng hợp, vừa mang tính chất thời đại ra đời lại vừa theo kịp thời sau mà không bị sa thải.
Sở dĩ như vậy vì Hồ Biểu Chánh đi sát với tiếng nói hơn là văn viết, và khi cần viết văn, ông viết giản dị mà không «làm văn». Vì thế, văn ông không phụ thuộc vào cái style, tức bút pháp thời thượng lúc bấy giờ, mà sự réo rắt, đối ngẫu, lãng mạn, đang độ cao trào.
So sánh như thế chúng ta mới hiểu thái độ của những người như Thiếu Sơn, Trúc Hà, Đông Hồ, đã «loại» Hồ Biểu Chánh ra khỏi thế giới «văn chương» của những người đương thời. Vì họ cho rằng Hồ Biểu Chánh «không có văn». Đông Hồ ghi lại: «Đọc thì cũng đọc, thích thì cũng thích, duy chúng tôi cứ không chịu được lời văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt của ông» tuy ngay sau đó Đông Hồ cũng nhận là «quan niệm của tôi sai lầm và cảm quan của tôi lệch lạc». Biết vậy, nhưng ông không sửa được cái «cảm quan» của mình, cái cảm quan của những nhà văn ngôn không ưa lối văn bạch thoại, như ông tự lấy mình và Hồ Biểu Chánh làm ví dụ. Độc giả ngày nay có thể vẫn thích đọc Hồ Biểu Chánh, nhưng lối văn chải chuốt của Đông Hồ không còn cám dỗ được ta nữa.
Và sau cùng là nhận định sai lầm của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan khi ông đánh đồng tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh với Tố Tâm và Nho Phong: « Quyển Nho Phong của Nguyễn Tường Tam chỉ đáng kể là một truyện bằng chứng cho lối tiểu thuyết nước ta trong thời kỳ phôi thai như quyển Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách hay những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh» (Nhà văn hiện đại, trang 901).
Sau này, nhà nghiên cứu Huỳnh Lý, với tấm lòng của ông đối với Hồ Biểu Chánh và văn chương Nam Bộ, đã có lời khen: «Truyện Tiền bạc bạc tiền của ông có thể xếp ngang với những tác phẩm có giá trị nhất của chủ nghiã hiện thực sau này». Đúng là một lời khen ngược : Không ai khen ông tổ khai sáng một ngành đã làm được như con cháu sau này!
Lối phát ngôn ấy vô tình hay hữu ý đã hạ thấp giá trị những đóng góp văn học của miền Lục Châu nói chung và của Hồ Biểu Chánh nói riêng, do thành kiến, do sự thiếu cập nhật kiến thức văn học hoặc vì những lý do khác.
Nhưng không phải tất cả mọi người đều sai lầm, Hồ Hữu Tường, ngược lại, mê văn Hồ Biểu Chánh, ông nhận rằng Hồ Biểu Chánh đã cho ông «nhập mộng rồi tỉnh mộng».
Tại sao như thế? Tại vì Hồ Biểu Chánh là người đầu tiên đã đưa yếu tố hư cấu (fiction) vào văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, một cách toàn diện và thành công.
Trước Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết của chúng ta thường viết truyện theo lối Tàu: nghiã là kể truyện lịch sử, hoặc viết lại những tích rút trong lịch sử, thần thoại, hoặc dựa theo một chuyện đã có thật, rồi thêm thắt chi tiết vào.
Nguyễn Trọng Quản được coi là người sớm nhất, đã đem tiểu thuyết viết theo lối Tây phương vào Việt Nam, năm 1887, với truyện Thày Lazaro Phiền. Nhưng truyện của Nguyễn Trọng Quản, cũng như truyện Tố Tâm (1922) sau này của Hoàng Ngọc Phách, vẫn còn viết theo lối ký thác, tác giả thuật một truyện ở ngôi thứ nhất (truyện của mình hay truyện do người khác kể lại) chứ tác giả không hư cấu, không tưởng tượng ra.
Hồ Biểu Chánh là người đầu tiên đã xây dựng nên toàn bộ hệ thống tiểu thuyết hư cấu, hiện thực trong tiếng Việt. Ông đã tạo ra một thế giới nhân vật tưởng tượng y như thật, trong đời sống, khiến Hồ Hữu Tường, thủa trẻ, khi đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, đã nhập vào thế giới hư cấu ấy, mà ông gọi là «nhập mộng» và khi đọc xong, ông « tỉnh mộng », bởi vì ông ra khỏi thế giới hư cấu của tiểu thuyết; ông viết về cuốn Tỉnh mộng của Hồ Biểu Chánh như sau:
«... Như vậy thì không thể nào ở trong cảnh thực mà có, chỉ ở trong mộng mà thôi. Nhưng tác giả viết rất tự nhiên, nên đọc tiểu thuyết, tôi sống mãi ở trong một cảnh mộng. Đến chừng xem đầu đề tiểu thuyết, tôi thấy đầu đề đó là Tỉnh mộng. Tới chừng đó tôi hay rằng câu chuyện mà Hồ Biểu Chánh đã thuật lại, đã tạo cho tôi một cảnh mộng. Tôi ở trong cảnh mộng. Rồi bây giờ tôi thấy nó là tiểu thuyết. Đây tôi mới là người tỉnh mộng. Chớ tôi không hiểu những nhân vật tỉnh mộng đó là ai nữa.
Từ ấy, tôi mới có một quan niệm rõ rệt về tiểu thuyết. Té ra một tiểu thuyết hay là một tiểu thuyết tạo cho độc giả một cảnh mộng mà độc giả say mê đi vào cảnh mộng ấy, như vào cảnh thật vậy. Đến chừng đọc xong rồi, thì xếp sách nhìn lại nhan đề, mới hay là mình đã mộng. Như vậy, tôi có thể nói rằng vị giáo sư đầu tiên dạy cho tôi văn chương, dạy bản sắc của văn chương, dạy lý thuyết về văn chương, ấy là Hồ Biểu Chánh. Một tiểu thuyết, với nhan đề của nó, làm cho tôi hiểu rõ định nghiã của tiểu thuyết là gì? Những tiếng của Pháp như là Roman, của Anh Novel, Tàu là tiểu thuyết, đều không làm sao giúp tôi hiểu định nghĩa rõ rệt của loại mà trong văn chương gọi là tiểu thuyết cả » (Hồ Hữu Tường, Nhập mộng và tỉnh mộng, Văn số 80, tưởng niệm Hồ Biểu Chánh, 15/4/1967, trang 34).
Không chỉ có Hồ Hữu Tường, thuộc lớp trước mà Dương Nghiễm Mậu, nhà văn lớp sau và rất mới, cũng nhìn thấy ở Hồ Biểu Chánh một bậc thày khai phá, mở cửa cho ông vào thế giới tiểu thuyết, vào miền Nam, quê hương thứ hai của ông, Dương Nghiễm Mậu viết:
« Tôi đã đọc tiểu thuyết của ông cách đây mười mấy năm trời, khi còn theo học những lớp đầu tiên bậc trung học ở Hà Nội (...) Rồi trong nhiều hoàn cảnh khác, tôi lần lượt đọc những tiểu thuyết của ông. Sau này, có một thời gian tôi đã dành thì giờ để đọc lại những gì đã đọc, đọc những gì chưa đọc với mục đích tìm hiểu, những khởi đầu của nền văn học ta, tìm hiểu những đặc tính miền Nam, quê hương thứ hai tôi yêu dấu. Quê hương miền Nam, con người, văn chương mở ra cho tôi những bàng hoàng không ít. Cuộc sống nơi những vùng sình lầy hoang vu, trong kinh rạch quyến rũ tôi, tôi không bỏ một cơ hội nào để tới những nơi đó. (...)
Cũng vì thế bài viết (này) như một nhớ ơn, nhớ ơn những người đã để lại cho chúng ta những di sản lớn...» (Dương Nghiễm Mậu, Từ đó đến nay, Văn số 80, trang 57).
Những lời trên đây của hai nhà văn Hồ Hữu Tường và Dương Nghiễm Mậu đã xoá được gần một thế kỷ thành kiến và đánh giá sai lầm về Hồ Biểu Chánh.
Hồ Biểu Chánh còn đi tiên phong như một tiểu thuyết gia nhà nghề. Chữ nhà nghề dùng ở đây không có nghiã là viết văn để kiếm tiền sinh sống, mà ông đã coi viết văn như một chuyên môn. Ông bước vào nghiệp văn năm 1906 cùng lúc với nghề công chức, như một phương tiện sinh sống và ông đã ở với văn chương đến hơi thở cuối cùng.
Hồ Văn Kỳ Trân, người con trưởng của ông kể lại :
« Bệnh đã càng ngày càng thêm mà ba tôi không chịu nghỉ viết. Thầy thuốc cấm. Ba tôi vẫn viết. Con cháu năn nỉ lắm thì ba tôi chỉ nghỉ vài ngày rồi viết nữa và bảo rằng :« Ba còn viết được thì cứ để cho ba viết. Ba không viết được thì lòng thấy bứt rứt, người thấy khó chịu hơn. Có viết được lòng mới thấy yên ổn, người mới thấy thư thả dễ chịu. Viết là một phương thuốc, là một cách trị bịnh cho ba đó» (....)
Cách đó ít bữa thì ba tôi từ trần. Trên bàn viết còn để lại bản thảo một tác phẩm viết dở»
Đọc những lời trên đây, chúng ta không khỏi ngậm ngùi và kính trọng. Bởi trước Hồ Biểu Chánh, chúng ta chỉ có những nhà nho tài tử. Truyền thống văn học của chúng ta là tài tử. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đến Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu... nhà văn nhà thơ ở nước ta chưa mấy ai coi văn chương, hơn là một nghề, mà còn là mạch sống, là phương thuốc trị bệnh của con người như Hồ Biểu Chánh.
Ai làm được, tiểu thuyết hiện thực đầu tiên của Việt Nam
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Hồ Biểu Chánh nhan đề Ai làm được viết năm 1912 tại Cà Mau, nhưng mãi đến 1922, mới được ông sửa lại và in tại Sàigòn.
Về bước đầu này, ông kể lại như sau: « Đổi xuống làm việc tại Cà Mau, mới thử viết quyển «Ai làm được» là quyển tiểu thuyết thứ nhứt viết văn xuôi tại Cà Mau với nhơn vật cũng ở Cà Mau. Đổi lên Long Xuyên năm sau viết quyển thứ nhì, cũng văn xuôi, nhan đề «Chúa tàu Kim Quy», phỏng theo quyển Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas, viết điệu phiêu lưu, nghĩ có lẽ hấp dẫn hơn.» (Hồ Biểu Chánh, hồi ức Đời của tôi về văn nghệ, bản đánh máy).
Vì sao Hồ Biểu Chánh ngừng viết trong chín năm? Ông cho biết lý do: « Kế thế giới chiến tranh thứ nhứt bùng nổ, công việc đa đoan, không viết tiểu thuyết được nữa... chỉ viết mấy hài kịch nho nhỏ cho mấy thầy hát đặng kiếm tiền giúp cho chiến sĩ Việt Nam ngoài mặt trận Âu Châu. Năm 1917 làm «Đại Việt tạp chí» ở Long Xuyên.
Năm 1918, dời về Gia Định, phụ bút cho mấy tờ báo Quốc Dân Diễn Đàn, Nông Cổ Mín Đàm, Công Luận Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo. Năm 1922, vì kiểm duyệt gắt gao, nghĩ viết báo vô ích, mới bỏ mà chấn chỉnh lại 2 quyển tiểu thuyết viết hồi 1912 tại Cà Mau và 1913 tại Long Xuyên, cho xuất bản và viết thêm 8 quyển mới nữa. Từ năm 1927 tới 1932 làm chủ quận Càng Long, viết thêm 8 quyển mới nữa, cộng trước sau dưới 18 quyển». (Hồ Biểu Chánh, hồi ức Đời của tôi về văn nghệ, bản đánh máy).
Như vậy, Hồ Biểu Chánh đã ghi rõ: Ai làm được là tác phẩm đầu tiên do ông sáng tác, năm 1912 và Chúa tàu Kim Quy do ông phóng tác năm 1913, nhưng mãi đến 1922 ông mới «chấn chỉnh» lại để in. Thanh Lãng khi đọc Ai làm được thấy cốt truyện có hơi giống André Cornélis của Paul Bourget. Vậy sự giống này chỉ là tình cờ mà thôi. Bởi nếu là phóng tác thì Hồ Biểu Chánh đã nói rõ là phóng tác. Mặt khác, trong danh sách 12 tác phẩm phóng tác, không thấy ông ghi cuốn Ai làm được.
Nhưng có một khó khăn về văn bản, như Thanh Lãng đã nêu ra: ngày nay chúng ta chỉ còn bản in năm 1922, không biết được bản gốc viết năm 1912. Vì vậy không rõ Hồ Biểu Chánh đã «chấn chỉnh» tác phẩm như thế nào, cho nên không thể biết trong chín năm kỹ thuật tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có thay đổi gì không? Nhưng nếu căn cứ vào các tác phẩm sau này, thì thấy lối viết, lối dựng truyện, lối mô tả hiện thực của Hồ Biểu Chánh, trong gần 50 năm, không hề thay đổi. Ông chỉ thay đề tài, đổi thể loại từ xã hội, lịch sử đến phiêu lưu, trinh thám, trong những bối cảnh khác nhau của vùng Lục Tỉnh Nam Kỳ. Vì vậy, có thể xác định năm sinh của tác phẩm Ai làm được là 1912. Và như thế, 1912, cũng là năm ra đời cuốn tiểu thuyết quốc ngữ hư cấu đầu tiên của Việt Nam, viết theo lối Tây phương : Ai làm được.
Đọc Ai làm được điểm đáng chú ý đầu tiên nằm trong cái tựa, đó là một câu hỏi : Ai làm được? Tác giả lôi cuốn ta vào một vòng bí mật, với một câu chưa kết thúc, một nghi vấn chưa đặt ra, một thách thức, nôm na và cụt ngủn. Lối viết như thế, trong tiếng Việt thời đó, chưa có. Chưa ai lấy một câu có cấu trúc nước đôi, nước ba như thế làm tựa sách. Hồ Biểu Chánh là một nhà nho thấm nhuần Phật pháp. Tư tưởng chủ yếu bao trùm toàn bộ tác phẩm của ông là trọng nghĩa khinh tài của đạo nho và từ bi hỉ xả của đạo Phật. Nhưng ông còn là học sinh trường Pháp Chasseloup-Laubat nữa. Do đó, tiểu thuyết của ông mang hình thức Tây phương trong tâm hồn Đông phương. Chính dấu ấn Tây phương trong ngôn ngữ và cách mô tả ấy, đã tạo sự khác biệt và chứng tỏ ông là tiểu thuyết gia đã Việt hoá những phương pháp tiểu thuyết của Tây phương sớm nhất. Sớm và thành công hơn tất cả những người cùng thời trong Nam cũng như ngoài Bắc.
Cái mới của tiểu thuyết Tây phương mà ông đem vào, trước tiên là cách viết và cách mô tả, Hồ Biểu Chánh vào truyện như sau:
«Ông Bạch Khiếu Nhàn tuổi đã quá lục tuần mà sức hãy còn mạnh khoẻ.
Từ khi con gái ông bất hạnh, tủi phận thon von nên ít muốn đi chơi, cứ lui cui ở nhà hoặc sửa kiểng xem hoa, hoặc uống trà đọc sách (...)
Mặt trời chen lặn, gió càng thêm mát mẻ, Khiếu Nhàn đi lần tới quán cơm chú Lỳ, tuy chưa mỏi chơn, song ông khát nước.
Chú Lỳ ngó thấy ông lật đật chào mừng và mời ông vào quán nước. Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi, ngó quanh ngó quất không thấy khách ăn uống» (Ai làm được, trang 3).
Không cần dài dòng biện luận về mới, cũ, chỉ cần nhớ lại văn phong «Lần hồi ngày lụn tháng qua» của Nguyễn Chánh Sắt, hoặc «Những khi trăng tà giăng xế» của Hoàng Ngọc Phách, là ta thấy ngay sự khác biệt.
Cụ thể hơn, những khác biệt ấy là gì?
Thứ nhất: Hồ Biểu Chánh bỏ hết những dư thừa trong lời nói, chỉ giữ lại những gì không thể bỏ được.
Thứ hai: Ông mô tả tất cả những chi tiết mà những người thuật truyện trước ông, không chú ý tới. Nói cách khác, Hồ Biểu Chánh mô tả một khung cảnh hiện thực, một con người hiện thực đang đứng trước mắt ta, người ấy ăn mặc như thế nào, nói năng ra làm sao. Trong khi các tác giả khác chỉ đưa ra một hình bóng từ chương qua văn chương biền ngẫu, kiểu «tuổi mới trăng tròn», «hình dung yểu điệu », «bá mị thiên kiều» v.v...
Vì vậy, nếu nói: Hồ Biểu Chánh là người khai sinh ra tiểu thuyết hiện thực ở nước ta là một xác định có cơ sở.
Trở lại câu hỏi : Ai làm được. Ai làm được cái gì ? Thì câu trả lời đã từ tác phẩm vọng lên, sẽ có thể là : Ai làm được như Khiếu Nhàn ? Ai làm được như Bạch Tuyết ? Ai làm được như Chí Đại ? Ai làm được như bà Phủ ? Bởi mỗi nhân vật trong cuốn tiểu thuyết này đều có những thách đố về thân phận và về cách giải quyết các vấn đề.
Với cuốn tiểu thuyết đầu tay, tác giả đã trình bày triết lý Trọng nghiã khinh tài của mình và ông đã đi theo quan niệm ấy trong suốt hành trình văn học: truyện của ông luôn luôn phân biệt chính tà và kết có hậu: chính thắng tà thua.
Khiếu Nhàn, Bạch Tuyết, Chí Đại là mẫu người tốt. Ông Phủ, bà Phủ, nhất là bà Phủ thuộc loại người chẳng ra gì, thậm chí là một kẻ sát nhân. Cả hai loại người này đều được đẩy đến cùng trong những đối chất của hoàn cảnh. Người nhân hậu như Khiếu Nhàn, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ. Người tàn ác như bà Phủ không bỏ một dịp nào để thi hành độc thủ. Người quyết tâm trả thù cho mẹ như Bạch Tuyết luôn luôn tìm mọi cách để lật mặt thủ phạm đã giết mẹ mình dù có phải sống cuộc đời ba chìm bẩy nổi.
Tính chất đơn giản trong tâm lý nhân vật, ở đây, vừa gắn bó với thời kỳ phôi thai của tiểu thuyết, vừa hợp tâm lý bình dân, nhưng không phải vì thế mà không có tác dụng cho sự khảo sát xã hội đương thời: Cá tính độc lập, tự do và dấn thân của người phụ nữ trong Nam được nhấn mạnh qua những nhân vật như Bạch Tuyết trong Ai làm được, như Phi Phụng trong Nhơn tình ấm lạnh, như Đoàn Thu Vân trong Chút phận linh đinh, như Yến Tuyết trong Tỉnh mộng, Bạch Yến trong Từ hôn... Mỗi người đều chịu một hoàn cành khắc bạc, nhưng đều tìm cách đứng lên, đối chọi, để tìm lối thoát. Tính chất độc lập, tự do và dấn thân này đã đưa những nhân vật nữ của Hồ Biểu Chánh, phần lớn là những cô gái con nhà, ra khỏi quỹ đạo kín cổng cao tường. Khác hẳn với những nhân vật trong tiểu thuyết Bắc của Hoàng Ngọc Phách hay sau này của Tự Lực văn đoàn.
Những nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, mặc dù bị sự kiềm toả của một nền luân lý nho phong, nhưng nhiều người đã vượt vòng lễ giáo, tự ý lấy người mình yêu, chứng tỏ những năm đầu thế kỷ XX, người phụ nữ trong Nam đã Âu hoá hơn người phụ nữ ngoài Bắc rất nhiều, bởi Nam Kỳ bị Pháp bắt đầu đô hộ từ 1862.
Hồ Biểu Chánh còn đưa ra những mẫu người phụ nữ ỷ giàu ăn hiếp chồng, chửi chồng, như trong truyện Thày thông ngôn. Một mô típ rất hiếm trong tiểu thuyết Bắc. Ngoài ra, trong giai cấp trưởng giả ở miền Nam, vợ chồng khi xung đột, có thể mày tao thẳng thừng và nếu cần có thể đi đến thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Ngược lại, trong xã hội Bắc, thường là chồng đánh vợ, và người vợ luôn luôn nhịn nhục, trừ trường hợp hạn hữu trong một vài truyện ngắn của Tô Hoài, Nam Cao.
Hồ Biểu Chánh sáng tạo ra một thứ «tổ hợp đối lập» các giá trị, thiết lập quan hệ xung đột giữa những cặp phạm trù: giàu-nghèo, tốt-xấu, may-rủi, đẹp-xấu, v.v...
Tính bi kịch trong tiểu thuyết của ông luôn luôn mạnh mẽ, nhưng không bi thảm. Tinh thần tiểu thuyết của ông gắn liền với khát vọng thoát ly, phiêu lãng dưới đủ mọi hình thức, như Bạch Tuyết trong Ai làm được, Thủ Nghiã trong Chúa tàu Kim Quy, Lê Hiển Vinh và Đoàn Thu Vân trong Chút phận linh đinh, Tất Đắc trong Từ hôn... Những yếu tố đó nhắc nhở ta lý do tại sao Hồ Biểu Chánh viết tiểu thuyết, ông viết chỉ vì bị «kiểm duyệt gắt gao - nghĩ viết báo vô ích». Và điều đó cũng giải thích lý do: tại sao trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không có yếu tố thời sự hoặc chính trị như một số người đã đặt câu hỏi. Sự đàn áp tư tưởng dưới thời Pháp thuộc được Hồ Biểu Chánh thể hiện trong vô thức thoát ly, phiêu lưu của các nhân vật, và thường sau mỗi thoát ly, trở về, họ sống hạnh phúc trong cuộc đời còn lại.
Trái ngược với những nhân vật trong tiểu thuyết Bắc của Hoàng Ngọc Phách, Khái Hưng, Nhất Linh... những nhân vật đều muốn thoát ly nhưng không thể thoát ly được, những cố gắng của họ thường đưa đến cái chết hoặc án mạng. Điều này một phần do tính lạc quan của Hồ Biểu Chánh, nhưng cũng phản ảnh thực tại xã hội miền Bắc có quy định xã hội gò bó hơn xã hội trong Nam rất nhiều.
Về mặt ngôn ngữ tiểu thuyết, không những người đọc tìm thấy ở Hồ Biểu Chánh một thứ văn nói, khác hẳn văn viết theo khuynh hướng Bắc, mà ông còn là nhà văn tả chân đầu tiên của Việt Nam. Hãy xem ông tả một vài nhân vật, với một số ngôn từ hoàn toàn mới lạ đối với độc giả Bắc :
« Cách một hồi, Tú Phan trở ra mình mặc một cái áo tố xanh, bộng thêu chỉ bạc, lót lãnh màu hường, trong lại mặc thêm áo trắng dài, bâu ủi cứng mà nút lại cài chặt, nên cổ day qua day lại coi không được thong thả, quần nhiễu Bắc thảo mới may chưa mặc lần nào, mà bởi tại không ủi nên có mấy lằn ngang coi không được thẳng thắn. Giầy bót chinh vàng cũng còn mới chưa mang lần nào nên đi trên gạch bông muốn trợt lại kêu tiếng trèo treo. Khăn đen bịt thật khéo, song vì lớp nhiều quá nên chần vần một đống trên đầu coi không được thanh bai cho lắm» (Nhơn tình ấm lạnh, 1925, trang 20)
« Hội đồng Yên bịt khăn đen, mặc áo sa ten lót màu trứng diệt mặc quần Châu xá trắng, đi giày bót chinh đen đi trước, còn Thủ Thiệp mặc bộ đồ Tây nỉ xám mỏng, trong áo lá cũng nỉ xám, ngực lòi áo lót mồ hôi trắng có thêu bông nho nhỏ, bâu áo cứng mà lại láng ngời, cổ thắt nơ đen, đầu đội nón rơm, chân mang giày su-đê lòi vớ lụa mầu tím thủng thẳng đi theo sau » (Nhơn tình ấm lạnh, trang 22).
Tiên phong trong lối văn tả chân và làm hình nổi, trước Hồ Biểu Chánh chưa ai viết những câu như thế này:
«Thằng nhỏ vỗ trên lưng con chó vài cái rồi đi lại chỗ khạp nước để trước cửa đứng mà kêu heo: «Quắn, quắn ột! Quắn ột, ột, ột... Con heo núc ních đi lại, thằng nhỏ mới lấy gáo múc nước trong khạp xối mà kỳ rửa bùn đất sạch sẽ rồi lùa vô nhà». (Cay đắng mùi đời, 1923, trang 7)
Âm thanh của đồ vật và động tác của con chó, con heo, được đưa vào tiểu thuyết bằng những thanh trắc: "khạp, quắn, quắn ột, ột, ột, núc ních...", tạo ra một hoạt cảnh sinh động độc đáo, mà tiếng Việt miền Bắc không thể có. Vì vậy, các nhà văn Bắc khi di cư vào Nam năm 1954, đã học được ở tiếng Nam rất nhiều: Đó là kho tàng ngôn ngữ mà miền Lục Tỉnh chu cấp cho tiếng Việt, nhờ sự phối hợp tiếng Lạp với tiếng Việt, khi các chúa Nguyễn, kể từ Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) thu phục thủy Chân Lạp, mở vùng Gia Định và Nam Việt ngày nay.
Hồ Biểu Chánh phát huy lối văn nói thẳng, mà Trương Vĩnh Ký đã khai trương. Lối văn trực tiếp này biểu lộ tâm tình cởi mở, trực tính của người miền Nam, có gì thì nói phứt ra cho rồi. Lối trực văn này khác hẳn với lối văn gián tiếp, tức là gọt dũa, rất văn chương của người Bắc. Không phải Hồ Biểu Chánh không có khả năng viết văn «có văn». Nhưng ông giao hoà hai lối văn, khi trực tiếp, khi gián tiếp, nói cách khác, ông thường dùng lối bộc trực «không có văn» nhưng khi cần, ông vẫn có thể viết văn «có văn», nghiã là vừa bình dân vừa bác học, trong cùng một tác phẩm, đặc biệt trong các truyện dài phóng tác.
Mỗi tiểu thuyết gia có một nỗi ám ảnh lớn, từ đó khởi điểm nhân sinh quan của họ, xây dựng nên cái nhìn của họ trong tiểu thuyết. Nỗi ám ảnh lớn của Hồ Biểu Chánh về con người là Tiền. Tiền làm cho con người tha hoá. Tiền là đầu mối thương đau, là sự trầm luân của con người. Và cũng từ mối ám ảnh đó nhà văn phóng ra những hoạt cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX mà tiền như một phương tiện sống, và như một phương tiện khuynh đảo cuộc sống, cản lực của hạnh phúc, cản lực của nhân phẩm, cản lực của nghĩa tình.
Chủ đề chính trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh là sự hủy hoại nhân phẩm của đồng tiền. Tiểu thuyết Tiền bạc, bạc tiền là cao đỉnh. Tác phẩm mô tả cơ cấu tâm lý xã hội dựa trên sự hám danh, háo lợi mà gia đình Trần Bá Vạn vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm của mọi thủ đoạn tranh chức hội đồng Quản hạt. Những việc mua chức bán quan gả vợ gả chồng môn đăng hộ đối trong xã hội miền Nam hồi đầu thế kỷ XX được Hồ Biểu Chánh mổ xẻ, phô bày trong tiểu thuyết căn kẽ và đa diện.
Vì có một địa bàn sâu về các giai tầng xã hội và rộng về mặt địa lý vùng Lục Tỉnh Nam Kỳ, nên ông nắm rõ đời sống xã hội và tâm tình người Việt phương Nam. Cùng một cảnh xung đột mẹ chồng nàng dâu, nhưng lối xung đột trong Nam không giống lối xung đột mẹ chống nàng dâu ngoài Bắc. Vì người phụ nữ trong Nam, "Tây" hơn phụ nữ Bắc, được bình đẳng hơn người phụ nữ ngoài Bắc, ít phải sống chung với mẹ chồng hơn.
Tính chất di động trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không chỉ ngừng ở chừng mức tiếng động phát ra từ âm thanh ngôn ngữ miền Nam mà còn cả trong sự di động của mỗi nhân vật trong trong miền đất Lục Tỉnh. Điều này phát xuất từ việc miền Nam có một hệ thống giao thông, sông rạch, kinh ngòi, đường xá đặc biệt hơn miền Bắc, xã hội miền Nam chuyển mình nhanh hơn xã hội miền Bắc, tất cả tính chất động đó có thể thu gọn trong một câu văn:
« Bàn kia năm ba người ăn rồi, nên ngồi chơi, người hút thuốc, kẻ xỉa răng, nói chuyện om sòm, chửi thề vang rân, coi tự do mà lại tự đắc lắm. Phía trong có một tốp, chừng mười mấy người, dụm nhau lại trên một bộ ván nhỏ mà đánh bài cào, đàn ông có, đàn bà có, con trai có, lời qua tiếng lại, cãi cọ inh ỏi. Chị Năm Tiền đang xới nồi cơm, chị nghe rầy lộn thì day vô, tay cầm đũa bếp mà chỉ và nói rằng: «Nè, tôi lập quán đặng buôn bán, chớ không phải lập ra cho mấy người tựu bài bạc rồi rầy lộn đa. Cha chả ! Bộ đánh bài có mua thuế hay sao mà lên chữ dữ vậy hử! Dẹp đi, nếu cãi tôi, đố khỏi tôi kêu lính bắt hết cả đám cho mà coi» (Ông Cử, 1935, trang 11)
Cấu trúc tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nằm trong chữ "động", qua lối dàn cảnh: "Bàn kia, bàn này, chửi thề, vang rân, om sòm, kẻ xỉa răng, người hút thuốc, tốp này, tốp kia, lời qua, tiếng lại, dụm nhau, day vô, rầy lộn...", mỗi tiếng xướng lên là một cảnh có âm thanh, cử động và chuyển động. Đối thoại đốp chát, đi từ từng lớp bình dân đến trưởng giả. Mỗi gia đình, mỗi chân dung, mỗi hoàn cảnh, như thế hiện ra, sống động, khác thường.
Nếu hình ảnh xã hội miền Bắc nằm trong toàn bộ các tác giả Bắc qua nhiều thế hệ, từ Hoàng Ngọc Phách đến Tự Lực Văn Đoàn, từ Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, đến Nguyên Hồng, Nam Cao, vv.. thì có thể nói trong Nam, tất cả tình hình xã hội, đẳng cấp, giàu nghèo, thành thị, thôn quê đều nằm trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh, qua 64 cuốn tiểu thuyết.
Một nhà văn có thể thay mặt cho cả dòng văn học, tất nhiên có tầm vóc lớn. Chính cái giá trị lớn lao đó, đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu tới tận ngọn nguồn.
Trong buổi bình minh của tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã dùng ngòi bút để răn đời theo truyền thống Khổng Mạnh, tính cách "giáo hoá" ấy có thể coi là một nhược điểm.
Hồ Biểu Chánh và Hector Malot
Ngoài việc tiên phong trong nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, Hồ Biểu Chánh còn Việt hoá một số tiểu thuyết nổi tiếng của Pháp. Ba tác phẩm Sans Famille (Vô gia đình) của Hector Malot, le Comte de Monte-Cristo (Bá tước Monte-Cristo) của Alexandre Dumas, và Les Misérables (Những kẻ khốn cùng) của Victor Hugo, dưới ngòi bút Hồ Biểu Chánh trở thành Cay đắng mùi đời, Chúa tàu Kim Quy, và Ngọn cỏ gió đùa, đã hoàn toàn «nhập tịch» Việt Nam. Cách phóng tác của Hổ Biểu Chánh là một trường hợp độc đáo trong tinh thần giao lưu văn hoá Pháp Việt.
Khi viết lại truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, từ văn xuôi sang văn vần, Nguyễn Du giữ nguyên bối cảnh nước Tàu những năm Minh Gia Tĩnh. Hồ Biểu Chánh khi viết lại truyện của Malot, Dumas, Hugo, đã nhấc cả bối cảnh lẫn nhân vật tiểu thuyết Pháp vào thế giới ngôn ngữ, triết lý và địa lý vùng Lục Tỉnh Nam Kỳ, khiến những phóng tác của ông không còn chút gì dây dưa với nguyên bản nữa, ông đã tạo ra một hình thức liên văn bản cắt nguồn, khác hẳn với những liên văn bản tiếp nguồn như chúng ta thường thấy trong văn học.
Hồ Hữu Tường viết về kinh nghiệm đọc những phóng tác của Hồ Biểu Chánh, như sau :
«Từ ấy, tôi có ý tìm những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh để mà đọc. Nào là Nhơn tình ấm lạnh, Ngọn cỏ gió đùa, Chúa tàu Kim Quy v.v... Tôi đọc chúng nó trước khi biết đọc tiểu thuyết Pháp. Tôi tin đó là những tiểu thuyết, mà chính Hồ Biểu Chánh đặt ra, tạo cốt chuyện, tạo nhân vật và lồng vào khung cảnh hoàn toàn Việt Nam (...) Đến chừng đọc được tiểu thuyết Pháp nào là của Victor Hugo, của Balzac, của Zola, Hector Malot, André Theuriet... thì tôi lại tỉnh mộng lần thứ hai. Té ra những đề tài của các tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chỉ là những đề tài của các tiểu thuyết trứ danh nước Pháp, mà Hồ Biểu Chánh đã đọc rồi. Không phải Hồ Biểu Chánh dịch thuật mà Hồ Biểu Chánh lại phóng tác (...) Mặc dù lúc ấy mình biết rằng những nguyên tác của (...) hay hơn những bản dịch của Hồ Biểu Chánh, những phóng tác của Hồ Biểu Chánh. Nhưng mà đọc những nguyên tác kia, tôi không có thú vị bằng đọc Hồ biểu Chánh » (Hồ Hữu Tường, Nhập mộng và tỉnh mộng, Văn số 80, tưởng niệm Hồ Biểu Chánh, Sài Gòn 1967, trang 32).
Nhận xét «nguyên tác hay hơn phóng tác» của Hồ Hữu Tường, chưa chắc đã đúng, vì ngay sau đó ông thêm vào "Nhưng mà đọc những nguyên tác kia, tôi không có thú vị bằng đọc Hồ Biểu Chánh". Là người học tiếng Pháp từ nhỏ, nói tiếng Pháp như "Tây", mà Hồ lại cảm thấy đọc tiếng Pháp không "thú" bằng đọc tiếng Việt, cả Nguyễn Văn Trung cũng nghĩ thế. Tại sao vậy ? Và không chỉ một mình Hồ Hữu Tường hay Nguyễn Văn Trung, có cảm tưởng ấy, mà bất cứ người Việt nào đọc cả nguyên bản tiếng Pháp lẫn phóng tác tiếng Việt của Hồ Biểu Chánh, đều cảm thấy như vậy, mới kỳ.
Muốn hiểu rõ sự kỳ lạ này, ta nên "điều tra" xem Hồ Biểu Chánh đã phóng tác như thế nào? Và ông đã phóng tác bao nhiêu cuốn tiểu thuyết? Số lượng này, được ông ghi rõ trong hồi ức «Đời của tôi về văn nghệ» như sau:
« Tôi biên dưới đây mấy bộ tiểu thuyết tôi đã viết ra bởi cảm tác phẩm nào của Pháp :
Chúa tàu Kim Quy bởi cảm Le Comte de Monte Cristo (Alexandre Dumas)
Cay đắng mùi đời - Sans famille (Hector Malot)
Chút phận linh đinh - En famille (Hector Malot)
Thày thông ngôn - Les Amours d’Estève (André Theuriet)
Ngọn cỏ gió đùa - Les misérables (Victor Hugo)
Kẻ làm người chịu – Les deux gosses (Pierre Decourselle)
Vì nghiã vì tình - Fanfanet Claudinet (P. Decourselle)
Cha con nghĩa nặng - Le calvaire (P. Decourselle)
Ở theo thời - Topaze (Marcel Pagnol)
Ông Cử - L’Aristo
Đoá hoa tàn – Le Rosaire
Người thất chí – Crime et Châtiment »
(Hồi ức Đời của tôi về văn nghệ, bản đánh máy)
Theo sự kê khai trên đây, thì trong toàn bộ 64 cuốn tiểu thuyết của ông, có 11 cuốn cảm tác theo tiểu thuyết Pháp, một cuốn theo tiểu thuyết Nga.
Về cách cảm tác như thế nào, Hồ Biểu Chánh cho biết thêm: «Đọc tiểu thuyết hay tuồng hát Pháp văn mà tôi cảm thì tôi lấy chỗ cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít nhiều hoặc lấy đó mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Tuy tôi nói phỏng theo kỳ thiệt chỉ lấy đại ý mà thôi, mà có khi tôi còn lật ngược tới đại ý, làm cho cốt truyện trái hẳn tâm lý, khác xa với truyện Pháp» (Hồi ức Đời của tôi về văn nghệ).
Lối « cảm tác» của Hồ Biểu Chánh là như thế.
Tiểu thuyết Sans Famille của Hector Malot viết năm 1878, được Hồ Biểu Chánh cảm tác thành Cay đắng mùi đời năm 1923. Cốt truyện Vô gia đình như sau: Rémy, một cậu bé con nhà giàu, bị người chú lập tâm bắt cóc ngay từ lúc mới năm, sáu tháng, rồi bỏ nơi công cộng cho ai bắt được thì đem về nuôi; hy vọng người anh bị mất con, thì gia tài của anh sẽ về hết phần mình. Rémy được Barberin, một người thợ đẽo đá đi qua nhặt được đem về nuôi, thầm nghĩ cha mẹ đứa bé giàu sẽ đem tiền chuộc lại. Nhưng nhiều năm sau không thấy ai chuộc và bản thân Barberin vì tai nạn nghề nghiệp, cũng rơi vào cảnh khốn cùng. Hắn bán Rémy cho một người hát rong, mặc sự phản đối của người vợ đã gắn bó yêu thương thằng nhỏ như con ruột. Từ đó Rémy sống đời giang hồ lưu lạc, nhiều năm sau mới tìm lại được mẹ đẻ.
Hồ Biểu Chánh mượn cốt truyện ấy để viết Cay đắng mùi đời, nhưng ông đem tác phẩm vào xã hội Việt Nam, vùng lục tỉnh Nam Kỳ, nhưng và ông thể hiện một văn phong, một nghệ thuật viết khác hẳn nguyên bản. Lối cảm tác của Hồ Biểu Chánh không giống cách Nguyễn Du cảm tác truyện Kiều. Nguyễn Du theo sát nguyên bản, từ cốt truyện đến chi tiết, đối thoại. Hồ Biểu Chánh, chỉ giữ lại sườn truyện, giữ lại những chi tiết chính và một số nhân vật, ông đổi hoàn cảnh sống, xoá hẳn bối cảnh tâm lý xã hội Pháp, biến tất cả thành thuần Việt. Nói khác đi ông đã Việt hoá tác phẩm của Hector Malot, khiến nó không còn một chút gì dính líu đến văn hoá, xã hội Pháp nữa. Vậy có thể nói, Nguyễn Du và Hồ Biểu Chánh cùng có mục đích Việt hoá một tác phẩm ngoại quốc nhưng đi bằng hai con đường khác nhau. Và chính việc Hồ đem bối cảnh tiểu thuyết nhập vào xã hội Việt Nam đã là một thủ pháp "quyến rũ" độc giả Việt, làm cho họ đọc mà thấy "thích". Nguyễn Du không cần đem truyện Kiều vào đất Việt, vì người Việt quá quen với truyện Tầu, mê Tam Quốc Chí, mê Kim Dung hơn đọc truyện Việt Nam. Đó là điểm thứ nhất, về mặt tâm lý, để chinh phục độc giả. Nhưng nếu chỉ có thế, tác phẩm vẫn chưa đi xa được.
Tác phẩm của Hector Malot là một mélodrame, một thảm kịch lãng mạn với bút pháp nhẹ nhàng, giọng văn thơ mộng, thành thực. Hector Malot kể chuyện ở ngôi thứ nhất, trong không khí tự truyện, nhập đề bằng giọng của Rémy nói về người mẹ nuôi, tức là Mẹ Barberin:
« Tôi là đứa bé rơi người ta nhặt được đem về.
Nhưng mãi đến tám tuổi, tôi vẫn tưởng là mình có mẹ như những đứa trẻ khác. Mỗi khi tôi khóc, một người đàn bà dịu dàng ôm tôi vào lòng, ru cho tôi nín.
« Chẳng bao giờ tôi đi ngủ mà người không đến hôn tôi, và khi gió đông gián tuyết vào khung kính trắng xóa, người vừa ủ chân tôi vào lòng bàn tay của người vừa hát những lời ru mà ngày nay tôi còn nhớ một vài âm điệu.
Khi tôi chăn bò theo dọc bờ bụi hay trên những bãi hoang, bất chợt gặp cơn dông, người tất tưởi chạy đến tay cầm sẵn cái váy len trùm kín đầu và vai tôi.
Khi tôi cãi nhau với bạn, người bảo tôi kể lại đầu đuôi và luôn luôn tìm lời ăn ủi hoặc bảo rằng tôi có lý.»
(trích dịch Sans Famille của Hector Malot, Collection folio junior, trang 11)
Hồ Biểu Chánh dựng truyện trên ngôi thứ ba, không khí hư cấu. Vẫn người đàn bà ấy, mẹ Barberin, dưới ngòi bút của Hồ Biểu Chánh có tên Ba Thời, hiện ra trong bối cảnh hoàn toàn khác, với những nét như sau:
«Con chó vàng thình lình trong nhà vụt chạy thẳng ra sân, thằng nhỏ ngó theo thì thấy ngoài bờ có một người đàn bà xăm xăm đi vô, nó liền la lớn «má về» rồi buông gáo chạy ra nắm tay mừng rỡ mà dắt vô. Người đàn bà nầy trạc chừng ba mươi bốn tuổi, áo xăn ngang, ống quần vo tới đầu gối, nước da không đen không trắng, mặt tròn, chơn mày rặm, mình mẩy ướt loi ngoi, sau lưng có giắt một cây nọc cấy, trên đầu bịt trùm khăn vải trắng, ngoài đội thêm một cái nón lá dừa, đi vô vừa tới sân, mắt liếc ngó chuồng vịt rồi hỏi thằng nhỏ:
-Con cho heo ăn rồi hay chưa vậy con ?
- Chưa má à! Tôi mới tắm rồi đuổi vô nhà đó đa.
-Vịt về đủ hay không con?
- Tôi nhốt mà quên đếm
(Cay đắng mùi đời, nxb Văn nghệ TPHCM in lại năm 1997, trang .
Hồ Biểu Chánh (1885-1958)
Thuykhue.free
Nhà văn khai sáng nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam
Tiểu sử
Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, sinh ngày 1/10/1885 tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công và mất ngày 4/9/1958 tại Phú Nhuận (Sài Gòn). Từ 8 đến 12 tuổi học nhữ nho, 13 tuổi học trường tiểu học (Pháp-Việt) tổng Vĩnh Lợi, rồi lên trường tỉnh Gò Công, tiếp đến trường trung học Mỹ Tho (1902-1903), rồi lên Sài Gòn học trường Pháp Chasseloup-Laubat (1904-1905). Năm 1905 đậu bằng thành chung. 1921, đậu Tri huyện. 1927 lên Tri phủ. 1936 thăng Đốc Phủ sứ. 1941 đắc cử Nghị viên thành phố Sàigòn. 1946 làm cố vấn cho bác sĩ Nguyễn Văn Thinh lập chính phủ Nam Kỳ tự trị...
Bắt đầu nghề văn từ 1906, bằng cách học thêm chữ nho để dịch truyện Tầu in báo. Năm 1910, in U tình lục, văn xuôi, phóng tác đầu tiên, từ truyện Tầu. 1912 xuống làm việc ở Cà Mau, viết Ai làm được, tiểu thuyết hư cấu đầu tiên. 1913, đổi lên Long Xuyên, viết cuốn tiểu thuyết thứ nhì Chúa tầu Kim Quy, phỏng theo Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas. Trong thế giới đại chiến thứ nhất (1914-1918) mọi việc đình trệ, hai tác phẩm đều nằm đợi. 1917, ông làm "Đại Việt tạp chí" ở Long Xuyên. Rồi 1918, ông trở lại Gia Định (Sài Gòn) viết cho các báo Quốc Dân Diễn Đàn, Nông Cổ Mín Đàm, Công Luận Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo. Từ 1922, báo chí bị chính quyền thuộc địa kiểm duyệt gắt gao, ông nghỉ làm báo, sửa chữa và cho in hai tập tiểu thuyết viết năm 1912-13 và viết thêm 8 cuốn mới. Tới 1932, Hồ Biểu Chánh đã in được 18 tiểu thuyết.
Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, Hồ Biểu Chánh đã để lại 64 cuốn tiểu thuyết, 23 cuốn nghiên cứu văn học, 13 tuồng hát, 7 đoản thiên, 3 truyện ngắn, 2 truyện dịch, 2 tác phẩm văn vần, 5 tập tuỳ bút phê bình, 6 ký ức và 8 bài diễn văn. Một di sản văn hóa đồ sộ mà cho đến nay, dường như chưa có công trình khoa học nào thực sự nghiên cứu toàn bộ. Chính văn chương Hồ Biểu Chánh cũng còn xa lạ với số đông người đọc, nhất là độc giả miền Bắc.
*
Cho đến gần đây, phần đông giới làm văn học vẫn còn coi Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Sai lầm này phát xuất từ những nhà nghiên cứu văn học thời trước, phần lớn gốc Bắc, từ Dương Quảng Hàm, đến Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh... khi nghiên cứu văn học thế kỷ XX, đã quá nghiêng về miền Bắc, mà không chú trọng đến miền Nam, nơi khởi thủy của nền văn học quốc ngữ.
Nguyễn Văn Trung là người đầu tiên đã nghiên cứu lại một cách hệ thống nền văn học quốc ngữ khởi thuỷ từ Nam Kỳ trong bộ sách đồ sộ Lục châu học, mà bản đánh máy, lưu hành trong giới nghiên cứu trong nước từ 1988, đã được nhiều người sử dụng nhưng không đề rõ xuất xứ. Văn bản này đã được đưa lên mạng nguyenvantrung.free.fr để rộng đường tra cứu.
Nguyễn Văn Trung đặt lại vai trò chủ yếu của vùng Lục Châu, tức Nam Kỳ Lục Tỉnh trong sự khai phá và phát triển nền văn học quốc ngữ.
Thực vậy, miền Nam là nơi phát xuất những cuốn từ điển đầu tiên của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của; miền Nam là nơi phát xuất tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên Thày Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, viết năm 1887; miền Nam cũng là nơi mà những tờ báo quốc ngữ đầu tiên ra đời, như Gia Định Báo, 1882; Nam Kỳ Nhật Trình, 1897; Nông Cổ Mín Đàm, 1901; Lục Tỉnh Tân Văn, 1907.
Và hôm nay, chúng tôi muốn chứng minh rằng cũng tại miền Nam, xuất hiện tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam: nhà văn Hồ Biểu Chánh.
*
Để giới thiệu tác giả, không gì bằng chính lời tác giả. Trong tập ký ức, viết ngày 24/12/1957, tại Phú Nhuận, bản đánh máy, nhan đề « Đời của tôi về văn nghệ», Hồ Biểu Chánh đã viết về «lúc thiếu niên» của mình như sau:
« Sanh ngày 1 tháng 10 dương lịch năm 1885 tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo, nhưng nội tổ hồi trước đứng lập làng nên có bản vị Tiền hiền thờ trong đình Thần và thân phụ được tham dự trong ban Hội Tề Hương Chánh, lần lên tới chức Hương Chủ và Chánh Bái.
Từ 8 đến 12 tuổi, học nhấp nhem chữ Nho với thầy giáo dậy trong làng. Đến 13 tuổi, nhờ cha mẹ dời về ở chợ Giòng Ông Huê, mới bắt đầu học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi xuống trường tỉnh Gò Công học tiếp 3 năm thi đậu học bổng. Được vào trường trung học Mỹ Tho học 2 năm (1902 và 1903) rồi được lên trường trung học Chasseloup-Laubat ở Sàigòn học thêm 2 năm nữa. Cuối năm 1905 thi đậu bằng Thành Chung gọi là Diplome de fin d’Etudes».
Vẫn giọng văn ấy, Hồ Biểu Chánh kể tiếp về cuộc đời công chức, quan trường của mình: cuối năm 1921, thi đậu Tri huyện. 1927 thăng Tri phủ. 1936 làm Đốc Phủ sứ. 1941 làm Nghị viên thành phố Sàigòn. Năm 1946 làm cố vấn cho bác sĩ Nguyễn Văn Thinh lập chính phủ Nam Kỳ tự trị ... Tất cả mọi việc xẩy ra qua giọng tự thuật thung dung và bình thản, về đời quan cũng như đời văn. Nhưng đáng chú ý nhất là đoạn nói đến động cơ thúc đẩy ông bước vào nghiệp cầm bút:
«Năm 1906 ra khỏi nhà trường, nhận thấy các ấn quán ở Sàigòn mướn người dịch truyện Tàu và thơ chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ đặng in mà bán. Từ thành thị ra thôn quê, nhơn dân đua nhau mà đọc. Có vài tờ tuần báo cũng được người ta chú ý.
Thầm nghĩ, người mình mà biết chuyện bên Tàu không bổ ích cho bằng biết truyện trong nước mình. Tính viết chuyện văn vắn cho đăng vào mấy tờ tuần báo để đồng bào đọc thử. Viết khó khăn hết sức, vì thiếu nho học nên không tìm ra lời mà tả trí ý cho người ta thông cảm được. Phải học chữ Nho. Trót ba năm, nhờ vài ông bạn lớn tuổi ban đêm làm ơn dạy giùm cho đọc được sách Tàu.
Năm 1910, lựa những chuyện hay trong Tình Sử và Kim Cổ Kỳ Quan dịch ra Quốc văn nhan đề «Tân soạn cổ tích» đặng tập viết cho suông. Cũng viết theo thể văn «Thượng lục hạ bát» thành một chuyện dài nhan đề «U tình lục», chuyện tình của người trong nước mình. Hai quyển nầy được mấy bạn hùn tiền in thử thì không ai chê.
Lúc đó cụ Trần Chánh Chiếu cho xuất bản quyển «Hoàng Tố Oanh hàm oan» là tiểu thuyết đầu tiên trong Lục tỉnh, truyện tình tả nhơn vật trong xứ và viết theo điệu văn xuôi. Đọc quyển nầy, cảm thấy viết truyện dùng văn xuôi dễ cảm hoá người đọc hơn, bởi vậy năm 1912, đổi xuống làm việc tại Cà Mau mới viết thử quyển «Ai làm được » là quyển thứ nhứt viết văn xuôi tại Cà Mau với nhơn vật cũng ở Cà Mau».
Như vậy, Hồ Biểu Chánh đã tập viết văn từ năm 1906, bước vào nghiệp văn từ năm 1910, và động cơ chính thúc đẩy ông viết là vì ông muốn cho «người mình đọc chuyện xẩy ra ở nước mình bằng chữ nước mình» và chọn văn xuôi vì thấy «văn xuôi dễ cảm hoá người đọc hơn văn vần». Vì thế, dân tộc và bình dân là hai yếu tố cơ bản xây dựng nên tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Và cũng chính với hai yếu tố này, ông đã «đánh đổ» được lối viết tiểu thuyết chương hồi theo lối Tàu đang thịnh hành và «đánh bại» được lối văn biền ngẫu, réo rắt, vế đối vế, vần đối vần, trong những truyện quốc ngữ thời ấy.
Để thấy rõ cái mới trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chỉ cần so sánh văn phong của ông với văn phong những người cùng thời :
Nguyễn Chánh Sắt, trong tiểu thuyết Nghiã hiệp kỳ duyên, tức Chăng Cà Mun, in năm 1919, viết :
«Lần hồi ngày lụn tháng qua, bóng thiều quang đưa rất lẹ; thoắt chút mà Phi Đáng đã 18 tuổi đầu, hình dung yểu điệu, cốt cách phương phi, bá mị thiên kiều, ngư trầm lạc nhạn. Mà ba mươi đời cái kiếp hồng nhan bạc mạng là lẽ tự nhiên ». (Nghiã hiệp kỳ duyên, Long An tái bản, trang 10).
Hoàng Ngọc Phách, trong tiểu thuyết Tố Tâm, viết 1922, in 1925, viết :
« Thôi, hôm nay là ngày từ biệt của ngòi bút chung tình này, từ đây sẽ vắng tanh tin nhạn, bao nhiêu chuyện tình xưa nghiã cũ, sẽ theo mây bay gió thổi mà mơ màng như giấc chiêm bao. Những khi canh tà giăng xế, khi mưa sa trước cửa, khi gió thổi bên màn, khi em soi gương thấy bóng... » (Tố Tâm, Đại Nam in lại ở Mỹ, trang 79).
Nhất Linh, trong tiểu thuyết Nho Phong, in 1926, cũng không thoát được lối văn cổ: “Lê Nương năm ấy tuổi mới trăng tròn” hoặc “Nhưng bóng hoa thấp thoáng, dáng liễu thanh tân, làm cho chàng cũng phải nhiều phen man mác trong lòng” (trích theo Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, Đại Nam in lại, trang 900).
Tân Dân Tử, trong tiểu thuyết Gia Long Tẩu Quốc, in năm 1929, viết :
« Đức Nguyễn Ánh lạc bước phong trần.
Nơi Phật tự gặp người phò tá.
Đất Việt Ba Kỳ, trời Nam một góc, tang thương mấy độ, cuộc hưng vong dường thể chiêm bao; sự tích ngày xưa, gương trị loạn còn ghi lịch sử» (Gia Long tẩu quốc, Bảo Tồn tái bản lần thứ 6, 1950, trang 1).
Văn tiểu thuyết đầu thế kỷ XX của chúng ta phần đông là như thế, trừ một vài trường hợp như Phạm Duy Tốn trong Sống chết mặc bay (1918) và Nguyễn Trọng Thuật trong Quả dưa đỏ (1925, phóng tác theo truyện An Tiêm trong Lĩnh Nam trích quái), tương đối thoát khỏi lối văn biền ngẫu kể trên. Xin nhắc lại, về truyện ngắn thì Trương Vĩnh Ký đi trước Phạm Duy Tốn; còn Nguyễn Trọng Thuật viết truyện thần kỳ, chưa phải là tiểu thuyết hiện đại theo đúng nghĩa hư cấu.
Tóm lại, trong bối cảnh văn tiểu thuyết từ Bắc xuống Nam đều viết một giọng như thế, thì Hồ Biểu Chánh viết như thế nào?
Trong Ai làm được, tác phẩm đầu tiên viết năm 1912, Hồ Biểu Chánh viết:
« Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi, ngó quanh quất không thấy khách ăn uống, duy có một người trai trạc chừng mười bẩy, mười tám tuổi, đương ngồi tại bàn gần cửa mà viết. Ông thấy người miệng rộng, môi dày, vai ngang, trán trợt, tóc hớt cụt, mắt rạng ngời, tư cách nghiêm trang, mặt mày sáng rỡ, tuy y phục tầm thường mà hình dung không phải như người thường, bởi vậy ông cứ ngồi ngó hoài». (Ai làm được, nxb Tổng hợp Tiền Giang, tái bản 1988, trang 3).
Và trong «Cay đắng mùi đời» cảm tác từ cốt truyện Sans Famille (Vô gia đình) của Hector Malot, in tại Sàigòn năm 1923, Hồ Biểu Chánh vào truyện như sau :
«Ai đi đường Chợ Lớn xuống Gò Công, hễ qua đò Bao Ngược rồi lên xe chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi, tới khúc quanh, thì sẽ thấy bên phía tay trái, cách lộ chừng ít trăm thước, có một xóm đông, kêu là Xóm Tre, nhà ở chật, cái trở cửa lên, cái day cửa xuống, tre xanh kịt bao trùm kín mít, ngoài vuông tre thì ruộng bằng trang sấp liền từ giây. Qua mùa mưa cây đượm màu, ruộng nổi nước, thì trông ra chẳng khác nào cù lao nằm giữa sông lớn (...)
Dưới sông Bao Ngược ghe chài chở lúa trương buồm rồi thả trôi theo dòng nước, chiếc nào chở cũng khẳm lừ. Trên lộ Cây Dương xe ngựa đưa người núc ních chạy chậm xì, tiếng lục lạc nhỏ khua xa xa nghe như tiếng nhái.» (Cay đắng mùi đời, nxb Văn nghệ TP HCM 1997, trang 5-6).
Chẳng cần biết khái niệm hiện đại là gì, chỉ đọc văn Hồ Biểu Chánh và so sánh với văn của những người cùng thời, cũng thấy ngay cái mới, cái táo bạo của ông lúc bấy giờ. Và lại càng hiểu rõ tại sao những truyện của Nguyễn Chánh Sắt, Hoàng Ngọc Phách, Tân Dân Tử... dù là những tác phẩm hay, đã từng nổi tiếng một thời, nhưng ngày nay đọc lại, ta thấy chúng cũ đi nhiều, trong khi truyện của Hồ Biểu Chánh, không một vết nhăn. Bởi tác phẩm của Hồ có tính hiện đại : nghiã là không bị lỗi thời, vì nó có đủ hai yếu tố: lịch đại và đồng đại tức là khả năng « vượt thời gian », đọc lúc nào cũng hợp, vừa mang tính chất thời đại ra đời lại vừa theo kịp thời sau mà không bị sa thải.
Sở dĩ như vậy vì Hồ Biểu Chánh đi sát với tiếng nói hơn là văn viết, và khi cần viết văn, ông viết giản dị mà không «làm văn». Vì thế, văn ông không phụ thuộc vào cái style, tức bút pháp thời thượng lúc bấy giờ, mà sự réo rắt, đối ngẫu, lãng mạn, đang độ cao trào.
So sánh như thế chúng ta mới hiểu thái độ của những người như Thiếu Sơn, Trúc Hà, Đông Hồ, đã «loại» Hồ Biểu Chánh ra khỏi thế giới «văn chương» của những người đương thời. Vì họ cho rằng Hồ Biểu Chánh «không có văn». Đông Hồ ghi lại: «Đọc thì cũng đọc, thích thì cũng thích, duy chúng tôi cứ không chịu được lời văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt của ông» tuy ngay sau đó Đông Hồ cũng nhận là «quan niệm của tôi sai lầm và cảm quan của tôi lệch lạc». Biết vậy, nhưng ông không sửa được cái «cảm quan» của mình, cái cảm quan của những nhà văn ngôn không ưa lối văn bạch thoại, như ông tự lấy mình và Hồ Biểu Chánh làm ví dụ. Độc giả ngày nay có thể vẫn thích đọc Hồ Biểu Chánh, nhưng lối văn chải chuốt của Đông Hồ không còn cám dỗ được ta nữa.
Và sau cùng là nhận định sai lầm của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan khi ông đánh đồng tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh với Tố Tâm và Nho Phong: « Quyển Nho Phong của Nguyễn Tường Tam chỉ đáng kể là một truyện bằng chứng cho lối tiểu thuyết nước ta trong thời kỳ phôi thai như quyển Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách hay những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh» (Nhà văn hiện đại, trang 901).
Sau này, nhà nghiên cứu Huỳnh Lý, với tấm lòng của ông đối với Hồ Biểu Chánh và văn chương Nam Bộ, đã có lời khen: «Truyện Tiền bạc bạc tiền của ông có thể xếp ngang với những tác phẩm có giá trị nhất của chủ nghiã hiện thực sau này». Đúng là một lời khen ngược : Không ai khen ông tổ khai sáng một ngành đã làm được như con cháu sau này!
Lối phát ngôn ấy vô tình hay hữu ý đã hạ thấp giá trị những đóng góp văn học của miền Lục Châu nói chung và của Hồ Biểu Chánh nói riêng, do thành kiến, do sự thiếu cập nhật kiến thức văn học hoặc vì những lý do khác.
Nhưng không phải tất cả mọi người đều sai lầm, Hồ Hữu Tường, ngược lại, mê văn Hồ Biểu Chánh, ông nhận rằng Hồ Biểu Chánh đã cho ông «nhập mộng rồi tỉnh mộng».
Tại sao như thế? Tại vì Hồ Biểu Chánh là người đầu tiên đã đưa yếu tố hư cấu (fiction) vào văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, một cách toàn diện và thành công.
Trước Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết của chúng ta thường viết truyện theo lối Tàu: nghiã là kể truyện lịch sử, hoặc viết lại những tích rút trong lịch sử, thần thoại, hoặc dựa theo một chuyện đã có thật, rồi thêm thắt chi tiết vào.
Nguyễn Trọng Quản được coi là người sớm nhất, đã đem tiểu thuyết viết theo lối Tây phương vào Việt Nam, năm 1887, với truyện Thày Lazaro Phiền. Nhưng truyện của Nguyễn Trọng Quản, cũng như truyện Tố Tâm (1922) sau này của Hoàng Ngọc Phách, vẫn còn viết theo lối ký thác, tác giả thuật một truyện ở ngôi thứ nhất (truyện của mình hay truyện do người khác kể lại) chứ tác giả không hư cấu, không tưởng tượng ra.
Hồ Biểu Chánh là người đầu tiên đã xây dựng nên toàn bộ hệ thống tiểu thuyết hư cấu, hiện thực trong tiếng Việt. Ông đã tạo ra một thế giới nhân vật tưởng tượng y như thật, trong đời sống, khiến Hồ Hữu Tường, thủa trẻ, khi đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, đã nhập vào thế giới hư cấu ấy, mà ông gọi là «nhập mộng» và khi đọc xong, ông « tỉnh mộng », bởi vì ông ra khỏi thế giới hư cấu của tiểu thuyết; ông viết về cuốn Tỉnh mộng của Hồ Biểu Chánh như sau:
«... Như vậy thì không thể nào ở trong cảnh thực mà có, chỉ ở trong mộng mà thôi. Nhưng tác giả viết rất tự nhiên, nên đọc tiểu thuyết, tôi sống mãi ở trong một cảnh mộng. Đến chừng xem đầu đề tiểu thuyết, tôi thấy đầu đề đó là Tỉnh mộng. Tới chừng đó tôi hay rằng câu chuyện mà Hồ Biểu Chánh đã thuật lại, đã tạo cho tôi một cảnh mộng. Tôi ở trong cảnh mộng. Rồi bây giờ tôi thấy nó là tiểu thuyết. Đây tôi mới là người tỉnh mộng. Chớ tôi không hiểu những nhân vật tỉnh mộng đó là ai nữa.
Từ ấy, tôi mới có một quan niệm rõ rệt về tiểu thuyết. Té ra một tiểu thuyết hay là một tiểu thuyết tạo cho độc giả một cảnh mộng mà độc giả say mê đi vào cảnh mộng ấy, như vào cảnh thật vậy. Đến chừng đọc xong rồi, thì xếp sách nhìn lại nhan đề, mới hay là mình đã mộng. Như vậy, tôi có thể nói rằng vị giáo sư đầu tiên dạy cho tôi văn chương, dạy bản sắc của văn chương, dạy lý thuyết về văn chương, ấy là Hồ Biểu Chánh. Một tiểu thuyết, với nhan đề của nó, làm cho tôi hiểu rõ định nghiã của tiểu thuyết là gì? Những tiếng của Pháp như là Roman, của Anh Novel, Tàu là tiểu thuyết, đều không làm sao giúp tôi hiểu định nghĩa rõ rệt của loại mà trong văn chương gọi là tiểu thuyết cả » (Hồ Hữu Tường, Nhập mộng và tỉnh mộng, Văn số 80, tưởng niệm Hồ Biểu Chánh, 15/4/1967, trang 34).
Không chỉ có Hồ Hữu Tường, thuộc lớp trước mà Dương Nghiễm Mậu, nhà văn lớp sau và rất mới, cũng nhìn thấy ở Hồ Biểu Chánh một bậc thày khai phá, mở cửa cho ông vào thế giới tiểu thuyết, vào miền Nam, quê hương thứ hai của ông, Dương Nghiễm Mậu viết:
« Tôi đã đọc tiểu thuyết của ông cách đây mười mấy năm trời, khi còn theo học những lớp đầu tiên bậc trung học ở Hà Nội (...) Rồi trong nhiều hoàn cảnh khác, tôi lần lượt đọc những tiểu thuyết của ông. Sau này, có một thời gian tôi đã dành thì giờ để đọc lại những gì đã đọc, đọc những gì chưa đọc với mục đích tìm hiểu, những khởi đầu của nền văn học ta, tìm hiểu những đặc tính miền Nam, quê hương thứ hai tôi yêu dấu. Quê hương miền Nam, con người, văn chương mở ra cho tôi những bàng hoàng không ít. Cuộc sống nơi những vùng sình lầy hoang vu, trong kinh rạch quyến rũ tôi, tôi không bỏ một cơ hội nào để tới những nơi đó. (...)
Cũng vì thế bài viết (này) như một nhớ ơn, nhớ ơn những người đã để lại cho chúng ta những di sản lớn...» (Dương Nghiễm Mậu, Từ đó đến nay, Văn số 80, trang 57).
Những lời trên đây của hai nhà văn Hồ Hữu Tường và Dương Nghiễm Mậu đã xoá được gần một thế kỷ thành kiến và đánh giá sai lầm về Hồ Biểu Chánh.
Hồ Biểu Chánh còn đi tiên phong như một tiểu thuyết gia nhà nghề. Chữ nhà nghề dùng ở đây không có nghiã là viết văn để kiếm tiền sinh sống, mà ông đã coi viết văn như một chuyên môn. Ông bước vào nghiệp văn năm 1906 cùng lúc với nghề công chức, như một phương tiện sinh sống và ông đã ở với văn chương đến hơi thở cuối cùng.
Hồ Văn Kỳ Trân, người con trưởng của ông kể lại :
« Bệnh đã càng ngày càng thêm mà ba tôi không chịu nghỉ viết. Thầy thuốc cấm. Ba tôi vẫn viết. Con cháu năn nỉ lắm thì ba tôi chỉ nghỉ vài ngày rồi viết nữa và bảo rằng :« Ba còn viết được thì cứ để cho ba viết. Ba không viết được thì lòng thấy bứt rứt, người thấy khó chịu hơn. Có viết được lòng mới thấy yên ổn, người mới thấy thư thả dễ chịu. Viết là một phương thuốc, là một cách trị bịnh cho ba đó» (....)
Cách đó ít bữa thì ba tôi từ trần. Trên bàn viết còn để lại bản thảo một tác phẩm viết dở»
Đọc những lời trên đây, chúng ta không khỏi ngậm ngùi và kính trọng. Bởi trước Hồ Biểu Chánh, chúng ta chỉ có những nhà nho tài tử. Truyền thống văn học của chúng ta là tài tử. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đến Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu... nhà văn nhà thơ ở nước ta chưa mấy ai coi văn chương, hơn là một nghề, mà còn là mạch sống, là phương thuốc trị bệnh của con người như Hồ Biểu Chánh.
Ai làm được, tiểu thuyết hiện thực đầu tiên của Việt Nam
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Hồ Biểu Chánh nhan đề Ai làm được viết năm 1912 tại Cà Mau, nhưng mãi đến 1922, mới được ông sửa lại và in tại Sàigòn.
Về bước đầu này, ông kể lại như sau: « Đổi xuống làm việc tại Cà Mau, mới thử viết quyển «Ai làm được» là quyển tiểu thuyết thứ nhứt viết văn xuôi tại Cà Mau với nhơn vật cũng ở Cà Mau. Đổi lên Long Xuyên năm sau viết quyển thứ nhì, cũng văn xuôi, nhan đề «Chúa tàu Kim Quy», phỏng theo quyển Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas, viết điệu phiêu lưu, nghĩ có lẽ hấp dẫn hơn.» (Hồ Biểu Chánh, hồi ức Đời của tôi về văn nghệ, bản đánh máy).
Vì sao Hồ Biểu Chánh ngừng viết trong chín năm? Ông cho biết lý do: « Kế thế giới chiến tranh thứ nhứt bùng nổ, công việc đa đoan, không viết tiểu thuyết được nữa... chỉ viết mấy hài kịch nho nhỏ cho mấy thầy hát đặng kiếm tiền giúp cho chiến sĩ Việt Nam ngoài mặt trận Âu Châu. Năm 1917 làm «Đại Việt tạp chí» ở Long Xuyên.
Năm 1918, dời về Gia Định, phụ bút cho mấy tờ báo Quốc Dân Diễn Đàn, Nông Cổ Mín Đàm, Công Luận Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo. Năm 1922, vì kiểm duyệt gắt gao, nghĩ viết báo vô ích, mới bỏ mà chấn chỉnh lại 2 quyển tiểu thuyết viết hồi 1912 tại Cà Mau và 1913 tại Long Xuyên, cho xuất bản và viết thêm 8 quyển mới nữa. Từ năm 1927 tới 1932 làm chủ quận Càng Long, viết thêm 8 quyển mới nữa, cộng trước sau dưới 18 quyển». (Hồ Biểu Chánh, hồi ức Đời của tôi về văn nghệ, bản đánh máy).
Như vậy, Hồ Biểu Chánh đã ghi rõ: Ai làm được là tác phẩm đầu tiên do ông sáng tác, năm 1912 và Chúa tàu Kim Quy do ông phóng tác năm 1913, nhưng mãi đến 1922 ông mới «chấn chỉnh» lại để in. Thanh Lãng khi đọc Ai làm được thấy cốt truyện có hơi giống André Cornélis của Paul Bourget. Vậy sự giống này chỉ là tình cờ mà thôi. Bởi nếu là phóng tác thì Hồ Biểu Chánh đã nói rõ là phóng tác. Mặt khác, trong danh sách 12 tác phẩm phóng tác, không thấy ông ghi cuốn Ai làm được.
Nhưng có một khó khăn về văn bản, như Thanh Lãng đã nêu ra: ngày nay chúng ta chỉ còn bản in năm 1922, không biết được bản gốc viết năm 1912. Vì vậy không rõ Hồ Biểu Chánh đã «chấn chỉnh» tác phẩm như thế nào, cho nên không thể biết trong chín năm kỹ thuật tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có thay đổi gì không? Nhưng nếu căn cứ vào các tác phẩm sau này, thì thấy lối viết, lối dựng truyện, lối mô tả hiện thực của Hồ Biểu Chánh, trong gần 50 năm, không hề thay đổi. Ông chỉ thay đề tài, đổi thể loại từ xã hội, lịch sử đến phiêu lưu, trinh thám, trong những bối cảnh khác nhau của vùng Lục Tỉnh Nam Kỳ. Vì vậy, có thể xác định năm sinh của tác phẩm Ai làm được là 1912. Và như thế, 1912, cũng là năm ra đời cuốn tiểu thuyết quốc ngữ hư cấu đầu tiên của Việt Nam, viết theo lối Tây phương : Ai làm được.
Đọc Ai làm được điểm đáng chú ý đầu tiên nằm trong cái tựa, đó là một câu hỏi : Ai làm được? Tác giả lôi cuốn ta vào một vòng bí mật, với một câu chưa kết thúc, một nghi vấn chưa đặt ra, một thách thức, nôm na và cụt ngủn. Lối viết như thế, trong tiếng Việt thời đó, chưa có. Chưa ai lấy một câu có cấu trúc nước đôi, nước ba như thế làm tựa sách. Hồ Biểu Chánh là một nhà nho thấm nhuần Phật pháp. Tư tưởng chủ yếu bao trùm toàn bộ tác phẩm của ông là trọng nghĩa khinh tài của đạo nho và từ bi hỉ xả của đạo Phật. Nhưng ông còn là học sinh trường Pháp Chasseloup-Laubat nữa. Do đó, tiểu thuyết của ông mang hình thức Tây phương trong tâm hồn Đông phương. Chính dấu ấn Tây phương trong ngôn ngữ và cách mô tả ấy, đã tạo sự khác biệt và chứng tỏ ông là tiểu thuyết gia đã Việt hoá những phương pháp tiểu thuyết của Tây phương sớm nhất. Sớm và thành công hơn tất cả những người cùng thời trong Nam cũng như ngoài Bắc.
Cái mới của tiểu thuyết Tây phương mà ông đem vào, trước tiên là cách viết và cách mô tả, Hồ Biểu Chánh vào truyện như sau:
«Ông Bạch Khiếu Nhàn tuổi đã quá lục tuần mà sức hãy còn mạnh khoẻ.
Từ khi con gái ông bất hạnh, tủi phận thon von nên ít muốn đi chơi, cứ lui cui ở nhà hoặc sửa kiểng xem hoa, hoặc uống trà đọc sách (...)
Mặt trời chen lặn, gió càng thêm mát mẻ, Khiếu Nhàn đi lần tới quán cơm chú Lỳ, tuy chưa mỏi chơn, song ông khát nước.
Chú Lỳ ngó thấy ông lật đật chào mừng và mời ông vào quán nước. Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi, ngó quanh ngó quất không thấy khách ăn uống» (Ai làm được, trang 3).
Không cần dài dòng biện luận về mới, cũ, chỉ cần nhớ lại văn phong «Lần hồi ngày lụn tháng qua» của Nguyễn Chánh Sắt, hoặc «Những khi trăng tà giăng xế» của Hoàng Ngọc Phách, là ta thấy ngay sự khác biệt.
Cụ thể hơn, những khác biệt ấy là gì?
Thứ nhất: Hồ Biểu Chánh bỏ hết những dư thừa trong lời nói, chỉ giữ lại những gì không thể bỏ được.
Thứ hai: Ông mô tả tất cả những chi tiết mà những người thuật truyện trước ông, không chú ý tới. Nói cách khác, Hồ Biểu Chánh mô tả một khung cảnh hiện thực, một con người hiện thực đang đứng trước mắt ta, người ấy ăn mặc như thế nào, nói năng ra làm sao. Trong khi các tác giả khác chỉ đưa ra một hình bóng từ chương qua văn chương biền ngẫu, kiểu «tuổi mới trăng tròn», «hình dung yểu điệu », «bá mị thiên kiều» v.v...
Vì vậy, nếu nói: Hồ Biểu Chánh là người khai sinh ra tiểu thuyết hiện thực ở nước ta là một xác định có cơ sở.
Trở lại câu hỏi : Ai làm được. Ai làm được cái gì ? Thì câu trả lời đã từ tác phẩm vọng lên, sẽ có thể là : Ai làm được như Khiếu Nhàn ? Ai làm được như Bạch Tuyết ? Ai làm được như Chí Đại ? Ai làm được như bà Phủ ? Bởi mỗi nhân vật trong cuốn tiểu thuyết này đều có những thách đố về thân phận và về cách giải quyết các vấn đề.
Với cuốn tiểu thuyết đầu tay, tác giả đã trình bày triết lý Trọng nghiã khinh tài của mình và ông đã đi theo quan niệm ấy trong suốt hành trình văn học: truyện của ông luôn luôn phân biệt chính tà và kết có hậu: chính thắng tà thua.
Khiếu Nhàn, Bạch Tuyết, Chí Đại là mẫu người tốt. Ông Phủ, bà Phủ, nhất là bà Phủ thuộc loại người chẳng ra gì, thậm chí là một kẻ sát nhân. Cả hai loại người này đều được đẩy đến cùng trong những đối chất của hoàn cảnh. Người nhân hậu như Khiếu Nhàn, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ. Người tàn ác như bà Phủ không bỏ một dịp nào để thi hành độc thủ. Người quyết tâm trả thù cho mẹ như Bạch Tuyết luôn luôn tìm mọi cách để lật mặt thủ phạm đã giết mẹ mình dù có phải sống cuộc đời ba chìm bẩy nổi.
Tính chất đơn giản trong tâm lý nhân vật, ở đây, vừa gắn bó với thời kỳ phôi thai của tiểu thuyết, vừa hợp tâm lý bình dân, nhưng không phải vì thế mà không có tác dụng cho sự khảo sát xã hội đương thời: Cá tính độc lập, tự do và dấn thân của người phụ nữ trong Nam được nhấn mạnh qua những nhân vật như Bạch Tuyết trong Ai làm được, như Phi Phụng trong Nhơn tình ấm lạnh, như Đoàn Thu Vân trong Chút phận linh đinh, như Yến Tuyết trong Tỉnh mộng, Bạch Yến trong Từ hôn... Mỗi người đều chịu một hoàn cành khắc bạc, nhưng đều tìm cách đứng lên, đối chọi, để tìm lối thoát. Tính chất độc lập, tự do và dấn thân này đã đưa những nhân vật nữ của Hồ Biểu Chánh, phần lớn là những cô gái con nhà, ra khỏi quỹ đạo kín cổng cao tường. Khác hẳn với những nhân vật trong tiểu thuyết Bắc của Hoàng Ngọc Phách hay sau này của Tự Lực văn đoàn.
Những nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, mặc dù bị sự kiềm toả của một nền luân lý nho phong, nhưng nhiều người đã vượt vòng lễ giáo, tự ý lấy người mình yêu, chứng tỏ những năm đầu thế kỷ XX, người phụ nữ trong Nam đã Âu hoá hơn người phụ nữ ngoài Bắc rất nhiều, bởi Nam Kỳ bị Pháp bắt đầu đô hộ từ 1862.
Hồ Biểu Chánh còn đưa ra những mẫu người phụ nữ ỷ giàu ăn hiếp chồng, chửi chồng, như trong truyện Thày thông ngôn. Một mô típ rất hiếm trong tiểu thuyết Bắc. Ngoài ra, trong giai cấp trưởng giả ở miền Nam, vợ chồng khi xung đột, có thể mày tao thẳng thừng và nếu cần có thể đi đến thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Ngược lại, trong xã hội Bắc, thường là chồng đánh vợ, và người vợ luôn luôn nhịn nhục, trừ trường hợp hạn hữu trong một vài truyện ngắn của Tô Hoài, Nam Cao.
Hồ Biểu Chánh sáng tạo ra một thứ «tổ hợp đối lập» các giá trị, thiết lập quan hệ xung đột giữa những cặp phạm trù: giàu-nghèo, tốt-xấu, may-rủi, đẹp-xấu, v.v...
Tính bi kịch trong tiểu thuyết của ông luôn luôn mạnh mẽ, nhưng không bi thảm. Tinh thần tiểu thuyết của ông gắn liền với khát vọng thoát ly, phiêu lãng dưới đủ mọi hình thức, như Bạch Tuyết trong Ai làm được, Thủ Nghiã trong Chúa tàu Kim Quy, Lê Hiển Vinh và Đoàn Thu Vân trong Chút phận linh đinh, Tất Đắc trong Từ hôn... Những yếu tố đó nhắc nhở ta lý do tại sao Hồ Biểu Chánh viết tiểu thuyết, ông viết chỉ vì bị «kiểm duyệt gắt gao - nghĩ viết báo vô ích». Và điều đó cũng giải thích lý do: tại sao trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không có yếu tố thời sự hoặc chính trị như một số người đã đặt câu hỏi. Sự đàn áp tư tưởng dưới thời Pháp thuộc được Hồ Biểu Chánh thể hiện trong vô thức thoát ly, phiêu lưu của các nhân vật, và thường sau mỗi thoát ly, trở về, họ sống hạnh phúc trong cuộc đời còn lại.
Trái ngược với những nhân vật trong tiểu thuyết Bắc của Hoàng Ngọc Phách, Khái Hưng, Nhất Linh... những nhân vật đều muốn thoát ly nhưng không thể thoát ly được, những cố gắng của họ thường đưa đến cái chết hoặc án mạng. Điều này một phần do tính lạc quan của Hồ Biểu Chánh, nhưng cũng phản ảnh thực tại xã hội miền Bắc có quy định xã hội gò bó hơn xã hội trong Nam rất nhiều.
Về mặt ngôn ngữ tiểu thuyết, không những người đọc tìm thấy ở Hồ Biểu Chánh một thứ văn nói, khác hẳn văn viết theo khuynh hướng Bắc, mà ông còn là nhà văn tả chân đầu tiên của Việt Nam. Hãy xem ông tả một vài nhân vật, với một số ngôn từ hoàn toàn mới lạ đối với độc giả Bắc :
« Cách một hồi, Tú Phan trở ra mình mặc một cái áo tố xanh, bộng thêu chỉ bạc, lót lãnh màu hường, trong lại mặc thêm áo trắng dài, bâu ủi cứng mà nút lại cài chặt, nên cổ day qua day lại coi không được thong thả, quần nhiễu Bắc thảo mới may chưa mặc lần nào, mà bởi tại không ủi nên có mấy lằn ngang coi không được thẳng thắn. Giầy bót chinh vàng cũng còn mới chưa mang lần nào nên đi trên gạch bông muốn trợt lại kêu tiếng trèo treo. Khăn đen bịt thật khéo, song vì lớp nhiều quá nên chần vần một đống trên đầu coi không được thanh bai cho lắm» (Nhơn tình ấm lạnh, 1925, trang 20)
« Hội đồng Yên bịt khăn đen, mặc áo sa ten lót màu trứng diệt mặc quần Châu xá trắng, đi giày bót chinh đen đi trước, còn Thủ Thiệp mặc bộ đồ Tây nỉ xám mỏng, trong áo lá cũng nỉ xám, ngực lòi áo lót mồ hôi trắng có thêu bông nho nhỏ, bâu áo cứng mà lại láng ngời, cổ thắt nơ đen, đầu đội nón rơm, chân mang giày su-đê lòi vớ lụa mầu tím thủng thẳng đi theo sau » (Nhơn tình ấm lạnh, trang 22).
Tiên phong trong lối văn tả chân và làm hình nổi, trước Hồ Biểu Chánh chưa ai viết những câu như thế này:
«Thằng nhỏ vỗ trên lưng con chó vài cái rồi đi lại chỗ khạp nước để trước cửa đứng mà kêu heo: «Quắn, quắn ột! Quắn ột, ột, ột... Con heo núc ních đi lại, thằng nhỏ mới lấy gáo múc nước trong khạp xối mà kỳ rửa bùn đất sạch sẽ rồi lùa vô nhà». (Cay đắng mùi đời, 1923, trang 7)
Âm thanh của đồ vật và động tác của con chó, con heo, được đưa vào tiểu thuyết bằng những thanh trắc: "khạp, quắn, quắn ột, ột, ột, núc ních...", tạo ra một hoạt cảnh sinh động độc đáo, mà tiếng Việt miền Bắc không thể có. Vì vậy, các nhà văn Bắc khi di cư vào Nam năm 1954, đã học được ở tiếng Nam rất nhiều: Đó là kho tàng ngôn ngữ mà miền Lục Tỉnh chu cấp cho tiếng Việt, nhờ sự phối hợp tiếng Lạp với tiếng Việt, khi các chúa Nguyễn, kể từ Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) thu phục thủy Chân Lạp, mở vùng Gia Định và Nam Việt ngày nay.
Hồ Biểu Chánh phát huy lối văn nói thẳng, mà Trương Vĩnh Ký đã khai trương. Lối văn trực tiếp này biểu lộ tâm tình cởi mở, trực tính của người miền Nam, có gì thì nói phứt ra cho rồi. Lối trực văn này khác hẳn với lối văn gián tiếp, tức là gọt dũa, rất văn chương của người Bắc. Không phải Hồ Biểu Chánh không có khả năng viết văn «có văn». Nhưng ông giao hoà hai lối văn, khi trực tiếp, khi gián tiếp, nói cách khác, ông thường dùng lối bộc trực «không có văn» nhưng khi cần, ông vẫn có thể viết văn «có văn», nghiã là vừa bình dân vừa bác học, trong cùng một tác phẩm, đặc biệt trong các truyện dài phóng tác.
Mỗi tiểu thuyết gia có một nỗi ám ảnh lớn, từ đó khởi điểm nhân sinh quan của họ, xây dựng nên cái nhìn của họ trong tiểu thuyết. Nỗi ám ảnh lớn của Hồ Biểu Chánh về con người là Tiền. Tiền làm cho con người tha hoá. Tiền là đầu mối thương đau, là sự trầm luân của con người. Và cũng từ mối ám ảnh đó nhà văn phóng ra những hoạt cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX mà tiền như một phương tiện sống, và như một phương tiện khuynh đảo cuộc sống, cản lực của hạnh phúc, cản lực của nhân phẩm, cản lực của nghĩa tình.
Chủ đề chính trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh là sự hủy hoại nhân phẩm của đồng tiền. Tiểu thuyết Tiền bạc, bạc tiền là cao đỉnh. Tác phẩm mô tả cơ cấu tâm lý xã hội dựa trên sự hám danh, háo lợi mà gia đình Trần Bá Vạn vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm của mọi thủ đoạn tranh chức hội đồng Quản hạt. Những việc mua chức bán quan gả vợ gả chồng môn đăng hộ đối trong xã hội miền Nam hồi đầu thế kỷ XX được Hồ Biểu Chánh mổ xẻ, phô bày trong tiểu thuyết căn kẽ và đa diện.
Vì có một địa bàn sâu về các giai tầng xã hội và rộng về mặt địa lý vùng Lục Tỉnh Nam Kỳ, nên ông nắm rõ đời sống xã hội và tâm tình người Việt phương Nam. Cùng một cảnh xung đột mẹ chồng nàng dâu, nhưng lối xung đột trong Nam không giống lối xung đột mẹ chống nàng dâu ngoài Bắc. Vì người phụ nữ trong Nam, "Tây" hơn phụ nữ Bắc, được bình đẳng hơn người phụ nữ ngoài Bắc, ít phải sống chung với mẹ chồng hơn.
Tính chất di động trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không chỉ ngừng ở chừng mức tiếng động phát ra từ âm thanh ngôn ngữ miền Nam mà còn cả trong sự di động của mỗi nhân vật trong trong miền đất Lục Tỉnh. Điều này phát xuất từ việc miền Nam có một hệ thống giao thông, sông rạch, kinh ngòi, đường xá đặc biệt hơn miền Bắc, xã hội miền Nam chuyển mình nhanh hơn xã hội miền Bắc, tất cả tính chất động đó có thể thu gọn trong một câu văn:
« Bàn kia năm ba người ăn rồi, nên ngồi chơi, người hút thuốc, kẻ xỉa răng, nói chuyện om sòm, chửi thề vang rân, coi tự do mà lại tự đắc lắm. Phía trong có một tốp, chừng mười mấy người, dụm nhau lại trên một bộ ván nhỏ mà đánh bài cào, đàn ông có, đàn bà có, con trai có, lời qua tiếng lại, cãi cọ inh ỏi. Chị Năm Tiền đang xới nồi cơm, chị nghe rầy lộn thì day vô, tay cầm đũa bếp mà chỉ và nói rằng: «Nè, tôi lập quán đặng buôn bán, chớ không phải lập ra cho mấy người tựu bài bạc rồi rầy lộn đa. Cha chả ! Bộ đánh bài có mua thuế hay sao mà lên chữ dữ vậy hử! Dẹp đi, nếu cãi tôi, đố khỏi tôi kêu lính bắt hết cả đám cho mà coi» (Ông Cử, 1935, trang 11)
Cấu trúc tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nằm trong chữ "động", qua lối dàn cảnh: "Bàn kia, bàn này, chửi thề, vang rân, om sòm, kẻ xỉa răng, người hút thuốc, tốp này, tốp kia, lời qua, tiếng lại, dụm nhau, day vô, rầy lộn...", mỗi tiếng xướng lên là một cảnh có âm thanh, cử động và chuyển động. Đối thoại đốp chát, đi từ từng lớp bình dân đến trưởng giả. Mỗi gia đình, mỗi chân dung, mỗi hoàn cảnh, như thế hiện ra, sống động, khác thường.
Nếu hình ảnh xã hội miền Bắc nằm trong toàn bộ các tác giả Bắc qua nhiều thế hệ, từ Hoàng Ngọc Phách đến Tự Lực Văn Đoàn, từ Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, đến Nguyên Hồng, Nam Cao, vv.. thì có thể nói trong Nam, tất cả tình hình xã hội, đẳng cấp, giàu nghèo, thành thị, thôn quê đều nằm trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh, qua 64 cuốn tiểu thuyết.
Một nhà văn có thể thay mặt cho cả dòng văn học, tất nhiên có tầm vóc lớn. Chính cái giá trị lớn lao đó, đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu tới tận ngọn nguồn.
Trong buổi bình minh của tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã dùng ngòi bút để răn đời theo truyền thống Khổng Mạnh, tính cách "giáo hoá" ấy có thể coi là một nhược điểm.
Hồ Biểu Chánh và Hector Malot
Ngoài việc tiên phong trong nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, Hồ Biểu Chánh còn Việt hoá một số tiểu thuyết nổi tiếng của Pháp. Ba tác phẩm Sans Famille (Vô gia đình) của Hector Malot, le Comte de Monte-Cristo (Bá tước Monte-Cristo) của Alexandre Dumas, và Les Misérables (Những kẻ khốn cùng) của Victor Hugo, dưới ngòi bút Hồ Biểu Chánh trở thành Cay đắng mùi đời, Chúa tàu Kim Quy, và Ngọn cỏ gió đùa, đã hoàn toàn «nhập tịch» Việt Nam. Cách phóng tác của Hổ Biểu Chánh là một trường hợp độc đáo trong tinh thần giao lưu văn hoá Pháp Việt.
Khi viết lại truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, từ văn xuôi sang văn vần, Nguyễn Du giữ nguyên bối cảnh nước Tàu những năm Minh Gia Tĩnh. Hồ Biểu Chánh khi viết lại truyện của Malot, Dumas, Hugo, đã nhấc cả bối cảnh lẫn nhân vật tiểu thuyết Pháp vào thế giới ngôn ngữ, triết lý và địa lý vùng Lục Tỉnh Nam Kỳ, khiến những phóng tác của ông không còn chút gì dây dưa với nguyên bản nữa, ông đã tạo ra một hình thức liên văn bản cắt nguồn, khác hẳn với những liên văn bản tiếp nguồn như chúng ta thường thấy trong văn học.
Hồ Hữu Tường viết về kinh nghiệm đọc những phóng tác của Hồ Biểu Chánh, như sau :
«Từ ấy, tôi có ý tìm những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh để mà đọc. Nào là Nhơn tình ấm lạnh, Ngọn cỏ gió đùa, Chúa tàu Kim Quy v.v... Tôi đọc chúng nó trước khi biết đọc tiểu thuyết Pháp. Tôi tin đó là những tiểu thuyết, mà chính Hồ Biểu Chánh đặt ra, tạo cốt chuyện, tạo nhân vật và lồng vào khung cảnh hoàn toàn Việt Nam (...) Đến chừng đọc được tiểu thuyết Pháp nào là của Victor Hugo, của Balzac, của Zola, Hector Malot, André Theuriet... thì tôi lại tỉnh mộng lần thứ hai. Té ra những đề tài của các tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chỉ là những đề tài của các tiểu thuyết trứ danh nước Pháp, mà Hồ Biểu Chánh đã đọc rồi. Không phải Hồ Biểu Chánh dịch thuật mà Hồ Biểu Chánh lại phóng tác (...) Mặc dù lúc ấy mình biết rằng những nguyên tác của (...) hay hơn những bản dịch của Hồ Biểu Chánh, những phóng tác của Hồ Biểu Chánh. Nhưng mà đọc những nguyên tác kia, tôi không có thú vị bằng đọc Hồ biểu Chánh » (Hồ Hữu Tường, Nhập mộng và tỉnh mộng, Văn số 80, tưởng niệm Hồ Biểu Chánh, Sài Gòn 1967, trang 32).
Nhận xét «nguyên tác hay hơn phóng tác» của Hồ Hữu Tường, chưa chắc đã đúng, vì ngay sau đó ông thêm vào "Nhưng mà đọc những nguyên tác kia, tôi không có thú vị bằng đọc Hồ Biểu Chánh". Là người học tiếng Pháp từ nhỏ, nói tiếng Pháp như "Tây", mà Hồ lại cảm thấy đọc tiếng Pháp không "thú" bằng đọc tiếng Việt, cả Nguyễn Văn Trung cũng nghĩ thế. Tại sao vậy ? Và không chỉ một mình Hồ Hữu Tường hay Nguyễn Văn Trung, có cảm tưởng ấy, mà bất cứ người Việt nào đọc cả nguyên bản tiếng Pháp lẫn phóng tác tiếng Việt của Hồ Biểu Chánh, đều cảm thấy như vậy, mới kỳ.
Muốn hiểu rõ sự kỳ lạ này, ta nên "điều tra" xem Hồ Biểu Chánh đã phóng tác như thế nào? Và ông đã phóng tác bao nhiêu cuốn tiểu thuyết? Số lượng này, được ông ghi rõ trong hồi ức «Đời của tôi về văn nghệ» như sau:
« Tôi biên dưới đây mấy bộ tiểu thuyết tôi đã viết ra bởi cảm tác phẩm nào của Pháp :
Chúa tàu Kim Quy bởi cảm Le Comte de Monte Cristo (Alexandre Dumas)
Cay đắng mùi đời - Sans famille (Hector Malot)
Chút phận linh đinh - En famille (Hector Malot)
Thày thông ngôn - Les Amours d’Estève (André Theuriet)
Ngọn cỏ gió đùa - Les misérables (Victor Hugo)
Kẻ làm người chịu – Les deux gosses (Pierre Decourselle)
Vì nghiã vì tình - Fanfanet Claudinet (P. Decourselle)
Cha con nghĩa nặng - Le calvaire (P. Decourselle)
Ở theo thời - Topaze (Marcel Pagnol)
Ông Cử - L’Aristo
Đoá hoa tàn – Le Rosaire
Người thất chí – Crime et Châtiment »
(Hồi ức Đời của tôi về văn nghệ, bản đánh máy)
Theo sự kê khai trên đây, thì trong toàn bộ 64 cuốn tiểu thuyết của ông, có 11 cuốn cảm tác theo tiểu thuyết Pháp, một cuốn theo tiểu thuyết Nga.
Về cách cảm tác như thế nào, Hồ Biểu Chánh cho biết thêm: «Đọc tiểu thuyết hay tuồng hát Pháp văn mà tôi cảm thì tôi lấy chỗ cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít nhiều hoặc lấy đó mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Tuy tôi nói phỏng theo kỳ thiệt chỉ lấy đại ý mà thôi, mà có khi tôi còn lật ngược tới đại ý, làm cho cốt truyện trái hẳn tâm lý, khác xa với truyện Pháp» (Hồi ức Đời của tôi về văn nghệ).
Lối « cảm tác» của Hồ Biểu Chánh là như thế.
Tiểu thuyết Sans Famille của Hector Malot viết năm 1878, được Hồ Biểu Chánh cảm tác thành Cay đắng mùi đời năm 1923. Cốt truyện Vô gia đình như sau: Rémy, một cậu bé con nhà giàu, bị người chú lập tâm bắt cóc ngay từ lúc mới năm, sáu tháng, rồi bỏ nơi công cộng cho ai bắt được thì đem về nuôi; hy vọng người anh bị mất con, thì gia tài của anh sẽ về hết phần mình. Rémy được Barberin, một người thợ đẽo đá đi qua nhặt được đem về nuôi, thầm nghĩ cha mẹ đứa bé giàu sẽ đem tiền chuộc lại. Nhưng nhiều năm sau không thấy ai chuộc và bản thân Barberin vì tai nạn nghề nghiệp, cũng rơi vào cảnh khốn cùng. Hắn bán Rémy cho một người hát rong, mặc sự phản đối của người vợ đã gắn bó yêu thương thằng nhỏ như con ruột. Từ đó Rémy sống đời giang hồ lưu lạc, nhiều năm sau mới tìm lại được mẹ đẻ.
Hồ Biểu Chánh mượn cốt truyện ấy để viết Cay đắng mùi đời, nhưng ông đem tác phẩm vào xã hội Việt Nam, vùng lục tỉnh Nam Kỳ, nhưng và ông thể hiện một văn phong, một nghệ thuật viết khác hẳn nguyên bản. Lối cảm tác của Hồ Biểu Chánh không giống cách Nguyễn Du cảm tác truyện Kiều. Nguyễn Du theo sát nguyên bản, từ cốt truyện đến chi tiết, đối thoại. Hồ Biểu Chánh, chỉ giữ lại sườn truyện, giữ lại những chi tiết chính và một số nhân vật, ông đổi hoàn cảnh sống, xoá hẳn bối cảnh tâm lý xã hội Pháp, biến tất cả thành thuần Việt. Nói khác đi ông đã Việt hoá tác phẩm của Hector Malot, khiến nó không còn một chút gì dính líu đến văn hoá, xã hội Pháp nữa. Vậy có thể nói, Nguyễn Du và Hồ Biểu Chánh cùng có mục đích Việt hoá một tác phẩm ngoại quốc nhưng đi bằng hai con đường khác nhau. Và chính việc Hồ đem bối cảnh tiểu thuyết nhập vào xã hội Việt Nam đã là một thủ pháp "quyến rũ" độc giả Việt, làm cho họ đọc mà thấy "thích". Nguyễn Du không cần đem truyện Kiều vào đất Việt, vì người Việt quá quen với truyện Tầu, mê Tam Quốc Chí, mê Kim Dung hơn đọc truyện Việt Nam. Đó là điểm thứ nhất, về mặt tâm lý, để chinh phục độc giả. Nhưng nếu chỉ có thế, tác phẩm vẫn chưa đi xa được.
Tác phẩm của Hector Malot là một mélodrame, một thảm kịch lãng mạn với bút pháp nhẹ nhàng, giọng văn thơ mộng, thành thực. Hector Malot kể chuyện ở ngôi thứ nhất, trong không khí tự truyện, nhập đề bằng giọng của Rémy nói về người mẹ nuôi, tức là Mẹ Barberin:
« Tôi là đứa bé rơi người ta nhặt được đem về.
Nhưng mãi đến tám tuổi, tôi vẫn tưởng là mình có mẹ như những đứa trẻ khác. Mỗi khi tôi khóc, một người đàn bà dịu dàng ôm tôi vào lòng, ru cho tôi nín.
« Chẳng bao giờ tôi đi ngủ mà người không đến hôn tôi, và khi gió đông gián tuyết vào khung kính trắng xóa, người vừa ủ chân tôi vào lòng bàn tay của người vừa hát những lời ru mà ngày nay tôi còn nhớ một vài âm điệu.
Khi tôi chăn bò theo dọc bờ bụi hay trên những bãi hoang, bất chợt gặp cơn dông, người tất tưởi chạy đến tay cầm sẵn cái váy len trùm kín đầu và vai tôi.
Khi tôi cãi nhau với bạn, người bảo tôi kể lại đầu đuôi và luôn luôn tìm lời ăn ủi hoặc bảo rằng tôi có lý.»
(trích dịch Sans Famille của Hector Malot, Collection folio junior, trang 11)
Hồ Biểu Chánh dựng truyện trên ngôi thứ ba, không khí hư cấu. Vẫn người đàn bà ấy, mẹ Barberin, dưới ngòi bút của Hồ Biểu Chánh có tên Ba Thời, hiện ra trong bối cảnh hoàn toàn khác, với những nét như sau:
«Con chó vàng thình lình trong nhà vụt chạy thẳng ra sân, thằng nhỏ ngó theo thì thấy ngoài bờ có một người đàn bà xăm xăm đi vô, nó liền la lớn «má về» rồi buông gáo chạy ra nắm tay mừng rỡ mà dắt vô. Người đàn bà nầy trạc chừng ba mươi bốn tuổi, áo xăn ngang, ống quần vo tới đầu gối, nước da không đen không trắng, mặt tròn, chơn mày rặm, mình mẩy ướt loi ngoi, sau lưng có giắt một cây nọc cấy, trên đầu bịt trùm khăn vải trắng, ngoài đội thêm một cái nón lá dừa, đi vô vừa tới sân, mắt liếc ngó chuồng vịt rồi hỏi thằng nhỏ:
-Con cho heo ăn rồi hay chưa vậy con ?
- Chưa má à! Tôi mới tắm rồi đuổi vô nhà đó đa.
-Vịt về đủ hay không con?
- Tôi nhốt mà quên đếm
(Cay đắng mùi đời, nxb Văn nghệ TPHCM in lại năm 1997, trang .
Last edited by LDN on Sat Oct 15, 2022 4:53 am; edited 2 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
So sánh lối viết của Hector Malot và của Hồ Biểu Chánh trong màn giới thiệu nhân vật này, không những chúng ta thấy sự khác biệt của hai văn tài, mà còn thấy hai lối viết hoàn toàn khác nhau và hiểu tại sao Hồ Hữu Tường "khoái" đọc Hồ Biểu Chánh hơn:
Hector Malot kể. Hồ Biểu Chánh tả.
Hector Malot viết văn theo lối lãng mạn, thế kỷ XVIII, để tình cảm xen vào ngòi bút, và dùng tình cảm của mình để lôi cuốn người đọc.
Hồ Biểu Chánh viết theo lối hiện thực, thế kỷ XX, mà bây giờ chúng ta cũng vẫn viết như thế: tác giả đứng ngoài nhận xét và ghi lại, tác giả là scripteur, như bất cứ tiểu thuyết gia hiện đại nào, không lộ một chút cảm tình riêng tư của mình.
Hồ Biểu Chánh qua vài dòng, làm hiện ra người đàn bà toàn diện với dáng dấp, y phục, tuổi tác, diện mạo và sự đối đáp giữa hai mẹ con. Tất cả tạo ra một bức tranh sống động, gián tiếp nói lên tình yêu sâu đậm giữa thằng nhỏ và Ba Thời, qua động tác:“đứa nhỏ la lớn "má về" và buông gáo chạy ra mừng rỡ”.
Cho nên, không những Hồ Biểu Chánh đem tác phẩm của Malot vào Việt Nam mà ông còn hiện đại hoá tác phẩm của Malot, từ một tự truyện lãng mạn thế kỷ XVIII, chuyển sang một tiểu thuyết hiện thực tả chân, thế kỷ XX. Đọc Malot, ta thấy như có màn sương phủ lên nhũng diễn biến trong quá khú, còn dộc Hồ Biểu Chánh ta thấy ngay rành rành hình ảnh Ba Thời "xăm xăm" đi vào, thằng Được buông gáo, la lớn "má về" và mừng rỡ chạy ra đón mẹ.
Đọc thêm một đoạn nữa, đoạn Jérôme Barberin, người chồng, làm thợ ở Paris, tình cờ thấy đứa nhỏ bị bỏ rơi, Hector Malot viết:
“Một buổi sáng ở Paris, như thường lệ Jérôme đi làm qua con đường mang tên đại lộ Breteuil, rộng và nhiều cây; anh nghe tiếng trẻ khóc, dường như phát ra từ một khung cửa vườn. Trời mới rạng đông, tháng hai. Anh lại gần và thấy một đứa bé nằm trên thềm. Jérôme nhìn quanh quất xem có ai không, bỗng thấy một người nấp sau thân cây lớn, vội vàng chạy trốn” (Sans Famille, trang 29).
Cũng đoạn này, Hồ Biểu Chánh viết:
“Ba Thời đương đi, thình lình nghe trong bụi lứt dựa gò mả có tiếng con nít khóc. Ban đầu chị ta tưởng ma nhát nên ngực nhẩy hồi hộp, mặt mày tái xanh, muốn bỏ mà chạy. Song chị ta nghĩ trời mới tối không lẽ có ma, mà dầu có ma thiệt đi nữa, đây cũng đã gần nhà, không đủ lo sợ, nên chị ta đứng lại lóng nghe cho chắc coi thiệt phải con nít khóc hay không.
Ba Thời đứng lóng nghe thì tiếng khóc một hồi rồi nín. Chị ta vừa muốn bỏ đi, lại nghe khóc nữa. Chị ta mới làm gan lần lần đi vô chỗ bụi lứt coi vì cớ nào mà có con nít khóc trong đó. Đi gần tới thì tiếng khóc lại càng lớn hơn nữa” (Cay đắng mùi đời, trang 16).
Rõ ràng là văn Hồ Biểu Chánh lôi cuốn hơn, dù là người đọc là Việt hay Pháp, ở đây ngoài việc Malot "có văn" còn Hồ "lời văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt" như Đông Hồ phê phán, nghiã là môm na mách qué, "không có văn", vậy mà nó cuốn hút chúng ta như xem phim trinh thám. Hồ biến một cảnh tầm thường trở thành ma quái, sống động, với những chi tiết, ly kỳ, rùng rợn... qua những chữ "thình lình, gò mả, ma nhát, ngực nhẩy, tái xanh..."
Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh mô tả cảnh Ba Thời bước vô bụi, thấy đứa bé nằm trên cái mền, bèn vội cuốn đứa bé vào mền, rồi ôm cả bọc tất tả đi vào nhà vợ chồng chú Tích gần đấy. Tới nhà chú Tích:
“Ba Thời bèn thuật hết đầu đuôi việc mính xí được đứa nhỏ lại cho vợ chồng chú Tích nghe, rồi mới biểu thím Tích đem đèn lại đặng có dở đứa nhỏ ra coi bao lớn, con trai hay là con gái, có đau ốm chi hay không.
Ba Thời ngồi ghé phiá đầu ván, thím Tích thì cầm đèn, còn chú Tích với con Thiện thì đứng ngó. Ba Thời dở mền ra thì thấy một đứa con trai, chừng năm sáu tháng, da trắng, tóc đen, môi son, miệng rộng, cườm tay như ống chỉ, bắp chân như củ cải, đầu đội cái mũ kết bằng lụa màu bông phấn, mình mặc một cái áo đầm cũng bằng lụa màu bông hường, ở truồng mà chưn có mang một đôi vớ bằng chỉ len màu lông két, còn cổ lại có đeo một sợi dây chuyền vàng nhỏ. Đứa nhỏ bị chói đèn nên nheo nheo con mắt một hồi rồi bú tay, ngó đèn không khóc la chi hết.
Ba Thời thấy nó trắng trẻo ngộ nghĩnh mà chẳng bịnh hoạn thì mừng húm, liền bồng mà hun trơ hun trất rồi nói rằng: “Con ai như vầy mà đem đi bỏ cho đành! Mình xí được, thôi, để mình nuôi chơi” (trang 17-18).
Tất cả những chi tiết và hoạt cảnh này không có trong tác phẩm của Malot.
Thế giới của Malot là thế giới đã qua, trầm lặng của truyện kể trải dài trong quá khứ, bằng một lối viết thơ mộng, chân thực, hiền lành, trong hồi ức.
Thế giới của Hồ Biểu Chánh là thế giới hiện tại, sống động, đầy âm thanh và động tác. Hồ Biểu Chánh mở ra một khung trời hiện thực, tả chân. Ông tận dụng triệt để những âm thanh trầm bổng của tiếng Việt, đặc biệt tiếng Việt miền Nam, giàu từ láy, nhiều âm sắc, khiến cho hoạt cảnh Ba Thời nhặt được đứa bé, diễn ra như trong một cuốn phim gây cấn đầy hình ảnh, âm thanh, màu sắc. Mỗi nhân vật đều được ông mô tả kỹ càng, từ Ba Thời đến đứa bé năm sáu tháng vừa “xí” được. Không chỉ có cảnh Ba Thời xí được đứa nhỏ, mà tất cả những cảnh khác của Hồ Biểu Chánh, luôn luôn mang tính chất động như thế. Không chỉ đối với Malot, trong một tác phẩm khác, cảm tác Decourselle, cùng cảnh bắt được đứa nhỏ đem về nuôi, Hồ Biểu Chánh viết:
“Gần hết nửa canh năm, hướng đông sao mai đã ló mọc. Bầu trời rực sáng, nên chỗ đen đen, chỗ đỏ đỏ; mặt cỏ gội sương nên khoảnh ướt ướt, khoảnh khô khô.
Có một người đàn ông, tuổi trên bốn mươi, ở phía dưới trường đua ngựa cũ Sài Gòn, theo đường quản hạt lầm lũi đi riết lên xóm Chí Hoà, hai tay có ôm một đứa con nít chừng năm, sáu tuổi.(...)
Người bồng đứa nhỏ đi đến xóm Chí Hoà rồi quẹo vô một cái bờ nhỏ bên phía tay trái. Bờ quanh co mà lại tối mò, dưới chơn ngọn cỏ đưa ngọn lúp xúp, trên đầu cây giao nhành bít chịt, cảnh coi hiểm lắm, nếu ai không quen thuộc thì trong lúc ban đêm như vầy ắt nhát bước chơn vào. Người nầy tuông ngọn cỏ mà đi xăng xái cũng như ngoài đường trống, chẳng có chút chi bợ ngợ. Đi được chừng vài trăm bước thì tới một cái nhà tranh nhỏ và thấy cửa vách xịch xạc, người ấy giở cửa chun vào kêu rằng: “Mầy a, mầy a, dậy đốt đèn coi nào”.
Bước vô nhà rồi, người ấy mò lại bộ ván, để đứa nhỏ ngồi xuống và kêu nữa rằng: “Mầy a , dậy đốt đèn lên”.
Ở phía trong có một người đàn bà lục tục mò hộp quẹt đốt đèn rồi bưng ra. Chị ta dòm thấy có một đứa con nít ngồi khóc trên ván thì chưng hửng, nên ngó người đàn ông mà hỏi rằng:
- Con của ai ở đâu vậy?
- Của họ mới cho tao.
- Họ cho mà mình lãnh về làm gì?
- Lãnh về nuôi, chớ lãnh làm gì.
- Úy! Mẹ ơi, ai mà nuôi con nít cho đặng?
(Trích Vì nghiã vì tình, 1929, cảm tác Decourselle, đoạn mở đầu).
Hai nhân vật trên đây là vợ chồng Tư Cu, Tư Tiền. Tư Cu đi ăn trộm, hắn cạy cửa một nhà giàu, thấy động, không dám vào, trở ra, đợi mấy tiếng sau mọi người ngủ cả, mới vào lại. Vừa vào thì bị thộp cổ. Chủ nhà chịu tha, nếu hắn nhận nuôi một đứa nhỏ, còn cho hắn ba trăm đồng. Hắn mừng húm, ôm đức nhỏ vể, kể chuyện lại cho vợ nghe:
“- Chuyện kỳ lắm. Đêm nay tao đi, tao tưởng bị rồi, té ra khỏi hại mà lại may quá. Hồi 12 giờ khuya, tao ghé rình cái nhà lầu ở đường Thuận Kiều. Tao biết nhà ấy là người Việt nên tao không sợ. Tao đứng ngoài cửa sổ mà rình hơn một giờ đồng hồ, trong nhà tối mò mà lại vắng teo. Tao chắc họ ngủ mê tao mới cạy cửa sổ. “Đ.m.”, không dè cửa sổ đó ngay bộ ván, lại có một người nằm đó nữa chớ! Tao nhát nhát, sợ chung vô động ván họ hay. Tao muốn bỏ mà đi làm chỗ khác, ngặt cửa đã phá rồi, bỏ thì uổng lắm, mà trời lại gần sáng, đi làm chỗ nào nữa cho được. Tao đứng rình hoài, đến gần ba giờ tao mới lén chun vô. Tao bò trên ván nhẹ nhẹ, không dè người nằm đó họ hay nên họ cũng rình tao. Tao vừa muốn bước chân xuống đất thì người ấy vùng ngồi dậy, nhảy đạp tao một cái té nằm sấp ngay chừ, rồi nó chận cổ đè trên lưng tao mà bắt tao.
- Úy mẹ ôi! sao mình không đánh mà giải vây?
- Giải khỉ họ! Tao bị đạp một cái té sấp tức quá, cựa quậy không nổi, còn con dao tao cầm trong tay thì nó văng xa lắc, còn giống gì đâu mà cự. Hồi đó tao tưởng cái mạng tao đã hết rồi, tao chắc phải vô khám, nên tao nằm chịu phép. Thằng bắt tao đó nắm cổ kéo tao dậy rồi dắt tao đi lại chỗ đèn khí mà vặn đèn lên. Tao thấy con dao của tao văng nằm dựa trên ghế, tao muốn nhảy lại giựt chém giải vây, ngặt vì cái ngực tao tức quá, tao liệu thế chống cự không nổi, tao mới ngồi dựa vách tường mà năn nỉ.
Thằng thầy bắt tao đó nó còn trai mà nó mạnh thiệt. Nó để tao ngồi đó, nó bước lui, lượm con dao rồi nó cầm trong tay mà hăm tao. Tao cùng thế, tao mới năn nỉ xin nó tha; tao nói mầy đẻ, mà lại đau nặng, không có tiền chạy thuốc, nên tao mới làm bậy, chớ không phải tao quen cái nghề ăn trộm. Thằng thầy đó nó tính giống gì không biết, mà nó nín thinh, một hồi nó biểu tao phải lãnh mà nuôi một đứa con nít thì nó mới chịu thả tao. Tao than nghèo, không có đủ cơm mà ăn, có dư đâu mà dám lãnh nuôi con nuôi. Tao mại hơi với nó vậy mà, biết hôn, miễn nó thả tao rồi thì thôi, thứ con nít mình muốn nuôi thì nuôi, nếu không muốn nuôi thì mình bán cho người khác nuôi chớ có khó gì. Tao mại hơi với nó như vậy mà nó ngu quá, nó lại nói như tao chịu lãnh đứa nhỏ thì nó cho tao tiền bạc mà nuôi. Sướng quá! Tao chịu liền. Nó mới đi bồng thằng nhỏ nó đưa cho tao với mấy trăm đồng bạc. (Trích Vì nghiã vì tình, 1929, cảm tác Decourselle, đoạn mở đầu).
So sánh đoạn Ba Thời nhặt được đứa nhỏ trong bụi (cảm tác Malot) và đoạn Tư Cu bị buộc nuôi đứa nhỏ (cảm tác Decourselle), hai khung cảnh hoàn toàn khác nhau, nhưng tính chất “động” trong câu văn và cách tạo “không khí” cho bối cảnh vẫn còn đó:
Không khí Ba Thời là không khí nhà quê, Ba Thời đi đêm sợ ma. Không khí Tư Cu là không khí ngoại ô thành thị. Lời kể của Tư Cu rất đặc biệt, không bằng phẳng thẳng tuột như một lời trần thuật, mà gồ ghề, hồi hộp, dật gân. Trong lời kể, hắn chuyển động không ngừng: tao đi, tao tưởng, té ra, tao rình, tao biết, tao đứng, tao chắc, tao nhát nhát, tao muốn bỏ, tao bò, nó chận cổ... Tư Cu không chỉ chuyển động chân tay, mà còn chuyển động trong đầu óc, thay đổi mọi suy tính. Hắn luôn luôn gặp những: té ra, không dè, ngay chừ, như thể hắn bị gài thêm những bất trắc, câu chuyện hắn kể càng tăng sự giật gân, giật cốt. Không khí đạo trích không chỉ dùng lại ở cái tên ngoại ô Chí Hoà, dẫn đến khám, đến tù, mà còn nằm trong những chữ: lúp xúp, bít chịt, hiểm lắm, ắt nhát, xăng xái, bợ ngợ, xịch xạc... bản thân những chữ này đã mang tính “gian”, tính “trộm” trong mình.
Tất cả nằm trong phép lạ của ngôn ngữ. Chính cái ngôn ngữ ấy đã biến đêm tối thành đạo trích. Biến tĩnh thành động. Ví dụ, một bức tranh quê im ắng:
“Trong nhà im lìm vắng vẻ, chỉ có mấy con gà giò kiếm ăn chéo chéc dưới sàn, với một con chó vàng ốm, nằm dựa xó cửa lim dim như buồn ngủ. Cách một lát con chó vùng đứng dậy ngoắt đuôi, mấy con gà giựt mình chớp cánh chạy vô buồng, còn ngoài bờ có một đứa trai nhỏ, chừng tám chín tuổi, trần truồng, thủng thẳng lùa một bầy vịt vô sân, sau lưng có một con heo đen ột ệt đi theo lấm lem lấm luốc. Vô tới sân con heo đứng dựa đám rau đắng ngoắt đuôi mà ngó vô nhà, còn đứa nhỏ thì chạy lăng xăng chận bầy vịt mà nhốt.
Lúc thằng nhỏ đương đóng cửa chuồng vịt thì con chó thủng thẳng bước ra ngoắt đuôi mừng, rồi liếm cẳng liếm tay, coi như hình tiếp rước.
Thằng nhỏ vỗ trên lưng con chó vài cái rồi đi lại chỗ khạp nước để trước cửa đứng mà kêu heo: Quắn, Quắn ột! Quắn ột! ột, ột, ...”
(Cay đăng mùi đời, trang 16)
Những hoạt cảnh như thế không hề có trong tác phẩm của Malot, của Decourselle nói riêng, và của các nhà văn Pháp nói chung. Dù Malot có muốn, cũng khó có thể mô tả như thế được, bởi tiếng Pháp không có dấu. Ngay đến tiếng Việt, cũng không tìm thấy nhà văn nào xử dụng ngôn ngữ tài tình như Hồ Biểu Chánh.
Nếu trong lời kể của Tư Cu, Hồ Biểu Chánh dùng động từ để diễn tả hành động của tay ăn trộm bị bắt quả tang, thì trong bức tranh quê trên đây, ông dùng toàn vần trắc để đạo diễn các động vật: gà chéo chéc ăn, chó vàng ốm nằm lim dim như buồn ngủ rồi đứng dậy ngoắt đuôi, liếm cẳng, liếm tay, con gà giựt mình chớp cánh chạy, thằng nhỏ trần truồng, thủng thẳng lùa bầy vịt, con heo đen ột ệt lấm lem lấm luốc... Thanh trắc gợi hình và gợi âm nhiều hơn thanh bằng. Âm trắc làm cho bức tranh gồ lên trụt xuống. Âm trắc tạo không gian, âm trắc trong văn chương giống như Cézanne khi vẽ dựng những thể khối đề tạo chiều sâu, chiều dầy cho bức tranh và mở đường cho hội họa lập thể.
Hồ Biểu Chánh có hàng trăm cách khác nhau để tạo khí động như vậy trong một cảnh tĩnh. Nói theo cách phân tích ngôn ngữ học, thì văn phong Hồ Biểu Chánh có hình thức nổi (typographique) khác với văn phong bằng phẳng (linéaire) của Hector Malot.
Với cách tạo không khí và quang cảnh bằng chữ nổi, Hồ Biểu Chánh đã xác định một hình thức tả chân sống động, chưa từng có, từ năm 1912 cho đến ngày nay trong văn chương Việt Nam. Trong số những người đi sau, rất lâu sau ông, mới có một Vũ Trọng Phụng, cũng tài tình, bằng một phương pháp khác, đã đạt được tầm cỡ hiện thực tả chân xã hội như Hồ Biểu Chánh.
Hector Malot kể. Hồ Biểu Chánh tả.
Hector Malot viết văn theo lối lãng mạn, thế kỷ XVIII, để tình cảm xen vào ngòi bút, và dùng tình cảm của mình để lôi cuốn người đọc.
Hồ Biểu Chánh viết theo lối hiện thực, thế kỷ XX, mà bây giờ chúng ta cũng vẫn viết như thế: tác giả đứng ngoài nhận xét và ghi lại, tác giả là scripteur, như bất cứ tiểu thuyết gia hiện đại nào, không lộ một chút cảm tình riêng tư của mình.
Hồ Biểu Chánh qua vài dòng, làm hiện ra người đàn bà toàn diện với dáng dấp, y phục, tuổi tác, diện mạo và sự đối đáp giữa hai mẹ con. Tất cả tạo ra một bức tranh sống động, gián tiếp nói lên tình yêu sâu đậm giữa thằng nhỏ và Ba Thời, qua động tác:“đứa nhỏ la lớn "má về" và buông gáo chạy ra mừng rỡ”.
Cho nên, không những Hồ Biểu Chánh đem tác phẩm của Malot vào Việt Nam mà ông còn hiện đại hoá tác phẩm của Malot, từ một tự truyện lãng mạn thế kỷ XVIII, chuyển sang một tiểu thuyết hiện thực tả chân, thế kỷ XX. Đọc Malot, ta thấy như có màn sương phủ lên nhũng diễn biến trong quá khú, còn dộc Hồ Biểu Chánh ta thấy ngay rành rành hình ảnh Ba Thời "xăm xăm" đi vào, thằng Được buông gáo, la lớn "má về" và mừng rỡ chạy ra đón mẹ.
Đọc thêm một đoạn nữa, đoạn Jérôme Barberin, người chồng, làm thợ ở Paris, tình cờ thấy đứa nhỏ bị bỏ rơi, Hector Malot viết:
“Một buổi sáng ở Paris, như thường lệ Jérôme đi làm qua con đường mang tên đại lộ Breteuil, rộng và nhiều cây; anh nghe tiếng trẻ khóc, dường như phát ra từ một khung cửa vườn. Trời mới rạng đông, tháng hai. Anh lại gần và thấy một đứa bé nằm trên thềm. Jérôme nhìn quanh quất xem có ai không, bỗng thấy một người nấp sau thân cây lớn, vội vàng chạy trốn” (Sans Famille, trang 29).
Cũng đoạn này, Hồ Biểu Chánh viết:
“Ba Thời đương đi, thình lình nghe trong bụi lứt dựa gò mả có tiếng con nít khóc. Ban đầu chị ta tưởng ma nhát nên ngực nhẩy hồi hộp, mặt mày tái xanh, muốn bỏ mà chạy. Song chị ta nghĩ trời mới tối không lẽ có ma, mà dầu có ma thiệt đi nữa, đây cũng đã gần nhà, không đủ lo sợ, nên chị ta đứng lại lóng nghe cho chắc coi thiệt phải con nít khóc hay không.
Ba Thời đứng lóng nghe thì tiếng khóc một hồi rồi nín. Chị ta vừa muốn bỏ đi, lại nghe khóc nữa. Chị ta mới làm gan lần lần đi vô chỗ bụi lứt coi vì cớ nào mà có con nít khóc trong đó. Đi gần tới thì tiếng khóc lại càng lớn hơn nữa” (Cay đắng mùi đời, trang 16).
Rõ ràng là văn Hồ Biểu Chánh lôi cuốn hơn, dù là người đọc là Việt hay Pháp, ở đây ngoài việc Malot "có văn" còn Hồ "lời văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt" như Đông Hồ phê phán, nghiã là môm na mách qué, "không có văn", vậy mà nó cuốn hút chúng ta như xem phim trinh thám. Hồ biến một cảnh tầm thường trở thành ma quái, sống động, với những chi tiết, ly kỳ, rùng rợn... qua những chữ "thình lình, gò mả, ma nhát, ngực nhẩy, tái xanh..."
Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh mô tả cảnh Ba Thời bước vô bụi, thấy đứa bé nằm trên cái mền, bèn vội cuốn đứa bé vào mền, rồi ôm cả bọc tất tả đi vào nhà vợ chồng chú Tích gần đấy. Tới nhà chú Tích:
“Ba Thời bèn thuật hết đầu đuôi việc mính xí được đứa nhỏ lại cho vợ chồng chú Tích nghe, rồi mới biểu thím Tích đem đèn lại đặng có dở đứa nhỏ ra coi bao lớn, con trai hay là con gái, có đau ốm chi hay không.
Ba Thời ngồi ghé phiá đầu ván, thím Tích thì cầm đèn, còn chú Tích với con Thiện thì đứng ngó. Ba Thời dở mền ra thì thấy một đứa con trai, chừng năm sáu tháng, da trắng, tóc đen, môi son, miệng rộng, cườm tay như ống chỉ, bắp chân như củ cải, đầu đội cái mũ kết bằng lụa màu bông phấn, mình mặc một cái áo đầm cũng bằng lụa màu bông hường, ở truồng mà chưn có mang một đôi vớ bằng chỉ len màu lông két, còn cổ lại có đeo một sợi dây chuyền vàng nhỏ. Đứa nhỏ bị chói đèn nên nheo nheo con mắt một hồi rồi bú tay, ngó đèn không khóc la chi hết.
Ba Thời thấy nó trắng trẻo ngộ nghĩnh mà chẳng bịnh hoạn thì mừng húm, liền bồng mà hun trơ hun trất rồi nói rằng: “Con ai như vầy mà đem đi bỏ cho đành! Mình xí được, thôi, để mình nuôi chơi” (trang 17-18).
Tất cả những chi tiết và hoạt cảnh này không có trong tác phẩm của Malot.
Thế giới của Malot là thế giới đã qua, trầm lặng của truyện kể trải dài trong quá khứ, bằng một lối viết thơ mộng, chân thực, hiền lành, trong hồi ức.
Thế giới của Hồ Biểu Chánh là thế giới hiện tại, sống động, đầy âm thanh và động tác. Hồ Biểu Chánh mở ra một khung trời hiện thực, tả chân. Ông tận dụng triệt để những âm thanh trầm bổng của tiếng Việt, đặc biệt tiếng Việt miền Nam, giàu từ láy, nhiều âm sắc, khiến cho hoạt cảnh Ba Thời nhặt được đứa bé, diễn ra như trong một cuốn phim gây cấn đầy hình ảnh, âm thanh, màu sắc. Mỗi nhân vật đều được ông mô tả kỹ càng, từ Ba Thời đến đứa bé năm sáu tháng vừa “xí” được. Không chỉ có cảnh Ba Thời xí được đứa nhỏ, mà tất cả những cảnh khác của Hồ Biểu Chánh, luôn luôn mang tính chất động như thế. Không chỉ đối với Malot, trong một tác phẩm khác, cảm tác Decourselle, cùng cảnh bắt được đứa nhỏ đem về nuôi, Hồ Biểu Chánh viết:
“Gần hết nửa canh năm, hướng đông sao mai đã ló mọc. Bầu trời rực sáng, nên chỗ đen đen, chỗ đỏ đỏ; mặt cỏ gội sương nên khoảnh ướt ướt, khoảnh khô khô.
Có một người đàn ông, tuổi trên bốn mươi, ở phía dưới trường đua ngựa cũ Sài Gòn, theo đường quản hạt lầm lũi đi riết lên xóm Chí Hoà, hai tay có ôm một đứa con nít chừng năm, sáu tuổi.(...)
Người bồng đứa nhỏ đi đến xóm Chí Hoà rồi quẹo vô một cái bờ nhỏ bên phía tay trái. Bờ quanh co mà lại tối mò, dưới chơn ngọn cỏ đưa ngọn lúp xúp, trên đầu cây giao nhành bít chịt, cảnh coi hiểm lắm, nếu ai không quen thuộc thì trong lúc ban đêm như vầy ắt nhát bước chơn vào. Người nầy tuông ngọn cỏ mà đi xăng xái cũng như ngoài đường trống, chẳng có chút chi bợ ngợ. Đi được chừng vài trăm bước thì tới một cái nhà tranh nhỏ và thấy cửa vách xịch xạc, người ấy giở cửa chun vào kêu rằng: “Mầy a, mầy a, dậy đốt đèn coi nào”.
Bước vô nhà rồi, người ấy mò lại bộ ván, để đứa nhỏ ngồi xuống và kêu nữa rằng: “Mầy a , dậy đốt đèn lên”.
Ở phía trong có một người đàn bà lục tục mò hộp quẹt đốt đèn rồi bưng ra. Chị ta dòm thấy có một đứa con nít ngồi khóc trên ván thì chưng hửng, nên ngó người đàn ông mà hỏi rằng:
- Con của ai ở đâu vậy?
- Của họ mới cho tao.
- Họ cho mà mình lãnh về làm gì?
- Lãnh về nuôi, chớ lãnh làm gì.
- Úy! Mẹ ơi, ai mà nuôi con nít cho đặng?
(Trích Vì nghiã vì tình, 1929, cảm tác Decourselle, đoạn mở đầu).
Hai nhân vật trên đây là vợ chồng Tư Cu, Tư Tiền. Tư Cu đi ăn trộm, hắn cạy cửa một nhà giàu, thấy động, không dám vào, trở ra, đợi mấy tiếng sau mọi người ngủ cả, mới vào lại. Vừa vào thì bị thộp cổ. Chủ nhà chịu tha, nếu hắn nhận nuôi một đứa nhỏ, còn cho hắn ba trăm đồng. Hắn mừng húm, ôm đức nhỏ vể, kể chuyện lại cho vợ nghe:
“- Chuyện kỳ lắm. Đêm nay tao đi, tao tưởng bị rồi, té ra khỏi hại mà lại may quá. Hồi 12 giờ khuya, tao ghé rình cái nhà lầu ở đường Thuận Kiều. Tao biết nhà ấy là người Việt nên tao không sợ. Tao đứng ngoài cửa sổ mà rình hơn một giờ đồng hồ, trong nhà tối mò mà lại vắng teo. Tao chắc họ ngủ mê tao mới cạy cửa sổ. “Đ.m.”, không dè cửa sổ đó ngay bộ ván, lại có một người nằm đó nữa chớ! Tao nhát nhát, sợ chung vô động ván họ hay. Tao muốn bỏ mà đi làm chỗ khác, ngặt cửa đã phá rồi, bỏ thì uổng lắm, mà trời lại gần sáng, đi làm chỗ nào nữa cho được. Tao đứng rình hoài, đến gần ba giờ tao mới lén chun vô. Tao bò trên ván nhẹ nhẹ, không dè người nằm đó họ hay nên họ cũng rình tao. Tao vừa muốn bước chân xuống đất thì người ấy vùng ngồi dậy, nhảy đạp tao một cái té nằm sấp ngay chừ, rồi nó chận cổ đè trên lưng tao mà bắt tao.
- Úy mẹ ôi! sao mình không đánh mà giải vây?
- Giải khỉ họ! Tao bị đạp một cái té sấp tức quá, cựa quậy không nổi, còn con dao tao cầm trong tay thì nó văng xa lắc, còn giống gì đâu mà cự. Hồi đó tao tưởng cái mạng tao đã hết rồi, tao chắc phải vô khám, nên tao nằm chịu phép. Thằng bắt tao đó nắm cổ kéo tao dậy rồi dắt tao đi lại chỗ đèn khí mà vặn đèn lên. Tao thấy con dao của tao văng nằm dựa trên ghế, tao muốn nhảy lại giựt chém giải vây, ngặt vì cái ngực tao tức quá, tao liệu thế chống cự không nổi, tao mới ngồi dựa vách tường mà năn nỉ.
Thằng thầy bắt tao đó nó còn trai mà nó mạnh thiệt. Nó để tao ngồi đó, nó bước lui, lượm con dao rồi nó cầm trong tay mà hăm tao. Tao cùng thế, tao mới năn nỉ xin nó tha; tao nói mầy đẻ, mà lại đau nặng, không có tiền chạy thuốc, nên tao mới làm bậy, chớ không phải tao quen cái nghề ăn trộm. Thằng thầy đó nó tính giống gì không biết, mà nó nín thinh, một hồi nó biểu tao phải lãnh mà nuôi một đứa con nít thì nó mới chịu thả tao. Tao than nghèo, không có đủ cơm mà ăn, có dư đâu mà dám lãnh nuôi con nuôi. Tao mại hơi với nó vậy mà, biết hôn, miễn nó thả tao rồi thì thôi, thứ con nít mình muốn nuôi thì nuôi, nếu không muốn nuôi thì mình bán cho người khác nuôi chớ có khó gì. Tao mại hơi với nó như vậy mà nó ngu quá, nó lại nói như tao chịu lãnh đứa nhỏ thì nó cho tao tiền bạc mà nuôi. Sướng quá! Tao chịu liền. Nó mới đi bồng thằng nhỏ nó đưa cho tao với mấy trăm đồng bạc. (Trích Vì nghiã vì tình, 1929, cảm tác Decourselle, đoạn mở đầu).
So sánh đoạn Ba Thời nhặt được đứa nhỏ trong bụi (cảm tác Malot) và đoạn Tư Cu bị buộc nuôi đứa nhỏ (cảm tác Decourselle), hai khung cảnh hoàn toàn khác nhau, nhưng tính chất “động” trong câu văn và cách tạo “không khí” cho bối cảnh vẫn còn đó:
Không khí Ba Thời là không khí nhà quê, Ba Thời đi đêm sợ ma. Không khí Tư Cu là không khí ngoại ô thành thị. Lời kể của Tư Cu rất đặc biệt, không bằng phẳng thẳng tuột như một lời trần thuật, mà gồ ghề, hồi hộp, dật gân. Trong lời kể, hắn chuyển động không ngừng: tao đi, tao tưởng, té ra, tao rình, tao biết, tao đứng, tao chắc, tao nhát nhát, tao muốn bỏ, tao bò, nó chận cổ... Tư Cu không chỉ chuyển động chân tay, mà còn chuyển động trong đầu óc, thay đổi mọi suy tính. Hắn luôn luôn gặp những: té ra, không dè, ngay chừ, như thể hắn bị gài thêm những bất trắc, câu chuyện hắn kể càng tăng sự giật gân, giật cốt. Không khí đạo trích không chỉ dùng lại ở cái tên ngoại ô Chí Hoà, dẫn đến khám, đến tù, mà còn nằm trong những chữ: lúp xúp, bít chịt, hiểm lắm, ắt nhát, xăng xái, bợ ngợ, xịch xạc... bản thân những chữ này đã mang tính “gian”, tính “trộm” trong mình.
Tất cả nằm trong phép lạ của ngôn ngữ. Chính cái ngôn ngữ ấy đã biến đêm tối thành đạo trích. Biến tĩnh thành động. Ví dụ, một bức tranh quê im ắng:
“Trong nhà im lìm vắng vẻ, chỉ có mấy con gà giò kiếm ăn chéo chéc dưới sàn, với một con chó vàng ốm, nằm dựa xó cửa lim dim như buồn ngủ. Cách một lát con chó vùng đứng dậy ngoắt đuôi, mấy con gà giựt mình chớp cánh chạy vô buồng, còn ngoài bờ có một đứa trai nhỏ, chừng tám chín tuổi, trần truồng, thủng thẳng lùa một bầy vịt vô sân, sau lưng có một con heo đen ột ệt đi theo lấm lem lấm luốc. Vô tới sân con heo đứng dựa đám rau đắng ngoắt đuôi mà ngó vô nhà, còn đứa nhỏ thì chạy lăng xăng chận bầy vịt mà nhốt.
Lúc thằng nhỏ đương đóng cửa chuồng vịt thì con chó thủng thẳng bước ra ngoắt đuôi mừng, rồi liếm cẳng liếm tay, coi như hình tiếp rước.
Thằng nhỏ vỗ trên lưng con chó vài cái rồi đi lại chỗ khạp nước để trước cửa đứng mà kêu heo: Quắn, Quắn ột! Quắn ột! ột, ột, ...”
(Cay đăng mùi đời, trang 16)
Những hoạt cảnh như thế không hề có trong tác phẩm của Malot, của Decourselle nói riêng, và của các nhà văn Pháp nói chung. Dù Malot có muốn, cũng khó có thể mô tả như thế được, bởi tiếng Pháp không có dấu. Ngay đến tiếng Việt, cũng không tìm thấy nhà văn nào xử dụng ngôn ngữ tài tình như Hồ Biểu Chánh.
Nếu trong lời kể của Tư Cu, Hồ Biểu Chánh dùng động từ để diễn tả hành động của tay ăn trộm bị bắt quả tang, thì trong bức tranh quê trên đây, ông dùng toàn vần trắc để đạo diễn các động vật: gà chéo chéc ăn, chó vàng ốm nằm lim dim như buồn ngủ rồi đứng dậy ngoắt đuôi, liếm cẳng, liếm tay, con gà giựt mình chớp cánh chạy, thằng nhỏ trần truồng, thủng thẳng lùa bầy vịt, con heo đen ột ệt lấm lem lấm luốc... Thanh trắc gợi hình và gợi âm nhiều hơn thanh bằng. Âm trắc làm cho bức tranh gồ lên trụt xuống. Âm trắc tạo không gian, âm trắc trong văn chương giống như Cézanne khi vẽ dựng những thể khối đề tạo chiều sâu, chiều dầy cho bức tranh và mở đường cho hội họa lập thể.
Hồ Biểu Chánh có hàng trăm cách khác nhau để tạo khí động như vậy trong một cảnh tĩnh. Nói theo cách phân tích ngôn ngữ học, thì văn phong Hồ Biểu Chánh có hình thức nổi (typographique) khác với văn phong bằng phẳng (linéaire) của Hector Malot.
Với cách tạo không khí và quang cảnh bằng chữ nổi, Hồ Biểu Chánh đã xác định một hình thức tả chân sống động, chưa từng có, từ năm 1912 cho đến ngày nay trong văn chương Việt Nam. Trong số những người đi sau, rất lâu sau ông, mới có một Vũ Trọng Phụng, cũng tài tình, bằng một phương pháp khác, đã đạt được tầm cỡ hiện thực tả chân xã hội như Hồ Biểu Chánh.
Last edited by LDN on Sat Oct 15, 2022 4:41 am; edited 1 time in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Hồ Biểu Chánh cảm tác Victor Hugo
Les Misérables hay Những kẻ khốn cùng của Victor Hugo là một trường thiên tiểu thuyết gồm 10 quyển, tác giả bắt đầu viết từ năm 1845 đến 1847, rồi bỏ dở vì hoạt động chính trị, sau đó ông bị trục xuất khỏi nước Pháp, phải sống lưu vong trong gần 20 năm từ 1851 đến 1870, Les Misérables viết xong năm 1861, in năm 1862, khi Victor Hugo đang sống ở Anh.
Les misérables là một thiên anh hùng ca đấu tranh xã hội viết theo lối hiện thực Balzac. Tác phẩm phản ảnh ý thức đấu tranh chính trị và xã hội của Hugo. Thời gian tiểu thuyết trải dài trong thế kỷ XIX ở Pháp, với những nhân vật tiêu biểu cho các thành phần xã hội, mà vai chính là Jean Valjean, người tù khổ sai. Jean Valjean là một thứ homme du peuple, một nhân dân theo đúng nghiã thời thượng lúc bấy giờ. «Nhân dân» này có thể trở nên tốt hoặc xấu, tùy theo hoàn cảnh và môi trường sống. Và chính môi trường mục nát của xã hội Pháp thế kỷ XIX đã đầy đọa Valjean, bắt sống oan ức tù tội trong 20 năm. Trong Les misérables không chỉ có một Jean Valjean mang bộ mặt khốn cùng mà bao nhiêu nhân vật khác cũng có những nét khốn cùng như thế, toàn bộ các nhân vật vẽ nên sự tàn nhẫn của một xã hội bất công, vô nhân, cần phải được tẩy uế toàn diện. Tiểu thuyết của Victor Hugo trải rộng trên bề dầy lịch sử, xã hội Pháp, thời kỳ công nghiệp bắt đầu phát triển, với những tranh chấp và xáo trộn chính trị giữa phe cộng hoà tiến bộ và phe bảo thủ bảo hoàng.
Là một chính khách và là một nhà văn chủ trương dân chủ, tự do và nhân bản, trong Les Misérables, Hugo khắc hoạ bối cảnh đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, xuyên qua tác phẩm văn học. Ông tuyên bố : «Tôi đứng về phiá những kẻ bị loại trừ, bị lưu đầy» và tác phẩm chứng minh cho câu nói trên. Les Misérables được hình thành như một anh hùng ca về đạo nhân, đức nhân theo nghiã Ky-tô giáo, Hugo đã dành trọn quyển một, để ca tụng đạo đức của Giám mục Myriel, người đã cải tà quy chính Jean Valjean.
Tác phẩm nghiêng xuống những đứa trẻ bụi đời, sống lang thang trong các đô thị công nghiệp hoá như Gavroche, những đứa bé mồ côi như Cosette, những phụ nữ bán thân nuôi con như Fantine. Tác phẩm tố cáo một xã hội duy luật, một thứ luật pháp chủ quan, độc đoán, mù quáng, vô nhân đạo.
Tác phẩm xây dựng chung quanh nhân vật chính Jean Valjean. Jean Valjean nghèo khổ, đói khát. Vì ăn cắp một miếng bánh mì về nuôi các cháu nên bị bắt, bị tù, vượt ngục nhiều lần, mỗi lần thêm án, từ 5 năm lên đến 20 năm. Mãn hạn tù Valjean trở thành kẻ hận đời, muốn trả thù xã hội. Sau được giám mục Myriel giác ngộ. Vì cần mẫn làm ăn, anh trở nên giàu có, và từ đây, anh dùng tài sản của mình vào việc từ thiện, cứu đời, nhưng những nghiệp chướng vẫn chưa thôi đeo đuổi và Jean Valjean phải đi hết số phận mình, như một vì sao xấu.
Baudelaire, trong bài tựa cuốn Les Misérables, đã chỉ định tác phẩm như một cuốn sách về lòng nhân ái. Hơn một trăm năm sau khi tác phẩm ra đời, những khuôn mặt trong Les Misérables như Jean Valjean, Gravoche, Cosette... tái hiện trên màn ảnh, trên kịch trường Pháp, như những biểu tượng sống của sự lầm than, áp bức.
*
Cảm tác một tác phẩm như thế không phải dễ. Bởi vì phải làm sao, ít nhất, nếu không vượt được nguyên bản, thì cũng phải đạt được tính độc sáng của một văn bản mới. Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh đã thành công trên bình diện: khắc họa những chân dung con người đói khổ, khốn cùng, trong xã hội Việt Nam thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn. Ảnh hưởng đạo đức và triết lý Á đông tạo một khuôn mặt Jean Valjean Việt Nam trong hình ảnh Lê Văn Đó, trở thành mẫu mực cho những khuôn mặt cùng đinh sẽ xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam sau này.
Chúng ta còn có thể dựa vào tác phẩm Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh như một nguồn văn hoá có thể khai thác để rút ra những bức chân dung, những chủ đề, những phong tục tập quán, những ngôn ngữ, y phục, những trữ lượng thông tin vô cùng quý giá về xã hội Việt Nam thế kỷ XIX. Ngọn cỏ gió đùa ngoài chất bi kịch còn chuyên chở những tư tưởng cải tạo xã hội dựa trên giáo lý Phật, Nho; khác hẳn với tinh thần đạo Chúa của Victor Hugo.
Hồ Biểu Chánh đã dành 5 năm để dựng truyện Ngọn cỏ gió đùa, và khi dựng xong, ông viết trong vòng 2 tháng. Tác phẩm hoàn tất và in năm 1926: năm Phan Châu Trinh mất, Nguyễn An Ninh vào tù lần thứ nhất. Trước 1926, Việt Nam chưa có tiểu thuyết nào tầm cỡ như Ngọn cỏ gió đùa.
Hồ Biểu Chánh giữ nguyên cốt truyện Les Misérables, nhưng đưa vào xã hội Việt Nam thế kỷ XIX, dưới các thời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Tác phẩm đề cao các giá trị Á Đông: lòng trọng nghĩa khinh tài của người chính nhân quân tử, nghiã từ bi hỉ xả của đức Phật Thích Ca, lòng đoan trinh của người phụ nữ và đạo hiếu trong gia đình.
Jean Valjean, Việt hoá dưới căn cước Lê Văn Đó, một nông dân khốn cùng, trong thời mất mùa đói kém, không kiếm được việc. Vì không đành lòng nhìn lũ cháu 7 đứa sắp chết đói, Lê Văn Đó lén bưng trộm nồi cháo cho heo ăn, ở nhà một điền chủ giàu, bị người ta bắt, xông vào đánh đập. Lê Văn Đó chống cự. Rút cục vẫn bị bắt. Bị đánh 100 trượng, bị đồ 5 năm về tội cướp của và hành hung. Nhiều lần vượt ngục, mỗi lần tăng án, tổng cộng 20 năm tù.
Từ một anh lực điền hiền lành chất phác, chưa hề biết oán hận lúc vào tù.
20 năm sau, khi ra tù, Lê Văn Đó trở thành một thứ thảo khấu lầm lỳ, hung hãn.
Lê Văn Đó đến gõ cửa chùa Chánh Tâm, với tư thế hách dịch của một Tôn Ngộ Không, tay cầm hèo, miệng quát hoà thượng trụ trì :
«Tao đây là Lê Văn Đó, ở Giồng Tre, người ta nói tao ăn trộm nên đầy tao hai mươi năm. Nay tao mãn tù về xứ. Ba ngày rày tao không có cơm ăn. Tới đâu xin họ cũng đuổi không cho ăn nên tao đói bụng lung lắm. Mầy chịu cho tao một vài chén cơm ăn đỡ đói hay không thì mày nói phứt đi, tao không thèm nài nỉ nữa đâu» (Ngọn cỏ gió đùa, trang 48).
Hoà thượng Chánh Tâm không nổi giận, từ tốn đãi Đó như một thượng khách, cho thay quần áo mới, cho ăn, cho ngủ. Hoà thượng ngày trước làm quan tới chức Án sát (được vua ban cho bộ chén) nhưng vì chán cảnh thối nát quan trường, nên trở về đi tu.
Lê Văn Đó đợi mọi người ngủ say, ăn cắp bộ chén ngọc của Hoà Thượng mà lẻn đi. Giữa đường bị bắt, lý trưởng khám thấy đồ ăn cắp của nhà chùa nên đem giải về chùa cho Hoà thượng nhận mặt, trước khi giải lên huyện. Hoà thượng nhìn thấy bộ chén của mình, bảo lý trưởng: « Đồ này là đồ của bần đạo cho chớ không phải là đồ ăn trộm» và lấy thêm 5 nén bạc cho Lê Văn Đó có đủ lộ phí để tìm về quê cũ mà làm ăn.
Lê Văn Đó tiếp tục cuộc hành trình về quê, trên đường vẫn làm bậy: giữa đường cướp giật nồi cơm của hai vợ chồng người ăn mày già. Nhưng lần này, Đó vừa tìm được chỗ vắng rút nồi cơm ra ăn, thì nghe thấy tiếng quạ kêu: quạ quạ. Tiếng quạ vừa dứt, Đó tính bốc cơm ăn, lại nghe tiếng chuông kêu bon, bon... làm Đó giựt mình. Mà « hễ nghe tiếng chuông thì anh ta rùng mình rởn óc, rồi vang vẳng bên tai lại nghe tiếng khóc than của hai vợ chồng ông già » bị cướp cơm, Đó đành quay trở lại lén trả cho vợ chồng ăn mày nồi cơm trót cướp giật lúc nãy, thì thấy tâm mình lắng xuống. Lê Văn Đó chẳng khác gì Tôn Ngộ Không, mỗi lần làm bậy, lại lên cơn nhức đầu vì cái vòng kim cô của Đức Phật siết lại. Hoà thượng Chánh Tâm không dùng vòng kim cô, nhưng đã cứu Lê Văn Đó bằng một lời nói dối, và cảm hoá Lê Văn Đó bằng một nghĩa cử thật.
Les Misérables hay Những kẻ khốn cùng của Victor Hugo là một trường thiên tiểu thuyết gồm 10 quyển, tác giả bắt đầu viết từ năm 1845 đến 1847, rồi bỏ dở vì hoạt động chính trị, sau đó ông bị trục xuất khỏi nước Pháp, phải sống lưu vong trong gần 20 năm từ 1851 đến 1870, Les Misérables viết xong năm 1861, in năm 1862, khi Victor Hugo đang sống ở Anh.
Les misérables là một thiên anh hùng ca đấu tranh xã hội viết theo lối hiện thực Balzac. Tác phẩm phản ảnh ý thức đấu tranh chính trị và xã hội của Hugo. Thời gian tiểu thuyết trải dài trong thế kỷ XIX ở Pháp, với những nhân vật tiêu biểu cho các thành phần xã hội, mà vai chính là Jean Valjean, người tù khổ sai. Jean Valjean là một thứ homme du peuple, một nhân dân theo đúng nghiã thời thượng lúc bấy giờ. «Nhân dân» này có thể trở nên tốt hoặc xấu, tùy theo hoàn cảnh và môi trường sống. Và chính môi trường mục nát của xã hội Pháp thế kỷ XIX đã đầy đọa Valjean, bắt sống oan ức tù tội trong 20 năm. Trong Les misérables không chỉ có một Jean Valjean mang bộ mặt khốn cùng mà bao nhiêu nhân vật khác cũng có những nét khốn cùng như thế, toàn bộ các nhân vật vẽ nên sự tàn nhẫn của một xã hội bất công, vô nhân, cần phải được tẩy uế toàn diện. Tiểu thuyết của Victor Hugo trải rộng trên bề dầy lịch sử, xã hội Pháp, thời kỳ công nghiệp bắt đầu phát triển, với những tranh chấp và xáo trộn chính trị giữa phe cộng hoà tiến bộ và phe bảo thủ bảo hoàng.
Là một chính khách và là một nhà văn chủ trương dân chủ, tự do và nhân bản, trong Les Misérables, Hugo khắc hoạ bối cảnh đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, xuyên qua tác phẩm văn học. Ông tuyên bố : «Tôi đứng về phiá những kẻ bị loại trừ, bị lưu đầy» và tác phẩm chứng minh cho câu nói trên. Les Misérables được hình thành như một anh hùng ca về đạo nhân, đức nhân theo nghiã Ky-tô giáo, Hugo đã dành trọn quyển một, để ca tụng đạo đức của Giám mục Myriel, người đã cải tà quy chính Jean Valjean.
Tác phẩm nghiêng xuống những đứa trẻ bụi đời, sống lang thang trong các đô thị công nghiệp hoá như Gavroche, những đứa bé mồ côi như Cosette, những phụ nữ bán thân nuôi con như Fantine. Tác phẩm tố cáo một xã hội duy luật, một thứ luật pháp chủ quan, độc đoán, mù quáng, vô nhân đạo.
Tác phẩm xây dựng chung quanh nhân vật chính Jean Valjean. Jean Valjean nghèo khổ, đói khát. Vì ăn cắp một miếng bánh mì về nuôi các cháu nên bị bắt, bị tù, vượt ngục nhiều lần, mỗi lần thêm án, từ 5 năm lên đến 20 năm. Mãn hạn tù Valjean trở thành kẻ hận đời, muốn trả thù xã hội. Sau được giám mục Myriel giác ngộ. Vì cần mẫn làm ăn, anh trở nên giàu có, và từ đây, anh dùng tài sản của mình vào việc từ thiện, cứu đời, nhưng những nghiệp chướng vẫn chưa thôi đeo đuổi và Jean Valjean phải đi hết số phận mình, như một vì sao xấu.
Baudelaire, trong bài tựa cuốn Les Misérables, đã chỉ định tác phẩm như một cuốn sách về lòng nhân ái. Hơn một trăm năm sau khi tác phẩm ra đời, những khuôn mặt trong Les Misérables như Jean Valjean, Gravoche, Cosette... tái hiện trên màn ảnh, trên kịch trường Pháp, như những biểu tượng sống của sự lầm than, áp bức.
*
Cảm tác một tác phẩm như thế không phải dễ. Bởi vì phải làm sao, ít nhất, nếu không vượt được nguyên bản, thì cũng phải đạt được tính độc sáng của một văn bản mới. Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh đã thành công trên bình diện: khắc họa những chân dung con người đói khổ, khốn cùng, trong xã hội Việt Nam thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn. Ảnh hưởng đạo đức và triết lý Á đông tạo một khuôn mặt Jean Valjean Việt Nam trong hình ảnh Lê Văn Đó, trở thành mẫu mực cho những khuôn mặt cùng đinh sẽ xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam sau này.
Chúng ta còn có thể dựa vào tác phẩm Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh như một nguồn văn hoá có thể khai thác để rút ra những bức chân dung, những chủ đề, những phong tục tập quán, những ngôn ngữ, y phục, những trữ lượng thông tin vô cùng quý giá về xã hội Việt Nam thế kỷ XIX. Ngọn cỏ gió đùa ngoài chất bi kịch còn chuyên chở những tư tưởng cải tạo xã hội dựa trên giáo lý Phật, Nho; khác hẳn với tinh thần đạo Chúa của Victor Hugo.
Hồ Biểu Chánh đã dành 5 năm để dựng truyện Ngọn cỏ gió đùa, và khi dựng xong, ông viết trong vòng 2 tháng. Tác phẩm hoàn tất và in năm 1926: năm Phan Châu Trinh mất, Nguyễn An Ninh vào tù lần thứ nhất. Trước 1926, Việt Nam chưa có tiểu thuyết nào tầm cỡ như Ngọn cỏ gió đùa.
Hồ Biểu Chánh giữ nguyên cốt truyện Les Misérables, nhưng đưa vào xã hội Việt Nam thế kỷ XIX, dưới các thời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Tác phẩm đề cao các giá trị Á Đông: lòng trọng nghĩa khinh tài của người chính nhân quân tử, nghiã từ bi hỉ xả của đức Phật Thích Ca, lòng đoan trinh của người phụ nữ và đạo hiếu trong gia đình.
Jean Valjean, Việt hoá dưới căn cước Lê Văn Đó, một nông dân khốn cùng, trong thời mất mùa đói kém, không kiếm được việc. Vì không đành lòng nhìn lũ cháu 7 đứa sắp chết đói, Lê Văn Đó lén bưng trộm nồi cháo cho heo ăn, ở nhà một điền chủ giàu, bị người ta bắt, xông vào đánh đập. Lê Văn Đó chống cự. Rút cục vẫn bị bắt. Bị đánh 100 trượng, bị đồ 5 năm về tội cướp của và hành hung. Nhiều lần vượt ngục, mỗi lần tăng án, tổng cộng 20 năm tù.
Từ một anh lực điền hiền lành chất phác, chưa hề biết oán hận lúc vào tù.
20 năm sau, khi ra tù, Lê Văn Đó trở thành một thứ thảo khấu lầm lỳ, hung hãn.
Lê Văn Đó đến gõ cửa chùa Chánh Tâm, với tư thế hách dịch của một Tôn Ngộ Không, tay cầm hèo, miệng quát hoà thượng trụ trì :
«Tao đây là Lê Văn Đó, ở Giồng Tre, người ta nói tao ăn trộm nên đầy tao hai mươi năm. Nay tao mãn tù về xứ. Ba ngày rày tao không có cơm ăn. Tới đâu xin họ cũng đuổi không cho ăn nên tao đói bụng lung lắm. Mầy chịu cho tao một vài chén cơm ăn đỡ đói hay không thì mày nói phứt đi, tao không thèm nài nỉ nữa đâu» (Ngọn cỏ gió đùa, trang 48).
Hoà thượng Chánh Tâm không nổi giận, từ tốn đãi Đó như một thượng khách, cho thay quần áo mới, cho ăn, cho ngủ. Hoà thượng ngày trước làm quan tới chức Án sát (được vua ban cho bộ chén) nhưng vì chán cảnh thối nát quan trường, nên trở về đi tu.
Lê Văn Đó đợi mọi người ngủ say, ăn cắp bộ chén ngọc của Hoà Thượng mà lẻn đi. Giữa đường bị bắt, lý trưởng khám thấy đồ ăn cắp của nhà chùa nên đem giải về chùa cho Hoà thượng nhận mặt, trước khi giải lên huyện. Hoà thượng nhìn thấy bộ chén của mình, bảo lý trưởng: « Đồ này là đồ của bần đạo cho chớ không phải là đồ ăn trộm» và lấy thêm 5 nén bạc cho Lê Văn Đó có đủ lộ phí để tìm về quê cũ mà làm ăn.
Lê Văn Đó tiếp tục cuộc hành trình về quê, trên đường vẫn làm bậy: giữa đường cướp giật nồi cơm của hai vợ chồng người ăn mày già. Nhưng lần này, Đó vừa tìm được chỗ vắng rút nồi cơm ra ăn, thì nghe thấy tiếng quạ kêu: quạ quạ. Tiếng quạ vừa dứt, Đó tính bốc cơm ăn, lại nghe tiếng chuông kêu bon, bon... làm Đó giựt mình. Mà « hễ nghe tiếng chuông thì anh ta rùng mình rởn óc, rồi vang vẳng bên tai lại nghe tiếng khóc than của hai vợ chồng ông già » bị cướp cơm, Đó đành quay trở lại lén trả cho vợ chồng ăn mày nồi cơm trót cướp giật lúc nãy, thì thấy tâm mình lắng xuống. Lê Văn Đó chẳng khác gì Tôn Ngộ Không, mỗi lần làm bậy, lại lên cơn nhức đầu vì cái vòng kim cô của Đức Phật siết lại. Hoà thượng Chánh Tâm không dùng vòng kim cô, nhưng đã cứu Lê Văn Đó bằng một lời nói dối, và cảm hoá Lê Văn Đó bằng một nghĩa cử thật.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Về tới quê, mẹ đã chết, lũ cháu cũng chết đói, chị dâu phiêu bạt không biết nơi nào. Nhờ nghiã cử của hoà thượng, Lê Văn Đó, dùng 5 nén bạc để lập thân, đổi tên mình thành Chánh Tâm, phá rừng làm ruộng, thành một điền chủ giàu có, gặp khi có loạn Lê Văn Khôi, Chánh Tâm, vì có công nuôi lính nhà vua trong ba năm, để bao vây thành Gia Định. Dẹp xong loạn, Chánh Tâm được vua Minh Mệnh ban cho chức Thiên Hộ. Và ông Thiên Hộ Chánh Tâm tiếp tục đoạn đời thứ nhì: sống từ bi hỷ xả lấy của giúp người. Trước khi trở lại vùng đời sóng gió, trong đoạn thứ ba.
Chân dung thứ nhì trong Ngọn cỏ gió đùa là Ánh Nguyệt. Ánh Nguyệt hay Fantine là hai phụ nữ sống hai xã hội khác nhau trong cùng một thế kỷ. Tâm thức Ánh Nguyệt gắn liền với giáo lý Khổng Mạnh, lấy chữ hiếu làm đầu. Vì hiếu với cha mà nàng mắc vòng ở đợ. Khi bị chồng phản bội bỏ rơi, nàng vẫn giữ trọn phẩm tiết. Không thể bán mình nuôi con như Fantine, trong xã hội Pháp; Ánh Nguyệt chết trong cảnh nghèo khó vì muốn giữ tròn trinh tiết.
Cục diện lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX, không có những đấu tranh cho dân chủ, dân quyền như trong xã hội Pháp. Vì vậy, cuộc xung đột giữa hai ý thức hệ dân chủ và bảo thủ trong xã hội Pháp được Hồ Biểu Chánh thay thế bằng cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi chống lại vua Minh Mạng, như một phương tiện đấu tranh đối lập. Lê Văn Khôi là con nuôi của tả quân Lê Văn Duyệt, sau khi tả quân mất, nổi lên chống lại sự ngược đãi của vua Minh Mạng đối với tả quân. Cha con Vương Thế Hùng-Vương Thế Phụng, thay mặt cha con Pontmercy – Marius (biểu tượng phe dân chủ ở Pháp) lần lượt thay phiên nhau phất cờ theo phe « ngụy » (Lê Văn Khôi). Cuộc xung đột giữa hai ý thức hệ dân chủ và bảo thủ trong xã hội Pháp được thay thế bằng sự xung đột giữa hai thế hệ tiến bộ của cha con Vương Thế Hùng-Vương Thế Phụng, theo « ngụy », chống lại sự bảo thủ bảo hoàng của Đàm Tự Chấn (ông ngoại Thế Phụng), phò nhà Nguyễn.
Hồ Biểu Chánh theo khá sát cốt truyện của Victor Hugo, bỏ những đoạn dài dòng khi Victor Hugo sa đà về tôn giáo, hoặc vào những ngoại cảnh, mở chân rết ra những vùng ngoại ô xa. Hổ Biểu Chánh gói trọn nội dung xung quanh một số nhân vật chính, bỏ những nhân vật phụ như Gavroche, trẻ bụi đời, không thể có trong xã hội Việt Nam thế kỷ XIX chưa công nghiệp hoá. Giữ lại những nhân vật chính, là đối tác không thể thiếu được trong sự đối chiếu hai xã hội, hai nền văn hoá : Jean Valjean-Lê Văn Đó, Giám mục Myriel-Hoà Thượng Chánh Tâm. Fantine-Ánh Nguyệt. Cosette-Thu Vân. Thénacdier-Đỗ Cẩm. Javert-Phạm Ký, v.v...
Tác phẩm cúi xuống những thân phận lạc loài. Cả hai cuốn tiểu thuyết đều làm nhiệm vụ cứu khốn phò nguy của những lương tri văn học.
Hồ Biểu Chánh đã thực hiện trong Ngọn cỏ gió đùa, một sự giao lưu văn hoá Pháp Việt sâu sắc, nhưng đồng thời tác phẩm của ông cũng lại chia biệt hai nẻo khác nhau giữa văn hoá Đông-Tây, dù cùng chung mục đích thể hiện sự tương trợ, bác ái, giữa người với người, nhưng đạo Phật và đạo Chúa có hai triết lý sống khác nhau. Để đối chiếu với sự đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền trong xã hội Pháp thế kỷ XIX của Victor Hugo, Hồ Biểu Chánh trình bầy lòng trọng nghĩa khinh tài và lòng ái quốc nơi những người cấp tiến trong xã hội Việt, miền Nam. Tính chất đả phá xã hội ở hai nơi cũng hoàn toàn khác nhau : Bộ mặt đàng điếm bụi đời của xã hội Pháp công nghiệp hoá, với những tệ đoan, những bóc lột và bộ mặt dã man của chế độ quan lại, tham ô, hà khắc dưới triều Nguyễn với những áp bức thời phong kiến.
Nhưng điều quan trọng nhất trong Ngọn cỏ gió đùa, in năm 1926, là Hồ Biểu Chánh đã khắc tạc nên khuôn mặt Lê Văn Đó, cùng đinh, khổ sai, vượt ngục. Ba năm sau, trong Cha con nghiã nặng (1929), ông tạo ra chân dung Trần Văn Sửu, mắc oan giết vợ. Đó là hai khuôn mặt hiện thực sắc nét đầu tiên trong văn học Việt Nam, hai khuôn mặt này đã để lại dấu ấn sâu đậm, tạo mẫu cho những người viết sau hình thành những chân dung khác như Chị Dậu của Ngô Tất Tố, Mẹ Lê của Thạch Lam, Chí Phèo của Nam Cao.
Lực điền Lê Văn Đó, vô sản, vô học, là hậu thân của những khuôn mặt lừng danh trong lịch sử văn học: có nét kiêu cường hung hãn của Tôn Ngộ Không, nét từ bi hỉ xả của Đường Tam Tạng. Lê Văn Đó còn là một người bình thường, bị nội tâm dày vò trước việc phải ra đầu thú để cứu người hoặc im lặng để cứu mình, một lựa chọn của mọi cá nhân trước những thử thách cao độ về đạo sống.
Với Lê Văn Đó, Hồ Biều Chánh đã dựng nên một hình tượng lang bạt, đa nghiã của con người, mọi thời, mọi thế. Lê Văn Đó ra đời trong bối cảnh như sau:
«Năm Mậu Thìn (1808) nhằm Gia Long thất niên, tại huyện Tân Hòa, bây giờ là tỉnh Gò Công, trời hạn luôn trong hai tháng, là tháng bảy với tháng tám, không nhểu một giọt mưa. Lúa sớm gần trổ, mà bị ruộng khô nên không nở đòng đòng, lúa mùa vừa mới cấy, mà bị đất nẻ, nên cộng teo lá úa.
Cái cánh đồng, từ Rạch Lá tới Bến Lội, là vú sữa của nhơn dân trong huyện Tân Hòa, năm nào cũng nhờ đó mà nhà nhà đều được no cơm ấm áo, ngặc vì năm nay cả đồng khô héo, làm cho dân cả huyện trông thấy đều buồn bực thở than.
Tại Giồng Tre có nhà bà Trần thị bần cùng đói rách, thuở nay trời cho trúng mùa mà nhà bà cũng không được vui, huống chi năm nay mất mùa, thiên hạ nhịn đói, thì nhà bà càng thảm khổ hơn nữa» (Ngọn cỏ gió đùa, trang 7)
Trần thị, goá bụa, có hai trai: Lê Văn Đây, mới chết, để lại mẹ già đau yếu, một vợ, bẩy con. Lê Văn Đó đang đi ở đợ, được mẹ gọi về làm chủ gia đình. Trong cảnh đói kém lan tràn, Lê Văn Đó, lực điền, 20 tuổi, phải xoay sở để nuôi mẹ, chị dâu và bẩy cháu:
« Lúc ban đầu trong nhà còn khoai còn bắp, hễ bữa nào Lê Văn Ðó kiếm gạo không được thì Thị Huyền nấu khoai hoặc bắp, rồi chia cho sắp con mỗi đứa con một củ khai, hoặc đôi ba muỗng bắp mà ăn đỡ, sắp nhỏ ăn không no, đến tối Lê Văn Ðó đi làm về, chị dâu lấy tộ bắp nấu để dành mà đưa cho Lê Văn Ðó ăn, thì sắp nhỏ bu lại đứng ngó lom lom, đứa xin cho một vài hột. Thị Huyền rầy con, biểu để cho chú ăn no, đặng ngày sau có sức đi làm mà kiếm gạo. Sắp nhỏ sợ mẹ nên dang ra, song bụng đói quá, nên mặt buồn xo. Lê Văn Ðó thấy vậy thương xót, không đành ngồi ăn một mình, day qua bên nầy đút cho đứa nầy một muỗng, trở qua bên kia đút cho đứa khác một muỗng nữa, đút gần hết tộ, té ra cũng không còn đủ cho nó ăn no được.
Cách chẳng bao lâu, khoai bắp trong nhà ăn đã sạch hết. Bữa nào không ai mướn Lê Văn Ðó làm, thì cả nhà đều phải luộc rau luộc cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn. Sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo; còn Trần Thị đã già yếu rồi, mà trót mấy tháng nay bà lại chịu cơ hàn nữa, nên bà nhuốm bịnh nằm thiêm thiếp không dậy nổi.
Chân dung thứ nhì trong Ngọn cỏ gió đùa là Ánh Nguyệt. Ánh Nguyệt hay Fantine là hai phụ nữ sống hai xã hội khác nhau trong cùng một thế kỷ. Tâm thức Ánh Nguyệt gắn liền với giáo lý Khổng Mạnh, lấy chữ hiếu làm đầu. Vì hiếu với cha mà nàng mắc vòng ở đợ. Khi bị chồng phản bội bỏ rơi, nàng vẫn giữ trọn phẩm tiết. Không thể bán mình nuôi con như Fantine, trong xã hội Pháp; Ánh Nguyệt chết trong cảnh nghèo khó vì muốn giữ tròn trinh tiết.
Cục diện lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX, không có những đấu tranh cho dân chủ, dân quyền như trong xã hội Pháp. Vì vậy, cuộc xung đột giữa hai ý thức hệ dân chủ và bảo thủ trong xã hội Pháp được Hồ Biểu Chánh thay thế bằng cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi chống lại vua Minh Mạng, như một phương tiện đấu tranh đối lập. Lê Văn Khôi là con nuôi của tả quân Lê Văn Duyệt, sau khi tả quân mất, nổi lên chống lại sự ngược đãi của vua Minh Mạng đối với tả quân. Cha con Vương Thế Hùng-Vương Thế Phụng, thay mặt cha con Pontmercy – Marius (biểu tượng phe dân chủ ở Pháp) lần lượt thay phiên nhau phất cờ theo phe « ngụy » (Lê Văn Khôi). Cuộc xung đột giữa hai ý thức hệ dân chủ và bảo thủ trong xã hội Pháp được thay thế bằng sự xung đột giữa hai thế hệ tiến bộ của cha con Vương Thế Hùng-Vương Thế Phụng, theo « ngụy », chống lại sự bảo thủ bảo hoàng của Đàm Tự Chấn (ông ngoại Thế Phụng), phò nhà Nguyễn.
Hồ Biểu Chánh theo khá sát cốt truyện của Victor Hugo, bỏ những đoạn dài dòng khi Victor Hugo sa đà về tôn giáo, hoặc vào những ngoại cảnh, mở chân rết ra những vùng ngoại ô xa. Hổ Biểu Chánh gói trọn nội dung xung quanh một số nhân vật chính, bỏ những nhân vật phụ như Gavroche, trẻ bụi đời, không thể có trong xã hội Việt Nam thế kỷ XIX chưa công nghiệp hoá. Giữ lại những nhân vật chính, là đối tác không thể thiếu được trong sự đối chiếu hai xã hội, hai nền văn hoá : Jean Valjean-Lê Văn Đó, Giám mục Myriel-Hoà Thượng Chánh Tâm. Fantine-Ánh Nguyệt. Cosette-Thu Vân. Thénacdier-Đỗ Cẩm. Javert-Phạm Ký, v.v...
Tác phẩm cúi xuống những thân phận lạc loài. Cả hai cuốn tiểu thuyết đều làm nhiệm vụ cứu khốn phò nguy của những lương tri văn học.
Hồ Biểu Chánh đã thực hiện trong Ngọn cỏ gió đùa, một sự giao lưu văn hoá Pháp Việt sâu sắc, nhưng đồng thời tác phẩm của ông cũng lại chia biệt hai nẻo khác nhau giữa văn hoá Đông-Tây, dù cùng chung mục đích thể hiện sự tương trợ, bác ái, giữa người với người, nhưng đạo Phật và đạo Chúa có hai triết lý sống khác nhau. Để đối chiếu với sự đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền trong xã hội Pháp thế kỷ XIX của Victor Hugo, Hồ Biểu Chánh trình bầy lòng trọng nghĩa khinh tài và lòng ái quốc nơi những người cấp tiến trong xã hội Việt, miền Nam. Tính chất đả phá xã hội ở hai nơi cũng hoàn toàn khác nhau : Bộ mặt đàng điếm bụi đời của xã hội Pháp công nghiệp hoá, với những tệ đoan, những bóc lột và bộ mặt dã man của chế độ quan lại, tham ô, hà khắc dưới triều Nguyễn với những áp bức thời phong kiến.
Nhưng điều quan trọng nhất trong Ngọn cỏ gió đùa, in năm 1926, là Hồ Biểu Chánh đã khắc tạc nên khuôn mặt Lê Văn Đó, cùng đinh, khổ sai, vượt ngục. Ba năm sau, trong Cha con nghiã nặng (1929), ông tạo ra chân dung Trần Văn Sửu, mắc oan giết vợ. Đó là hai khuôn mặt hiện thực sắc nét đầu tiên trong văn học Việt Nam, hai khuôn mặt này đã để lại dấu ấn sâu đậm, tạo mẫu cho những người viết sau hình thành những chân dung khác như Chị Dậu của Ngô Tất Tố, Mẹ Lê của Thạch Lam, Chí Phèo của Nam Cao.
Lực điền Lê Văn Đó, vô sản, vô học, là hậu thân của những khuôn mặt lừng danh trong lịch sử văn học: có nét kiêu cường hung hãn của Tôn Ngộ Không, nét từ bi hỉ xả của Đường Tam Tạng. Lê Văn Đó còn là một người bình thường, bị nội tâm dày vò trước việc phải ra đầu thú để cứu người hoặc im lặng để cứu mình, một lựa chọn của mọi cá nhân trước những thử thách cao độ về đạo sống.
Với Lê Văn Đó, Hồ Biều Chánh đã dựng nên một hình tượng lang bạt, đa nghiã của con người, mọi thời, mọi thế. Lê Văn Đó ra đời trong bối cảnh như sau:
«Năm Mậu Thìn (1808) nhằm Gia Long thất niên, tại huyện Tân Hòa, bây giờ là tỉnh Gò Công, trời hạn luôn trong hai tháng, là tháng bảy với tháng tám, không nhểu một giọt mưa. Lúa sớm gần trổ, mà bị ruộng khô nên không nở đòng đòng, lúa mùa vừa mới cấy, mà bị đất nẻ, nên cộng teo lá úa.
Cái cánh đồng, từ Rạch Lá tới Bến Lội, là vú sữa của nhơn dân trong huyện Tân Hòa, năm nào cũng nhờ đó mà nhà nhà đều được no cơm ấm áo, ngặc vì năm nay cả đồng khô héo, làm cho dân cả huyện trông thấy đều buồn bực thở than.
Tại Giồng Tre có nhà bà Trần thị bần cùng đói rách, thuở nay trời cho trúng mùa mà nhà bà cũng không được vui, huống chi năm nay mất mùa, thiên hạ nhịn đói, thì nhà bà càng thảm khổ hơn nữa» (Ngọn cỏ gió đùa, trang 7)
Trần thị, goá bụa, có hai trai: Lê Văn Đây, mới chết, để lại mẹ già đau yếu, một vợ, bẩy con. Lê Văn Đó đang đi ở đợ, được mẹ gọi về làm chủ gia đình. Trong cảnh đói kém lan tràn, Lê Văn Đó, lực điền, 20 tuổi, phải xoay sở để nuôi mẹ, chị dâu và bẩy cháu:
« Lúc ban đầu trong nhà còn khoai còn bắp, hễ bữa nào Lê Văn Ðó kiếm gạo không được thì Thị Huyền nấu khoai hoặc bắp, rồi chia cho sắp con mỗi đứa con một củ khai, hoặc đôi ba muỗng bắp mà ăn đỡ, sắp nhỏ ăn không no, đến tối Lê Văn Ðó đi làm về, chị dâu lấy tộ bắp nấu để dành mà đưa cho Lê Văn Ðó ăn, thì sắp nhỏ bu lại đứng ngó lom lom, đứa xin cho một vài hột. Thị Huyền rầy con, biểu để cho chú ăn no, đặng ngày sau có sức đi làm mà kiếm gạo. Sắp nhỏ sợ mẹ nên dang ra, song bụng đói quá, nên mặt buồn xo. Lê Văn Ðó thấy vậy thương xót, không đành ngồi ăn một mình, day qua bên nầy đút cho đứa nầy một muỗng, trở qua bên kia đút cho đứa khác một muỗng nữa, đút gần hết tộ, té ra cũng không còn đủ cho nó ăn no được.
Cách chẳng bao lâu, khoai bắp trong nhà ăn đã sạch hết. Bữa nào không ai mướn Lê Văn Ðó làm, thì cả nhà đều phải luộc rau luộc cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn. Sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo; còn Trần Thị đã già yếu rồi, mà trót mấy tháng nay bà lại chịu cơ hàn nữa, nên bà nhuốm bịnh nằm thiêm thiếp không dậy nổi.
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Một bữa nọ Lê Văn Ðó đi tối một ngày mà không có ai mướn làm việc chi hết. Lúc trời chạng vạng tối, nó trở về nhà, hai chơn mỏi rụng, bụng đói xếp ve, lỗ tai lùng bùng, cặp mắt cháng váng. Chừng gần tới nhà, nó dừng chưn lại, gục đầu ngó xuống đất một hồi, rồi chậm rãi bước từ bước, dường như nhút nhát không muốn trở về nhà.
Nó bước vô tới đám bố trồng trước cửa, thì thấy trong nhà không có đèn đuốc chi hết, mà may nhờ có bóng trăng dọi, nên tuy không đèn nhưng sáng lờ mờ. Nó lén đi vòng qua phía tay mặt, rồi vạch vách lá mà dòm vô nhà.
Thị Huyền đương bồng đứa con út mà cho bú. Bỏ ba đứa nhỏ chạy chung quanh, một đứa nằm trên võng, một đứa vịn vai Thị Huyền, còn một đứa ngồi bên cửa, khóc và nói rằng: «Ðói bụng quá, lấy gì ăn bây giờ má? » Thị Huyền đáp rằng : «Nín đi, đừng có khóc con, đợi chút nữa chú con về đem gạo về, mẹ nấu cơm cho con ăn»
Ba đứa lớn nằm co trên ván phía bên này, lặng thinh như ngủ, chừng nghe Thị Huyền nói như vậy một đứa ngóc đầu hỏi rằng: «Chừng nào chú con về, má? » Thị Huyền đáp rằng: « Một chút nữa chú con về ». Ðứa lớn hơn hết lại khóc mà nói rằng: « Hôm qua chú về không có đem gạo về, sợ bữa nay cũng không có nữa ».
Tên Ðó đứng ngoài nghe như vậy rồi lại thấy Thị-Huyền lấy vạt áo lau nước mắt. Nó đi vòng vô phía trong, khi đi ngang chỗ chõng mẹ nó nằm, thì nó lại nghe bà Trần thị rên hù-hù.
Lê Văn Ðó thấy tình cảnh thê thảm dường ấy, thì teo gan héo ruột, nên lắc đầu thở dài, rồi lật đật bước riết ra đường, dường như nó không muốn thấy tình cảnh ấy nữa. Ra tới đường rồi nó lầm lũi đi tới hoài. Nếu lúc ấy ai cắc cớ hỏi nó đi đâu, thì chắc nó không biết đi đâu mà nói».
Nó bước vô tới đám bố trồng trước cửa, thì thấy trong nhà không có đèn đuốc chi hết, mà may nhờ có bóng trăng dọi, nên tuy không đèn nhưng sáng lờ mờ. Nó lén đi vòng qua phía tay mặt, rồi vạch vách lá mà dòm vô nhà.
Thị Huyền đương bồng đứa con út mà cho bú. Bỏ ba đứa nhỏ chạy chung quanh, một đứa nằm trên võng, một đứa vịn vai Thị Huyền, còn một đứa ngồi bên cửa, khóc và nói rằng: «Ðói bụng quá, lấy gì ăn bây giờ má? » Thị Huyền đáp rằng : «Nín đi, đừng có khóc con, đợi chút nữa chú con về đem gạo về, mẹ nấu cơm cho con ăn»
Ba đứa lớn nằm co trên ván phía bên này, lặng thinh như ngủ, chừng nghe Thị Huyền nói như vậy một đứa ngóc đầu hỏi rằng: «Chừng nào chú con về, má? » Thị Huyền đáp rằng: « Một chút nữa chú con về ». Ðứa lớn hơn hết lại khóc mà nói rằng: « Hôm qua chú về không có đem gạo về, sợ bữa nay cũng không có nữa ».
Tên Ðó đứng ngoài nghe như vậy rồi lại thấy Thị-Huyền lấy vạt áo lau nước mắt. Nó đi vòng vô phía trong, khi đi ngang chỗ chõng mẹ nó nằm, thì nó lại nghe bà Trần thị rên hù-hù.
Lê Văn Ðó thấy tình cảnh thê thảm dường ấy, thì teo gan héo ruột, nên lắc đầu thở dài, rồi lật đật bước riết ra đường, dường như nó không muốn thấy tình cảnh ấy nữa. Ra tới đường rồi nó lầm lũi đi tới hoài. Nếu lúc ấy ai cắc cớ hỏi nó đi đâu, thì chắc nó không biết đi đâu mà nói».
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
May nó đi mà không gặp ai hết. Lối nửa canh một, nó tới một xóm đông, không biết là xóm nào. Mấy nhà trong xóm đều ngủ hết, duy ở giữa xóm có một cái nhà lớn, tre trồng bao chung quanh, trong nhà đèn đốt sáng lòa, khách khứa đông dầy dầy, ăn uống vui cười inh ỏi». (Trang 11)
Chúng ta thường nghĩ miền Nam là vựa lúa, mấy ai hình dung được cảnh đói trong Nam. Đoạn văn trên đây rồi sẽ mở màn cho một hoạt cảnh tiêu biểu, đặt trước mắt độc giả hai đối cực: cảnh chết đói của một gia đình, bên cạnh cảnh ăn uống thừa thãi của một nhà giàu. Bức tranh hiện thực đớn đau này đã được Hồ Biểu Chánh dựng nên từ năm 1926. Đó là bức tranh hiện thực xã hội đầu tiên về sự đói khổ cùng cực của dân quê, về sự phung phí và tàn ác của những nhà giàu có trong làng. Sự đối chất này sẽ sống lại trong nhiều tác giả khác: Cảnh nhà giàu áp bức chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố; cảnh nhà giàu xua chó ra cắn mẹ Lê trong Nhà Mẹ Lê của Thạch Lam và một Lê Văn Đó cùng đinh hung hãn mới sẽ trở lại trong Chí Phèo của Nam Cao. Lê Văn Đó là khuôn mặt đầu tiên, tiêu biểu cho lớp người vô sản bị áp bức, trong tiểu thuyết hiện đại.
Chân dung Lê Văn Đó được hình thành qua bốn cảnh:
1- Cảnh nhà giàu ăn uống linh đình, Lê Văn Đó đến xin:
« Lê Văn Ðó thấy nhà giàu cơm ăn không hết lại mời khách mà đãi thâm tới ban đêm, rồi nhớ tới nhà mình nghèo khổ, đèn không dầu nên tối mò, mẹ đau không thuốc nằm chờ ngày chết, sắp cháu đói bụng rên khóc van vầy, thì tức tủi trong lòng, quyết bước vô mà cậy chủ nhà giàu nầy một vài giạ lúa đen về cho gia quyến ăn, đợi năm tới thuận mùa rồi làm mà trả lại ».
« Lê Văn Ðó ở ngoài xăm xăm đi vô, đứng ngay cửa cái mà ngó. Khách trong nhà mắc ăn thịt uống rượu, mắc nói nói cười cười, không ai để ý tới ngoài sân, nên không ai thấy nó. Cách một hồi lâu, ông Bá hộ dòm ra, thấy có người lạ mặt đứng trước cửa, bèn sai gia-dịch ra hỏi coi đi đâu. Lê Văn Ðó thuở nay không từng nói chuyện với ai, mà cũng không hiểu lễ phép chi hết, nên nghe người ta hỏi đi đâu, không lấy lời dịu ngọt thê thảm mà động lòng nhơn từ của người, lại nói xẳn xớn rằng: «Nhà tôi nghèo quá, tôi đi làm mướn mà không ai chịu mướn tôi làm. Bây giờ nào là mẹ, nào là chị, nào là sắp cháu nhỏ của tôi chết đói hết thảy, tôi đi đến đây, thấy nhà nầy giàu có nên tôi ghé lại mượn một ít giạ lúa về ăn đỡ ».
Sắp gia-dịch nghe rồi trở vô nhà nói làm sao với ông Bá hộ không biết, mà khách trong nhà cười rộ, rồi ông Bá hộ sai người ra đuổi Lê Văn Ðó biểu phải đi ra khỏi cửa cho mau».
(Trang 12)
2- Nhưng Lê Văn Đó cưỡng lại, không chịu đi, chủ nhà đuổi chó ra cắn:
« Lê Văn Ðó không chịu đi, cứ đứng ngó vô trong nhà, và nói lầm-bầm rằng: «Ði đâu bây giờ mà biểu người ta đi. Mẹ ta với sắp cháu đói gần chết, ta về bây giờ lấy gì mà cho ăn ».
Sắp gia-dịch thấy nó không chịu đi, mới áp lại xô đẩy. Lê Văn Ðó trì lại, sức Lê Văn Ðó mạnh quá chúng nó xô không nổi, nên chúng nó giận bèn xích chó cho cắn. Trong nhà có một bầy chó năm sáu con, hùa nhau chạy tuông ra, rồi vây chung quanh tên Ðó mà sủa om sòm. Có một con chó dữ nhảy xốc vô cắn chơn tên Ðó, bị tên Ðó đá cho một đá té lăn cù. Bầy chó sợ đạp nên chạy dan ra rồi lại áp vô sủa nữa.
Ở trong nhà và chủ và khách óng tiếng nói om sòm. Tên Ðó không hiểu họ rầy ai, phần bị bầy chó làm dữ quá, sợ một mình cự không nổi nên thủng thẳng sụt lùi mà đi ra. Tên Ðó đã ra khỏi vuông tre của ông Bá hộ rồi, mà bầy chó cũng đứng trước cửa ngõ sủa theo.
Lê Văn Ðó không biết đi đâu, cứ gục mặt xuống đất thủng thẳng đi dọc theo bờ tre. Ði được vài chục bước, tên Ðó nghe dưới ống chơn rát rát, mới cúi xuống mà coi. Nhờ bóng trăng dọi sáng, nên nó thấy máu chảy ròng ròng, mới hay mình bị chó cắn.
Tên Ðó đi lại bụi tre, lấy một nắm lá tre khô mà chùi máu, rồi ngồi bẹp xuống đất khoanh tay mà thở ra. Bụng đói quá nên trời mát mà trán đổ mồ hôi ướt rượt, cặp mắt đổ hào quang, hai bàn tang mạch nhảy xoi-xói (...) Vừng trăng tỏ treo giữa trời vặc vặc, ngọn gió dàn lá tre giũ phất phơ. Rụt-rịt bên chơn con rắn mối bò đi giỡn trăng, chút-chút trong vườn tiếng chim cúc than phiền đêm lạnh lẽo»
3- Bị chó cắn Lê Văn Đó vẫn không chịu bỏ đi. Cứ đứng rình, thấy có nồi cháo nấu cho heo ăn không có người coi, Lê văn Đó bèn liều, ra bưng trộm:
« Lê Văn Ðó đứng ngoài bờ tre dòm vô, thấy nhà lớn của ông Bá hộ phía bên kia đèn còn đốt sáng trưng, khách còn nhộn nhàng đương ăn uống vui cười. Trong nhà bếp ở phía bên nầy thì sắp gia dịch qua lại lăng xăng, mà chẳng thấy ai đi ra chỗ đứa con gái ngồi nấu cháo hồi nãy hết. Tên Ðó dòm một hồi rồi vạch tre chun vô vườn, đi riết lại bưng trã cháo mà đi ra. Trã cháo lớn nên nặng, mà mới cạn nên còn nóng, song tên Ðó vác lên vai đi xông xổng, không biết nặng, không biết nóng, mà cũng không sợ họ thấy.
Nó đi vừa được năm bảy bước, bỗng nghe trong nhà bếp có người hỏi: «Ai vác cái gì mà đi đó?» Nó cứ đi riết không thèm trả lời. Trong nhà bếp có hai ba người chạy ra, tới chỗ nấu cháo heo thấy mất một trã cháo bèn la om sòm rằng: « Ăn trộm vô bưng trã cháo heo mà chạy đây nè, bớ người ta, rượt theo bắt nó. Ðó, nó chạy đó. Kìa, nó đương vạch hàng tre mà chun kia kìa, bớ người ta»
Chúng ta thường nghĩ miền Nam là vựa lúa, mấy ai hình dung được cảnh đói trong Nam. Đoạn văn trên đây rồi sẽ mở màn cho một hoạt cảnh tiêu biểu, đặt trước mắt độc giả hai đối cực: cảnh chết đói của một gia đình, bên cạnh cảnh ăn uống thừa thãi của một nhà giàu. Bức tranh hiện thực đớn đau này đã được Hồ Biểu Chánh dựng nên từ năm 1926. Đó là bức tranh hiện thực xã hội đầu tiên về sự đói khổ cùng cực của dân quê, về sự phung phí và tàn ác của những nhà giàu có trong làng. Sự đối chất này sẽ sống lại trong nhiều tác giả khác: Cảnh nhà giàu áp bức chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố; cảnh nhà giàu xua chó ra cắn mẹ Lê trong Nhà Mẹ Lê của Thạch Lam và một Lê Văn Đó cùng đinh hung hãn mới sẽ trở lại trong Chí Phèo của Nam Cao. Lê Văn Đó là khuôn mặt đầu tiên, tiêu biểu cho lớp người vô sản bị áp bức, trong tiểu thuyết hiện đại.
Chân dung Lê Văn Đó được hình thành qua bốn cảnh:
1- Cảnh nhà giàu ăn uống linh đình, Lê Văn Đó đến xin:
« Lê Văn Ðó thấy nhà giàu cơm ăn không hết lại mời khách mà đãi thâm tới ban đêm, rồi nhớ tới nhà mình nghèo khổ, đèn không dầu nên tối mò, mẹ đau không thuốc nằm chờ ngày chết, sắp cháu đói bụng rên khóc van vầy, thì tức tủi trong lòng, quyết bước vô mà cậy chủ nhà giàu nầy một vài giạ lúa đen về cho gia quyến ăn, đợi năm tới thuận mùa rồi làm mà trả lại ».
« Lê Văn Ðó ở ngoài xăm xăm đi vô, đứng ngay cửa cái mà ngó. Khách trong nhà mắc ăn thịt uống rượu, mắc nói nói cười cười, không ai để ý tới ngoài sân, nên không ai thấy nó. Cách một hồi lâu, ông Bá hộ dòm ra, thấy có người lạ mặt đứng trước cửa, bèn sai gia-dịch ra hỏi coi đi đâu. Lê Văn Ðó thuở nay không từng nói chuyện với ai, mà cũng không hiểu lễ phép chi hết, nên nghe người ta hỏi đi đâu, không lấy lời dịu ngọt thê thảm mà động lòng nhơn từ của người, lại nói xẳn xớn rằng: «Nhà tôi nghèo quá, tôi đi làm mướn mà không ai chịu mướn tôi làm. Bây giờ nào là mẹ, nào là chị, nào là sắp cháu nhỏ của tôi chết đói hết thảy, tôi đi đến đây, thấy nhà nầy giàu có nên tôi ghé lại mượn một ít giạ lúa về ăn đỡ ».
Sắp gia-dịch nghe rồi trở vô nhà nói làm sao với ông Bá hộ không biết, mà khách trong nhà cười rộ, rồi ông Bá hộ sai người ra đuổi Lê Văn Ðó biểu phải đi ra khỏi cửa cho mau».
(Trang 12)
2- Nhưng Lê Văn Đó cưỡng lại, không chịu đi, chủ nhà đuổi chó ra cắn:
« Lê Văn Ðó không chịu đi, cứ đứng ngó vô trong nhà, và nói lầm-bầm rằng: «Ði đâu bây giờ mà biểu người ta đi. Mẹ ta với sắp cháu đói gần chết, ta về bây giờ lấy gì mà cho ăn ».
Sắp gia-dịch thấy nó không chịu đi, mới áp lại xô đẩy. Lê Văn Ðó trì lại, sức Lê Văn Ðó mạnh quá chúng nó xô không nổi, nên chúng nó giận bèn xích chó cho cắn. Trong nhà có một bầy chó năm sáu con, hùa nhau chạy tuông ra, rồi vây chung quanh tên Ðó mà sủa om sòm. Có một con chó dữ nhảy xốc vô cắn chơn tên Ðó, bị tên Ðó đá cho một đá té lăn cù. Bầy chó sợ đạp nên chạy dan ra rồi lại áp vô sủa nữa.
Ở trong nhà và chủ và khách óng tiếng nói om sòm. Tên Ðó không hiểu họ rầy ai, phần bị bầy chó làm dữ quá, sợ một mình cự không nổi nên thủng thẳng sụt lùi mà đi ra. Tên Ðó đã ra khỏi vuông tre của ông Bá hộ rồi, mà bầy chó cũng đứng trước cửa ngõ sủa theo.
Lê Văn Ðó không biết đi đâu, cứ gục mặt xuống đất thủng thẳng đi dọc theo bờ tre. Ði được vài chục bước, tên Ðó nghe dưới ống chơn rát rát, mới cúi xuống mà coi. Nhờ bóng trăng dọi sáng, nên nó thấy máu chảy ròng ròng, mới hay mình bị chó cắn.
Tên Ðó đi lại bụi tre, lấy một nắm lá tre khô mà chùi máu, rồi ngồi bẹp xuống đất khoanh tay mà thở ra. Bụng đói quá nên trời mát mà trán đổ mồ hôi ướt rượt, cặp mắt đổ hào quang, hai bàn tang mạch nhảy xoi-xói (...) Vừng trăng tỏ treo giữa trời vặc vặc, ngọn gió dàn lá tre giũ phất phơ. Rụt-rịt bên chơn con rắn mối bò đi giỡn trăng, chút-chút trong vườn tiếng chim cúc than phiền đêm lạnh lẽo»
3- Bị chó cắn Lê Văn Đó vẫn không chịu bỏ đi. Cứ đứng rình, thấy có nồi cháo nấu cho heo ăn không có người coi, Lê văn Đó bèn liều, ra bưng trộm:
« Lê Văn Ðó đứng ngoài bờ tre dòm vô, thấy nhà lớn của ông Bá hộ phía bên kia đèn còn đốt sáng trưng, khách còn nhộn nhàng đương ăn uống vui cười. Trong nhà bếp ở phía bên nầy thì sắp gia dịch qua lại lăng xăng, mà chẳng thấy ai đi ra chỗ đứa con gái ngồi nấu cháo hồi nãy hết. Tên Ðó dòm một hồi rồi vạch tre chun vô vườn, đi riết lại bưng trã cháo mà đi ra. Trã cháo lớn nên nặng, mà mới cạn nên còn nóng, song tên Ðó vác lên vai đi xông xổng, không biết nặng, không biết nóng, mà cũng không sợ họ thấy.
Nó đi vừa được năm bảy bước, bỗng nghe trong nhà bếp có người hỏi: «Ai vác cái gì mà đi đó?» Nó cứ đi riết không thèm trả lời. Trong nhà bếp có hai ba người chạy ra, tới chỗ nấu cháo heo thấy mất một trã cháo bèn la om sòm rằng: « Ăn trộm vô bưng trã cháo heo mà chạy đây nè, bớ người ta, rượt theo bắt nó. Ðó, nó chạy đó. Kìa, nó đương vạch hàng tre mà chun kia kìa, bớ người ta»
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
4- Bị bắt quả tang, nhưng Lê Văn Đó vẫn chống cự:
« Tên Ðó cứ vác trã cháo chun qua hàng tre, rồi băng ngang ruộng mà đi như thường, họ la mặc họ, nó không đứng lại, mà cũng không thèm chạy. Sắp gia dịch của Bá hộ Cao rượt theo, áp vô đứa nắm đầu, đứa ôm lưng mà bắt. Tên Ðó tay trái vịn trã cháo trên vai, tay mặt gạt sắp gia dịch té lăn cù, không đứa nào xáp vô mình nó được.
Sắp gia dịch la hét om sòm. Khách trong nhà kẻ xách cây người cầm hèo chạy túa theo tiếp ứng. Có một người thấy sắp gia dịch nhút nhát không dám vô bắt tên Ðó, mới xách một khúc tre bước tới nhắm đầu tên Ðó mà đập. Tên Ðó đưa tay ra đỡ, khúc tre gảy làm hai đoạn. Một người khác nhảy tới đập nữa, tên Ðó trớ khỏi song trật tay trã cháo rớt, trã bể nát còn cháo đổ đầy đất.
Tên Ðó đứng ngó mấy người rượt bắt mình và hỏi tỉnh táo rằng: “Làm giống gì dữ vậy ? Ðổ cháo hết uổng hôn!» (Ngọn cỏ gió đùa, trang 12- 16).
Bốn cảnh trên đây sẽ là nền tảng mà các tác giả đi sau ít nhiều dùng làm điểm tựa để tạo nên bức chân dung của con người bị xã hội bất công ruồng bỏ chà đạp. Lực điền Đó đã chống lại với tâm hồn trinh bạch của kẻ nhìn thấy bất công, muốn đạp đổ mà không đạp được. Lê Văn Đó phản ảnh tâm thức quật khởi của người miền Nam, như Thủ Khoa Huân, như Bùi Hữu Nghiã, như Nguyễn An Ninh... Lê Văn Đó là một Lục Vân Tiên không biết chữ. Lê Văn Đó là nhân vật trọng nghiã khinh tài vô học đầu tiên, đối trọng với đạo đức nho học của chính tác giả: chẳng cần biết cái học Khổng Mạnh, cũng đạt được ý nghiã cao nhất của cuộc sống.
*
Hồ Biểu Chánh là nhà văn đầu tiên xác định và hình thành khái niệm hư cấu trong tiểu thuyết Việt Nam. Ông đã xây dựng nên ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại, đoạn tuyệt với văn biền ngẫu. Ông đưa âm thanh, màu sắc tiếng Nam vào tiểu thuyết, tạo những hoạt cảnh sống động, mà trước ông và sau ông, chưa có nhà văn nào đạt được.
Là nhà văn tiên phong trong địa hạt tả chân, Hồ Biểu Chánh đã Việt hoá một số tiểu thuyết nổi tiếng của Pháp, tái tạo trong bối cảnh xã hội Việt Nam miền Lục Tỉnh Nam Kỳ với tâm thức bình dân, thuần Việt.
Làm giàu tiếng Việt bằng kho ngôn ngữ miền Nam vô cùng phong phú, thường bị coi là nôm na mách qué, bị bỏ quên, khinh thị, kỳ thị.
Khuynh hướng giới hạn ngôn ngữ trong tiếng Bắc "chuẩn" và dùng nhiều từ Hán Việt là một sai lầm, gây trở ngại cho sự phát triển ngôn ngữ Việt Nam, mà chỉ có tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mới giúp ta hiểu rõ vấn đề: dùng tiếng Việt, kể cả những tiếng địa phương, nôm na, nhưng phù hợp với từng bối cảnh, sẽ giúp ta diễn tả được nhiều điều hơn, sâu rộng hơn. Một thí dụ nhỏ: ngày nay người ta thường thu gọn sự di chuyển của con người trong hai chữ tham quan (từ Hán-Việt), nhưng tiếng Việt còn biết bao chữ khác, như: đi chơi, đi thăm, đi viếng, đi xem, đi dạo, đi lượn, đi coi, đi duyệt, đi kiểm tra, đi hành hương... v.v, ấy là chưa kể đến kho tiếng Nam, âm hưởng Chân Lạp và kho tiếng Trung, âm hưởng Chiêm Thành, mỗi chữ, mỗi tiếng biểu hiện một tình huống khác.
Đọc Hồ Biểu Chánh cũng là một cách mở lại kho tàng ngôn ngữ Việt đã bị coi thường, chôn sâu, bỏ quên, rồi sa thải.
Chương trình Văn Học Nghệ Thuật RFI những ngày 8, 15, 22 và 29/11/2008
« Tên Ðó cứ vác trã cháo chun qua hàng tre, rồi băng ngang ruộng mà đi như thường, họ la mặc họ, nó không đứng lại, mà cũng không thèm chạy. Sắp gia dịch của Bá hộ Cao rượt theo, áp vô đứa nắm đầu, đứa ôm lưng mà bắt. Tên Ðó tay trái vịn trã cháo trên vai, tay mặt gạt sắp gia dịch té lăn cù, không đứa nào xáp vô mình nó được.
Sắp gia dịch la hét om sòm. Khách trong nhà kẻ xách cây người cầm hèo chạy túa theo tiếp ứng. Có một người thấy sắp gia dịch nhút nhát không dám vô bắt tên Ðó, mới xách một khúc tre bước tới nhắm đầu tên Ðó mà đập. Tên Ðó đưa tay ra đỡ, khúc tre gảy làm hai đoạn. Một người khác nhảy tới đập nữa, tên Ðó trớ khỏi song trật tay trã cháo rớt, trã bể nát còn cháo đổ đầy đất.
Tên Ðó đứng ngó mấy người rượt bắt mình và hỏi tỉnh táo rằng: “Làm giống gì dữ vậy ? Ðổ cháo hết uổng hôn!» (Ngọn cỏ gió đùa, trang 12- 16).
Bốn cảnh trên đây sẽ là nền tảng mà các tác giả đi sau ít nhiều dùng làm điểm tựa để tạo nên bức chân dung của con người bị xã hội bất công ruồng bỏ chà đạp. Lực điền Đó đã chống lại với tâm hồn trinh bạch của kẻ nhìn thấy bất công, muốn đạp đổ mà không đạp được. Lê Văn Đó phản ảnh tâm thức quật khởi của người miền Nam, như Thủ Khoa Huân, như Bùi Hữu Nghiã, như Nguyễn An Ninh... Lê Văn Đó là một Lục Vân Tiên không biết chữ. Lê Văn Đó là nhân vật trọng nghiã khinh tài vô học đầu tiên, đối trọng với đạo đức nho học của chính tác giả: chẳng cần biết cái học Khổng Mạnh, cũng đạt được ý nghiã cao nhất của cuộc sống.
*
Hồ Biểu Chánh là nhà văn đầu tiên xác định và hình thành khái niệm hư cấu trong tiểu thuyết Việt Nam. Ông đã xây dựng nên ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại, đoạn tuyệt với văn biền ngẫu. Ông đưa âm thanh, màu sắc tiếng Nam vào tiểu thuyết, tạo những hoạt cảnh sống động, mà trước ông và sau ông, chưa có nhà văn nào đạt được.
Là nhà văn tiên phong trong địa hạt tả chân, Hồ Biểu Chánh đã Việt hoá một số tiểu thuyết nổi tiếng của Pháp, tái tạo trong bối cảnh xã hội Việt Nam miền Lục Tỉnh Nam Kỳ với tâm thức bình dân, thuần Việt.
Làm giàu tiếng Việt bằng kho ngôn ngữ miền Nam vô cùng phong phú, thường bị coi là nôm na mách qué, bị bỏ quên, khinh thị, kỳ thị.
Khuynh hướng giới hạn ngôn ngữ trong tiếng Bắc "chuẩn" và dùng nhiều từ Hán Việt là một sai lầm, gây trở ngại cho sự phát triển ngôn ngữ Việt Nam, mà chỉ có tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mới giúp ta hiểu rõ vấn đề: dùng tiếng Việt, kể cả những tiếng địa phương, nôm na, nhưng phù hợp với từng bối cảnh, sẽ giúp ta diễn tả được nhiều điều hơn, sâu rộng hơn. Một thí dụ nhỏ: ngày nay người ta thường thu gọn sự di chuyển của con người trong hai chữ tham quan (từ Hán-Việt), nhưng tiếng Việt còn biết bao chữ khác, như: đi chơi, đi thăm, đi viếng, đi xem, đi dạo, đi lượn, đi coi, đi duyệt, đi kiểm tra, đi hành hương... v.v, ấy là chưa kể đến kho tiếng Nam, âm hưởng Chân Lạp và kho tiếng Trung, âm hưởng Chiêm Thành, mỗi chữ, mỗi tiếng biểu hiện một tình huống khác.
Đọc Hồ Biểu Chánh cũng là một cách mở lại kho tàng ngôn ngữ Việt đã bị coi thường, chôn sâu, bỏ quên, rồi sa thải.
Chương trình Văn Học Nghệ Thuật RFI những ngày 8, 15, 22 và 29/11/2008
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Re: Sách
Thomas Hardy là nhà văn tôi đặc biệt yêu thích. Tôi đã đọc rất nhiều sáng tác của ông. Tác phẩm nào cũng hay, bi quan nhưng rất hay. Người ta nói ông Hardy 0 được trao giải Nobel Văn Chương vì các tác phẩm của ông đều bi quan yếm thế.
Xa đám đông điên loạn' - 150 năm vẫn nồng đượm yêu đương
Zing
"Xa đám đông điên loạn" của tác giả Thomas Hardy là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu của thời đại văn chương Victoria.Phong LinhThứ ba, 10/1/2017 06:32 (GMT+7)A A
Tác phẩm được đăng lần đầu trên nguyệt san Cornhill Magazine năm 1874. Câu chuyện diễn ra ở vùng đất Wessex, một miền quê nửa thực, nửa hư cấu ở bờ biển tây nam nước Anh. Đây là một cuốn sách nhắc lại sự say đắm thuần khiết nhất của tình yêu.
Câu chuyện tình yêu xoay quanh mối quan hệ giữa Bathsheba Everdene - một phụ nữ trẻ đầy cá tính và ba người đàn ông trong cuộc đời nàng. Bathsheba là cô gái trẻ trung lưu, có học thức, bất chợt được thừa hưởng điền trang của người cậu và trở thành cô chủ.
Trong thế giới thuộc về đàn ông, Bathsheba không ngừng gặp những ánh mắt soi mói và đánh giá, nhưng điều đó gây cho nàng ý muốn tự chủ - đó là sự tự tin, lòng kiêu hãnh với những người làm công lẫn tính ưa phiêu lưu, thách thức trong tình ái với ba người đàn ông ve vãn.
Tác phẩm Xa đám đông điên loạn của Thomas Hardy.
Anh chăn cừu Gabriel Oak mẫn cán, nhẫn nại, yêu như kiểu Pushkin mô tả “cầu em được người tình như tôi đã yêu em”; Boldwood, người quý tộc nhất ở xứ khỉ ho cò gáy, thì quỵ lụy, ám ảnh với tình yêu; còn Troy là tay lính sở khanh, bẻm mép, nhưng lại dễ khiến những người phụ nữ phải say đắm, gục ngã.
Cả ba người đàn ông ấy đều xoay quanh Bathsheba Everdene, đều muốn chinh phục trái tim nàng theo cách của mình. Và rồi những nhân vật liên tiếp bị đẩy vào những tình huống đầy kịch tính, để từ đấy bộc lộ tính cách.
Tình yêu luôn gắn liền với sự mù quáng, sai lầm, nên độc giả cũng không thể khẳng định được ai đúng ai sai, hay ai mới là kẻ xứng đáng có được hạnh phúc. Cả ba người đàn ông đều đã lần lượt được “trình diễn” câu chuyện của mình, nhưng Bathsheba mới là nhân vật trung tâm, có quyền quyết định cuối cùng.
Người đọc sẽ không thể nào bỏ sách xuống bởi lối viết văn vô cùng lôi cuốn, hồi hộp của Thomas Hardy. Từ những câu chuyện phiêu lưu ái tình ấy, cả một hệ thống xung động xã hội cũng đều lần lượt được tái hiện mạnh mẽ và sâu sắc.
Một khung cảnh hiện nên đầy hùng vĩ cũng ẩn chứa trong đó đầy xung đột. Đó là cách xây dựng câu chuyện của Thomas Hardy, người luôn say sưa với những cốt truyện éo le, tình tiết chặt chẽ.
Xa đám đông điên loạn đồng thời thể hiện tài năng khắc họa tâm lý nhân vật của nhà văn. Đặc biệt, nàng Bathsheba có lẽ được xem là một trong những nhân vật nữ quyến rũ của văn chương Victoria.
Nàng vừa có vẻ duyên dáng kiêu kỳ của thiếu nữ xưa, lại vừa có sự hấp dẫn hoang dại, khao khát say đắm,... Nàng dễ buông mình theo dòng cảm xúc, dễ ngã vào một tình yêu đầy cuồng nhiệt, nhưng khác hẳn với Emma Bovary, luôn đẩy cảm xúc đến tận cùng, thì Bathsheba luôn đấu tranh một cách tỉnh táo.
Chính vì sự trăn trở giữa cảm xúc và lý trí mạnh mẽ đến cùng ấy, nàng rơi vào nhiều đau khổ, nhưng lại từ đau khổ ấy mà cuối cùng nàng có thể nắm giữ được hạnh phúc của mình như đó là định mệnh. Nàng là một người phụ nữ độc lập, sẵn sàng theo đuổi, tìm kiếm và khuất phục hạnh phúc.
Chân dung văn hào người Anh Thomas Hardy.
tac pham Xa dam dong dien loan cua Thomas Hardy anh 2
Chân dung văn hào người Anh Thomas Hardy.
Xa đám đông điên loạn để có thể nhìn thấy tận cùng của ái tình. Một câu chuyện đầy say mê, lôi cuốn, và chắc chắn sẽ khiến người đọc được thỏa mãn. Kể cả có phải là người say mê ái tình hay không, bạn cũng sẽ bị khuất phục bởi một câu chuyện tình trọn vẹn và mãnh liệt.
Xuất bản năm 1874, đây không phải là tác phẩm đầu tiên của Thomas Hardy nhưng lại là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông. Thomas Hardy vốn là một kiến trúc sư, nhưng sau khi Xa đám đông điên loạn xuất bản và trở nên nổi tiếng, ông đã từ bỏ công việc kiến trúc sư để dồn hết tâm huyết cho văn chương.
Bên cạnh một sự nghiệp tiểu thuyết khá đồ sộ, với nhiều những tác phẩm có giá trị đã được xuất bản Return of the Native (Trở lại quê hương), The Mayor of Casterbridge (Thị trưởng Casterbridge), Life’s little ironies (Những mỉa mai nho nhỏ của cuộc đời)… ông còn là một nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ. Ông sáng tác thơ chủ yếu trong giai đoạn sau của cuộc đời, và xuất bản rải rác từ 1898 đến 1929.
Tháng 11/1928, Thomas Hardy qua đời. Ông được chôn cất tại Westminster Abbey.
Xa đám đông điên loạn' - 150 năm vẫn nồng đượm yêu đương
Zing
"Xa đám đông điên loạn" của tác giả Thomas Hardy là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu của thời đại văn chương Victoria.Phong LinhThứ ba, 10/1/2017 06:32 (GMT+7)A A
Tác phẩm được đăng lần đầu trên nguyệt san Cornhill Magazine năm 1874. Câu chuyện diễn ra ở vùng đất Wessex, một miền quê nửa thực, nửa hư cấu ở bờ biển tây nam nước Anh. Đây là một cuốn sách nhắc lại sự say đắm thuần khiết nhất của tình yêu.
Câu chuyện tình yêu xoay quanh mối quan hệ giữa Bathsheba Everdene - một phụ nữ trẻ đầy cá tính và ba người đàn ông trong cuộc đời nàng. Bathsheba là cô gái trẻ trung lưu, có học thức, bất chợt được thừa hưởng điền trang của người cậu và trở thành cô chủ.
Trong thế giới thuộc về đàn ông, Bathsheba không ngừng gặp những ánh mắt soi mói và đánh giá, nhưng điều đó gây cho nàng ý muốn tự chủ - đó là sự tự tin, lòng kiêu hãnh với những người làm công lẫn tính ưa phiêu lưu, thách thức trong tình ái với ba người đàn ông ve vãn.
Tác phẩm Xa đám đông điên loạn của Thomas Hardy.
Anh chăn cừu Gabriel Oak mẫn cán, nhẫn nại, yêu như kiểu Pushkin mô tả “cầu em được người tình như tôi đã yêu em”; Boldwood, người quý tộc nhất ở xứ khỉ ho cò gáy, thì quỵ lụy, ám ảnh với tình yêu; còn Troy là tay lính sở khanh, bẻm mép, nhưng lại dễ khiến những người phụ nữ phải say đắm, gục ngã.
Cả ba người đàn ông ấy đều xoay quanh Bathsheba Everdene, đều muốn chinh phục trái tim nàng theo cách của mình. Và rồi những nhân vật liên tiếp bị đẩy vào những tình huống đầy kịch tính, để từ đấy bộc lộ tính cách.
Tình yêu luôn gắn liền với sự mù quáng, sai lầm, nên độc giả cũng không thể khẳng định được ai đúng ai sai, hay ai mới là kẻ xứng đáng có được hạnh phúc. Cả ba người đàn ông đều đã lần lượt được “trình diễn” câu chuyện của mình, nhưng Bathsheba mới là nhân vật trung tâm, có quyền quyết định cuối cùng.
Người đọc sẽ không thể nào bỏ sách xuống bởi lối viết văn vô cùng lôi cuốn, hồi hộp của Thomas Hardy. Từ những câu chuyện phiêu lưu ái tình ấy, cả một hệ thống xung động xã hội cũng đều lần lượt được tái hiện mạnh mẽ và sâu sắc.
Một khung cảnh hiện nên đầy hùng vĩ cũng ẩn chứa trong đó đầy xung đột. Đó là cách xây dựng câu chuyện của Thomas Hardy, người luôn say sưa với những cốt truyện éo le, tình tiết chặt chẽ.
Xa đám đông điên loạn đồng thời thể hiện tài năng khắc họa tâm lý nhân vật của nhà văn. Đặc biệt, nàng Bathsheba có lẽ được xem là một trong những nhân vật nữ quyến rũ của văn chương Victoria.
Nàng vừa có vẻ duyên dáng kiêu kỳ của thiếu nữ xưa, lại vừa có sự hấp dẫn hoang dại, khao khát say đắm,... Nàng dễ buông mình theo dòng cảm xúc, dễ ngã vào một tình yêu đầy cuồng nhiệt, nhưng khác hẳn với Emma Bovary, luôn đẩy cảm xúc đến tận cùng, thì Bathsheba luôn đấu tranh một cách tỉnh táo.
Chính vì sự trăn trở giữa cảm xúc và lý trí mạnh mẽ đến cùng ấy, nàng rơi vào nhiều đau khổ, nhưng lại từ đau khổ ấy mà cuối cùng nàng có thể nắm giữ được hạnh phúc của mình như đó là định mệnh. Nàng là một người phụ nữ độc lập, sẵn sàng theo đuổi, tìm kiếm và khuất phục hạnh phúc.
Chân dung văn hào người Anh Thomas Hardy.
tac pham Xa dam dong dien loan cua Thomas Hardy anh 2
Chân dung văn hào người Anh Thomas Hardy.
Xa đám đông điên loạn để có thể nhìn thấy tận cùng của ái tình. Một câu chuyện đầy say mê, lôi cuốn, và chắc chắn sẽ khiến người đọc được thỏa mãn. Kể cả có phải là người say mê ái tình hay không, bạn cũng sẽ bị khuất phục bởi một câu chuyện tình trọn vẹn và mãnh liệt.
Xuất bản năm 1874, đây không phải là tác phẩm đầu tiên của Thomas Hardy nhưng lại là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông. Thomas Hardy vốn là một kiến trúc sư, nhưng sau khi Xa đám đông điên loạn xuất bản và trở nên nổi tiếng, ông đã từ bỏ công việc kiến trúc sư để dồn hết tâm huyết cho văn chương.
Bên cạnh một sự nghiệp tiểu thuyết khá đồ sộ, với nhiều những tác phẩm có giá trị đã được xuất bản Return of the Native (Trở lại quê hương), The Mayor of Casterbridge (Thị trưởng Casterbridge), Life’s little ironies (Những mỉa mai nho nhỏ của cuộc đời)… ông còn là một nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ. Ông sáng tác thơ chủ yếu trong giai đoạn sau của cuộc đời, và xuất bản rải rác từ 1898 đến 1929.
Tháng 11/1928, Thomas Hardy qua đời. Ông được chôn cất tại Westminster Abbey.
Last edited by LDN on Sun Oct 23, 2022 6:54 pm; edited 2 times in total
_________________
~ bài viết về Sách:
https://www.nhomcho.com/t25736-sach
Người ăn chay - Han Kang
https://www.nhomcho.com/t37281-sach-noi-nguoi-an-chay-han-kang#434073
LDN
Page 11 of 50 • 1 ... 7 ... 10, 11, 12 ... 30 ... 50
Page 11 of 50
Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum